Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Tác động của chương trình nông thôn mới tới văn hóa tộc người dao thanh y ở xã bằng cả huyện hoanh bồ tỉnh quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.68 MB, 84 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HOÁ HÀ NỘI
KHOA VĂN HOÁ DÂN TỘC THIỂU SỐ
-------------------------

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
CHUYÊN NGÀNH VĂN HOÁ DÂN TỘC THIỂU SỐ

TÁC ĐỘNG CỦA CHƯƠNG TRÌNH NƠNG THƠN MỚI
TỚI VĂN HÓA TỘC NGƯỜI DAO THANH Y
Ở XÃ BẰNG CẢ, HUYỆN HOANH BỒ, TỈNH QUẢNG NINH

Giảng viên hướng dẫn

: TS. TRẦN HỮU SƠN

Sinh viên thực hiện

: ĐẶNG THỊ NGUYỆT

Lớp

: VHDT

HÀ NỘI - 2015
 
 


LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành bài khóa luận này em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận
tình của các thầy cơ giáo khoa Văn hóa dân tộc, trường Đại học Văn hóa Hà Nội.


Đặc biệt em xin gửi lời cảm ơn tới TS. Trần Hữu Sơn, là người hướng dẫn
khoa học đã tận tình giúp đỡ và chỉ bảo trong suốt thời gian thực hiện đề tài.
Em cũng xin được gửi lời cảm ơn tới UBND xã Bằng Cả, huyện Hoành Bồ,
tỉnh Quảng Ninh đã tạo điều kiện thuận lợi và cung cấp tài liệu, thông tin để em
hồn thành bài khóa luận này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2015
Sinh viên

Đặng Thị Nguyệt

 
 


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ...........................................................................................................1
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ ĐÔI NÉT VỀ
NGƯỜI DAO THANH Y TẠI XÃ BẰNG CẢ, HUYỆN HOÀNH BỒ, TỈNH
QUẢNG NINH .................................................................................................8
1.1. Những khái niệm được dùng trong đề tài ...........................................8
1.1.1. Khái niệm xây dựng nơng thơn mới .............................................8
1.1.2. Văn hóa và văn hóa tộc người .........................................................8
1.2. Các vấn đề về xây dựng nông thôn mới.............................................10
1.2.1. Các tiêu chuẩn về xây dựng nông thơn mới và tiêu chí xã nơng thơn
mới .............................................................................................................10
1.2.2. Nguồn lực xây dựng nông thôn mới .............................................11
1.3. Khái quát về người Dao Thanh Y ở xã Bằng Cả ..............................12
1.3.1. Tên gọi, dân số và sự phân bố dân cư ...........................................12

1.3.2. Địa bàn và đặc điểm môi trường cư trú ........................................14
1.3.3. Đặc điểm văn hóa truyền thống của người Dao Thanh Y ...........16
Tiểu kết chương 1 ..........................................................................................25
Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ TÁC ĐỘNG CỦA CHƯƠNG TRÌNH NƠNG
THƠN MỚI TỚI VĂN HĨA NGƯỜI DAO THANH Y Ở XÃ BẰNG CẢ26
2.1. Thực trạng xây dựng nông thôn mới ở xã Bằng Cả .........................26
2.2. Tác động của Chương trình nơng thơn mới tới văn hóa người Dao Thanh
Y ở xã Bằng Cả ...........................................................................................30
2.2.2. Tác động tới đời sống kinh tế ..........................................................29
2.2.1. Tác động tới văn hóa xã hội 32
2.2.3. Tác động tới văn hóa vật chất .........................................................43
2.2.4. Tác động tới văn hóa tinh thần .......................................................48
 
 


Tiểu kết chương 2 ..........................................................................................59
Chương 3: MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP GIẢM THIỂU TÁC
ĐỘNG TIÊU CỰC TRONG XÂY DỰNG NƠNG THƠN MỚI ĐẾN VĂN
HỐ NGƯỜI DAO THANH Y Ở XÃ BẰNG CẢ, HUYỆN HOÀNH BỒ,
TỈNH QUẢNG NINH ....................................................................................60
3.1. Khuyến nghị ..........................................................................................60
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện xây dựng nông thôn mới và giảm
thiểu các tác động tiêu cực đến văn hóa người Dao Thanh Y ở xã Bằng Cả
......................................................................................................................62
3.2.1. Giải pháp nâng cao hiệu quả của Chương trình nơng thơn mới ....62
3.2.2. Giảm thiểu ít nhất các tác động tiêu cực của nông thôn mới tới văn hóa
người Dao Thanh Y ở xã Bằng Cả ............................................................67
Tiểu kết chương 3 ..........................................................................................67
KẾT LUẬN.....................................................................................................69

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .....................................................71
PHỤ LỤC 

 
 


MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài

Phát triển kinh tế - xã hội nơng thơn có ý nghĩa hết sức quan trọng, không chỉ
nhằm nâng cao đời sống đồng bào, giảm khoảng cách phát triển giữa các vùng,
miền và thực hiện cơng bằng xã hội, mà cịn khai thác phát huy thế mạnh về tài
nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực to lớn của các vùng miền vào quá trình phát
triển chung của đất nước, bảo vệ môi trường sinh thái, nền tảng bền vững cho sự
phát triển, giữ vững ổn định chính trị và an ninh quốc phịng.
Nơng thơn mới là một chương trình chung cho mọi vùng nơng thơn của cả
nước. Trong đó, xã Bằng Cả là xã miền núi tập trung 98% người Dao Thanh Y sinh
sống cũng đang trong giai đoạn thực hiện chương trình. Do tính đặc thù miền núi và
vùng dân tộc sẽ có nhiều điểm tương đồng có thể áp dụng được nhưng có nhiều điểm
khơng áp dụng được các tiêu chí chương trình nơng thơn mới. Bên cạnh đó, khi triển
khai chương trình sẽ có những tác động nhất định đến đồng bào Dao Thanh Y nơi
đây. Vì vậy, để thấy được những tác động tích cực và tiêu cực của chương trình và
nâng cao hiệu quả thực hiện nông thôn mới mà bảo tồn được bản sắc văn hóa truyền
thống của dân tộc thiểu số nên tôi chọn đề tài nghiên cứu là “Tác động của Chương
trình nơng thơn mới tới văn hóa tộc người Dao Thanh Y ở xã Bằng Cả, huyện Hồnh
Bồ, tỉnh Quảng Ninh”.
2.


Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Đã có rất nhiều bài nghiên cứu của các tác giả nghiên cứu về người Dao ở
Việt Nam. Trong đó các tác giả Bế Viết Đẳng, Nguyễn Khắc Tụng, Nông Trung,
Nguyễn Nam Tiến (1971). Người Dao ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội. Vũ Quốc
Khánh (2007). Người Dao ở Việt Nam, Nxb Thơng tấn, nhóm tác giả Đỗ Quang Tụ,
Nguyễn Liễn, Người Dao trong cộng đồng Dân tộc Việt Nam (2004), Nxb Văn hóa
dân tộc. Các cơng trình trên đã giúp người đọc hiểu một cách toàn diện về đời sống
của người Dao trong cả nước nói chung. Bên cạnh đó cịn có tác phẩm viết về người
 
 


Dao ở Quảng Ninh, Nguyễn Quang Vinh, Một số vấn đề người Dao Quảng Ninh
(2007), Nxb Văn hóa dân tộc. Ngồi ra, cịn có một số bài báo, tạp chí có viết về
nơng thơn mới trong đời sống của người Dao. Tuy nhiên, các cơng trình nghiên cứu
về tác động của chương trình nơng thơn mới tới đời sống của người Dao Thanh Y
thì đến nay chưa có cơng trình nào.
3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Khảo sát thực tiễn thực hiện chương trình nơng thơn mới tại xã Bằng Cả. Bước
đầu đánh giá những tác động của chương trình nông thôn mới tới đời sống của người
Dao Thanh Y ở xã Bằng Cả, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh.
Với mục đích trên thì những nhiệm vụ mà đề tài cần thực hiện đó là:
- Tìm hiểu tổng quan về Chương trình nơng thơn mới, khái niệm, các tiêu
chuẩn, ngun tắc, tổ chức thực hiện, nguồn lực để xây dựng nông thôn mới giai
đoạn 2010 – 2020.

- Khái quát về người Dao Thanh Y ở xã Bằng Cả, điều kiện tự nhiên và đời
sống kinh tế - xã hội tại địa bàn cư trú của đồng bào.
- Chỉ ra những tác động nhất định của Chương trình nơng thơn mới đến đời
sống của người Dao Thanh Y và một số kiến nghị, giải pháp cho việc xây dựng
nông thôn mới hiệu quả tại địa bàn, giảm thiểu những tác động của chương trình
đến văn hóa người Dao Thanh Y.
4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Với đề tài Tác động của Chương trình nơng thơn mới tới văn hóa tộc người
Dao Thanh Y ở xã Bằng Cả, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh thì đối tượng
nghiên cứu chính của đề tài là tác động của nơng thơn mới tới văn hóa tộc người
Dao Thanh Y.
Do khả năng còn hạn chế nên phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung ở xã
Bằng Cả. Vì đây là xã tập trung chủ yếu người Dao Thanh Y sinh sống và cũng là
địa bàn mà người viết hiểu rõ nhất.
5.
 
 

Phương pháp nghiên cứu


Trên cơ sở phương pháp luận Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các vấn
đề nghiên cứu của đề tài được đánh giá, nhìn nhận, phân tích, lý giải theo quan
điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và quan điểm của Đảng cộng sản Việt
Nam.
Phương pháp đầu tiên để thu thập tài liệu là phương pháp phân tích tài liệu.
Dựa vào các tư liệu của các nhà nghiên cứu trước đó, người viết có cái nhìn tổng

thể về người Dao ở Việt Nam nói chung và người Dao Thanh Y ở Quảng Ninh nói
riêng.
Phương pháp chủ đạo được sử dụng trong quá trình nghiên cứu, điều tra là
điền dã dân tộc học với các kỹ thuật như: phỏng vấn sâu, quan sát tham dự, thảo
luận nhóm tập trung, thống kê kết hợp phương pháp nghiên cứu định tính và định
lượng… để thu thập tài liệu ở thực địa.
6.

Đóng góp của đề tài

Đề tài góp phần bổ sung nguồn tư liệu thực tế về ảnh hưởng của Chương
trình nơng thơn mới đến văn hóa truyền thống của người Dao Thanh Y ở xã Bằng
Cả, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh.
7.

Bố cục và nội dung của đề tài

Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, đề tài chia làm 3 chương:
Chương 1. Tổng quan về tài liệu nghiên cứu và đôi nét về người Dao
Thanh Y ở xã Bằng Cả, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh.

Chương 2. Tác động của Chương trình nơng thơn mới tới văn hóa tộc
người Dao Thanh Y ở xã Bằng Cả, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh.
Chương 3. Một số khuyến nghị và giải pháp giảm thiểu tác động tiêu cực
trong xây dựng nông thơn mới đến văn hóa người Dao Thanh Y ở xã Bằng Cả,
huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh.

 
 



Chương 1
TỔNG QUAN VỀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ ĐÔI NÉT VỀ NGƯỜI DAO THANH
Y TẠI XÃ BẰNG CẢ, HUYỆN HOÀNH BỒ, TỈNH QUẢNG NINH

1.1. Những khái niệm được dùng trong đề tài
1.1.1. Khái niệm xây dựng nông thôn mới
Nông thôn là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị xã,
thị trấn được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là Ủy ban nhân dân xã.
Xây dựng nông thôn mới là cuộc cách mạng và cuộc vận động lớn để cộng
đồng dân cư ở nơng thơn đồng lịng xây dựng thơn, xã, gia đình của mình khang
trang, sạch đẹp; phát triển sản xuất tồn diện (nơng nghiệp, cơng nghiệp, dịch vụ);
có nếp sống văn hố, mơi trường và an ninh nơng thơn được đảm bảo; thu nhập, đời
sống vật chất, tinh thần của người dân được nâng cao.
Xây dựng nông thôn mới là sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn dân,
của cả hệ thống chính trị. Nơng thơn mới khơng chỉ là vấn đề kinh tế - xã hội, mà là
vấn đề kinh tế - chính trị tổng hợp. Xây dựng nơng thơn mới giúp cho nơng dân có
niềm tin, trở nên tích cực, chăm chỉ, đoàn kết giúp đỡ nhau xây dựng nông thôn
phát triển giàu đẹp, dân chủ, văn minh.
1.1.2. Văn hóa và văn hóa tộc người
Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách sống động toàn bộ cuộc sống con
người trong suốt q trình lịch sử. Văn hóa tạo nên một hệ thống các giá trị truyền
thống bao gồm thẩm mĩ và lối sống, từ đó từng dân tộc xây dựng nên bản sắc riêng
của mình. Văn hóa là tất cả những gì con người đã bỏ cơng sức để tạo ra; nó khác
với những gì tồn tại trong tự nhiên ngoài con người. Theo Trần Ngọc Thêm trong
cuốn Tìm hiểu về bản sắc văn hóa Việt Nam có viết: “Văn hoá là hệ thống hữu cơ
các giá trị tinh thần và vật chất do con người sáng tạo và tích luỹ qua q q trình
 
 



hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với mơi trường tự nhiên và
xã hội”.
Văn hóa với tính cách là yếu tố cấu thành tộc người bao gồm tri thức, tín
ngưỡng, đạo đức, nghệ thuật, luật pháp, tập quán, sinh hoạt … là sự thể hiện bản
chất năng lực con người với tính cách là thành viên của cộng đồng xã hội. Hồ Chí
Mình có viết trong cuốn Tồn tập: “Văn hóa là tổng hợp của mọi phương thức sinh
hoạt cùng với biểu hiện của nó mà lồi người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những
nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”.
Trong Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, do Nhà xuất bản Đà Nẵng
và Trung tâm Từ điển học xuất bản năm 2004 thì đưa ra một loạt quan niệm về văn
hóa: Văn hóa là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người
sáng tạo ra trong quá trình lịch sử ; văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật
chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua q trình hoạt động thực
tiễn,trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên xã hội.
Như vậy, có thể thấy rằng: Văn hóa là tất cả những giá trị do con người sáng
tạo ra trên nền của thế giới tự nhiên.
Nguyễn Từ Chi đã có một cách hình dung rất dễ hiểu về tộc người và văn hóa
tộc người. Theo ơng, trong ứng xử với môi trường, thiên nhiên xung quanh con
người, con người với tính cách một cá nhân đơn lẻ khơng thể tồn tại được mà cần có
sự hợp tác chặt chẽ của tất cả mọi thành viên của một cộng đồng. Cộng đồng lớn nhỏ
khác nhau tùy theo môi trường sống và lao động, như: cộng đồng ở dạng từng nhóm
nhỏ cùng huyết thống trong điều kiện chật hẹp của từng vùng; thị tộc và bộ lạc trong
mơi trường rộng thống của đồng cỏ; công xã định cư khi chuyển sang trồng trọt...
Để giữ vững mối liên kết cộng đồng ấy, mỗi cộng đồng trong từng trường hợp cụ thể
của mình phải đặt ra những qui tắc tổ chức riêng biệt, vốn khơng có ngay từ đầu
trong bản năng của con người. Thế là văn hóa hình thành, bởi văn hóa hiểu một cách
thật giản dị chính là cái gì khơng phải là thiên nhiên [3, tr.565 - 566].
 
 



Theo đa số các nhà Nhân học, văn hóa tộc người hay văn hóa dân tộc là tổng
thể các yếu tố tiếng nói, chữ viết, sinh hoạt văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần, các
sắc thái tâm lý tình cảm, phong tục và lễ nghi… khiến người ta có thể phân biệt tộc
người này với tộc người khác, dân tộc này với dân tộc khác.
1.2. Các vấn đề về xây dựng nông thôn mới
1.2.1. Các tiêu chuẩn về xây dựng nơng thơn mới và tiêu chí xã nơng thôn
mới
1.2.1.1. Tiêu chuẩn “ Hộ nông thôn mới”
a, Gương mẫu chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước và quy định của địa phương; tích cực tham gia các phong trào thi
đua của địa phương.
b, Gia đình hịa thuận, hạnh phúc, tiến bộ, tương trợ giúp đỡ mọi người trong
cộng đồng.
c, Tổ chức lao động, sản xuất, kinh doanh, công tác, học tập đạt năng suất,
chất lượng, hiệu quả. Có kế hoạch phát triển kinh tế gia đình, chủ động “Xóa đói
giảm nghèo”, năng động làm giàu chính đáng. Kinh tế gia đình ổn định, thực hành
tiết kiệm; đời sống vật chất, văn hóa tinh thần của các thành viên trong gia đình
ngày càng nâng cao.
d, Sản xuất và xây dựng nơi ở phải theo quy hoạch.
1.2.1.2. Tiêu chuẩn “Xóm nơng thơn mới”
Có tối thiểu 70% số hộ đạt tiêu chuẩn “Hộ nông thôn mới”.
(1). Thực hiện đúng theo quy hoạch của xã về hạ tầng, sản xuất, dân cư.
(2). Các cơng trình hạ tầng kinh tế - xã hội đạt chuẩn (giao thông: trên 50%
số đường trục thơn được cứng hóa đạt chuẩn; cơ bản đường ngõ, xóm khơng lầy lội
vào mùa mưa; 65% đường trục chính ra đồng được cứng hóa; thuỷ lợi: hệ thống
thuỷ lợi trên địa bàn đáp ứng cơ bản yêu cầu về sản xuất và dân sinh; điện: trên
70% số hộ sử dụng điện an toàn, thường xuyên; cơ sở vật chất trường học trên địa
 

 


bàn đạt chuẩn; có nhà văn hóa, khu thể thao theo quy định của Bộ Văn hoá - Thể
thao và Du lịch; 60% nhà ở đạt chuẩn Bộ Xây dựng, khơng cịn nhà tạm.
(3). Về thu nhập: 90% số hộ có đời sống ổn định; Tỷ lệ hộ nghèo <5%.
(4). Đời sống văn hoá tinh thần lành mạnh, phong phú.
(5). Trong năm, Chi bộ và các tổ chức đoàn thể xếp loại khá trở lên; khơng có
các điểm nóng về an ninh trật tự xã hội; khơng có khiếu kiện đơng người vượt cấp
kéo dài.
1.2.1.3. Tiêu chí “Xã nơng thơn mới”
Gồm 19 tiêu chí trên 5 lĩnh vực được quy định tại Quyết định số
491/2009/QĐ-TTg ngày 16/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ.
- 5 nhóm là: Nhóm 1: Quy hoạch, nhóm 2: Hạ tầng kinh tế xã hội, nhóm 3:
Kinh tế và tổ chức sản xuất, nhóm 4: Văn hóa - xã hội - mơi trường, nhóm 5: Hệ
thống chính trị.
- 19 tiêu chí là: 1: Quy hoạch, 2: Giao thơng, 3: Thủy lợi, 4: Điện, 5: Trường
học, 6: Cơ sở vật chất văn hóa, 7: Chợ, 8: Bưu điện, 9: Nhà ở dân cư, 10: Thu
nhập, 11: Tỷ lệ hộ nghèo, 12: Cơ cấu lao động, 13: Hình thức tổ chức sản xuất, 14:
Giáo dục, 15: Y tế, 16: Văn hóa, 17: Mơi trường, 18: Hệ thống tổ chức chính trị xã
hội vững mạnh, 19: An ninh, trật tự xã hội.
1.2.2. Nguồn lực xây dựng nơng thơn mới
1.2.2.1. Nguồn vốn
Có 5 nguồn chính:
- Đóng góp của cộng đồng (bao gồm cả cơng sức, tiền của đóng góp và tài trợ
của các tổ chức, cá nhân);
- Vốn đầu tư của các doanh nghiệp;
- Vốn tín dụng (bao gồm cả đầu tư phát triển và thương mại);
- Hỗ trợ từ ngân sách nhà nước;
- Vốn tài trợ khác.

 
 


1.2.2.2. Nội lực của cộng đồng
Nội lực của cộng đồng bao gồm: công sức, tiền của do người dân và cộng
đồng đầu tư bỏ ra để chỉnh trang nơi ở của gia đình mình như: xây dựng, nâng cấp
nhà ở, nhà bếp; xây dựng đủ 3 cơng trình vệ sinh; cải tạo, bố trí lại các cơng trình
phục vụ khu chăn nuôi hợp vệ sinh theo chuẩn nông thôn mới; cải tạo lại vườn ao
để có thu nhập và cảnh quan đẹp; sửa sang cổng ngõ, tường rào đẹp đẽ, khang
trang. Đầu tư cho sản xuất ngoài đồng ruộng, soi bãi, trên đất rừng hoặc cơ sở sản
xuất tiểu thủ cơng nghiệp, dịch vụ để có thu nhập cao. Đóng góp, xây dựng các
cơng trình cơng cộng của làng xã như giao thơng, kiên cố hóa kênh mương, vệ sinh
cơng cộng… Tự nguyện hiến đất để xây dựng các công trình hạ tầng kinh tế - xã hội
theo quy hoạch của xã.
1.2.2.3. Vai trị chủ thể của nơng dân
- Tham gia ý kiến vào đề án xây dựng nông thôn mới và đồ án quy hoạch
nông thôn mới cấp xã; tham gia lập kế hoạch thực hiện Chương trình (thơn, xã).
- Tham gia và lựa chọn những cơng việc gì cần làm trước và việc gì làm sau
thật thiết thực với yêu cầu của người dân trong xã và phù hợp với khả năng, điều
kiện của địa phương.
- Quyết định mức độ đóng góp trong xây dựng các cơng trình công cộng của
thôn, xã.
- Trực tiếp tổ chức thi công hoặc tham gia thi cơng xây dựng các cơng trình
hạ tầng kinh tế - xã hội của xã, thôn theo kế hoạch hàng năm.
- Cử đại diện (Ban giám sát) để tham gia quản lý và giám sát các công trình
xây dựng của xã, thơn.
- Tổ chức quản lý, vận hành và bảo dưỡng các cơng trình sau khi hồn thành.
1.3. Khái quát về người Dao Thanh Y ở xã Bằng Cả
1.3.1. Tên gọi, dân số và sự phân bố dân cư


 
 


Người Dao ở Quảng Ninh có hai nhánh: Dao Thanh Phán và Dao Thanh Y,
trong đó người Dao Thanh Y chủ yếu cư trú tại Hoành Bồ, Tiên Yên, Hải Hà, Bình
Liêu. Tên gọi Dao Thanh Y là tên gọi địa phương ở vùng Quảng Ninh chỉ một bộ
phận nhóm Dao ở Việt Nam. Người Dao Thanh Y còn được gọi là Dao Tuyên, Ban
Y hay Dao Chăm.
Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam 2009, toàn quốc có 751.067 người
Dao. Địa bàn cư trú chủ yếu của người Dao là biên giới Việt – Trung, Việt – Lào và
ở một số tỉnh trung du và ven biển Bắc bộ Việt Nam. Cụ thể tại các tỉnh như: Yên
Bái, Lào Cai, Hà Giang, Tuyên Quang, Quảng Ninh, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lai Châu,
Hịa Bình… Phân bố cụ thể: Hà Giang 109.708 người, Tuyên Quang 90.618 người,
Cao Bằng 51.124 người, Bắc Kạn 51.801 người, Yên Bái 81.921 người, Lào Cai
164.147 người, Quảng Ninh 59.156 người, Hịa Bình 15.233 người, Đắk Lăk
19.303 người, Đăk Nông 13.032 người, Gia Lai 3.420 người Bình Phước 3.254
người…
Ở Quảng Ninh, người Dao có 68.540 người, chiếm 5,9 % dân số trong tồn
tỉnh, trong đó xã Bằng Cả, huyện Hồnh Bồ tập trung đơng người Dao Thanh Y
sinh sống. Dân số năm 2013 là 1634 nhân khẩu với 425 hộ. Xã có 5 dân tộc anh em
sinh sống bao gồm: Dao Thanh Y chiếm 97%, còn lại là các dân tộc Kinh, Hoa, Tày
và Sán Dìu. Cư dân của xã Bằng Cả trước khi thành lập xã chủ yếu chuyển từ các
địa phương trong huyện Hoành Bồ là Kỳ Thượng, Tân Ốc, Phù Liễn. Sau khi hịa
bình lập lại (1954 – 1960), một số hộ gia đình chuyển từ huyện Ba Chẽ (tỉnh Quảng
Ninh), huyện Sơn Động và Lục Nam (tỉnh Bắc Giang). Những dòng họ lớn có mặt
tại địa phương bao gồm: Họ Lý, họ Đặng, họ Trương, họ Bàn, họ Trần…
Theo các già làng ở xã Bằng Cả, người Dao Thanh Y xuất phát từ Trung
Quốc di cư vào Việt Nam. Miền đất họ đặt chân đến đầu tiên là Móng Cái, Hải Hà,

Ba Chẽ…và tổ tiên của người Dao Thanh Y ở xã Bằng Cả là từ Ba Chẽ . Từ Ba Chẽ
chia làm hai nhánh, một nhánh lên Tuyên Quang và một nhánh đến Bằng Cả. Và từ
 
 


Bằng Cả di chuyển đến xã Thượng Yên Công để sinh sống. Tuy nhiên một nhóm
các già làng người Dao Thanh Y ở xã Thượng n Cơng vẫn cịn truyền nhau rằng:
Họ là những cư dân ở Mông Cổ nhưng do bị bắt đi làm phu lính phục vụ chiến
tranh xâm lược Trung Quốc, khi đã chiếm hết địa bàn Trung Quốc thì đặt chân sang
Việt Nam. Chiến tranh kết thúc nhiều người trở lại được quê hương nhưng nhiều
người bị thất lạc sống tại Việt Nam và trở thành cư dân của nước Việt Nam. Đó chỉ
là những câu chuyện họ truyền miệng lại, chưa có nhà khoa học nào chứng minh sự
chính xác của những thơng tin đó. Trong q trình qn Ngun – Mơng sang xâm
lược Đại Việt thời nhà Trần (thế kỷ XIII), một nhóm người Dao Thanh Y bị bắt đi
lính, đi phu và tránh chiến tranh nên đã di cư đến Việt Nam và tồn tại đến ngày nay.
Trong suốt quá trình di cư, người Dao Thanh Y đã thay đổi tập quán để thích nghi
với nơi ở mới. Trước đây chỉ có 5 dòng họ Bàn, Tưởng (nay là họ Trương), Đặng,
Lý, Triệu, sau này có thêm các dịng họ khác như Trần, Lã là do ngoại lai hôn phối.
1.3.2. Địa bàn và đặc điểm môi trường cư trú
Bằng Cả là một xã miền núi, nằm ở phía Tây Bắc của huyện Hồnh Bồ, tỉnh
Quảng Ninh, cách trung tâm huyện lỵ Hoành Bồ 20km. Trước cách mạng tháng
Tám năm 1945, địa giới xã Bằng Cả ngày nay có tên gọi là “ Đồng Than” thuộc xã
Quảng La, tổng Tứ Xuyên, huyện Hoành Bồ. Vị trí địa lý của xã như sau: Phía
Đơng giáp xã Quảng La, huyện Hồnh Bồ (Quảng Ninh), phía Tây giáp phường
Vàng Danh, thành phố ng Bí (Quảng Ninh), phía Nam giáp phường Bắc Sơn,
thành phố ng Bí (Quảng Ninh), phía Bắc giáp xã Tân Dân, huyện Hồnh Bồ
(Quảng Ninh).
Tổng diện tích trong địa giới hành chính là 3197,68 ha. Xã Bằng Cả nằm
trong dải thung lũng tương đối bằng phẳng, chiều dài 3km, rộng 1,5 km, bao quanh

là đồi núi, độ cao từ 20 – 500m, sắp xếp theo dạng bát úp, có độ dốc từ 13 – 250.
Xã có nhiều khe suối, các khe suối đều bắt nguồn từ các dãy núi phía Bắc chảy
xuống. Trên địa bàn có Sơng Đồn chảy từ xã Tân Dân qua xã xuống hồ Yên Lập,
 
 


phía Bắc có hồ Khe Chính, phía Đơng Nam có lưu vực lòng hồ Yên Lập. Hầu hết
các khe, suối, đồi, núi đều gắn liền với lịch sử khu căn cứ cách mạng trong thời kỳ
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược như: khe Chàm, khe Mừng, khe Khế,
khe Liêu, khe Chính, khe Kiếm, khe Mai, ngọn Nhà Cháy, khe Cơng An; núi gồm
có: núi Đá Trồng, núi Phượng Hồng, đèo Mìn Nổ, đồi Ơng Ngân, đồi Giao Thơng,
đồi Gác, đồi B2…
Địa hình tự nhiên của xã Bằng Cả với ¾ diện tích là rừng khiến cho Bằng Cả
có một hệ thực vật vơ cùng phong phú. Trong đó có hệ thống rừng đầu nguồn với
nhiều loại thực vật quý, có giá trị kinh tế cao như: đinh, lim, sến, táu… và đặc biệt
là có nhiều loại rau rừng được đồng bào khai thác để phục vụ cho đời sống hàng
ngày. Cùng với đó hệ động vật phong phú và có giá trị dự tữ nguồn gen sinh học
quan trọng như: vượn, khỉ, gấu, nai, hoẵng… Ngồi ra cịn có các sinh vật nước
ngọt cung cấp nguồn thức ăn hàng ngày cho người dân nơi đây như: các loại cá,
tôm, cua… đặc biệt là baba, rùa… Rừng ở đây đã từng là đối tượng khai thác từ
nhiều đời nay của người Dao Thanh Y ở Bằng Cả. Ngoài ra rừng còn là nguồn cung
cấp các sản vật quý cho đồng bào tăng thêm nguồn thu nhập.
Bằng Cả là xã miền núi chịu ảnh hưởng của vùng khí hậu Đơng Bắc, tạo ra
những tiểu vùng sinh thái hỗn hợp, là khu vực nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm, mưa
nhiều, có 4 mùa rõ rệt ( xuân, hạ, thu, đông ) nhiệt độ trung bình hằng năm là 23,10
C. Nhiệt độ cao tuyệt đối là 36,60 C, nhiệt độ thấp nhất tuyệt đối là 5,50 C; nhiệt độ
thấp thường bắt đầu từ tháng 10 đến tháng 2 năm sau, cao dần từ tháng 4 đến tháng
8. Lượng mưa trung bình hàng năm là 1.786 mm/năm, độ ẩm cao nên rất thích nghi
cho sự sinh trưởng của của các loại cây trồng, đặc biệt là phát triển trồng rừng và

sản xuất nông nghiệp. Nguồn lực tài nguyên chủ yếu của xã Bằng Cả là tài nguyên
đất đai, trong đó đất rừng chiếm 87%.
Do môi trường tự nhiên ưu đãi đã tạo điều kiện thuận lợi cho người Dao
Thanh Y sinh tồn và phát triển mà vẫn giữ được những giá trị văn hóa truyền thống
 
 


trong suốt q trình thiên di. Có thể thấy ở hầu hết các nhóm Dao ở nước ta mơi
trường sinh sống chủ yếu của họ là rừng núi, nơi nào có rừng là có mặt của của
người Dao, người Dao Thanh Y ở xã Bằng Cả cũng mang đặc điểm đó. Có lẽ vì vậy
mà họ tự gọi mình là “kìm mùn” hay “kiềm miền”, tức là người rừng. Tuy nhiên
những năm gần đây, do sự tác động của chính sách giao đất giao rừng cho dân cùng
với sự khai thác khơng có giới hạn của con người nên diện tích rừng giảm một cách
đáng kể.
1.3.3. Đặc điểm văn hóa truyền thống của người Dao Thanh Y
1.3.3.1. Văn hóa mưu sinh
Hoạt động kinh tế của người Dao Thanh Y ở xã bằng Cả chủ yếu là phát
nương làm rẫy trồng lúa, ngơ, khoai, sắn…cây ăn quả…duy trì phương thức du
canh du cư cùng với nền kinh tế tự cung tự cấp nên đời sống gặp rất nhiều khó
khăn. Tuy nhiên đồng bào biết trồng xen canh cây ngô với các loại khoai, đậu,
rau… Trước đây xã là một khu rừng nguyên sinh có nhiều gỗ quý như: sến, táu,
trầm hương, một số loại cây dược liệu quý như: cây ba kích, cây ngũ gia bì, cây
hồng bá, cây sai, cây hà thủ ô… và các loại thú rừng như: hươu, nai, hoẵng, sơn
dương, lơn rừng, hổ, báo, chó sói, chim, sóc, gà rừng, gà lơi, cầy, cáo, vịi lang, khỉ,
vượn, nhím, tê tê, tắc kè…Vì vậy người Dao Thanh Y có nền kinh tế chiếm đoạt tự
nhiên rất phát triển. Họ hái lượm các loại rau rừng, nấm, mộc nhĩ, cây thốc chữa
bệnh… săn bắt các loại thú rừng để bổ sung nguồn thực phẩm hàng ngày. Bên cạnh
trồng lúa, người Dao Thanh Y cịn chăn ni, làm một số nghề thủ công. Trước kia
chăn nuôi chủ yếu cung cấp sức kéo cho trồng trọt hoặc cung cấp nguồn thực phẩm

cho các nghi lễ tín ngưỡng. Người Dao Thanh Y ở xã Bằng Cả còn biết đan lát, dệt,
rèn, làm hương, làm giấy… Các sản phẩm của nghề thủ công chủ yếu phục vụ nhu
cầu sinh hoạt và sản xuất nơng nghiệp trong gia đình, cả các nghi lễ tơn giáo… Các
gia đình vẫn đan lát các đồ gia dụng như: rổ, rá, sọt…
1.3.3.2. Văn hóa xã hội
 
 




Làng bản

Người Dao Thanh Y có tập quán cư trú từ lâu đời, sống thành từng làng.
Làng của người Dao Thanh Y goi là “Giằng”. Tên của Làng được đặt theo tên của
núi, rừng, đặc điểm riêng biệt của vùng hay là người có cơng khai hoang vùng đất
hoặc là người giữ gìn vùng đất. Mỗi làng có địa vực cư trú, canh tác riêng. Trước
đây, Làng của người Dao Thanh Y rất thưa thớt nóc nhà, mỗi làng chỉ có khoảng
năm nóc nhà trở lên, mỗi nhà cách nhau một khoảng vườn rộng. Làng được hình
thành dựa trên tiêu chí cùng chung sống trên một vùng đất nhất định, khơng phụ
thuộc vào việc có cùng họ hay khác họ. Tuy nhiên, Làng của người Dao Thanh Y
rất ít có những dân tộc khác sinh sống xen kẽ, chỉ khi đời sống của đồng bào được
cải thiện, trình độ dân trí được nâng cao thì mới có hiện tượng sống xen kẽ với các
dân tộc khác. Đứng đầu làng là trưởng làng, do các thành viên trong làng bầu lên.
Trưởng làng (giằng châu) là người trưởng họ trong dòng họ lớn nhất của làng, có uy
tín, giỏi làm ăn và có khả năng chỉ đạo dân làng. Bên cạnh đó cịn Già làng (giằng
cố) và Hội đồng già làng, đó là những người cao tuổi, được đồng bào kính trọng.
Họ là những người giải quyết mọi việc lớn nhỏ trong làng như: gieo cấy, thu hoạch,
quản lý tài sản của cộng đồng, giải quyết những mẫu thuẫn trong nội bộ theo luật
làng… Già làng là người am hiểu phong tục tập qn, nghi lễ tín ngưỡng, có uy tín

cao. Trước khi thực hiện những công việc quan trọng trưởng làng đều phải hỏi ý
kiến của già làng.
Người Dao Thanh Y sống với nhau rất hòa thuận, thường giúp đỡ nhau trong
cuộc sống, thể hiện tính cố kết cộng đồng cao, có quy ước chung để đảm bảo đồn
kết, giữ gìn an ninh trật tự trong làng. Mỗi làng người Dao Thanh Y đều có chung
một vị thần cai quản gọi là “giằng man”. Mỗi làng cũng ó một miếu thờ riêng – nơi
thực hành các nghi lễ chung của làng.


 
 

Gia đình, dịng họ


Người Dao Thanh Y ở xã Bằng Cả theo loại hình gia đình nhỏ phụ hệ. Mỗi
gia đình nhỏ gồm ông bà, một cặp vợ chồng và các con. Người chồng là chủ gia
đình, có quyền và nghĩa vụ lớn nhất trong nhà, là người tạo ra của cải vật chất và
đại diện pháp lý cho cả gia đình. Nếu bố chết sớm thì con trưởng phải làm chủ gia
đình. Người chủ gia đình có trách nhiệm chỉ đạo sản xuất, trực tiếp đảm nhiệm các
công việc nặng nhọc như chặt cây, cuốc đất, cày nương… Đồng thời người chủ gia
đình cũng là người trực tiếp dạy con trai kinh nghiệm sản xuất, thực hiện phong tục
tập quán. Trong gia đình ngày xưa chỉ có con trai mới được đi học, được học chữ
Nôm Dao.
Trong cuộc sống hàng ngày, người vợ phải nghe theo lời chồng, con cái nghe
theo lời cha mẹ, em nghe lời anh chị. Khác với người Dao Thanh Phán phân biệt
thứ bậc theo hệ thống tên đệm, người Dao Thanh Y phân biệt bằng cách xưng hơ
như: ơng Chú, ơng Cậu, bà Cơ, bà Dì… Người Dao Thanh Y tại đây còn chịu ảnh
hưởng của nhiều lễ giáo phong kiến. Trong quan hệ nàng dâu với bố chồng, anh
chồng; giữa con rể với mẹ vợ được tuân thủ theo luật tục nghiêm ngặt. Bố chồng

không được phép vào buồng ngủ của con dâu và ngược lại, con dâu cũng không
được phép đến chỗ ngủ của bố chồng, anh chồng. Khi bố chồng, anh chồng đang
tiếp khách thì con dâu khơng được phép có mặt.
Tính chất phụ hệ được thể hiện rõ nét trong quan hệ hôn nhân. Chỉ có người
con trai được lựa chọn người bạn đời. Cịn người con gái khơng được tự do tìm hiểu
nhau mà phải theo ý cha mẹ, bố mẹ đặt đâu con ngồi đấy. Ngồi ra, chỉ có người
con trai được làm lễ cấp sắc. Trong xã hội ấy người ta quý trọng con trai. Con trai
có quyền thừa kế tài sản, nối dõi tơng đường. Những gia đình nào khơng có con trai
là những gia đình khơng có phúc và phải đi xin con trai về nuôi để sau này có người
hương hỏa. Người con ni ấy sau khi đưa về sễ được làm lễ để đưa vào làm thành
viên trong gia đình, khơng bị phân biệt đối sử, sau này được hưởng thừa kế tài sản
như con đẻ, đến tuổi sẽ được tổ chức lễ cấp sắc. Trước đây, người Dao Thanh Y
 
 


khơng thích xin con của dân tộc khác về ni. Tuy nhiên ngày nay thì đã có hiện
tượng xin con của các dân tộc khác về nuôi.
Người Dao Thanh Y có 5 họ chính: Bàn, Tưởng (nay là họ Trương), Đặng,
Lý, Triệu. Mỗi họ lại có nhiều dịng họ khác nhau và có một ơng trưởng họ. Ơng
trưởng họ phải là con trưởng của ngành trưởng. Trưởng họ có nhiệm vụ chỉ đạo
những việc chung của dòng họ, giải quyết các vụ xích mích trong dịng họ. Sự
thống nhất về mặt xã hội của dòng họ còn thể hiện cả trong cư trú. Xưa kia, mỗi
dòng họ cư trú ở phạm vi một làng hoặc một xóm của làng. Mỗi dịng họ có lễ giỗ
tổ dịng họ riêng nhằm mục đích tưởng nhớ tổ tiên và ghi tên âm các thành viên
nam đã mất vào gia phả dòng họ.
1.3.3.3. Văn hóa vật chất


Nhà ở


Trước đây, ngơi nhà truyền thống của người Dao Thanh Y ở xã Bằng Cả là
nhà nửa sàn nửa đất (một phần dựa vào mặt bằng của đồi núi, một phần dựa vào
sườn núi), đằng trước là sân vườn có hàng rào bao quanh. Bên trái là khu vực bếp
và cơng trình khác, phía sàn là nơi sinh hoạt ăn nghỉ của gia đình. Phía dưới sàn
dùng để đựng các vật dụng trong lao động. Khi xuống sinh sống ở địa hình tương
đối bằng phẳng và chịu ảnh hưởng của gió mùa đơng bắc lạnh giá nên người Dao
Thanh Y đã chuyển sang làm nhà nền đất để ấm vào mùa đông, mát vào mùa hè.
Đồng bào nơi đây biết tận dụng những nguồn lợi sẵn có từ tự nhiên để xây dựng
nhà. Bộ khung nhà có kết cấu đơn giản theo kiểu vì kèo. Nhà thường có từ 3 gian
đến 5 gian, cửa ra vào ở giữa nhà và có cửa sổ để lấy ánh sáng. Việc dựng nhà là cả
một quá trình từ việc chọn đất đến chọn nguyên vật liệu, chọ ngày lành tháng tốt để
dựng nhà, lễ vào nhà mới… Công việc này diễn ra trong nhiều tháng và yêu cầu
đông người làm nên đồng bào thường hay giúp đỡ nhau. Trước đây do cuộc sống
cịn khó khăn nên người Dao Thanh Y làm nhà chủ yếu từ các vật liệu trong rừng
như: gỗ, tre, nứa, cỏ gianh…
 
 


Việc bố trí mặt bằng sinh hoạt trong nhà của người Dao Thanh Y tương đối
thống nhất. Nhà có từ 2 đến 3 cửa ra vào, ít cửa sổ, từ 2 đến 3 bếp, nơi để đồ đạc và
nơi ngủ của từng thành viên được qui định khá chặt chẽ. Gian chính giữa là nơi tiếp
khách, đặt ban thờ gia tiên và buồng ngủ của con trai chưa vợ. Gian bếp ở cạnh gian
giữa, có cửa thơng ra nơi để nước. Gian bếp được bố trí bếp nấu ăn, bếp lò nấu cám
lợn, nước ăn, các đồ dùng của nhà bếp, đồ đựng thóc gạo, cối xay, đồ nấu rượu…
Sàn gác ở phía trên nép sát mái để cất giữu lương thực, đồ đạc.
Với người Dao, nhà kiêng mở cửa chính về hướng Tay, rừng ma và sơng
suối. Tốt nhất trước nhà là khoảng trống, xa xa là đồi núi… Việc sử dụng mặt bằng
đi lại trong nhà cũng được qui định rất chặt chẽ.

Nơi nhốt gà, lợn, trâu, bò đều ở dưới gầm sàn, những nhà có kho thóc riêng
thì trâu, bị ở gầm kho. Xung quanh nhà là một khoảnh vườn để trồng rau xanh, cây
ăn quả… những nơi có điều kiện, người Dao cịn đào ao thả cá, ni ngan, vịt...
Mặc dù có 3 loại hình nhà khác nhau, nhưng đặc điểm chung nhất về nhà ở
của người Dao đó là vị trí và cách bố trí bên trong của một "gian đặc biệt" để đặt
bàn thờ. Trong ngơi nhà, gian này thường có vách chắn theo chiều dọc của nhà và
có một đoạn vách ngăn giữa nó với gian bên. Sau đoạn vách ngăn dọc là một buồng
nhỏ thường được để rượu hay thịt ướp chua. Cách bố trí "gian đặc biệt" này là một
đặc trưng riêng của nhà ở của người Dao...


Trang phục

Trước đây, trang phục của người Dao Thanh Y được may từ vải chàm do
chính đồng bào tự trồng bơng, dệt vải và nhuộm màu chàm từ cây rừng.
Trang phục của nữ giới người Dao Thanh Y gồm: khăn, mũ, áo dài, yếm, dây
lưng, quần và một số đồ trang sức khác như: vịng bạc, dây xà tích... Phụ nữ Dao
Thanh Y để tóc dài quấn quanh đầu, đội một chiếc mũ nhỏ bằng cái bát. Vì do cấu
tạo khơng vừa với đầu nên để đội được chiếc mũ đó quả là một nghệ thuật mà
không phải ai cũng biết làm. Bản thân chiếc mũ cũng được làm từ những vật liệu rất
 
 


đặc biệt, đó là mũ được bện bằng xơ mướp. Việc chọn được chiếc xơ mướp thật phù
hợp là cả một cơng trình kỹ thuật. Đồng bào lấy chỉ đen quấn ngồi xơ mướp, đỉnh
mũ có gắn một ngơi sao mười cánh bằng bạc, được chạm khắc rất tinh sảo. Xung
quanh thành mũ có gắn các cặp mảnh bạc hình tròn, tùy theo chiếc mũ to hay nhỏ
mà gắn bao nhiêu cặp bạc cho cân đối.
Áo dài của người phụ nữ Dao Thanh Y có màu chàm, gồm ba vạt, hai vạt

trước ngắn hơn vạt sau, trong đó vạt trước bên phải ngắn hơn vạt bên trái. Ống tay
được chắp bằng các mảnh vải đỏ, xanh và chàm. Nẹp cổ áo có trang trí nhiều hoa
văn. Viền áo được nẹp bằng các miếng vải đỏ nhỏ. Vạt sau của áo có thêu hoa văn ở
hai góc vạt áo và trên bả vai cũng được thêu các họa tiết giống hình chim, cỏ, cây…
Trang phục của người phụ nữ Dao Thanh Y khơng thể thiếu chiếc yếm, đó là một
miếng vải hình vng, nửa trên được thêu hoa văn trang trí. Giữa yếm có gắn một
miếng bạc hình trịn úp rộng khoảng 4 - 5 cm. Đặc biệt nhất là chiếc dây lưng được
dệt rất công phu và tỉ mỉ bằng các dải chỉ đỏ, trắng, đen. Họ mặc chiếc quần ống
què màu chàm thô sơ rất đơn giản, không được trang trí bất kỳ một loại hoa văn hay
họa tiết nào.
Trang phục của người đàn ông Dao Thanh Y không có nhiều điều độc đáo
như trang phục của phụ nữ. Họ cũng mặc quần ống què, với chiếc áo dài tay, có bốn
thân, cổ trịn, đứng, xẻ nách phải, có hàng cúc để đóng. Chiếc áo được trang trí hoa
văn ở sau hai bên bả vai và vạt dưới của áo. Cịn trang phục thầy cúng thì hơi khác
biệt một chút đó là áo màu đỏkhơng trang trí hoa văn hoặc màu xanh, tay lửng có
trang trí hoa văn. Hai thân trước của áo, dọc từ vai xuống có thêu một bên một con
rồng. Thân sau được thêu họa tiết nhiều hơn phia trước, chủ yếu là hình các con vật
sống dưới nước như: rùa, cá nhỏ… Ngoài ra, thầy cúng cịn có một cái khăn dài
bằng vải trắng, vắt qua vai vòng qua cổ. Hai đầu khăn được thêu các họa tiết trang
trí đính nhiều vải màu đỏ, đen. Lúc đội thì hai đầu khăn có thể được bỏ về phía
trước ngực hoặc một đầu thừa bỏ ra sau lưng.
 
 




Ăn uống

Do đặc trưng của đồng bào nơi đây đi làm sớm để đỡ nắng vào mùa hè nên

người Dao Thanh Y nơi đây khơng có thói quen ăn sáng. Bữa ăn chính trong ngày
chỉ có hai bữa là bữa trưa và tối. Hoạt động kinh tế chủ yếu là trồng lúa, ngơ và hoa
màu nên nguồn thực phẩm chính là gạo và ngô. Họ trồng cả lúa nếp và lúa tẻ. Đồng
bào cũng có nhiều cách chế biến thức ăn như: nấu, nướng, xào, hầm… Ngoài bữa
cơm hàng ngày người Dao Thanh Y còn biết làm các loại bánh, các món ăn từ các
loại nơng sản như: bánh sắn, bánh bột… Trong dịp lễ tết người Dao Thanh Y cịn
làm các loại bánh đặc trưng của đồng bào mình như: bánh gù, bánh bột nếp…
Ngồi các thực phẩm có nguồn gốc từ sản xuất, người Dao Thanh Y còn khai
thác các thực phẩm có từ tự nhiên như: thịt thú rừng, cá ở sông suối và các loại rau
rừng như: nấm, mộc nhĩ, măng… Tất cả đã làm cho những món ăn của người Dao
Thanh Y thêm phong phú và đa dạng. Các món ăn mang đậm tính địa phương như:
gà nấu gừng, thịt lợn nướng, rượu ngâm, xôi nhiều màu…
Đồ uống của người Dao Thanh Y là nước đun sơi. Bên cạnh đó họ cũng tự
nấu và uống rượu từ gạo hoặc ngô, sắn cùng lá men do họ tự sản xuất. Trong đó,
Rượu chua là thứ đồ uống đặc sản của đồng bào dân tộc Dao Thanh Y, tập trung
chủ yếu ở xã Bằng Cả, huyện Hoành Bồ, Quảng Ninh, được đồng bào quen mồm
gọi đó là “rượu bâu”. Rượu có màu vàng trong vắt, vị ngọt ngọt chua chua nên được
gọi bằng cái tên “rượu chua”, đưa lên miệng còn ngửi thấy mùi thơm ngọt của gạo
nếp cẩm, uống êm đầu lưỡi và uống xong vẫn cịn dính mơi. Rượu chua dễ uống,
thường được coi như một thứ rượu “phụ nữ”, khi uống không dùng các chén nhỏ
như rượu cay, mà dùng cốc, dùng bát.
Trong truyền thống người Dao Thanh Y kiêng khơng ăn thịt chó. Tuy nhiên
hiện nay kiêng kị đó đã bị phá vỡ. Chỉ một số bộ phận thầy cúng vẫn còn giữ những
kiêng kị đó. Ngồi kiêng thịt chó, thầy cúng cịn phải kiêng cả thịt trâu, thịt mèo…
 
 


1.3.3.4. Văn hóa tinh thần
Đời sống văn hóa tinh thần của người Dao Thanh Y ở xã Bằng Cả rất phong

phú và đa dạng được thể hiện qua những giá văn hóa phi vật thể độc đáo, đặc sắc.
Đặc biệt là Hội làng xã Bằng Cả của người Dao Thanh Y được duy trì từ đời này
sang đời khác. Do dựa vào địa hình trên các triền đồi có những con suối chảy tạo ra
những thung lũng nhỏ để sinh sống và canh tác. Các gia đình, các làng nằm rải rác,
thưa thớt và cách xa nhau trên sườn núi. Điều kiện ăn ở, đi lại khó khăn, khí hậu
thiên nhiên khắc nghiệt nhất là vào mùa mưa bão, bên cạnh đó cịn có nhiều thú dữ
hồnh hành trên rừng. Phương thức canh tác ban đầu thủ công, đơn giản nên sản
phẩm làm ra chủ yếu để phục vụ cuộc sống, không hết mới mang xuống chợ để đổi
lấy muối ăn, dầu đốt và các vật dụng khác cho gia đình. Vì vậy, Hội làng xưa cũng
là điều kiện để đoàn kết nhau lại, khắc phục thiên tai, chống lại thú dữ, cùng nhau
tồn tại và phát triển.
Hiện nay xã Bằng Cả vẫn còn một số cụ cao tuổi hiểu biết về các làn điệu dân
ca, trò chơi dân gian. Các làn điệu hát đối, hát giao duyên có nguy cơ bị mất vì thế
hệ trẻ ngày nay khơng cịn ai học các bài hát đó nữa. Hơn nữa hệ thống chữ Nơm
Dao khơng phổ biến và rất khó học nên việc lưu giữ các bài hát đó cũng gặp nhiều
khó khăn.
Theo phong tục của người Dao Thanh Y, khi sinh ra đến tuổi trưởng thành
người con trai bắt buộc phải được gia đình tổ chức lễ cấp sắc. Đối với người Dao
Thanh Y, đó là một nghi lễ có ý nghĩa rất thiêng liêng, nó khẳng định sự trưởng
thành của một người. Sau lễ cấp sắc thì người đó có quyền tham gia các hoạt động
trong họ hàng, gia tiên, làng xã như: được tham gia các lễ hội của làng, thờ cúng tổ
tiên, làm thầy cúng… Khi được cấp sắc thì tên được đặt cũng thể hiện ý nghĩa cho
biết người đó đang ở cành nào trong họ tộc và khi qua đời thì tên cấp sắc sẽ trở
thành tên cúng cơm của con cháu. Người con trai đã đặt tên thì khơng được thay họ
khác. Trước đây lễ cấp sắc diễn ra trong hai ngày ba đêm với chi phí rất tốn kém về
 
 


vật chất và thời gian. Hiện nay thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước cũng

như quy ước của làng xã, lễ cấp sắc được tổ chức gọn nhẹ hơn rất nhiều nhưng vẫn
đảm bảo thủ tục, nghi lễ. Một số gia đình khơng có điều kiện có thể kết hợp lễ cấp
sắc với lễ cưới vợ. Đặc biệt là khi có người trong gia đình mất thì sẽ kết hợp tổ chức
lễ cấp sắc, vì đồng bào cho rằng khi kết hợp như vậy những điều xấu, không tốt đến
với người được cấp sắc sẽ được người chết đem đi hết.
Phong tục theo chu kỳ đời người của người Dao Thanh Y có bản sắc riêng.
Phụ nữ Dao Thanh Y có tục đẻ ngồi ngay trong buồng ngủ của mình. Đứa trẻ sinh
được ba ngày, gia đình tổ chức lễ đặt tên rất trang trọng. Khi đứa trẻ được đầy tuổi,
gia đình bày các dụng cụ như bút mực, sách vở, dao, búa, trống… Đứa trẻ tự ý bị
tới dụng cụ nào thì gia đình sẽ biết rõ nghề nghiệp của đứa trẻ sau này. Như trẻ lấy
bút mực thì sau này sẽ học giỏi, trẻ lấy trống thì sẽ làm thầy cúng…
Trong lễ cưới, người Dao Thanh Y có nhiều nghi lễ khác nhau như lễ so tuổi,
lễ dạm hỏi, lễ cưới, lễ lại mặt. Riêng trong lễ cưới cịn có nhiều lễ nhỏ như lễ nghỉ
tạm nhà trọ, lễ vượt các cửa ải đến nhà gái, lễ trình hồng thư, lễ hồng lạy, lễ bản
mệnh, báo tổ… Ngun tắc ngoại hơn dịng họ và kết hơn giữa những người cùng
một ngành Dao luôn chi phối hôn nhân.
Đồng bào cho rằng mọi vật đều có linh hồn. Khi chết đi thì linh hồn của
người đó sẽ biến thành ma. Vì vậy con người khi cịn sống ai cũng có hồn. Họ tin
trên cơ thể con người có rất nhiều hồn, và hồn quan trọng nhất nằm ở khoáy đầu
nên đồng bào rất tối kị việc đánh vào đầu của trẻ con.
Tơn giáo tín ngưỡng của người Dao Thanh Y gồm nhiều hình thức: Thờ cúng
tổ tiên – ma nhà, thờ thần bản mệnh cộng đồng, sa man giáo. Người Dao Thanh Y
có tín ngưỡng mang nhiều tàn dư của tôn giáo nguyên thủy, chịu ảnh hưởng của
Tam giáo, đặc biệt là Đạo giáo. Cụ thể trong các bức tranh thờ của người Dao
Thanh Y có hình ảnh của các vị thần linh như: Ngọc Hoàng, Diêm Vương… Do
hoạt động kinh tế làm nương rẫy kết hợp làm ruộng nên đồng bào cũng có những
 
 



họat động tín ngưỡng liên quan đến sản xuất. Vì trình độ nhận thức cịn hạn chế
khơng giải thích được các hiện tượng tự nhiên nên đồng bào có tín ngưỡng súng bái
tự nhiên và đa thần. Ngồi ra, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và thờ cúng Bàn Vương
cũng là tín ngưỡng bắt buộc đối với các gia đình người Dao Thanh Y tại đây.
Tiểu kết chương 1
Tỉnh Quảng Ninh đã đạt được những kết quả nhất định trong xây dựng nông
thôn mới giai đoạn 2010 – 2020. Là tỉnh có nhiều người dân tộc thiểu số sinh sống,
để bứt phá về đích nơng thơn mới ở các vùng sâu, vùng xa, vùng có đồng bào dân
tộc sinh sống không hề dễ dàng. Tuy nhiên, Ban lãnh đạo tỉnh Quảng Ninh đã có
những bước đi đúng đắn, phù hợp với điều kiện thực tế của tỉnh, bước đầu xây dựng
nông thôn mới giai đoạn 2010 – 2015. Tiếp tục nghiên cứu và triển khai thực hiện
xây dựng nông thôn mới tại các vùng nơng thơn để hồn thành Chương trình nơng
thơn mới do Thủ tướng chính phủ đề ra. Người Dao Thanh Y ở xã Bằng Cả có lịch
sử cư trú lâu đời ở Việt Nam. Quá trình mưu sinh để tồn tại và phát triển đã hình
thành nên những phong tục tập quán tốt đẹp làm nên truyền thống văn hóa đặc
trưng của đồng bào. Người Dao Thanh Y ở xã Bằng Cả trước đây còn nghèo khổ,
đời sống khó khăn. Nhờ có các chính sách, chương trình của Nhà nước hỗ trợ đồng
bào, giúp đồng bào nâng cao đời sống, xóa đói giảm nghèo. Trong những năm gần
đây, đời sống của đồng bào được cải thiện rõ rệt về mọi mặt, đặc biệt là sau 4 năm
thực hiện Chương trình nơng thơn mới. Tuy nhiên, sự tác động của các yếu tố mới
cũng làm cho bản sắc văn hóa của đồng bào Dao Thanh Y ngày càng mai một. Vấn
đề đặt ra là tiếp thu mà không hịa tan, xây dựng một nền văn hóa tiên tiến nhưng lại
đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc.

 
 


×