Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Gia đình người việt dưới thời lê thánh tông qua một số văn bản điển chế và pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.51 MB, 120 trang )




KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆ

IH C

i

ia đình người Việt dưới thời Lê Thánh Tông qua một
số văn bản điển chế và pháp luật

Sinh viên thực hiện : Lê Thị Trang
Chuyên ngành

: ư phạm Lịch sử

Lớp

: 12SLS

Người hướng dẫn

: ThS. Lê Thị Thu Hiền

Nẵng, 05/2016


MỤC LỤC
MỞ ẦU………………………………………………………………………………….1
1. Lí do chọn đề tài ………………………………………………………………………..1


2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề……………………………………………………………...2
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu…………………………………………3
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu …………………………………………4
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu…………………………………………….4
6. Đóng góp của đề tài………………………………………………………………….....5
7. Bố cục của đề tài………………………………………………………………………..6
NỘ DU

……………………………………………………………………………….7

hương 1: ỔNG QUAN VỀ THỜI VUA LÊ THÁNH TÔNG VÀ MỘT SỐ VĂ BẢN
ỂN CHẾ VÀ PHÁP LUẬT VIỆ
Ơ

D ỚI THỜI VUA LÊ THÁNH

…………………………………………………………………………………….7

1.1. Tình hình Việt am dưới thời vua ê hánh ơng……………………………..7
1.1.1. Chính trị……………………………………………………………………………7
1.1.2. Kinh tế - xã hội……………………………………………………………………11
1.1.3. Văn hóa, giáo dục…………………………………………………………………15
1.2. Một số văn bản điển chế và pháp luật Việt am dưới thời ê hánh ơng….20
1.2.1. Bộ Quốc triều hình luật………………………………………………………….. .20
1.2.2. Thiên Nam dư hạ tập………………………………………………………………22
1.2.3. Hồng Đức thiện chính thư…………………………………………………………24
1.3. Đặc điểm của gia đình Việt Nam truyền thống……………………………………...25


hương 2:


Ì

D ỚI THỜI LÊ THÁNH TƠNG QUA MỘT SỐ VĂ BẢN

ỂN CHẾ VÀ PHÁP LUẬT VIỆ

……………………………………………33

2.1. Các mối quan hệ trong gia đình……………………………………………….....33
2.1.1. Mối quan hệ vợ - chồng…………………………………………………………...33
2.1.2. Mối quan hệ giữa bề trên với con – cháu…………………………………………40
2.1.3. Các mối quan hệ khác………………………………………………………….....44
2.1.3.1. Quan hệ giữa anh chị với em…………………………………………………....44
2.1.3.2. Mối quan hệ giữa cha mẹ với con ni…………………………………………45
2.2. ác quy định về kết hơn trong gia đình…………………………………………46
2.2.1. Điều kiện kết hôn………………………………………………………………….46
2.2.2. Các nghi thức kết hôn……………………………………………………………..49
2.2.2.1. Lễ Định thân (lễ Vấn danh)……………………………………………………..49
2.2.2.2. Lễ Nạp trưng (lễ Dẫn cưới)…………………………………………………......51
2.2.2.3. Lễ Thân nghênh (lễ Đón dâu)………………………………………………….53
2.2.3. Chấm dứt hơn nhân………………………………………………………………53
2.2.3.1. Các trường hợp được phép ly hôn……………………………………………..53
2.2.3.2. Những trường hợp không được phép ly hôn………………………………….54
2.3. ác quy định về phân chia tài sản trong gia đình……………………………..55
2.3.1. Thừa kế theo di chúc…………………………………………………………….56
2.3.2. Thừa kế khơng có chúc thư (thừa kế theo luật)………………………………….58
2.4. ác quy định về tang chế trong gia đình………………………………………63



2.4. 1. Chế độ tang phục ………………………………………………………………64
2.4.2. Những phép tắc, quy định khi trong nhà có tang……………………………….64
2.4.3. Thời gian để tang………………………………………………………………..67
2.5. ác quy định về hương hỏa…………………………………………………….72
2.6. Nhận xét, đánh giá……………………………………………………………….75
2.6.1. Trong gia đình người Việt thời Lê Thánh Tơng, địa vị của người phụ nữ ít nhiều được
đề cao……………………………………………………………………………..75
2.6.2. Gia đình người Việt thời Lê Thánh Tơng thể hiện rõ tư tưởng “trọng nam khinh
nữ”………………………………………………………………………………………78
2.6.3. Thời Lê Thánh Tông, các mối quan hệ trong gia đình rất được coi trọng………79
KẾT LUẬ …………………………………………………………………………….82
TÀI LIỆU THAM KHẢ …………………………………………………………….83
PHỤ LỤC


MỞ ẦU
1. Lí do chọn đề tài
Gia đình là cái nôi thân yêu nuôi dưỡng cả đời người, là môi trường quan trọng giáo dục
nếp sống và hình thành nhân cách cho các thành viên trong gia đình. Gia đình - tế bào của xã
hội có vai trị quyết định đối với sự hình thành và phát triển của xã hội. Đồng thời, là nơi giữ
gìn, vun đắp và phát huy những giá trị truyền thống quý báu của con người Việt Nam, dân tộc
Việt Nam đã hình thành trong quá trình lịch sử dựng nước, giữ nước. Những chuẩn mực giá trị
tốt đẹp của gia đình được tiếp nhận, phát triển góp phần xây dựng, tơ thắm, làm rạng rỡ thêm
bản sắc văn hóa dân tộc. Mỗi một quốc gia, dân tộc phát triển được là nhờ vào các “tế bào
nhỏ” này. Chính vì vậy, gia đình đóng vai trị quan trọng trong q trình xây dựng và phát
triển đất nước.
Nhận thức được tầm quan trọng đặc biệt của gia đình đối với sự phát triển của xã hội. Các
nhà nước phong kiến Việt Nam đã có sự quan tâm nhất định đối với các mối quan hệ, hôn
nhân, tài sản thừa kế, tín ngưỡng,… trong gia đình, được biểu hiện cụ thể qua các điều lệ quy
định ở pháp luật Nhà nước, mà tiêu biểu hơn cả là dưới thời vua Lê Thánh Tông (1460 1497).

Kéo dài trên 300 năm trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, các ông vua đầu tiên
của nhà Lê, như Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông, Lê Thánh Tông… đều rất quan
tâm đến việc xây dựng hệ thống luật pháp để cai trị và quản lí xã hội. Các bộ sách về điển chế
và pháp luật thời Lê lần lượt được soạn thảo, sau đó được bổ sung và hoàn thiện thêm trong
các triều đại kế tiếp. Đây là thời kì mà các điển chế và các quy định về mặt luật pháp được chú
trọng hơn bao giờ hết trong bộ máy hành chính, cai trị của các triều đại phong kiến Việt Nam
thời trung đại, trong đó thời Hồng Đức - Lê Thánh Tơng là thời kì mà các văn bản điển chế và
pháp luật được hoàn chỉnh nhất. Ngồi Quốc triều hình luật, nhiều văn bản điển chế khác như:
Thiên Nam dư hạ tập, Hồng Đức thiện chính thư đã được ban hành nhằm bổ sung, hạn chế
những kẻ hở của pháp luật khiến kẻ gian dễ bề lợi dụng. Các văn bản điển chế này, ở mặt nào
đó đã phản ánh đa dạng các lĩnh vực đời sống xã hội Đại Việt dưới thời Lê Thánh Tơng, trong
đó có gia đình người Việt. Do đó, nghiên cứu các văn bản điển chế, pháp luật được ban hành


trong giai đoạn này sẽ chúng ta có một cái nhìn rõ hơn về gia đình Việt Nam ở nửa sau thế kỉ
XV, mặt khác có thêm sự nhận định, đánh giá về triều đại phát triển đỉnh cao trong lịch sử
phong kiến Việt Nam.
Trong thời đại ngày nay, cùng với sự phát triển của xã hội thì có nhiều vấn đề mới nảy
sinh, trong đó vấn đề gia đình cũng có những biến đổi rất phức tạp. Đặc biệt trong vài năm trở
lại đây, vấn đề gia đình nổi lên như một tiêu điểm trọng yếu được cả giới hàn lâm và giới
chính trị quan tâm. Ở châu Á và Đơng Nam Á nói riêng, người ta nói nhiều đến gia đình, văn
hóa gia đình như một giải pháp để ngăn trở sự xâm nhập của văn hóa phương Tây. Và khơng
chỉ có thế. Các quốc gia châu á trong đó có Việt Nam đang trải nghiệm trong một cuộc chuyển
mình vĩ đại: thực hiện cơng nghiệp hóa - đơ thị hóa với quy mơ và tốc độ ngày càng gia tăng.
Ở nước ta, sự ổn định của gia đình chính là một trong những nhân tố quyết định sự thành cơng
của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì vậy,
đầu tư cho gia đình cũng là đầu tư cho phát triển bền vững. Nhận thức rõ vấn đề này, Chiến
lược Phát triển Gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đã nhấn mạnh đến
việc phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, xây dựng gia đình
Việt Nam “tiến bộ, hạnh phúc”, làm cho mỗi gia đình “thực sự là tổ ấm của mỗi người, là tế

bào lành mạnh của xã hội”. Chính vì vậy, việc nghiên cứu về gia đình người Việt hiện nay
đóng vai trị rất quan trong trong việc gìn giữ, phát huy những giá trị truyền thống của người
Việt Nam, đồng thời là nhân tố quan trọng trong sự nghiệp phát triển chung của đất nước. Do
đó, việc nghiên cứu về gia đình dưới thời Lê Thánh Tơng có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.
Từ những lí do trên, tơi quyết định chọn đề tài: “Gia đình người Việt dưới thời Lê
Thánh Tơng qua một số văn bản điển chế và pháp luật” để làm khóa luận tốt nghiệp của mình.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Liên quan đến đề tài “Gia đình người Việt dưới thời Lê Thánh Tông qua một số văn bản
điển chế và pháp luật”. Có một số cơng trình đã đề cập đến, đáng chú ý là một số công trình
như:


Trong tác phẩm Đại Việt sử kí tồn thư, tập 2 của Ngơ Sĩ Liên, Nxb Văn hóa thơng tin đã
có một số ghi chép về các mối quan hệ trong gia đình, hơn nhân, tang chế, dưới thời vua Lê
Thánh Tông hay quy định việc thờ tự của con cái nhưng vẫn chưa đi sâu vào các vấn đề đó.
Ngồi ra, cịn có các bộ sử như: Lịch triều hiến chương loại chí, Khâm định Việt sử
thơng giám cương mục, hay các tài liệu tham khảo như: Đại cương lịch sử Việt Nam, Tiến
trình lịch sử Việt Nam… Tất cả những tác phẩm trên đều là những tác phẩm lịch sử quan
trọng, đề cập đến những khía cạnh, vấn đề khác nhau liên quan đến đề tài như tổng quan về
tình hình đất nước ta dưới thời Vua Lê Thánh Tông, những quy định về các mối quan hệ trong
gia đình, nghi lễ hơn nhân giá thú, việc thơng dâm, tang chế trong gia đình.
Tóm lại đề tài “Gia đình người Việt dưới thời Lê Thánh Tơng qua một số văn bản điển
chế và pháp luật”, đã thu hút sự nghiên cứu của một số học giả. Tuy nhiên, chưa có một cơng
trình, tác phẩm nào nghiên cứu một cách toàn diện, tổng thể về vấn đề này, mà hầu hết các tác
phẩm chỉ mới mang tính đề cập hay phân tích một khía cạnh nào đó của đề tài. Song đó cũng
là những tài liệu tham khảo bổ ích và quan trọng phục vụ cho tôi nghiên cứu đề tài này.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm làm sáng tỏ những vấn đề liên quan đến mọi mặt

trong gia đình Việt Nam dưới thời vua Lê Thánh Tông, được phản ánh trong một số văn bản
điển chế và pháp luật Việt Nam thế kỉ XV.
Thơng qua đó, đề tài đưa ra những nhận xét về gia đình dưới thời Lê Thánh Tơng phản
ánh qua các văn bản điển chế và pháp luật, đồng thời đánh giá về những quy định trong gia
đình dưới thời vua Lê Thánh Tông đã được ban hành và thực hiện.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được những mục đích trên, khóa luận sẽ thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu về bối cảnh lịch sử Việt Nam dưới thời vua Lê Thánh Tơng, trên các mặt như:
Chính trị, kinh tế - xã hội, văn hóa - giáo dục.


- Giới thiệu một số văn bản điển chế và pháp luật dưới thời vua Lê Thánh Tơng.
- Phân tích về các vấn đề liên quan đến gia đình người Việt dưới thời Lê Thánh Tông qua
các quy định trong một số văn bản điển chế và pháp luật được ban hành dưới thời kì này.
- Đưa ra những nhận xét, đánh giá đối với những quy định về gia đình được ban hành trong
một số văn bản điển chế và pháp luật Việt Nam dưới thời Lê Thánh Tông.
4. ối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1. ối ượng nghiên cứu
Với đề tài này, đối tượng nghiên cứu chủ yếu là gia đình người Việt bao gồm các mối
quan hệ trong gia đình, các vấn đề như: hơn nhân, tang chế, hương hỏa, về phân chia tài sản
trong gia đình và những quy định khác liên quan đến gia đình.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề liên quan đến gia đình dưới thời vua
Lê Thánh Tơng (1460 - 1497).
Về không gian: Với đề tài này, tôi chỉ tập trung nghiên cứu gia đình người Việt trong phạm
vi cả nước dưới thời vua Lê Thánh Tông qua một số văn bản điển chế và pháp luật là: Quốc
triều hình luật, Thiên Nam dư hạ tập, Hồng Đức thiện chính thư.
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn ư liệu nghiên cứu
Để hồn thành để tài này, tơi đã khai thác tư liệu từ nhiều nguồn khác nhau. Trên cơ sở

những tài liệu tham khảo, tôi chia thành các nguồn tư liệu sau:
+ Các văn bản điển chế và pháp luật dưới thời Lê Thánh Tông được tập hợp trong cơng
trình của Nguyễn Ngọc Nhuận (dịch), Một số văn bản điển chế và pháp luật Việt Nam, tập
1(từ thế kỉ XV đến XVIII).


+ Nguồn tư liệu tư nhân của các sử gia như: Lịch triều hiến chương loại chí của Phan
Huy Chú, Đại Việt sử kí tồn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương mục,…
+ Một số luận văn, sách tham khảo có liên quan đến đề tài.
Với những nguồn tư liệu trên giúp tạo nền tảng, định hướng cho việc hình thành cấu trúc
đề tài, phương pháp trình bày đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Về phương pháp luận: Khi nghiên cứu đề tài này, chúng tôi nghiên cứu dựa trên phương
pháp sử học Mácxit như phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng và phương pháp nghiên
cứu duy vật lịch sử để xem xét, đánh giá vấn đề.
Về phương pháp nghiên cứu: Với đề tài này, tôi kết hợp giữa hai phương pháp nghiên cứu
chuyên ngành Lịch sử là phương pháp lịch sử cụ thể và phương pháp logic để xem xét các sự
vật, hiện tượng, kết hợp với các phương pháp khác như thống kê, mơ tả, phân tích, tổng hợp,
so sánh, đối chiếu. Vận dụng các phương pháp đó, trong q trình nghiên cứu tơi thực hiện đề
tài qua các bước:
+ Thứ nhất: Tìm kiếm, sưu tầm, tập hợp tư liệu cần thiết, phù hợp với nội dung nghiên
cứu của đề tài. Tôi đã sử dụng các nguồn tư liệu đang được lưu trữ tại các thư viện Đại học sư
phạm Đà Nẵng, thư viện tổng hợp Đà Nẵng, Phòng học liệu khoa lịch sử trường đại học sư
phạm Đà Nẵng… Ngồi ra, tơi cịn tìm kiếm tư liệu qua bạn bè, thầy cô, giáo viên hướng
dẫn…
+ Thứ hai: Sau khi thu thập đủ tư liệu, tôi tiến hành phân tích, thống kê các tư liệu để tìm
ra được tính tồn vẹn, phát hiện các mối liên hệ giữa các vấn đề liên quan từ đó rút ra kết luận
cần thiết liên quan đến nội dung đề tài nghiên cứu.
Bên cạnh đó, tơi cịn sử dụng các phương pháp như: phương pháp sưu tầm, phương pháp
thống kê, phương pháp so sánh, phương pháp đối chiếu,… để rút ra những tư liệu có độ chính

xác, khái qt cao.
6. óng góp của đề tài


Đề tài đưa đến một cái nhìn hệ thống về gia đình Việt Nam dưới thời vua Lê Thánh
Tơng qua các văn bản điển chế và pháp luật để cùng với các nguồn tư liệu khác giúp chúng ta
có một cái nhìn tổng quát nhất về gia đình Việt Nam thời phong kiến nói chung, thời Lê Thánh
Tơng nói riêng.
Đồng thời, đề tài này thành công sẽ cung cấp và bổ sung thêm vào nguồn tư liệu tham
khảo phục vụ cho công tác nghiên cứu và học tập của học sinh, sinh viên và những ai quan tâm
đến vấn đề này.
7. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung của đề tài gồm hai
chương:
Chương 1: Tổng quan về thời vua Lê Thánh Tông và một số văn bản điển chế và pháp
luật Việt Nam dưới thời vua Lê Thánh Tông
Chương 2: Gia đình dưới thời vua Lê Thánh Tơng qua một số văn bản điển chế và pháp
luật Việt Nam

NỘI DUNG
hương 1: ỔNG QUAN VỀ THỜI VUA LÊ THÁNH TÔNG
VÀ MỘT SỐ VĂ BẢ

ỂN CHẾ VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM

D ỚI THỜI VUA LÊ THÁNH TƠNG
1.1. Tình hình Việt am dưới thời vua Lê Thánh Tơng
1.1.1. Chính trị
Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống quân Minh xâm lược thắng lợi, Lê Lợi lên ngôi vua,
mở đầu cho sự xác lập của triều đại Lê Sơ. Tiếp sau Lê Lợi, các vị vua kế vị triều Lê, trong đó

có Vua Lê Thánh Tơng đã ra sức tổ chức, xây dựng chính quyền và phát triển đất nước về mọi


mặt, tạo điều kiện cho việc xây dựng một quốc gia thịnh trị, một nền văn hóa đậm đà bản sắc
dân tộc.
Năm 1466, Lê Thánh Tông chia cả nước ra thành 12 đạo thừa tuyên gồm: Thanh Hóa,
Nghệ An ,Thuận Hóa, Thiên Trường, Nam Sách, Quốc Oai, Bắc Giang, An Bang, Hưng Hóa,
Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn và phủ Trung Đô. Năm 1471, sau khi chiếm xong vùng
đất ở phía nam Thuận Hóa cho đến đèo Cù Mơng, Thánh Tông lập thêm thừa tuyên thứ 13:
Quảng Nam. Năm 1490, bản đồ trong nước được xác định gồm: 13 đạo thừa tuyên, 52 phủ,
178 huyện, 50 châu, 20 hương, 36 phường, 6851 xã, 322 thôn, 637 trang, 40 sách, 40 động, 30
nguyên, 30 trường [13, tr.306]. Các xã cũng được quy định lại: xã lớn 500 hộ, xã vừa từ 300
hộ trở lên, xã nhỏ từ 100 hộ trở lên. Kinh đô Thăng Long (Đông Kinh gồm hai huyện: Thọ
Xương và Quảng Đức). Ngồi ra cịn Tây Kinh (hay Lam Kinh tức Lam Sơn - Thọ Xuân Thanh Hóa).
Đất nước dần dần hồi phục và bước đầu phát triển. Xuất phát từ những yêu cầu mới của
chính trị, trong những năm 1460 - 1471, Lê Thánh Tông tiến hành một cuộc cải cách hành
chính lớn. Các chức vụ trung gian giữa vua và các cơ quan hành chính như Tướng quốc, Bộc
xạ, Tư đồ, Đại hành khiển… đều bị bãi bỏ. Vua trực tiếp chỉ đạo 6 bộ Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình,
Cơng (do Thượng thư đứng đầu) là những cơ quan hành chính phụ trách mọi mặt cơng tác của
triều đình. Giúp việc cụ thể có các Tự, Viện Hàn lâm, Viện Quốc sử, Quốc tử giám, Bí thư
giám… Bộ phận thanh tra quan lại được tăng cường, ngoài Ngự sử đài cịn có 6 khoa chịu
trách nhiệm theo dõi các bộ. Về võ, vua cũng là người chỉ huy tối cao, bên dưới có 5 qn đơ
đốc phủ, các vệ quân bảo vệ kinh thành và Thủ đô.
Ở các đạo thừa tuyên, Thánh Tông đặt thêm ba ti: Đô tổng binh sứ ti (gọi tắt là Đô ti)
phụ trách quân đội, Thừa tuyên sứ ti (gọi tắt là Thừa ti) phụ trách các việc dân sự, Hiến sát sứ
ti (Hiến ti) phụ trách việc thanh tra quan lại trong đạo của mình. Các phủ có tri phủ đứng đầu,
các huyện, châu có tri huyện, tri châu, ở xã, chức xã quan được đổi là chức xã trưởng. Ở miền
thượng du, các bản mường vẫn được giao cho tù trưởng, lang đạo cai quản như cũ. Riêng mạn
biên giới phía bắc, nhà Lê cử thêm một số tướng giỏi người miền xuôi lên trấn trị và biến
thành “phiên thần”, đời đời nối nhau cai quản địa phương. Chủ trương của Lê Thánh Tông là



đảm bảo sự thống nhất trong chính quyền từ trên xuống dưới, từ trung ương đến địa phương,
“các chức lớn nhỏ cùng ràng buộc nhau, nặng nhẹ cùng gìn giữ nhau, lẽ phải của nước không
bị chuyện riêng, việc lớn của nước khơng đến lung lay, khiến có thói tốt làm hợp đạo, đúng
phép” [25, tr.321].
Theo thống kê, năm 1471: “tổng số quan lại là 5370 người, gồm 2755 quan lại ở Trung
ương (399 quan văn, 857 quan võ, 446 tòng quan và một số tạp lưu), 2615 quan lại địa
phương (926 quan văn, 857 quan võ, 41 tòng quan và một số tạp lưu)”[25, tr.321]. Số quan lại
này đều trải qua thi cử và đỗ đạt, các quý tộc họ Lê muốn làm quan cũng phải làm như vậy. Để
khuyến khích cho các quan lại làm việc hiệu quả, Lê Thánh Tông đặt quy chế lương bổng,
ruộng lộc, phẩm tước rõ ràng và thống nhất. Theo quy chế năm 1477, ngoài ruộng lộc lương
của các quan ở Trung ương và địa phương như sau:

Bảng 1: Lương của quan ở trung ương và địa phương
STT

Phẩm hàm

rung ương

ịa phương

1

Chánh nhất phẩm

82 quan/năm

2


Tòng nhất phẩm

75 quan/năm

3

Chánh nhị phẩm

68 quan/năm

4

Tòng nhị phẩm

62 quan/năm

5

Chánh cửu phẩm

16 quan/năm

6

Tòng cửu phẩm

14 quan/năm

7


Chánh tứ phẩm

48 quan/năm

8

Tòng tứ phẩm

44 quan/năm

“Nguồn: Lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến 1858”


Về quân đội và quốc phòng: Năm 1428, sau khi lên ngôi vua, Thái Tổ cho 25 vạn quân
về quê làm ruộng, chỉ giữ lại 10 vạn. Năm sau đó, sau một cuộc tổng duyệt quân thủy bộ, Thái
Tổ cho chia các vệ quân thành 5 phiên, thay nhau ở lại canh giữ và về làm ruộng ở quê nhà.
Quân đội được chia thành 5 đạo: Đông, Tây, Nam, Bắc và Hải Tây đạo. Các vệ quân đều đặt
các chức Tổng quản, Đô tổng quản, Đồng tổng quản đứng đầu. Ngồi ra cịn có thêm 6 qn
ngự tiền ở kinh đô. Chế độ tuyển chọn quân sĩ được đặt thành quy chế. Thời Lê Thánh Tông,
cùng với cuộc cải cách hành chính, nhà vua tổ chức lại qn đơi, chia thành 2 bộ phận: quân
trong và quân ngoài. Quân trong bảo vệ triều đình nhà vua và kinh thành gồm 2 vệ Kim Ngô,
Cẩm Y, 4 vệ Hiệu Lực, 4 vệ Thần Vũ, 6 vệ Điện Tiền, 4 vệ Tuần Tượng, 4 vệ Mã Nhàn (về
sau gộp lại 2 vệ chính là Cẩm Y và Kim Ngơ). Qn ngồi ở địa phương gồm 5 phủ: Trung
quân lãnh các xứ Thanh Hóa. Đơng qn lãnh các xứ Hải Dương, An Bang. Nam quân lãnh
các xứ Sơn Nam, Thuận Hóa, Quảng Nam. Tây quân lãnh các xứ Tam Giang, Hưng Hóa.Bắc
quân lãnh các xứ Kinh Bắc, Lạng Sơn. Về sau, Thánh Tông cho đặt thêm các vệ quân ở các đô
ti xa: Thanh Hóa, Nghệ An, Thuận Hóa, Quảng Nam, An Bang, Tuyên Quang, Hưng Hóa,
Thái Nguyên, Lạng Sơn và một vệ Cao Bằng. Đứng đầu các phủ, vệ có chức đơ đốc, đô chỉ
huy, đô tổng binh, chỉ huy sứ, đô tri,…

Về chủng loại, có bộ binh, thủy binh, tượng binh, kị binh. Ngồi ra cịn có các đơn vị
chun sử dụng một loại súng gọi là hỏa đồng. Vũ khí đơn giản có đao kiếm, giáo mác, cung
tên…
Nhà Lê rất chú ý đến việc rèn luyện quân đội. Hàng năm đều có ngày duyệt tập ở kinh
thành hay địa phương. Các phiên túc trực phải thường xuyên luyện tập. Năm 1465, Thánh
Tông ban bố 31 điều quân lệnh về thủy trận, 32 điều về tượng trận, 27 điều về mã trận, 42 điều
về bộ trận. Năm 1467, Thánh Tông quy định cứ 3 năm tổ chức một kì thi khảo võ nghệ của
quân sĩ và định lệ thưởng phạt. Chế độ tuyển quân được quy định chặt chẽ, thông thường cứ
một hộ có 3 đinh thì phải lấy một người làm lính và một người dự bị. Vì vậy, tuy số lượng
quân thường trực không nhiều, nhưng khi đánh Chămpa hay Bồn Man, nhà Lê đã huy động
đến 26 hay 30 vạn quân. Quân lính đều được chia ruộng đất cơng ở làng mình và thay phiên
nhau về q sản xuất để tự cấp. Đó là chế độ “ngụ binh ư nơng” vốn được áp dụng từ thời Lí Trần.


Vấn đề bảo vệ biên giới, nhất là biên giới phía bắc, ln ln được nhà nước quan tâm.
Các trấn biên giới đều có qn hùng, tướng giỏi. Ngồi ra các vua Lê, nhất là Thánh Tông
thường chỉ huy một đạo quân thủy bộ lớn đi duyệt ở vùng ven biển Đơng bắc, Lạng Sơn hay
Thuận Hóa. Những lần qn tướng nhà Minh đe dọa lấn cướp vùng biên, Thánh Tông đều sai
các đô đốc giỏi cầm quân phối hợp với các tổng binh địa phương sẵn sàng chiến đấu. Ông từng
răn đe: “Kẻ nào dám lấy một thước, một tấc đất của Thái Tổ để lại làm mồi cho giặc thì sẽ bị
trừng trị nặng” [25, tr.323].
Về luật pháp: Sau khi lên ngôi vua, Thái Tổ đã lo ngay đến việc đặt luật pháp. Thái
Tông và Nhân Tông ban hành thêm một số điều luật về xét xử kiện tụng sỡ hữu tài sản. Năm
1483, Thánh Tông quyết định triệu tập các đại thần biên soạn một bộ luật chính thức của triều
đại mình, thường được gọi là “Luật Hồng Đức”.Ở các thế kỉ XVII - XVIII, bộ luật được bổ
sung, sửa đổi ít nhiều và được ban hành với tên “Lê triều hình luật”. Bộ luật gồm 722 điều,
chia thành 16 chương.
Chương đầu (Danh lệ) của bộ luật quy định rõ các hình phạt được sử dụng (xuy, trượng,
đồ, lưu, tử) và những trường hợp miễn giảm (bát nghị), nguy hiểm không được nhân nhượng
(thập ác), được chuộc, phải đền bù vv… Chương hai nói về những tội vi phạm cung điện nhà

vua, vua và thân thích của vua, các cơng trình nhà nước. Các chương tiếp theo nói về việc giữ
kỉ luật trong quân đội, những tội vi phạm phép nước, quan hệ trên dưới, quan hệ gia tộc, trong
gia đình chế độ ruộng đất, chế độ thừa kế tài sản, quan hệ nam nữ, vị trí của dân đinh vv… và
cuối cùng là hình thức xét xử, kiện tụng, trị tội.
Luật Hồng Đức thể hiện rõ nét ý thức giai cấp của nhà Lê trong các mối quan hệ nhưng
cũng phản ánh khá rõ nét tính dân tộc. Ở đây nổi lên ý thức bảo vệ quyền lợi của người phụ
nữ, của người dân tự do cũng như ý thức bảo vệ độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ. Bộ luật
Hồng Đức đánh dấu một trình độ phát triển cao tư tưởng pháp lí của dân tộc Đại Việt, khá
hồn chỉnh, do đó được sử dụng suốt trong 4 thế kỉ thời Lê (thế kỉ XV - XVIII).
1.1.2. Kinh tế - xã hội


Dưới thời Lê Thánh Tơng, tình hình chính trị ổn định đã tạo điều kiện cho nhà nước tập
trung phát triển ở các lĩnh vực khác, xây dựng đất nước ngày càng hùng mạnh. Đối với kinh tế,
sau khi chiến thắng quân Minh xâm lược, kinh tế nước ta bị tàn phá nghiêm trọng, với một nền
kinh tế vốn đã suy yếu ở cuối thời Trần lại càng khó khăn hơn trong việc khôi phục và phát
triển sau khi giành độc lập chủ quyền. Tuy nhiên, nhờ sự quan tâm của nhà nước và đặc biệt là
dưới thời vua Lê Thánh Tông, vậy nên nền kinh tế của đất nước cũng nhanh chóng được phục
hồi và tiếp tục phát triển.
Về tình hình ruộng đất, nhằm tạo điện cho nền kinh tế nông nghiệp phát triển, nhà Lê
một mặt cho 25 vạn quân về làm ruộng, khôi phục sản xuất, mặt khác kêu gọi nhân dân phiêu
tán trở về quê cũ, cùng nhau xây dựng lại xóm làng, đồn điền, nghề nghiệp. Để đảm bảo an
toàn cho sản xuất, Thái Tổ hạ lệnh cho các làng làm sổ ruộng đất và trên cơ sở đó, nhà nước
chủ động phân phối ruộng đất. Dưới thời Lê Thánh Tông, chế độ lộc điền được ban hành, theo
đó các quan lại từ Tam, Tứ phẩm trở lên đến các vương, hầu, bá được cấp một số ruộng tùy
theo chức tước. Ruộng lộc được chia làm hai loại: loại cấp vĩnh viễn gọi là ruộng thế nghiệp
chủ yếu dành cho các vương hầu, công chúa. Loại cấp một đời gọi là ruộng ân tứ (15 - 130
mẫu cho quan từ 1 - 4 phẩm). Ruộng lộc chỉ cấp cho quan chức từ 4 phẩm trở lên. Các chức
thấp hơn chỉ được hưởng phần ruộng công ở làng theo chế độ quân điền. Sau khi viên quan
được cấp chết 3 năm thì nhà nước thu lại.

Loại đồn điền, do nhà nước tổ chức khai hoang thành lập. Nông dân cày đồn điền chủ
yếu là người bị tù tội, nơng dân lưu tán, nghèo đói được mộ. Loại này phát triển từ sau năm
1481, khi Thánh Tông quyết định thành lập các sở đồn điền ở địa phương.
Ruộng đất cơng làng xã: Loại ruộng đất này có nguồn gốc từ xa xưa, được duy trì cho
đến thế kỉ XV ở các làng xã nhưng với tỉ lệ khác nhau. Từ thời Thái Tổ, nhà nước đã đặt vấn
đề phân chia ruộng đất công làng xã cho dân nghèo ít hoặc khơng có ruộng đất. Để thống nhất
việc phân chia ruộng đất công trong phạm vi cả nước, Thánh Tông ban hành phép quân điền.
Theo phép quân điền, cứ 6 năm ruộng công làng xã được chia lại một lần cho các thành viên
trong xã bao gồm các quan chức cấp thấp (từ ngũ phẩm trở xuống), chức dịch của làng, quân
lính, dân đinh, vợ các quan, phụ nữ góa chồng, trẻ mồ cơi. Bậc cao nhất: 10, 11 phần dành cho


quan Tam phẩm, Tứ phẩm chưa được cấp ruộng lộc. Ngũ phẩm được 9,5 phần. Lục phẩm
được 9 phần…Hạng lão được 3,5 phần, mồ côi, tàn phế được 3 phần. Các quan phủ huyện có
nhiệm vụ phối hợp với các xã trưởng, già làng đo đạc ruộng đất, tính số người được chia và
thực hiện việc quân điền. Phép quân điền vừa giúp cho mọi người dân nơng thơn có mảnh đất
cày cấy, sinh sống vừa giúp cho nhà nước thu thuế, lấy lao dịch, lấy lính và ni lính.
Ruộng đất tư hữu: phát triển từ những thế kỉ trước, đến thế kỉ XV, có điều kiện ngày
càng mở rộng. Trong bộ phận này có 3 loại: ruộng của nơng dân tư hữu, ruộng của địa chủ và
một số ít điền trang. Sự gia tăng của hàng ngũ quan lại góp phần làm cho bộ phận ruộng tư
hữu của địa chủ ngày càng phát triển, trong lúc đó các điền trang ngày càng thu hẹp lại. Theo
đà phát triển chung, ruộng đất tư hữu của giai cấp địa chủ ngày càng lấn át ruộng đất công.
Giai cấp địa chủ cũng nhân đó lũng đoạn quyền hành ở làng xã.
Về nơng nghiệp, nhà nước rất quan tâm đến việc bảo vệ đê điều, khuyến khích phát
triển nơng nghiệp. Các quan phủ huyện có nhiệm vụ đốc thúc và khuyến khích nhân dân khai
phá ruộng đất bỏ hóa, giúp đỡ nhân dân diệt sâu cắn lúa nếu có. Thánh Tơng đã từng dụ các
quan Thừa ti, Hiến ti, phủ huyện về các việc dân sự tầm thường như là đại hạn mà không đảo,
nước lụt mà không khơi, việc lợi không làm, việc hại khơng trừ, có tai dị mà khơng cầu đảo thì
phải xử tội lưu. Một chủ trương quan trọng của nhà nước được nhân dân hưởng ứng là khai
hoang, mở rộng diện tích canh tác. Nhiều làng xóm ở vùng ven biển Sơn Nam, Thanh Hóa,

Nghệ An đã ra đời. Để giúp cho công cuộc khai hoang này, Thánh Tông đã cho đắp một hệ
thống đê biển mang tên đê Hồng Đức. Năm 1481, theo đề nghị của các quan, Thánh Tông
quyết định cho thành lập 43 sở đồn điền với mục đích:“Khai hết sức nơng nghiệp, mở rộng
nguồn súc tích cho nước” [25, tr.327].
Các đồn điền này được đặt ở các vùng Bắc Kì (30 sở), Thanh Hóa (5 sở), Nghệ An (4
sở), Thuận Hóa (2 sở), Quảng Nam (2 sở). Các viên chánh, phó đồn điền sứ có nhiệm vụ mộ
dân nghèo khơng ruộng, lưu tán đến đây khai hoang và phân chia ruộng đất cho họ cày cấy.
Nhà Lê rất quan tâm, chăm lo đến thủy lợi, đê điều. Các thừa tuyên đều có chức quan hà đê
chuyên phối hợp với các quan phủ, huyện trông nom, sửa đắp đê điều. Năm 1498, mỗi xã phải
cử một xã trưởng chuyên trách việc đê điều và khuyến nơng. Trường hợp đê vỡ, triều đình lập


tức cử quan đi khám xét, huy động nhân dân, qn lính, cơng tượng, học sinh Quốc tử giám đi
sửa đắp, cứu hộ. Việc đào kênh khơi ngòi được tổ chức ở nhiều nơi, vừa có lợi cho chuyển
vận, vừa tạo nguồn nước “tưới ruộng cho dân”. Năm 1438, nhà nước cho dân khai lại các
kênh ở Trường Yên, Thanh Hóa, Nghệ An. Năm 1449, khai sơng Bình Lỗ (Kim Anh - Vĩnh
Phúc), năm 1467 khai thêm một số kênh ở Thanh Hóa, Nghệ An, Thuận Hóa… Nhà nước cịn
ln ln khuyến khích nhân dân đắp bờ giữ nước, khơi thơng những chỗ úng thủy, phịng hạn
hán… xe tát nước được phổ biến. Ngồi ra, nhà nước cịn quy định mọi cơng trình xây dựng
cần điều động dân phu đều phải tiến hành ngoài thời vụ cày cấy, gặt mùa, “hễ cơng việc gì có
hại cho nghề nơng thì khơng được khinh động sức dân” [25, tr.328]. Pháp luật nhà Lê bảo vệ
chặt chẽ sức kéo trong nông nghiệp. Tội ăn trộm trâu bò bị trừng phạt nặng. Năm 1489, Thánh
Tơng ra lệnh cấm giết trâu bị ban đêm. Trong những năm khó khăn, hạn hán, lụt lội nhà vua
thường lập đàn cầu đảo, tự trách mình hoặc ra chiếu khuyến nơng, động viên nhân dân khắc
phục khó khăn đảm bảo sản xuất.
Chính sách trọng nơng của nhà Lê Sơ thực sự đạt kết quả tốt. Theo ghi chép của sử cũ,
trong 38 năm thống trị của Lê Thánh Tông, chỉ có 4 lần hạn hán, 1 lần đê vỡ, một năm đói
kém… Tất nhiên đây cũng là cơng sức của nhân dân. Nhiều năm sau, nhớ lại thời này nhân
dân đã ca ngợi:
Đời vua Thái Tổ, Thái Tơng

Thóc lúa đầy đồng trâu chẳng buồn ăn.
Về thủ công nghiệp, các nghề thủ công nghiệp như dệt lụa, ươm tơ, dệt vải, nghề mộc,
nghề chạm, nghề đúc đồng,… cũng được chú ý phát triển. Các ngành nghề thủ công truyền
thống, các làng xã như kéo tơ, dệt lụa, đan lát, làm nón, đúc đồng, rèn sắt, làm đồ gốm… ngày
càng phổ biến ở các làng xã. Các nghề khai mỏ đồng, sắt, vàng, được đẩy mạnh. Việc giao
thương buôn bán cũng được phục hồi và ngày càng mở rộng. Năm 1477, nhà nước định lệ lập
chợ mới: “các huyện châu xã ở các xứ trong nước, nhân dân mỗi ngày một chiều, nơi nào
muốn chia mở chợ để tiện cho mua bán thì quan phủ huyện châu khám xét quả thực tiện lợi
cho dân thì làm bản tâu lên, cho theo lợi mà họp chợ, khơng có nghạch cũ haykhơng” [11,
tr.259,277]. Hàng hóa bn bán chủ yếu là nơng phẩm và các sản phẩm thủ cơng, trong đó có


Thăng Long vẫn là nơi tập trung buôn bán lớn nhất cả nước. Dân các nơi về đây tụ tập làm ăn
ngày càng đông đến nỗi chức quan cai quản phủ Phụng Thiên sợ, lệnh đuổi hết họ về nguyên
quán. Năm 1481, tả trung dỗn Qch Đình Bảo phải dâng sớ tâu xin vua bỏ lệnh đó “chỉ
những kẻ tạp cư vơ loại thì nên đuổi về, cịn người ngun có hàng chợ phố xá… hãy cho được
trú ngụ để bn bán, sinh nhai vì kinh sư là nơi căn bản của bốn phương, tiền của trao đổi tất
phải cho lưu thông đủ dùng” [11, tr.259,277]. Vua Lê Thánh Tông đã đồng ý.
Về ngoại thương, thuyền bè các nước láng giềng vẫn thường xuyên qua lại trao đổi,
Vân Đồn, Vạn Ninh (thuộc Quảng Ninh), Càn Hải, Hội Thống (Nghệ An), một số địa điểm ở
Lạng Sơn, Tuyên Quang… vẫn là những khu chợ trao đổi hàng. Các sản phẩm sành, sứ, vải
lụa, lâm sản quý vẫn là những thứ hàng mà thương nhân nước ngồi ham thích. Tuy nhiên, để
giữ vững an ninh, nhà nước đặt các trạm kiểm soát ở cảng khẩu. Các chức giang hải tuần kiểm
tra xét nghiệm, ngặt những người nước ngồi đến bn bán và trừng phạt nặng những ai tự ý,
khơng có giấy phép mà vượt qua biên ải vào nội địa nước ta buôn bán trao đổi.
Về xã hội, những sự kiện lớn về kinh tế, chính trị của thế kỉ XV đã làm thay đổi ít nhiều
các giai cấp trong xã hội. Hai giai cấp chính: địa chủ phong kiến và nơng dân ngày càng được
xác lập. Giai cấp địa chủ phong kiến được chia thành hai tầng lớp chính: quý tộc, quan chức
trung cao cấp và địa chủ thường. Bộ phận quý tộc dòng họ vua, tuy được ban cấp nhiều ruộng
đất thế nghiệp, song vẫn không cấu thành thành một lực lượng có điền trang và thế lực chính

trị ở địa phương. Một số lớn công thần khai quốc được ban họ vua (quốc tính) song khơng
hình thành một lớp quý tộc.
Sang thời Thánh Tông, các quan lại trung, cao cấp do được ban nhiều ruộng lộc mà trở
thành địa chủ, song không cách biệt với các địa chủ thường hoặc nhân dân và phần lớn xuất
thân khoa cử. Trong lúc đó, tầng lớp địa chủ thường hầu như rải rác ở các làng, xã dần dần trở
thành những người chủ về mọi mặt. Giai cấp nông dân chiếm tuyệt đại đa số cư dân, sống chủ
yếu ở các làng xã, bao gồm nông dân tư hữu, tá điền và một ít nơng nơ. Phần lớn nơng dân
được chia ruộng công, cày cấy sinh sống, làm nghĩa vụ cho nhà nước và ít nhiều được học
hành. Bấy giờ, ruộng thượng đẳng nộp thuế cho nhà nước 60 thăng thóc và 6 tiền/mẫu. Ruộng
trung đẳng nộp thuế cho nhà nước 40 thăng thóc và 4 tiền/mẫu. Ruộng hạ đẳng nộp thuế cho


nhà nước 20 thăng thóc và 3 tiền/mẫu (1 thăng = 1,2 - 1,4 kg). Thuế nhân đinh: 8 tiền - 1 quan
2 tiền/năm. Được sự cho phép của nhà nước, những nơng dân nghèo, khơng ruộng đất có thể
họp nhau đi khai hoang xây dựng làng xóm, đồng ruộng mới. Đất đai khai phá được, họ chia
nhau làm ruộng tư (bấy giờ nhà nước chưa đánh thuế ruộng tư), dành một phần ruộng công
nộp thuế.
Tầng lớp thợ thủ công và thương nhân ngày càng đông hơn nhưng chưa trở thành một
lực lượng lớn mạnh. Họ bị xem là những kẻ “bỏ gốc, theo ngọn”, ngoại trừ dân các làng thủ
công chuyên nghiệp hoặc dân phường Thăng Long. Trong thập giới cơ hồn quốc ngữ văn của
Lê Thánh Tơng có câu nói về thương nhân:
Lừa đảo lọ xem nào có khác
Người ta lại bán được người ta
Nơ tì vẫn cịn là một tầng lớp đáng kể trong xã hội. Số đơng trong họ là người Hoa hoặc
các dân tộc ít người. Pháp luật nhà Lê hạn chế nghiêm ngặt việc bán mình làm nơ hoặc bức
dân đinh tự do làm nơ tì. Cuộc đấu tranh của nơ tì (bỏ trốn) và các lệnh cấm bắt, mua bán
người thiểu số làm nơ đã làm giảm dần số lượng nơ tì và cuối cùng xóa bỏ được. Nhờ sự nỗ
lực của nhân dân và nhà nước, nền kinh tế nhanh chóng được phục hồi rồi phát triển. Dân số
ngày càng tăng, nhà nước đã cho phép các làng có trên 500 hộ có thể tách ra, thành lập thêm
làng mới. Tất nhiên gió bão, hạn hán, mất mùa, đói kém là những tai họa tự nhiên không tránh

khỏi, nhưng theo ghi chép của sử cũ, số lượng không nhiều. Cuộc sống của nhân dân nói
chung ổn định, thanh bình. Nền độc lập và thống nhất của nước Đại Việt được củng cố và có
thể nói, bấy giờ Đại Việt là nước cường thịnh nhất của khu vực nam Trung Quốc.
1.1.3. Văn hóa, giáo dục
Về giáo dục, khoa cử, ngay từ năm 1428, khi lên ngơi Hồng đế, Lê Thái Tổ đã hạ lệnh
dựng Quốc Tử Giám ở kinh đô, mở trường ở các lộ, ban chiếu “cầu hiền”. Giáo dục mở rộng
cho con em mọi tầng lớp nhân dân. Các giáo quan được chọn lựa cẩn thận. Năm 1435, dưới
triều vua Thái Tông, các giáo quan ở kinh đô và cả lộ được tập hợp về kinh khảo hạch, ai yếu
kém bị sa thải. Tiến thêm một bước, năm 1467, Thánh Tông đặt chức Bác sĩ dạy 5 kinh, mỗi


người nghiên cứu một kinh để giảng dạy. Hàng năm, nhà nước cho in và ban cho trường ở phủ
các sách Ngũ kinh, Tứ thư, Đăng khoa lục, Ngọc đường văn phạm, Văn kiến thông khảo, Văn
tuyển… Thánh Tông cũng cho xây dựng lại Văn miếu, mở rộng Thái học viện, mở thêm Tú
lâm cục và Sùng văn quán để bồi dưỡng con em quý tộc, quan lại cao cấp. Nội dung học tập
được quy định đầy đủ, các học quan được tuyển chọn cẩn thận. Năm 1429, Thái Tổ mở khoa
thi Minh kinh ở kinh đô, cho phép mọi người có học đều được tham dự, Thái Tơng cho các
quan bàn định thể lệ thi cử, dự kiến đến năm 1438 mở khoa thi hương ở địa phương, năm sau
đó mở khoa thi Hội ở kinh đơ. Từ đó cứ 3 năm mở một kì thi, ai đỗ kì thi Hội đều được phong
là Tiến sĩ xuất thân. Lại định rõ nội dung của 4 kì thi. Tuy nhiên, phải đến năm 1442, nhà nước
mới mở khoa thi Hội đầu tiên, lấy 33 người đỗ (trong đó Nguyễn Trực đỗ Trạng nguyên,
Nguyễn Như Đỗ đỗ Bảng nhãn, Lương Như Hộc đỗ Thám hoa). Bên cạnh các kì thi Đại khoa
này, nhà Lê cũng mở các khoa thi Lại viên với các mơn tốn và viết chữ.
Năm 1462, vua Thánh Tông đặt Lệ “bảo kết thi hương” quy định rõ thủ tục giấy tờ của
những người ứng thí. Sau đó cứ 3 năm nhà nước mở một kì thi. Lời kí trên bia tiến sĩ ghi:
“Việc chính thi lớn của đế vương khơng gì cần bằng nhân tài”. Lời dụ của Vua Hiến Tơng có
đoạn: “Nhân tài là ngun khí của nhà nước, ngun khí mạnh thì trị đạo mới thịnh. Khoa
mục là đường thẳng của quan trường, đường thẳng mở thì chân nho mới có” [25, tr.322]. Nhà
Lê cũng khuyến khích việc học tập thi cử bằng cách đặt lệ xướng danh, treo bảng, ban mũ áo,
phẩm tước, dựng bia tiến sĩ và lệnh vinh quy bái tổ. Những biện pháp nói trên đã góp phần

quan trọng trong việc phát triển giáo dục trong nước.
Theo sử cũ, khoa thi Hội năm 1463 có 1400 thí sinh, năm 1514, số ứng thí lên đến 5700
người. Tính riêng trong 38 năm dưới triều vua Lê Thánh Tông, nhà nước đã mở 12 khoa thi
Hội, lấy đỗ 501 tiến sĩ, trong đó có 9 trạng nguyên [10, tr.232]. Có thể xem thời Lê Sơ, đặc
biệt dưới triều vua Lê Thánh Tông là thời kì phát triển cực thịnh của giáo dục thi cử phong
kiến. Nhà sử học Phan Huy Chú nhận xét: “khoa cử các đời, thịnh nhất là đời Hồng Đức
(1470 - 1497). Cách lấy đỗ rộng rãi, cách chọn người công bằng, đời sau càng không thể theo
kịp… Trong nước khơng để sai sót nhân tài, triều đình khơng dung lầm người kém” [5, tr.12].
Nội dung giáo dục chủ yếu là Nho giáo qua các sách Tứ thư, Ngũ kinh, Bác sử, Thơ phú…
nhưng qua các kì thi Văn sách hay thi Đình, người học trình bày được năng lực chính trị và sự


hiểu biết thực tiễn của mình. Từ giáo dục, khoa cử đã xuất hiện nhiều nhà nho, nhà chính trị,
ngoại giao, nhà sử học nổi tiếng làm rạng danh đất nước một thời.
Trong tơn giáo, tín ngưỡng, cuối thời Trần, Nho giáo đã lấn át Phật giáo. Ở thời Lê sơ,
Nho giáo chiếm địa vị độc tôn. Sự phát triển của giáo dục góp phần quan trọng vào việc phổ
cập Nho giáo. Thêm vào đó, nhà nước thường xuyên ban hành các điều lệnh về giáo dục trong
nhân dân (như về hôn nhân, quan hệ vợ chồng, tang lễ, …), buộc quan chức địa phương phải
giảng giải và theo dõi thực hiện. Giáo lí nhà Nho cũng được đưa vào các huấn điều (24 huấn
điều của vua Lê Thánh Tông) và các xã trưởng có nhiệm vụ hàng năm đọc và giảng cho xã
dân. Nhiều quy định khắt khe của Nho giáo cũng được đưa vào luật Hồng Đức. Tuy nhiên,
nhân dân không dễ dàng chấp nhận các giáo điều phong kiến Nho giáo, thể hiện qua lời dụ các
quan của vua Lê Thánh Tông năm 1485:“Trẫm từ khi lên ngôi đến giờ phàm phép dạy dân
nên phong tục tốt…không cái gì là khơng nói ra trong lời huấn dụ…thế mà…tục dân vẫn chưa
được tốt” [11, tr.92]. Trong hàng ngũ quan lại, nho sĩ, những truyền thống đạo lí tốt đẹp của
dân tộc vẫn chi phối cuộc sống tinh thần của nhiều người, điển hình là Nguyễn Trãi.
Phật giáo và Đạo giáo dưới thời nhà Minh đô hộ đã bị bọn thống trị lợi dụng để mê
hoặc nhân dân. Chúng truyền bá các hình thức mê tín, tà thuật, phù phép, đào tạo hàng loạt
thuật sĩ, đạo sĩ, tà nhân chun sống bằng nghề ma chay, bói tốn. Các chùa chiền mất dần ý
nghĩa trang nghiêm, ruộng đất nhà chùa cũng tản mát, hoang hóa. Lên ngơi Hồng đế, Lê Lợi

đặt lệ thi tăng nhân, buộc các nhà sư phải trên 50 tuổi, thông hiểu kinh phật và qua một kì khảo
hạch mới được nhà nước cơng nhận, ngồi ra đều phải hồn tục. Lê Thánh Tơng hạn chế Phật
giáo và Đạo giáo chặt chẽ hơn. Năm 1461, nhà nước cấm quan lại, nhân dân không được xây
dựng thêm chùa quán mới, tự tiện đúc chuông, tô tượng. Hoạt động của bọn thầy cúng, thầy
bói, đạo sĩ bị ngăn cấm. Các nhà sư uống rượu, ăn thịt đều phải hoàn tục, phạm tội dâm ơ thì bị
lưu đầy.
Năm 1471, Thánh Tông đặt ti Tăng lục và Đạo lục chuyên trách Phật giáo và Đạo giáo.
Một số chùa quán được tu bổ. Năm 1449, nhà Lê bắt đầu thành lập đền thờ Đơ đại thành
hồng ở kinh sư đền thờ thần gió, mây, mưa, sấm để hàng năm cúng tế. Năm đó, Nhân Tơng
cũng cho tổ chức ngày hội chiến thắng ban yến cho các quan, làm khúc nhạc “Bình ngơ phá


trận” vừa tấu vừa múa “cơng thần có người cảm động đến phát khóc”. Ngày hội được tiếp tục
trong nhiều năm sau. Điện Lam Sơn được xây dựng và hàng năm các vua Lê về ngự cúng tổ
tiên. Lam Kinh cũng là nơi dựng lăng của các vua thời Lê Sơ. Trong nhân dân việc thờ cúng
các anh hùng có cơng với đất nước được phổ cập. Những người có công khởi nghĩa Lam Sơn
đều được nhân dân thờ phụng. Tục thờ tổ tiên phổ biến khắp nơi: các dòng họ có cơng với làng
với nước đều được xây dựng đền thờ, ghi chép gia phả cúng tế hàng năm.
Về văn học: Văn học chữ Hán tiếp tục chiếm ưu thế, xuất hiện hàng loạt tập thơ văn nổi
tiếng như tập “Quân trung từ mệnh” gồm 50 bức thư do Nguyễn Trãi thay mặt Lê Lợi viết gửi
bọn quan tướng nhà Minh với nội dung đấu tranh ngoại giao quan trọng. Bản “Đại cáo bình
ngơ” là một áng anh hùng ca tổng kết một cách tài tình cuộc kháng chiến của dân tộc, đồng
thời toát lên niềm tự hào dân tộc cao quý, chủ nghĩa yêu nước sáng ngời với tinh thần nhân
nghĩa “lấy chí nhân thay cường bạo, đem đại nghĩa thắng hung tàn” của cuộc khởi nghĩa Lam
Sơn. Bên cạnh đó, hàng loạt thơ văn chữ Nơm như: Ức trai thi tập, Quốc âm thi tập, Lam Sơn
thực lục của Nguyễn Trãi, Phú Xương Giang của Lý Tử Tấn, Phú Lam Sơn của Phu Mộng
Nguyên… Quỳnh uyển cửu ca của hội Tao Đàn (Tao Đàn nhị thập bát tú do lê Thánh Tơng
thành lập và làm ngun sối), Hồng Đức Quốc âm thi tập, Thập giới cô hồn quốc ngữ văn,
Xuân vân thi tập của Lê Thánh Tông, Trư liêu tập của Nguyễn Trực, Lã đường di tập của Thái
Thuận, Cứu đài tập của Nguyễn Húc… Một thể loại mới được nhiều người biên soạn là các

sưu tập thơ văn như: Quần hiền phú tập của diễn thi tập của Hoàng Đức Lương, Quốc triều
chương biểu của Trần Văn Mơ…
Như vậy, bên cạnh thơ văn chữ Hán ít nhiều nối tiếp tinh thần của thời Lý - Trần, văn
học chữ nơm đã giữ một vị trí quan trọng, không chỉ các nho sĩ, quan lại sáng tác thơ Nôm mà
vua Lê Thánh Tông cũng xem chữ Nôm là một phương tiện quan trọng thể hiện tư tưởng và
tình cảm của mình. Tinh thần sưu tập đó cũng được biểu hiện trong việc sưu tập thơ xưa, một
mong muốn khẳng định “Duy Ngã Đại Việt chi quốc”, “thực thi văn hiến chi bang”.
Về sử học: từ sớm nhà sử học Phan Phu Tiên đã soạn Đại Việt sử kí tục biên gồm 10
quyển, nối tiếp Đại Việt sử kí của Lê Văn Hưu, mở đầu với sự thành lập nhà Trần và kết thúc
với việc quân Minh rút về nước (1427). Hiện nay bộ sử này đã mất. Trên cơ sở các bộ sử cũ,


tham khảo thêm Bắc Sử, dã sử, các bản truyện, chí cùng những điều đã được nghe truyền, tra
sét, so sánh, năm 1479 sử quan Ngô Sĩ Liên soạn Đại Việt sử kí tồn thư gồm 15 tập, chia
thành 2 phần: Ngoại kỉ chép từ họ Hồng Bàng đến 12 sứ quân (5 tập), Bản kỉ chép từ đời nhà
Đinh đến Lê Lợi lên ngơi hồng đế (10 quyển). Cùng với hai bộ sử chính thống này, có bộ
Lam Sơn thực lục của Nguyễn Trãi ghi lại toàn bộ quá trình chiến đấu giải phóng Tổ quốc của
nghĩa qn Lam Sơn, Việt giám thông khảo của Vũ Quỳnh, Việt giám thông khảo tổng luận
của Lê Tung, Đại việt Lịch đại sử kí và tập thơ Việt giám vịnh sử của Đặng Minh Khiêm.
Ngồi ra, sử học cịn có nhiều cơng trình khoa học khác rất quan trọng và có giá trị như:
Thiên nam dư hạ tập (100 quyển) ghi lại toàn bộ chế độ, luật lệ, văn thư, điển lễ của nhà Lê
(nay chỉ cịn 4 - 5 quyển), Hồng triều quan chế, Dư địa chí, một tập sách lịch sử, địa lí do
Nguyễn Trãi biên soạn. Về y học, có Bản thảo thực vật toản yếu của Phan Phu Tiên nghiên
cứu về thuốc Nam và cách phòng bệnh, Bảo anh lương phương của Nguyễn Trực, dạy cách
giữ gìn sứ khỏe cho trẻ em. Về tốn học, có Đại thành toán pháp của Lương Thế Vinh và Lập
Thành toán Pháp của Vũ Hựu. Một cơng trình lịch sử nghệ thuật sân khấu đáng quý là Hí
phường phả lục của Lương Thế Vinh cũng được lưu truyền.
Về nghệ thuật: Cuối thời Lê sơ âm nhạc tương đối phát triển. Năm 1437, triều đình cử
Nguyễn Trãi và Lương Đăng Chế định nhã nhạc (dùng trong các nghi lễ của nhà nước). Nhưng
do bất đồng ý kiến, Nguyễn Trãi xin từ. Lương Đăng dựa theo nhạc xưa và nhạc nước ngoài,

chia nhã nhạc thành 8 loại (nhạc tế, nhạc lễ, nhạc yến tiệc, nhạc trong cung…) với các nhạc cụ
như: trống, khánh, chuông, đàn, sinh, tiêu, quản, thược… Thời Thánh Tông, Thân Nhân
Trung, Đỗ Nhuận, Lương Thế Vinh được giao việc nghiên cứu nhạc nước ngoài để chế định
lại lễ nhạc trong triều gồm hai bộ Đồng văn, chuyên về luyện tập nhạc khí và bộ Nhã nhạc
chuyên về ca hát. Âm nhạc dân gian bị đưa ra ngoài triều, gọi là tục nhạc, do ti Giáo phường
trông coi. Bấy giờ nổi lên bản nhạc “Bình ngơ phá trận”, được tấu và múa trong những ngày
hội mừng chiến thắng. Trong nhân dân các điệu múa thời xưa vẫn tiếp tục phát triển. Bên cạnh
đó nghệ thuật tuồng chèo ngày càng phổ biến, thường được tổ chức vào các ngày lễ hội vui
đầu năm… Tuy nhiên, giai cấp thống trị xem thường nghề hát xướng, cho họ thuộc loại xướng
ca vơ lồi, khun răn mọi người “không nên tập nghề hát xướng, hại đến phong tục”. Âm
nhạc ca múa khơng có điều kiện đúc kết, phát triển.


Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc, ở thời Lê sơ khơng phát triển. Các cơng trình Phật
giáo như chùa chiền, chuông tượng bị tàn phá nhiều ở những năm cuối thời Trần và đơ hộ
Minh, khơng có điều kiện phục hồi do sự hạn chế của nhà nước. Các vua Lê khơng chủ trương
xây dựng các cơng trình mới. Kinh thành được xây dựng lại đàng hoàng hơn, Văn Miếu được
mở rộng. Cung điện nhà vua và dinh thự các cơ quan được sữa chữa, xây dựng thêm nhưng
dấu vết hiện nay khơng cịn. Tiêu biểu cho nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc đương thời là
những di tích của Điện Lam Kinh, hiện nay chỉ còn lại một vài bức tường, nền cột, bậc thềm
và một số con vật bằng đá. Cung điện được xây dựng trên một khu đất hình chữ nhật dài
314m, rộng 25m, có tường thành bao bọc dày 1m. Trong các bia đá nổi lên bia Vĩnh Lăng (về
Lê Lợi) cao 2m79, rộng 1m92 dựng tàn lung một con rùa đá dài 3m46, rộng 1m94. Hình rồng
chạy hai bên theo mơ típ hoa văn rồng giun.
Điêu khắc ở các cơng trình cuối thế kỉ XV - đầu thế kỉ XVI chuyển dần sang phong
cách mới, hình khối đồ sộ, kĩ thuật điêu luyện. Cùng với tư tưởng độc tôn Nho giáo của giai
cấp thống trị, nền văn hóa Việt đương thời cũng giảm bớt tính dân gian. Qua tìm hiểu một
cách cụ thể về nhà Hậu Lê, chúng ta thấy được tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội
dưới thời Lê Thánh Tông hết sức phát triển.
1.2. Một số văn bản điển chế và pháp luật Việt am dưới thời Lê Thánh Tơng

1.2.1. Bộ Quốc tri u hình luật
Quốc triều hình luật là bộ luật hệ thống trong các bộ luật của triều Lê, có thể nói đây là
bộ hình luật đầy đủ và cổ nhất còn lại ở Việt Nam. Là tập đại thành của nền pháp luật thời Lê,
bộ sách trở thành khuôn mẫu cho những bộ luật dưới các triều đại phong kiến Việt Nam. Bộ
luật này được nhà Lê soạn thảo vào những năm đầu triều đại nhà Lê sau khi vua Lê Thái Tổ
lên ngôi vào tháng giêng năm 1428 và được ban hành hoàn chỉnh vào thời Hồng Đức - Lê
Thánh Tông (1470 - 1497), bộ luật được bổ sung vào những năm tiếp theo của triều đại này.
Bộ Quốc triều hình luật khơng chỉ là thành tựu chung của nền pháp luật thời Lê, bộ luật cịn
đóng vai trị quan trọng trong lịch sử pháp quyền phong kiến Việt Nam. Bộ luật đã tiếp thu
được những thành tựu pháp luật của thời Lí, thời Trần, những triều đại trước đó để xây dựng


nên bộ luật tiến bộ hơn đối với cả bộ luật được biên soạn sau này vào đầu thế kỉ XIX là bộ
Hoàng Việt luật lệ do vua Gia Long ban hành năm 1812.
Văn bản Quốc triều hình luật được dịch ra chữ Quốc ngữ lần đầu tiên vào năm 1956 ở
nước ta, nhằm phục vụ cho việc giảng dạy và nghiên cứu của trường Luật khoa đại học Sài
Gòn do Lưỡng Thần Cao Nãi Quang phiên âm, dịch nghĩa, Nguyễn Sĩ Nhác nhuận sắc và Vũ
Văn Mẫu viết lời tựa. Trước đây tại Hà Nội, Quốc triều hình luật chưa được dịch trọn vẹn,
người đọc chỉ được biết qua bản dịch trong sách Lịch triều hiến chương loại chí, phần Hình
luật chí do Viện Sử học xuất bản năm 1961, nhưng còn thiếu tới 143 điều luật trong số 722
điều luật. Để giới thiệu một trong những bộ luật tiêu biểu trong lịch sử pháp luật nước ta,
nhóm các nhà nghiên cứu chuyên môn gồm các ông Dương Trung Quốc, Vũ Huy Phúc,
Nguyễn Ngọc Nhuận, Nguyễn Tá Nhí của Viện khoa học xã hội Việt Nam, năm 1991 đã tổ
chức dịch, xuất bản từ bản in Quốc triều hình luật chữ Hán mang kí hiệu A.341 và bổ sung các
điều luật bị thiếu bằng các văn bản in khác, trên cơ sở đối chiếu tham khảo các văn bản khác
dịch ra quốc ngữ.
Về nội dung, Quốc triều hình luật, ngồi phần đầu có ba biểu đồ về: 5 hạng để tang,
biểu đồ để tang trong 9 bậc họ nội, đồ hình cụ. Phần nội dung chính gồm 722 điều, với 13
chương như sau: Chương Danh lệ, chương Cấm vệ, chương Vi chế, chương Qn chính,
chương Hộ hơn, chương Điền sản, chương Thông gian, chương Đạo tặc, chương Đấu tụng,

chương Trá ngụy, chương Tạp luật, chương Bộ vong, chương Đoán ngục. Cụ thể nội dung của
các chương như sau:
Chương Danh lệ đưa ra những nguyên tắc chung áp dụng khi trừng phạt.
Chương Cấm vệ: nghiêm cấm các hành vi xâm hại đến hoàng thành, cung điện, xâm hại
đến tài sản, tính mạng của Vua và hồng tộc.
Chương vi chế: chương này gồm những điều luật quy định về hình phạt cho các hành vi
sai trái của quan lại, các tôi về chức vụ.
Chương Quân chính: chương này gồm những điều luật liên quan đến những quy chế
trong quân đội, xử phạt các tướng sĩ vì đã vi phạm những quy chế đó như phạt quan tướng


×