Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

Tài liệu Tiểu luận: Lịch sử Việt Nam ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (408.57 KB, 62 trang )

Học viên : Lê Thanh Dũng - Cao học Lịch sử Đảng _ K16
TIỂU LUẬN
Lịch sử Việt Nam
Bài tiểu luận : Lịch sử Việt Nam
1
Học viên : Lê Thanh Dũng - Cao học Lịch sử Đảng _ K16
MỤC LỤC
Trang
Phần mở đầu 02
Phần nội dung
I. Quá trình hình thành khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam 04
I.1. Hoàn cảnh lịch sử cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX 04
1.1. Tác động của hoàn cảnh quốc tế đến Việt Nam 04
1.2. Tình hình trong nước 07
I.2. Sự du nhập của khuynh hướng dân chủ tư sản vào Việt Nam 14
2.1. Nguồn gốc của tư tưởng dân chủ tư sản 14
2.2. Các con đường du nhập vào Việt Nam 15
2.3. Cơ sở hình thành khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam 17
II. Những phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ ... 21
II.1. Phong trào đấu tranh trước chiến tranh thế giới thứ nhất 21
1.1. Điều kiện ra đời của phong trào 21
1.2. Các phong trào đấu tranh theo khuynh hướng dân chủ … 23
1.3. Đặc điểm của các phong trào … 35
II.2. Phong trào cách mạng sau chiến tranh thế giới thứ nhất 37
2.1. Điều kiện ra đời và phát triển của các phong trào 37
2.2. Nội dung của các phong trào yêu nước dân chủ sau chiến tranh … 42
2.2.a. Phong trào ở nước ngoài
2.2.b. Phong trào đấu tranh trong nước
2.3. Đặc điểm của các phong trào dân chủ sau chiến tranh thế giới … 49
II.4. Nguyên nhân thất bại của các phong trào theo khuynh… 50
II.5. Vị trí của khuynh hướng dân chủ tư sản trong cuộc … 55


Kết Luận 58
Tài liệu tham khảo 60
Bài tiểu luận : Lịch sử Việt Nam
2
Học viên : Lê Thanh Dũng - Cao học Lịch sử Đảng _ K16
PHẦN MỞ ĐẦU
Nghiên cứu lịch sử Việt Nam trong giai đoạn cận đại, một trong những vấn đề
quan trọng là việc nhìn nhận, đánh giá vị trí và vai trò của khuynh hướng dân chủ tư sản
ở Việt Nam trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Sự tồn tại của khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam nằm trong quy luật vận
động của lịch sử. Nó tồn tại là tất yếu và sự thất bại của nó là do đặc điểm lịch sử, đặc
điểm xã hội Việt Nam quy định. Tất cả đều chịu sự chi phối của quy luật vận động phát
triển và có kế thừa, không thể phủ định sạch trơn. Bên cạnh mặt hạn chế hẳn còn
những mặt tích cực khác. Do đó, khi nhận định khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt
Nam nên có sự đánh giá khách quan, có tính đến hoàn cảnh cụ thể và phải đặt nó trong
tính biện chứng lịch sử.
Cũng như bên cạnh sự thất bại, không đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi cuối
cùng nhưng cũng không vì thế mà phủ nhận vai trò tích cực, tính tiến bộ của khuynh
hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam trong phong trào giải phóng dân tộc. Vì nó đặt cơ sở
xã hội cho sự tiếp thu tư tưởng mới-tư tưởng vô sản tiếp thu từ chủ nghĩa Mác-Lênin,
một tư tưởng tiến bộ của thời đại để thay đổi vận mệnh đất nước. Nhờ có sự tồn tại
khuynh hướng dân chủ tư sản mới chuẩn bị được tiền đề cho sự vận động sang một
khuynh hướng mới, khuynh hướng vô sản. Dân chủ bấy giờ được xác định là một trong
hai nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam.
Trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, dân chủ càng
được xem là mục tiêu, là động lực cho sự công bằng, đoàn kết tạo nên sức mạnh dân
tộc, thành công cho công cuộc đổi mới. Tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân, vì dân muốn thực hiện được
nhất định phải chú ý đến vấn đề dân chủ. Điều đó cũng có nghĩa là một tiềm năng kinh
tế hôm nay, một môi trường chính trị ổn định hôm nay là thành quả của sự kế thừa, phát

triển tư tưởng dân chủ trong khuynh hướng dân chủ tư sản cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ
XX.
Giai đoạn cuối thế kỉ XIX đến trước năm 1930, có nhiều phong trào đấu tranh
chống Pháp nổ ra mang khuynh hướng dân chủ tư sản biểu hiện dưới nhiều hình thức
Bài tiểu luận : Lịch sử Việt Nam
3
Học viên : Lê Thanh Dũng - Cao học Lịch sử Đảng _ K16
phong phú, đa dạng. Các phong trào diễn ra sôi nổi thể hiện sự khao khát giải phóng
dân tộc thay đổi số phận hiện tại của đất nước. Đồng thời là sự biểu hiện cụ thể của tinh
thần yêu nước Việt Nam.
Hiện nay, các thế lực thù địch vẫn nuôi dưỡng âm mưu chống phá hòng tiêu diệt
chế độ xã hội chủ nghĩa nước ta. Do đó, vấn đề khẳng định, phát huy chủ nghĩa yêu
nước hơn bao giờ hết càng giữ một vị trí quan trọng.
Tìm hiểu khuynh hướng dân chủ tư sản ở nước ta để thấy sự chuyển biến của con
đường giải phóng dân tộc, thấy được sự hy sinh, đóng góp của các bậc tiền bối trong
quá trình mày mò tìm giải pháp cứu nước. Đó là một chặng đường dài để thấy rằng giá
trị của nền độc lập hôm nay cao quý biết nhường nào, góp phần thức tỉnh ý thức dân
tộc, dân chủ trong việc góp công giữ gìn độc lập, phát huy những thành tựu đã dày công
đạt được.
Bài tiểu luận : Lịch sử Việt Nam
4
Học viên : Lê Thanh Dũng - Cao học Lịch sử Đảng _ K16
PHẦN NỘI DUNG
I. Quá trình hình thành khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam
I.1. Hoàn cảnh lịch sử cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX
1.1. Tác động của hoàn cảnh quốc tế đến Việt Nam
Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, thế giới có nhiều sự kiện quan trọng tác động
mạnh mẽ đến sự chuyển biến của cách mạng Việt Nam.
Thời gian này, hầu hết các nước tư bản chủ nghĩa trên thế giới chuyển từ tự do
cạnh tranh sang giai đoạn cao hơn của nó, đó là chủ nghĩa đế quốc. Vì vậy nhu cầu về

thị trường, nguyên liệu và nhân công ngày càng trở nên bức thiết. Do đó, chúng đẩy
mạnh quá trình xâm lược thuộc địa sang các nước phương Đông. Công việc “săn tìm”
thuộc địa lúc bấy giờ không còn là công việc của giai cấp tư sản hay võ quan hiếu
chiến nữa mà đã trở thành đường lối chung của nhà nước tư sản. Việt Nam cũng
không nằm ngoài quỹ đạo xâm lược thuộc địa của các nước đế quốc.
Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX còn có một số biến cố lớn ảnh hưởng sâu sắc đến
cuộc vận động cách mạng và đấu tranh tư tưởng ở Việt Nam. Đặc biệt là phong trào
Duy Tân Minh Trị ở Nhật Bản năm 1868, và cuộc vận động biến pháp ở Trung Quốc
dẫn đến cách mạng Tân Hợi năm 1911.
Nhật Bản trước khi cải cách Minh Trị là một nước phong kiến quân chủ “bế quan
tỏa cảng” như Việt Nam. Bước sang thế kỉ XVIII, sự phát triển nội tại của Nhật Bản
đã làm cho những mầm mống chủ nghĩa tư bản phát triển nhanh chóng. Đó là những
hải cảng, công trường thủ công xuất hiện ngày càng nhiều ở thành thị, kinh tế hàng
hóa phát triển. Tầng lớp Samurai (võ sĩ) thuộc thế giới quý tộc hạng trung và hạng
nhỏ, không có ruộng đất chỉ phục vụ các Đaimiô bằng việc huấn luyện và chỉ huy các
đội vũ trang để hưởng bổng lộc. Do một thời gian dài không có chiến tranh, địa vị của
Samurai bị suy giảm, lương bổng thất thường, đời sống khó khăn, nhiều người đã ra
khỏi lãnh địa, tham gia hoạt động thương nghiệp, mở xưởng thủ công,… dần dần tư
sản hoá. Họ có thế lực về kinh tế nhưng không có quyền lực về chính trị, địa vị xã hội
tương xứng. Vì vậy tầng lớp này trở thành lực lượng đấu tranh mạnh mẽ chống chế độ
phong kiến lỗi thời.
Bài tiểu luận : Lịch sử Việt Nam
5
Học viên : Lê Thanh Dũng - Cao học Lịch sử Đảng _ K16
Quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, đồng thời nhu cầu thị trường đòi hỏi
ban đầu là xâm nhập vào các nước khác, đặc biệt là những nước phong kiến lạc hậu.
Chính vì thế, Nhật Bản bị các nước phương Tây đòi mở cửa. Nhật Bản đến giữa thế kỉ
XIX đã lâm vào cuộc khủng hoảng trầm trọng, với mâu thuẫn gay gắt giữa lực lượng
sản xuất tư bản chủ nghĩa và quan hệ sản xuất phong kiến, giờ đây đứng trước sự lựa
chọn: hoặc duy trì chế độ phong kiến trì trệ, bảo thủ để các nước đế quốc sâu xé; hoặc

tiến hành duy tân, đưa Nhật Bản phát triển theo con đường của các nước tư bản
phương Tây. Cuối cùng, nhờ có một số nhà lãnh đạo thức thời sớm tỉnh ngộ trước họa
xâm lăng, đã chiến thắng các lực lượng bảo thủ trong nước, theo hướng tư bản chủ
nghĩa, mặc dù còn nhiều tàn tích phong kiến. Nhờ có duy tân, đổi mới, Nhật đã trở
thành nước độc lập, không những thế mà còn sớm cường thịnh và có chính sách bành
trướng thực dân.
Trong thời gian này, Việt Nam đang lúng túng trước cuộc chiến tranh xâm lược
của Pháp. Đặc biệt, khi phong trào Cần Vương thất bại (1896), những người Việt Nam
yêu nước đang lo tìm con đường cứu nước mới thì chiến tranh Nga-Nhật nổ ra. Nhật
đại thắng, sự kiện này vang dội khắp năm châu, tác động mạnh mẽ đến các nhà yêu
nước Việt Nam cũng như nhiều nhà yêu nước khác trong khu vực Châu Á. Họ bỏ qua
bản chất đế quốc của Nhật chỉ chú ý đến việc một cường quốc da vàng đánh bại một
cường quốc da trắng. Chỉ những điều đó thôi, Nhật cũng đã được tôn làm anh cả, làm
đầu đàn cho Châu Á vùng lên. Nhật Bản được xem là vị cứu tinh của dân tộc da vàng.
Xu hướng thân Nhật đã phát triển ở nhiều nước châu Á như: Trung Quốc, Thái Lan,
Miến Điện, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, Việt Nam,… Bằng chứng là khi sang Nhật, Phan Bội
Châu đã gặp Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu cũng đang hoạt động ở đây.
Bên cạnh sự tác động của Nhật Bản thì những sự kiện ở Trung Quốc lúc bấy giờ
cũng tác động tới cách mạng Việt Nam.
Sau chiến tranh Trung-Nhật (1895), uy thế của triều đình phong kiến Mãn Thanh
xuống thấp. Phong trào đấu tranh của nhân dân lên cao. Nhiều sĩ phu tiến bộ và trí
thức tư sản Trung Quốc đã mạnh dạn đòi cải cách. Họ thành lập nhiều học hội, học
đường, nhà xuất bản, toà soạn,… truyền bá học thuyết mới mẻ. Tiêu biểu là học hội
của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu (ảnh hưởng của tư tưởng quân chủ lập hiến trực
Bài tiểu luận : Lịch sử Việt Nam
6
Học viên : Lê Thanh Dũng - Cao học Lịch sử Đảng _ K16
tiếp từ Nhật Bản), Hưng Trung hội của phái trí thức Tây học do Tôn Dật Tiên đứng
đầu.
Trong khuôn khổ một nước phong kiến thì đề nghị của Lương-Khang, tức cải

cách đưa đất nước phát triển nhưng sự thống trị của phong kiến vẫn còn thì dễ dàng
chấp nhận hơn. Tháng 6 năm 1897, vua Quang Tự nghe theo Khang Hữu Vi ban bố
hiến pháp. Chương trình gồm 11 điểm nhưng bị phái bảo thủ do Thái hậu Từ Hy đứng
đầu quyết liệt chống đối. Cuộc vận động cải cách của Trung Quốc bị thất bại. Tuy
nhiên những tư tưởng tiến bộ của Lương-Khang đã gây được tiếng vang lớn, ảnh
hưởng sâu rộng vào nhân dân, đặc biệt là nhận thức tư tưởng thời đại. Từ đây, những
trào lưu tư tưởng của phương Tây dễ dàng thâm nhập vào Trung Quốc, cũng như dễ
dàng được tiếp nhận, và bắt đầu tấn công hệ tư tưởng phong kiến quan liêu, hủ bại, mở
đường cho tư tưởng dân chủ tư sản phát triển trong xã hội Trung Quốc. Nó thức tỉnh
phong trào yêu nước của nhân dân, nâng cao ý thức độc lập dân tộc chống ngoại xâm
và ý thức dân chủ chống chuyên chế. Cuộc đấu tranh đó dần phát triển lên cao dẫn đến
cuộc cách mạng Tân Hợi (1911) do Tôn Trung Sơn lãnh đạo, tiến bộ ngay từ chủ
trương của Hội “đánh đổ Mãn thanh, khôi phục Trung Hoa, lập chính phủ liên hiệp”
trong khi chủ trương trước đó của Lương-Khang là áp dụng các biện pháp duy tân
nhưng còn duy trì và cải tiến chế độ phong kiến nhà Thanh.
Đối với nước ta, Trung Quốc là nước láng giềng có ảnh hưởng rất sâu sắc. Trung
Quốc không chỉ là nước đồng văn, đồng chủng mà còn là nước cùng cảnh ngộ: chế độ
phong kiến quân chủ chuyên chế, Nho giáo là thiết chế tư tưởng, chính trị-xã hội lâu
đời, và lúc bấy giờ đều bị đế quốc xâm lược,… Những biến cố về chính trị, tư tưởng ở
Trung Quốc nhanh chóng dội vào Việt Nam theo từng thời kì chuyển biến rõ nét. Điển
hình nhất là hoạt động của nhà yêu nước Phan Bội Châu. Lúc Cường học hội của
Lương-Khang đang có vai trò mạnh ở Trung Quốc thì ở Việt Nam là hoạt động của
Duy Tân hội tôn Ngoại hầu Cường Để lên làm hội trưởng để “thu phục nhân tâm”. Và
khi cách mạng Tân Hợi nổ ra thì năm 1912, Duy Tân hội ở Việt Nam cũng giải tán
chuyển sang thành lập Việt Nam Quang phục hội với tôn chỉ “đánh đuổi giặc Pháp,
khôi phục nước Việt Nam, thành lập cộng hòa dân quốc Việt Nam”.
Trên thế giới lúc bấy giờ còn có một sự kiện mà sự tác động của nó cũng không
nhỏ đến cách mạng Việt Nam. Đó là cao trào Châu Á thức tỉnh.
Bài tiểu luận : Lịch sử Việt Nam
7

Học viên : Lê Thanh Dũng - Cao học Lịch sử Đảng _ K16
Các nước tư bản phương Tây đi xâm lược vô tình mang theo tư tưởng dân chủ,
Tự do-Bình đẳng-Bác ái (thành quả tiến bộ của các cuộc cách mạng tư sản) sang các
nước phụ thuộc và thuộc địa. Chính nó là một trong những nguyên nhân lớn thúc đẩy
phong trào giải phóng dân tộc, đặc biệt lúc bấy giờ ở Châu Á như: Thổ Nhĩ Kỳ, Trung
Quốc, Miến Điện,…
Cao trào Châu Á thức tỉnh càng làm cho khao khát giải phóng dân tộc giành độc
lập dân tộc trước hết của Việt Nam thêm cháy bỏng. Nó góp phần nâng cao chí quyết
tâm trong quá trình chống thực dân, đế quốc.
1.2. Tình hình trong nước
Trước khi bị thực dân Pháp xâm lược, Việt Nam là một quốc gia độc lập, có chủ
quyền nhưng chế độ phong kiến đã bộc lộ những dấu hiệu của sự khủng hoảng và suy
yếu nghiêm trọng. Kinh tế ngày càng sa sút, tài chính khó khăn. Đúng như Nguyễn Tri
Phương nhận xét năm 1960 về tình hình Việt Nam, khi thực dân Pháp xâm lược thì
nước ta “của đã hết, sức đã thiếu”. Đã thế nhà Nguyễn còn đưa ra một số chủ trương
chính sách gây bất lợi cho sự phát triển nền kinh tế. Đường lối đối ngoại sai lầm “bế
quan toả cảng” đã khiến cho Việt Nam bị cô lập. Việc hạn chế ngoại thương không
xuất phát từ bảo vệ thị trường trong nước mà xuất phát từ ý định ngăn chặn sự xâm
nhập của đạo Thiên chúa, cho nên dã dẫn đến chính sách đàn áp giáo sĩ và giáo dân
một cách mù quáng. Việc cấm đạo, sát đạo gay gắt càng tạo thêm cớ cho kẻ thù bên
ngoài lợi dụng triển khai mưu đồ xâm lược. Các vua kế tiếp nhau càng ra sức củng cố
chế độ quân chủ chuyên chế, quyền lực tập trung trong tay vua. Chỗ dựa của nhà nước
là giai cấp địa chủ. Ruộng đất tư lúc bấy giờ phát triển mạnh hơn lúc nào hết với 83%,
còn lại là 17% là đất công. Chính vì vậy, đời sống của nhân dân ngày càng cực khổ,
hàng loạt các cuộc khởi nghĩa nổ ra làm cho đất nước luôn không ổn định. Mười tám
năm cai trị của Gia Long (1802-1820) với 73 cuộc khởi nghĩa của nông dân, 7 năm ở
ngôi của Thiệu Trị (1940-1947) có 56 cuộc khởi nghĩa của nông dân… Bên cạnh đó,
khả năng quốc phòng yếu kém. Điều này đã ảnh hưởng trực tiếp đến việc chống xâm
lược của các nước đế quốc thực dân.
Trong cuộc chạy đua giành giật thuộc địa giữa các nước tư bản phương Tây,

cuối cùng tư bản Pháp bám sâu được vào Việt Nam qua hội truyền giáo thừa sai Pari.
Đồng thời thông qua các mối quan hệ đã có từ trước cùng với lợi dụng sự suy yếu của
Bài tiểu luận : Lịch sử Việt Nam
8
Học viên : Lê Thanh Dũng - Cao học Lịch sử Đảng _ K16
chế độ phong kiến Việt Nam, chính phủ Pháp ráo riết xúc tiến thực hiện âm mưu xâm
lược.
Triều đình phong kiến Việt Nam vì những toan tính riêng tư bảo vệ quyền lợi giai
cấp nên từ chống cự yếu ớt rồi dần chuyển sang chịu chia sẻ quyền lực với Pháp, ngày
càng bộc lộ sự bất lực của mình trượt dài qua các hiệp ước nhượng đất Nhâm Tuất
(1862), Giáp Tuất (1874). Triều đình thực sự thừa nhận quyền cai trị của Pháp ở Nam
Kì, kết hợp với Pháp trong việc chống lại phong trào của nhân dân và sau cùng là hai
bản hiệp ước Hác-măng (1883) và Pa-tơ-nốt (1884) chấm dứt quá trình xâm lược của
Pháp ở Việt Nam.
Như thế từ sau năm 1884, Việt Nam trở thành một nước thuộc địa nửa phong
kiến. Năm 1897, Việt Nam trở thành bộ phận của Liên bang Đông Dương. Thực dân
Pháp thiết lập bộ máy cai trị Liên bang để tiến hành quá trình khai thác và bóc lột thuộc
địa. Các chương trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897-1914) và lần thứ hai
(1919-1929) của Pháp chủ yếu phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế của chính quốc.
Hai cuộc khai thác thuộc địa trước và sau chiến tranh thế giới thứ nhất đã tạo ra những
biến đổi sâu sắc về nhiều mặt: chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội ở Việt Nam.
+ Về chính trị: Thực dân Pháp đặc biệt coi trọng chính sách về chính trị để cai trị
thuộc địa vừa chiếm được. Chúng tiến hành xây dựng bộ máy nhà nước hoàn chỉnh,
thống nhất có tính chất chặt chẽ từ trên xuống. Để đảm bảo thu được lợi nhuận thuộc
địa tối đa, thực dân Pháp thi hành chính sách chuyên chế về chính trị. Mọi quyền hành
đều nằm trong tay Pháp, vua quan triều Nguyễn chỉ là bù nhìn. Chúng cai trị trực tiếp
và thẳng tay đàn áp, không cho dân ta một chút quyền tự do dân chủ nào, kể cả chủ
nghĩa cải lương cũng không được phép.
“Chia để trị” là chính sách cai trị điển hình của Pháp ở Việt Nam. Mục đích của
chúng là làm suy yếu lực lượng dân tộc Việt Nam. Chúng chia cắt nước ta thành 3 xứ

với 3 chế độ khác nhau. Nam Kì là xứ thuộc địa do Pháp nắm nên được gọi là chế độ
trực trị do một viên Thống đốc của Pháp đứng đầu. Bắc Kì và Trung Kì là 2 xứ bảo hộ
vẫn giữ lại chính quyền phong kiến về hình thức. Bắc Kì do Thống sứ đứng đầu,
Trung Kì do Khâm sứ đứng đầu, cả hai cũng đều là người Pháp. Người Việt Nam
muốn đi lại giữa các kì phải xin giấy phép như ra nước ngoài. Với thủ đoạn này, thực
dân Pháp muốn xoá tên Việt Nam, Lào, Campuchia trên bản đồ thế giới, vì bấy giờ chỉ
Bài tiểu luận : Lịch sử Việt Nam
9
Học viên : Lê Thanh Dũng - Cao học Lịch sử Đảng _ K16
còn là Liên bang Đông Dương, chia rẽ nhân dân thuộc địa với nhân dân Pháp, chia rẽ
nhân dân các nước thuộc địa với nhau.
Riêng ở Việt Nam, thực dân Pháp đã phá hoại tính thống nhất dân tộc, dựng nên
hàng rào chia cắt về chế độ, kéo theo các cơ quan cai trị riêng biệt, ngăn cản sự giao
lưu qua lại, ngăn cản sự phát triển chung, đặc biệt là nhằm phá vỡ khối đoàn kết dân
tộc của ta, giảm sức mạnh trong việc chống lại chúng.
Bên cạnh đó, thực dân Pháp còn ra đạo luật về tổ chức quân đội thuộc địa
(7/1/1900) bao gồm lính Pháp và lính bản xứ. Quân đội đặt dưới quyền chỉ huy trực
tiếp của viên Tổng chỉ huy người Pháp. Mục đích là nhằm đàn áp các cuộc khởi nghĩa,
canh giữ các nhà tù, đàn áp chống đối, ổn định thuộc địa.
Cùng với quân đội chính quy ngày 30 tháng 6 năm 1915, Tổng thống Pháp ra sắc
lệnh thành lập lực lượng cảnh sát đặc biệt. Nhiệm vụ là đảm bảo trật tự, an ninh trong
tỉnh, canh giữ các công sở, các tuyến đường giao thông. Để tăng cường đàn áp, ngày
28 tháng 6 năm 1917, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định thành lập Sở tình báo và
an ninh trung ương (Sở mật thám Đông Dương). Mỗi xứ có một cơ quan mang tên
cảnh sát an ninh.
Đi đôi với bộ máy quân sự, cảnh sát to lớn là hệ thống pháp luật khắc nghiệt cùng
hệ thống toà án nhà tù dày đặc khắp Việt Nam. Từ huyện, phủ, châu trở lên đều có nhà
tù và trại giam.
Như vậy, rõ ràng bộ máy chính quyền của thực dân Pháp được thiết lập trên cơ sở
của sự cấu kết chặt chẽ giữa thực dân Pháp với giai cấp phong kiến phản động do thực

dân Pháp chi phối nhằm thực hiện chính sách khai thác bóc lột vô cùng tàn bạo của
chúng. Nhân dân Đông Dương nói chung và nhân dân Việt Nam nói riêng cuối thế kỉ
XIX đầu thế kỉ XX sống trong cảnh ngột ngạt, không có một quyền tự do dân chủ nào.
Hơn nữa, nhân dân còn bị áp bức bóc lột tàn nhẫn vô hạn của chính quyền thuộc địa.
+ Về kinh tế: Các nước đế quốc đẩy mạnh xâm chiếm thuộc địa nhằm thoả mãn
nhu cầu phát triển kinh tế và nâng cao nguồn lợi nhuận. Do đó, sau khi hoàn thành
xâm lược thuộc địa thì chúng bắt tay ngay vào quá trình khai thác các nguồn lợi ở
thuộc địa một cách triệt để.
Việt Nam là một nước giàu tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lí thuận lợi và sẵn
nhân công nhưng phương thức sản xuất lạc hậu. Do tư tưởng khép kín, không thức thời
Bài tiểu luận : Lịch sử Việt Nam
10
Học viên : Lê Thanh Dũng - Cao học Lịch sử Đảng _ K16
nhạy bén tiếp cận thành tựu hiện đại, tiến bộ của phương Tây, nên không thể khai thác
hết tiềm năng nội sinh để phát triển đất nước. Vì vậy, để bóc lột tối đa lợi nhuận ở
thuộc địa, Pháp đã thi hành một chính sách thực dân rất phản động, bóc lột nặng nề về
kinh tế ở nước ta.
Trong chương trình hành động gởi bộ trưởng Bộ thuộc địa (22/3/1897), Đume
nêu rõ “xây dựng cho Đông Dương một thiết bị kinh tế to lớn, một hệ thống đường sắt,
đường bộ, sông hào, bến cảng những cái cần thiết cho sự khai thác xứ Đông Dương”
1
Đường bộ được mở rộng đến những khu vực hầm mỏ, đồn điền, và các vùng biên
giới quan trọng: trục đường xuyên Đông Dương, đường Sài Gòn-Tây Ninh tới biên
giới Campuchia, đường Vinh-Sầm Nứa, Hà Nội-Cao Bằng,… lưu thông một cách
xuyên suốt. Tổng số chiều dài xây dựng thời kì này là 20.000 km, cùng với 14.000 km
đường dây điện thoại.
Mở mang đường sắt được giới tư bản ưu tiên để phục vụ chuyên chở hàng hoá,
nguyên liệu và tạo ra phương tiện để đưa quân đội đến những nơi cần thiết nhằm đàn
áp các cuộc khởi nghĩa. Các đường xe lửa lần lượt được hoàn thành Hà Nội-Lạng Sơn
(1902), Hà Nội-Vinh (1905), Đà Nẵng-Huế (1906), Sài Gòn-Nha Trang, Hải Phòng-

Vân Nam (1910),…Tính đến năm 1912, tổng số chiều dài đường sắt đã xây dựng ở
Việt Nam là 2099 km. Tất cả những tuyến đường sắt trừ tuyến Hải Phòng-Vân Nam
đều do nhà nước thực dân Pháp thu lãi.
Đường thuỷ cũng được khai thông ở các con sông lớn như: Sông Hồng, Thái
Bình, Đồng Nai, sông Hậu Giang và các kênh rạch. Các cảng Hải Phòng, Đà Nẵng, Sài
Gòn cũng được xây dựng. Riêng ở Nam Kì đến năm 1914 có 1745 km đường thủy và
tàu chạy bằng hơi nước.
Như vậy, chỉ trong một thời gian ngắn (hơn 10 năm đầu thế kỉ XX), thực dân
Pháp đã đầu tư làm thay đổi hẵn cơ sở hạ tầng Việt Nam. Đó là sự đầu tư có dụng ý,
nhằm phục vụ cho quyền lợi thực dân, phục vụ cho mưu đồ thống trị, khai thác và bóc
lột của chúng.
Trái với tinh thần của cuộc Đại cách mạng Pháp (1789) là diệt trừ tận gốc chế độ
phong kiến, mở đường cho nước Pháp hướng mạnh vào con đường phát triển tư bản.
Chính sách kinh tế của Pháp ở Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng lại duy
1
Ngọc Cơ (chủ biên) (2005), Lịch sử Việt Nam từ năm 1858-1918, Nxb Đại học sư phạm, 128
Bài tiểu luận : Lịch sử Việt Nam
11
Học viên : Lê Thanh Dũng - Cao học Lịch sử Đảng _ K16
trì phương thức sản xuất phong kiến lạc hậu kết hợp với thiết lập rất hạn chế phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Trong nông nghiệp, Pháp cướp đoạt ruộng đất của nông dân một cách trắng trợn,
được che đậy bằng sự hợp thức hoá của Điều ước, Nghị định: “Năm 1897, thực dân
Pháp bắt triều đình Huế kí điều ước cho thực dân Pháp quyền khai khẩn đất hoang.
Tiếp đó, ngày 1/5/1900 Thực dân Pháp ra Nghị định phủ nhận quyền sở hữu ruộng
đất trong luật pháp phong kiến”
2
. Chúng lập ra hàng loạt các đồn điền kinh doanh theo
phương thức tư bản chủ nghĩa nhưng lại bóc lột bằng cách phát canh thu tô kiểu phong
kiến. Những chính sách trong nông nghiệp của Pháp đã kiềm hãm nền nông nghiệp

Việt Nam trong vòng lạc hậu. Nông dân bị mất đất, bần cùng đói khổ, lực lượng sản
xuất bị hao mòn, kinh tế nông nghiệp ngày trở nên sa sút.
Trong công nghiệp, Pháp chỉ chú trọng một số ngành công nghiệp phục vụ cho
quá trình khai thác và vơ vét tài nguyên khoáng sản Việt Nam. Công nghiệp nhẹ chỉ
được phép phát triển trong một số lĩnh vực phục vụ trực tiếp cho nhu cầu tiêu dùng
của Pháp ở thuộc địa. Công nghiệp Việt Nam không được cạnh tranh với công nghiệp
Pháp. Một nền công nghiệp đã xuất hiện ở Việt Nam nhưng đó chỉ là một nền công
nghiệp phiến diện, què quặt, không có công nghiệp nặng. Điều đó thể hiện rõ tính chất
thuộc địa của nền kinh tế Việt Nam lúc bấy giờ.
Về thương nghiệp, Pháp độc chiếm thị trường Việt Nam. Hàng hoá Pháp thâm
nhập vào hoàn toàn miễn thuế còn hàng hoá nước khác thì phải chịu thuế cao nên hầu
hết ít vào được thị trường Việt Nam. Chính sách độc quyền về thương mại của Pháp
đã bần cùng hoá nhân dân lao động và bóp chết ngành tiểu thủ công nghiệp Việt Nam.
Hình thức bót lột nặng nề về kinh tế của thực dân Pháp còn thể hiện ở việc chúng lập
ra Ngân sách chung cho 5 xứ Đông Dương dưới hình thức Ngân hàng Đông Dương.
Ngân hàng này là một tập đoàn tư bản tài chính lớn, chi phối mọi ngành kinh tế ở
Đông Dương. Nguồn thu của Ngân sách chủ yếu là thuế. Thuế cũ thì tăng vọt, nhiều
thuế mới thật vô lí được đặt ra: thuế thân, thuế chợ, thuế vỉa hè, thuế xe… “Trên chiếc
lưng cao su của người An Nam, nhà nước tha hồ kéo dài mức thuế co dãn”
3
Nhìn chung, chính sách về kinh tế của thực dân Pháp đã làm cho kinh tế Việt
Nam có những thay đổi căn bản, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đan xen cùng tồn
2
Ngọc Cơ (chủ biên) (2005), Lịch sử Việt Nam từ năm 1858-1918, Nxb Đại học sư phạm, 130
3
Ngọc Cơ (chủ biên) (2005), Lịch sử Việt Nam từ năm 1858-1918, Nxb Đại học sư phạm, 129
Bài tiểu luận : Lịch sử Việt Nam
12
Học viên : Lê Thanh Dũng - Cao học Lịch sử Đảng _ K16
tại với quan hệ sản xuất phong kiến vốn có. Công, nông, thương nghiệp có bước phát

triển nhưng không cân đối về cơ cấu, què quặt và phụ thuộc nặng nề vào đế quốc Pháp.
Pháp là nước tư bản già lạc hậu so với các nước tư bản trẻ phát triển mạnh lúc bấy
giờ: Mĩ, Đức,… Pháp có nền kỉ thuật đã lỗi thời, hàng hoá không thể cạnh tranh nổi
với các nước tư bản đang lên nên Pháp phải giải quyết khủng hoảng của mình bằng
cách độc chiếm thị trường thuộc địa, hạn chế cạnh tranh, đồng thời là khai thác triệt để
nguồn lợi thuộc địa đem về chính quốc sản xuất rồi lại mang hàng hóa sang tiêu thụ ở
thuộc địa. Đây là phương thức kinh doanh khác cơ bản so với Mĩ, Đức. Chính vì vậy,
thuộc địa của Pháp có nền kinh tế bị què quặt, không tiếp nhận được thành tựu mới,
không được giao lưu. Đó cũng chính là nguyên nhân cho sự trì trệ kéo dài, khó khắc
phục, cải tạo của Việt Nam sau cách mạng giải phóng dân tộc.
+ Về xã hội: Xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX dưới sự tác động
của công cuộc khai thác của Pháp đã phân hoá sâu sắc.
Giai cấp địa chủ phong kiến vốn thuộc giai cấp thống trị nay đầu hàng đế quốc,
dựa vào đế quốc để áp bức bóc lột nhân dân ta. Vì vậy, đây là đối tượng của cách
mạng. Song, do chính sách cai trị của thực dân Pháp, giai cấp địa chủ bị phân hoá, một
bộ phận làm tay sai cho thực dân Pháp, một bộ phận địa chủ nhỏ và vừa ít nhiều có
tinh thần dân tộc đứng lên chống Pháp khi có cơ hội.
Giai cấp nông dân là giai cấp đông đảo nhất trong xã hội, chiếm 90% dân số bị đế
quốc, địa chủ bóc lột nặng nề. Vì vậy, họ căm thù thực dân phong kiến, khao khát độc
lập và ruộng đất, họ tích cực tham gia và là nguồn động lực chính trong các cuộc đấu
tranh chống đế quốc, phong kiến. Nhưng trong cách mạng dân tộc, dân chủ, họ không
thể đóng vai trò lãnh đạo vì không đại diện cho một phương thức sản xuất tiên tiến.
Bên cạnh các giai cấp phong kiến cũ thì thời kì này xuất hiện các giai tầng mới.
Đó là công nhân và tư sản.
Giai cấp công nhân ra đời là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác thuộc địa
của thực dân Pháp. Mặc dù mới ra đời số lượng còn ít, trình độ văn hoá còn thấp
nhưng giai cấp công nhân Việt Nam đã nhanh chóng trưởng thành về số lượng và chất
lượng, có khả năng lãnh đạo cách mạng sau này.
Còn tư sản thì thật sự trở thành một giai cấp từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất.
Bị tư bản Pháp chèn ép nên giai cấp tư sản Việt Nam phân hoá thành hai bộ phận: tư

Bài tiểu luận : Lịch sử Việt Nam
13
Học viên : Lê Thanh Dũng - Cao học Lịch sử Đảng _ K16
sản mại bản và tư sản dân tộc. Giai cấp tư sản mại bản gắn chặt quyền lợi với Pháp.
Giai cấp tư sản dân tộc tuy có tinh thần yêu nước chống đế quốc, phong kiến nhưng ra
đời muộn, thế lực yếu kém về kinh tế lẫn chính trị nên thường cải lương trong quá
trình đấu tranh và không có khả năng lãnh đạo và đưa cách mạng Việt Nam đến thắng
lợi.
Các chính sách cai trị của Pháp ở các nước thuộc địa còn làm cho tầng lớp trí thức
tiểu tư sản ngày càng đông. Đây là những người được chế độ phong kiến và thực dân
đào tạo. Họ ít nhiều bị chèn ép và do truyền thống yêu nước chi phối nên họ cũng khát
khao độc lập tự do. Khi có điều kiện thì đây là lực lượng nhạy bén tiếp thu và truyền
bá tư tưởng mới và là “ngòi pháo” của các cuộc đấu tranh chống thực dân, phong kiến.
Như vậy, sự ra đời của những lực lượng xã hội mới đã tạo điều kiện bên trong
cho cuộc vận động giải phóng dân tộc theo những khuynh hướng mới với động lực là
những giai tầng có thái độ chính trị và khả năng cách mạng khác nhau.
+ Về văn hoá giáo dục: Thực dân Pháp thi hành chính sách ngu dân triệt để, giam
hãm, đầu độc nhân dân ta trong vùng tăm tối. Chúng xây dựng nhà tù nhiều hơn
trường học và bệnh viện. Chính sách văn hoá của Pháp ở Việt Nam chỉ nhằm thực hiện
mục đích thực dân “làm cho dân ta ngu để dễ trị”. Pháp chỉ mở trường dạy tiếng Pháp
nhằm đào tạo đội ngũ tay sai thuộc địa. Chúng bưng bít, ngăn cản ảnh hưởng văn hoá
tiến bộ trên thế giới, truyền bá văn hoá đồi trị và mê tín dị đoan. Hậu quả là trường học
thiếu một cách trầm trọng, hàng ngàn trẻ em Việt Nam không biết chữ, thanh niên thì
bị ngăn cản không cho du học phương Tây để tiếp thu tư tưởng tiến bộ của thế giới.
Đồng thời chúng còn tìm cách trấn áp, loại trừ những nhà trí thức yêu nước “đòi bỏ rọ
lăn sông các sĩ phu”.
Tuy nhiên ngoài ý muốn chủ quan của Pháp, trong khi cố tạo ra những điều kiện
thuận lợi phục vụ cho bộ máy cai trị trực tiếp ở Việt Nam, chúng đã tạo ra một môi
trường văn hoá mới ngoài mục đích văn hoá thực dân. Trong thành phần những tri
thức do các trường học mới đào tạo có không ít người có nguồn gốc là con em của

chúng những nhà có thù với đế quốc Pháp. “Họ tất nhớ lại cha anh họ bị đày, bị giết
vì nước, người trước gnười sau sớm muộn gì cũng theo dấu cha anh, đứng lên đỡ lấy
cái gánh nặng non sông mà cha anh họ còn để lại giữa đường,…”
4
.
4
. Đinh Trần Dương (2002), Sự chuyển biến của phong trào yêu nước trong ba mươi năm đầu thế kỉ
XX, Nxb Đại học quốc gia Hà Nộ, 22
Bài tiểu luận : Lịch sử Việt Nam
14
Học viên : Lê Thanh Dũng - Cao học Lịch sử Đảng _ K16
Dưới ách cai trị của thực dân Pháp, nhân dân Việt Nam đang khao khát tìm kiếm
một con đường giải phóng dân tộc khi tư tưởng phong kiến đang suy tàn, mất hết vai
trò lãnh đạo, tư tưởng dân chủ-tư tưởng mới được tiếp thu một cách nhanh chóng.
Thực dân Pháp cố gắng tìm mọi cách ngăn chặn nhưng có một thứ mà chúng không
thể nào ngăn chặn nổi đó là tinh thần tìm hiểu, nghiên cứu về giải phóng dân tộc của
nhiều người yêu nước Việt Nam.
Như vậy, những chính sách cai trị của Pháp ở Việt Nam mang đậm tính chất thực
dân: chuyên chính về chính trị, bóc lột nặng nề về kinh tế, nô dịch tàn bạo về văn hoá
giáo dục.
Khi mà hệ tư tưởng phong kiến không còn giữ vai trò chủ đạo nữa, phong trào
yêu nước theo lập trường phong kiến dần tàn lụi, thất bại, thì những biến đổi về chính
trị-kinh tế-văn hoá trong chế độ thực dân là tiền đề cho sự xuất hiện những luồng tư
tưởng khác nhau. Đồng thời là cơ sở cho sự tiếp nhận, hấp thụ những nguyên lí cứu
nước mới đối với Việt Nam lúc bấy giờ. Đó là khuynh hướng dân chủ tư sản.
I.2. Sự du nhập của khuynh hướng dân chủ tư sản vào Việt Nam
2.1. Nguồn gốc của tư tưởng dân chủ tư sản
Dân chủ ngày nay được hiểu là một chính quyền mà trong đó nhân dân là người
làm chủ, là người quyết định mọi việc. Dân chủ bao hàm ý nghĩa thừa nhận quyền tự
do bình đẳng của mọi công dân. Nguyên tắc đặc trưng của chế độ dân chủ là thiểu số

phải phục tùng đa số trong quá trình tham gia bàn bạc và định đoạt công việc chung.
Tư tưởng dân chủ tư sản là thành quả của các cuộc cách mạng tư sản thời cận đại.
Tuy nhiên không phải khi cách mạng thắng lợi, chính quyền cách mạng được thiết lập
thì tư tưởng dân chủ tư sản mới ra đời, mà tư tưởng này đã xuất hiện từ trước. Tư
tưởng dân chủ tư sản là tiền đề tư tưởng (cùng với tiền đề kinh tế, chính trị-xã hội)
xuất hiện trước mỗi cuộc cách mạng tư sản, chuẩn bị cho các cuộc cách mạng tư sản
bùng nổ.
Ở Anh, hệ tư tưởng dân chủ tư sản thể hiện qua cuộc đấu tranh của Thanh giáo
chống Anh giáo để xác lập một tôn giáo rẻ tiền, ít tốn kém thời gian và phù hợp với
việc kinh doanh của nhà tư bản. Thanh giáo ra đời nhằm hạn chế sự chuyên quyền của
nhà nước phong kiến, phản đối giáo hội Anh. Vì thế, nhà nước phong kiến đã sử dụng
bạo lực để đàn áp các tín đồ Thanh giáo. Giai cấp tư sản nấp dưới tà áo tôn giáo mới để
Bài tiểu luận : Lịch sử Việt Nam
15
Học viên : Lê Thanh Dũng - Cao học Lịch sử Đảng _ K16
lôi kéo lực lượng thực hiện mục đích của mình. Ở Pháp, từ đầu thế kỉ XVIII đã xuất
hiện trào lưu tư tưởng “ánh sáng”, với nhiều quan điểm tốt đẹp-chống chế độ phong
kiến, tôn giáo xây dựng một mô hình xã hội lý tưởng với ba đại biểu xuất sắc: Mông-
xte-ki-ơ, Rut-xô, Vôn-te. Ở Nhật, trước Duy Tân Minh Trị đã xuất hiện trào lưu “Hà
Lan học”, đề xướng tư tưởng “trọng thương”, tiếp thu nhiều thành tựu tiến bộ của
phương Tây…
Tư tưởng dân chủ tư sản xuất hiện từ sự khao khát một cuộc sống tự do; muốn
thoát khỏi sự chuyên chế của nhà nước phong kiến, sự hà khắc của giáo hội Kitô; thoát
khỏi sự áp bức bóc lột nặng nề của xã hội hiện tại, mơ ước một xã hội mới công bằng.
2.2. Các con đường du nhập vào Việt Nam
Luồng tư tưởng dân chủ tư sản tràn vào Việt Nam cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX
chủ yếu qua 3 con đường chính: từ Pháp, từ Nhật Bản và từ Trung Quốc.
Con đường du nhập tư tưởng này đến Việt Nam qua quá trình xâm lược và khai
thác thuộc địa của Pháp ở Việt Nam là chủ yếu. Người Pháp đến Việt Nam, bên cạnh
bộ phận những người trong chính quyền thực dân, còn có những trí thức, hay các nhà

khoa học tới Việt Nam với mục đích nghiên cứu, dạy học… Và đặc biệt trong đó
không thể không kể tới, đó chính là các giáo sĩ truyền đạo Thiên Chúa, họ ít nhiều
cũng đã mang tư tưởng bình đẳng của Chúa đến với giáo dân và ảnh hưởng sâu rộng tỉ
lệ thuận với quá trình phát triển của đạo Thiên Chúa đối với nhân dân Việt Nam. Lê-
nin viết “Thế kỉ XIX là thế kỉ đem lại văn minh và văn hoá cho toàn thể nhân loại đã
tiếp diễn dưới dấu hiệu của đại cách mạng Pháp” [3; 191]. Hơn thế nữa, nền giáo dục
Pháp ở Việt Nam mặc dù với mục đích chính là đào tạo những người làm việc cho bộ
máy cai trị chính quyền thực dân nhưng ít hay nhiều cũng mang đến cho những người
Việt Nam theo Pháp học có những hiểu biết về tư tưởng “ánh sáng” với Milê, người
đã có quan niệm về chủ nghĩa cộng sản không tưởng; Mông-te-xki-ơ với tư tưởng xây
dựng hệ thống nhà nước “tam quyền phân lập, kiềm chế đối trọng”; Vôn-te có tư
tưởng chống độc tài phong kiến và nhà thờ Thiên Chúa; hay Đi-đơ-rô với quan điểm
triết học duy vật và Rut-xô với tư tưởng dân chủ cách mạng và nhà nước dân chủ,…
Vì vậy, nền giáo dục Pháp ở Việt Nam không tránh khỏi đem những tư tưởng này vào
giới trí thức của nước ta.
Bài tiểu luận : Lịch sử Việt Nam
16
Học viên : Lê Thanh Dũng - Cao học Lịch sử Đảng _ K16
Tư tưởng dân chủ tư sản ở Pháp đến Việt Nam không chỉ thâm nhập qua những
người Việt Nam làm việc cho Pháp, các trí thức Tây học trong nước, mà còn qua một
lực lượng quan trọng là những người Việt Nam xuất ngoại sang Pháp. Những người
Việt tới Pháp gồm những nhà tư sản hay trí thức, bằng cách này hay cách khác sang
Pháp học tập, làm ăn. Do Pháp ra sức ngăn cản việc người Việt Nam đi du học nước
ngoài, đặc biệt là qua Pháp vì sợ họ tiếp thu những thu tưởng mới nên số lượng này là
không nhiều ở nước ta lúc bấy giờ. Chiếm số lượng khá đông là người Việt Nam làm
việc trên những chuyến tàu của Pháp (Bác Hồ cũng từng làm việc như thế) hay bị đưa
sang Pháp tham chiến trong cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất.
Đây là con đường tiếp cận tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây trực tiếp chính
bằng trình độ nhận thức của người Việt. Tuy nhiên, trong buổi đầu tư tưởng dân chủ tư
sản du nhập vào, thành phần tiếp nhận có nhiều hạn chế giai cấp, lịch sử cùng với

không gian tiếp cận không đầy đủ nên phong trào yêu nước Việt Nam gắn với tư
tưởng mới này chưa có sự chuyển biến rõ nét và phát triển cao.
Con đường thứ hai truyền bá tư tưởng dân chủ tư sản tới Việt Nam là thông qua
Nhật Bản. Cuộc Duy Tân Minh Trị ở Nhật Bản và việc nước Nhật chiến thắng trong
chiến tranh Nga-Nhật (1895) trong khi các nước Châu Á đều bị biến thành thuộc địa
hay phụ thuộc của các nước đế quốc thực dân. Điều đó khiến cho Nhật Bản trở thành
tấm gương, một “anh cả da vàng” để các nước khác học tập. Cuộc Duy Tân Minh Trị
có ảnh hưởng rất lớn đến các nước Châu Á, trước hết là đối với Trung Quốc. Sau cuộc
Duy Tân Minh Trị 30 năm, một phong trào Duy Tân đã bùng nổ ở Trung Quốc. Người
chủ xướng phong trào duy tân ở Trung Quốc là Khang Hữu Vi. Ông muốn bắt chước
Nhật Bản, cũng tiến hành một cuộc cải cách dưới trướng của một đấng minh quân.
Nhưng do hoàn cảnh lịch sử cụ thể của đất nước Trung Quốc không cho phép nên
phong trào duy tân của Khang Hữu Vi bị thất bại. Cuộc Minh Trị Duy Tân ở Nhật Bản
cũng đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến Việt Nam. Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX các sĩ phu
yêu nước Việt Nam như cụ Phan Bội Châu đã hướng về Nhật Bản với lòng ngưỡng
mộ và đã bỏ nhiều công sức để tìm con đường cứu nước tại đất nước của Thiên hoàng
Minh Trị này. Thậm chí, ở Trung Quốc cũng diễn ra một phong trào Đông du sang
Nhật để học tập, và sau Đông du ở Trung Quốc là phong trào Đông du ở Việt Nam.
Bài tiểu luận : Lịch sử Việt Nam
17
Học viên : Lê Thanh Dũng - Cao học Lịch sử Đảng _ K16
Nhật Bản cũng có những nhân vật ảnh hưởng đến các trào lưu tư sản ở Nhật Bản mà
cả với phong trào đấu tranh ở Việt Nam, như nhà tư tưởng dân chủ Fukuzawa Yukichi.
Khuynh hướng dân chủ tư sản cũng đến với Việt Nam nhờ rất nhiều vào một con
đường khác là Trung Quốc. Đối với nước ta, Trung Quốc không chỉ là nước đồng văn,
đồng chủng mà còn là nước cùng cảnh ngộ, ảnh hưởng Nho giáo Trung Quốc ở Việt
Nam hết sức sâu đậm. Đầu thế kỉ XX cho đến chiến tranh thế giới thứ nhất, hầu hết
các sĩ phu yêu nước, cách mạng đều xuất thân từ tầng lớp sĩ phu Nho học. Số theo Tây
học hồi đó còn rất hiếm do nhiều nguyên nhân khác nhau. Chưa có các nhà lãnh đạo
cách mạng xuất thân từ tầng lớp trí thức Tây học. Việc người Việt học tập những tư

tưởng này qua Trung Quốc phần nào cũng vì tác động từ những cuộc đấu tranh của trí
thức tư sản Trung Quốc như Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, Tôn Trung Sơn,… qua
cuộc vận động biến pháp, qua cách mạng Tân Hợi,… Hơn thế nữa, cả hai nước đều sử
dụng Hán tự. Chính vì những lí do đó mà tư tưởng dân chủ tư sản qua Trung Quốc vào
Việt Nam có vai trò rất lớn của Tân thư, Tân văn Trung Quốc bấy giờ. Và theo Tân
thư, Tân văn từ Trung Quốc, tư tưởng của những nhà “khai sáng” Pháp cũng được
dịch truyền vào Việt Nam một cách phổ biến.
Tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây vào Việt Nam thông qua Nhật Bản và Trung
Quốc rõ ràng đã có sự biến dạng nhất định. Bởi vì đó là cách vận dụng, cách nhìn của
phần lớn những nhà theo tư tưởng quân chủ lập hiến.
Cùng với sự thất bại của khuynh hướng cứu nước theo phong kiến, chính sách cai
trị của chính quyền thực dân, sự khao khát độc lập, tự do mãnh liệt của nhân dân Việt
Nam càng tạo điều kiện cho những nhà yêu nước nhanh chóng tiếp thu tư tưởng dân
chủ tư sản, một tư tưởng mới và tiến bộ so với Việt Nam lúc bấy giờ.
2.3. Cơ sở hình thành khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam
Sự thất bại của các phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến
Sau khi buộc triều đình Huế kí Hiệp ước Pa-tơ-nốt (1884), thực dân Pháp về cơ
bản đã hoàn thành quá trình xâm lược toàn bộ Việt Nam. Nhưng chúng còn mất thêm
hơn mười năm liên tục, hao người, tốn của để tiến hành cuộc bình định bằng quân sự
nhằm đối phó với cuộc chiến tranh quyết liệt của ta. Đó là cuộc nổi dậy của phái chủ
chiến ở kinh thành Huế (1884), phong trào yêu nước của văn thân, sĩ phu hưởng ứng
Chiếu Cần Vương (1885-1896). Và phong trào nông dân tự phát, tiêu biểu là khởi
Bài tiểu luận : Lịch sử Việt Nam
18
Học viên : Lê Thanh Dũng - Cao học Lịch sử Đảng _ K16
nghĩa nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo (1884-1913). Và đó cũng
chính là những phong trào thể hiện sự nổ lực cuối cùng của khuynh hướng cứu nước
theo tư tưởng phong kiến.
Cuối thế kỉ XIX, phong trào vũ trang chống Pháp dưới ngọn cờ Cần Vương do
Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết đứng đầu với hy vọng khôi phục lại chủ quyền. Tôn

Thất Thuyết lấy danh nghĩa vua Hàm Nghi hai lần ban Chiếu Cần Vương (13/7/1885
và 20/9/1885) nhằm kêu gọi nhân sĩ khắp nơi giúp vua cứu nước. Tầng lớp văn thân, sĩ
phu yêu nước tiến bộ hưởng ứng sôi nổi, đứng ra chiêu mộ nghĩa sĩ lập đồn trại kháng
chiến. Văn thân, sĩ phu là những người không có đặc lợi ở triều đình, cũng không có tư
gia điền sản lớn ở nông thôn nhưng họ có hệ tư tưởng yêu nước gắn với hệ tư tưởng
phong kiến. Do đó, yêu nước phải trung quân. Đó là lập trường của Nho giáo truyền
thống của phong kiến. Nhưng kể từ khi Pháp xâm lược, cùng với thái độ của triều
đình, họ đã chống lại triều đình, không còn trung với vua nữa. Họ chống lại mệnh lệnh
của vua để cùng nhân dân kháng Pháp. Khi Chiếu Cần Vương ban ra, tư tưởng “trung
quân ái quốc” của họ đã trở lại. Văn thân, sĩ phu là những người hăng hái nhất, đứng
ra lãnh đạo phong trào nhân dân “giúp vua cứu nước”.
Năm 1888, vua Hàm Nghi bị bắt thì đâu là động lực đấu tranh? Quá trình đấu
tranh chưa chấm dứt. Có những cuộc khởi nghĩa quy mô lớn trình độ cao như: Bãi
Sậy, Ba Đình, Hùng Lĩnh, Hương Khê. Và như vậy, động lực “giúp vua cứu nước” đã
chuyển sang “giúp dân cứu nước”. Hay quan điểm lập trường sĩ phu, văn thân thay đổi
từ “trung quân ái quốc” sang “trung dân ái quốc”, từ lập trường giai cấp sang lập
trường dân tộc. Đây là bước chuẩn bị đầu tiên cho sự tiếp nhận tư tưởng mới phù hợp-
tư tưởng dân chủ tư sản sau này.
Phong trào vũ trang chống Pháp dưới ngọn cờ Cần Vương đã tàn lụi với sự thất
bại hoàn toàn của cuộc khởi nghĩa Hương Khê (1896). Một số thổ hào địa phương nổi
dậy ngay từ khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta tuy lúc này vẫn còn, nhưng
đã phải duy trì cuộc chiến đấu trong những điều kiện hết sức khó khăn, phải thủ hiểm
trong những vùng rừng núi hẻo lánh và suy yếu dần trên con đường đi tới tan rã. Duy
chỉ có cuộc khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo vẫn hiên ngang đương
đầu với địch. Nhưng trước âm mưu và thủ đoạn của kẻ thù, phong trào dần đi vào thất
bại.
Bài tiểu luận : Lịch sử Việt Nam
19
Học viên : Lê Thanh Dũng - Cao học Lịch sử Đảng _ K16
Khác với phong trào Cần Vương-diễn ra và thất bại khi chưa chịu tác động của tư

tưởng dân chủ tư sản, nên khi kết thúc không có mầm mống chuyển sang dân chủ tư
sản. Còn đối với phong trào nhân dân Yên Thế, thời gian tồn tại có ảnh hưởng của dân
chủ tư sản. Vì thế giai đoạn sau, phong trào này có sự dao động khi mà người lãnh đạo
Hoàng Hoa Thám có tiếp xúc với Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh và Tôn Trung Sơn
(khi Tôn Trung Sơn sang tuyên truyền tư tưởng cách mạng cho Hoa kiều, ẩn náo tạm
thời vì mục đích cách mạng…). Phong trào nông dân Yên Thế cuối cùng cũng thất bại.
Song đặc điểm của nó là sự dao động, mang hơi hướng của lập trường dân chủ tư sản.
Đây là bước quá độ chuyển biến tư tưởng đầu tiên trong cách mạng Việt Nam.
Như vậy, tất cả những phong trào chống Pháp nổ ra cuối thế kỉ XIX đều lần lượt
thất bại. Thất bại không phải vì người lãnh đạo kém nhiệt huyết, nhân dân kém anh
dũng mà do nguyên nhân chủ quan, khách quan chi phối. Đặc biệt, thất bại là do hệ tư
tưởng phong kiến lúc bấy giờ đã lạc hậu, lỗi thời, mất vai trò trong lãnh đạo cách
mạng Việt Nam trong tình tình mới. Điều đó chỉ ra yêu cầu bức thiết của phong trào
yêu nước Việt Nam thời điểm này cần nhanh chóng thoát khỏi những bế tắc của thời
đại. Và quan trọng là mau chóng tìm ra một hệ tư tưởng mới chỉ đạo cho con đường
cứu nước giành độc lập tự do.
Những chuyển biến kinh tế-xã hội Việt Nam sau cuộc khai thác thuộc địa lần
thứ nhất của Pháp
Chính sách cai trị của thực dân Pháp ở Việt Nam đã gây ra nhiều hậu quả: kinh tế
tàn tạ, chính trị ngột ngạt, các giai cấp trong xã hội phân hoá sâu sắc, đời sống nhân
dân hết sức khó khăn,… Những cơ sở kinh tế-xã hội lúc bấy giờ là nguồn gốc tất nhiên
của chế độ thực dân nửa phong kiến. Được sống độc lập, tự do là nguyện vọng thiết
tha của mọi người. Đó là những tiền đề cho cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ ở nước
ta.
Trong những năm đầu thế kỉ XX, chính sách cai trị của thực dân Pháp đã tước
đoạt hết quyền tự do của nhân dân ta. Chính sách khai thác của thực dân đã làm cho
nền kinh tế nước ta phụ thuộc hoàn toàn vào nền kinh tế nước Pháp. Những nhà máy
xí nghiệp, hãng buôn, hệ thống giao thông, hải cảng, thành thị ra đời hợp thành bộ
phận kinh tế tư bản thực dân, chỉ có tác dụng tiêu thụ hàng công nghiệp của tư bản
Pháp; vơ vét các mặt hàng nông-lâm-nghiệp để xuất khẩu và “ăn cướp có tổ chức” tài

Bài tiểu luận : Lịch sử Việt Nam
20
Học viên : Lê Thanh Dũng - Cao học Lịch sử Đảng _ K16
nguyên thiên nhiên nước ta. Tính chất độc quyền của nền kinh tế thực dân đã dẫn tới
hậu quả là: quan hệ sản xuất phong kiến trong nông nghiệp được duy trì gần như
nguyên vẹn, các ngành thủ công cổ truyền đang phát triển theo hướng tích cực thì bị
bóp nghẹt, kinh tế tư bản dân tộc bị kìm hãm không sao phát triển được. Kinh tế nước
ta do đó bị kiệt quệ. Công nhân, nông dân lâm vào cảnh đói rách, bần cùng. Đời sống
của các tầng lớp khác như tiểu tư sản, dân nghèo thành thị luôn bị đe dọa.
Đó là những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế nước ta đầu thế kỉ XX, gọi là nền
kinh tế thực dân nửa phong kiến.
Sự áp bức tàn bạo về chính trị và sự bóc lột nặng nề về kinh tế của thực dân Pháp
đã gây nên phản ứng mạnh mẽ trong nhân dân ta, nhất là công nhân và dân nghèo
thành thị, một bộ phận trí thức yêu nước. Độc lập, tự do bấy giờ là niềm khao khát
cháy bỏng, là động lực to lớn thúc đẩy họ đấu tranh chống thực dân, phong kiến khi có
thời cơ.
Mặt khác, đặc điểm kinh tế, xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX chưa
sản sinh được một giai cấp có đủ sức lãnh đạo thành công cuộc cách mạng dân tộc,
dân chủ, nhưng không vì thế mà nó bị đình đốn. Xã hội Việt Nam bấy giờ đã sản sinh
ra một lớp người thay thế ban đầu, đó là lớp văn thân, sĩ phu yêu nước tiến bộ đang
trên con đường tư sản hoá. Họ phần nào nắm bắt được nguyện vọng của quần chúng
nhân dân, đứng ra đảm nhiệm vai trò của giai cấp lãnh đạo, tạo tiền đề phát triển cho
cách mạng Việt Nam.
Chính những chuyển biến về kinh tế-xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ
XX là tiền đề cho sự tiếp thu khuynh hướng mới vào Việt Nam-khuynh hướng dân chủ
tư sản, tạo sự chuyển biến tư tưởng cách mạng Việt Nam.
II. Những phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản ở
Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX đến trước năm 1930
II.1. Phong trào đấu tranh trước chiến tranh thế giới thứ nhất
1.1. Điều kiện ra đời của phong trào

Việt Nam đầu thế kỉ XX đang trong tình trạng một nước thuộc địa nửa phong
kiến. Do vậy, các khuynh hướng chính trị-tư tưởng lúc bấy giờ có gắn bó chặt chẽ với
những phong trào đấu tranh, hoặc đòi hỏi quyền dân tộc hoặc đòi quyền dân chủ. Đầu
Bài tiểu luận : Lịch sử Việt Nam
21
Học viên : Lê Thanh Dũng - Cao học Lịch sử Đảng _ K16
thế kỉ XX cũng là thời gian mà khuynh hướng dân chủ tư sản chính thức đóng vai trò to
lớn trong cuộc đấu tranh đó. Các cuộc khởi nghĩa nông dân cho đến đầu thế kỉ XIX đã
hầu như bị Pháp “bình định” cơ bản, chỉ còn cuộc khởi nghĩa Yên Thế vẫn còn hoạt
động, nhưng cũng không gây ra nhiều đe dọa cho chính quyền thuộc địa. Đứng trước
sự bế tắc của con đường cứu nước cũ và sự du nhập của con đường cứu nước mới,
những trí thức Nho học đã có sự nhìn nhận lại phương pháp cách mạng của mình. Đó
là những cơ sở cho sự chuyển biến tư tưởng cứu nước của Việt Nam đầu thế kỉ XX.
Quá trình cai trị của thực dân Pháp làm cho tình hình Việt Nam có nhiều biến đổi,
đặc biệt xã hội ngày càng phân hóa. Do đó, phong trào cách mạng Việt Nam theo
khuynh hướng tư sản theo thời gian cũng có sự khác nhau về đặc điểm.
Trước hết phải thấy rằng, giai cấp tư sản Việt Nam hình thành về cơ bản không
phải do sự phát triển của sức sản xuất xã hội trong sự vận động tự thân của lịch sử Việt
Nam mà do chính quá trình xâm lược và thống trị của Pháp. Ngay từ đầu các yếu tố tư
bản ở Việt Nam đã mang tính “ngoại nhập”. Những xí nghiệp, hầm mỏ, đồn điền, các
hoạt động công-thương nghiệp ở Việt Nam, phần lớn đều bị tư sản Pháp thao túng. Hơn
thế nữa, với tính cách tư bản tài chính là ít chú trọng đầu tư hạ tầng mà chủ yếu là sử
dụng hình thức đổ vốn vào việc khai thác và bóc lột thuộc địa với phương châm “một
vốn bốn lời”, thì nền kinh tế tư bản ở Việt Nam cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX què cụt
hơn nhiều ở các nước tư bản công nghiệp.
Việc thực dân Pháp gán ghép chủ nghĩa tư bản một cách không đầy đủ vào Việt
Nam đã khiến cho giai cấp tư sản Việt Nam hình thành có những đặc điểm khác với tư
sản các nước phương Tây. Một đặc điểm đầu tiên là giai cấp tư sản Việt Nam hình
thành rất muộn: sau cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của Pháp (1897-1914). Trước
đó, tư sản Việt Nam đã xuất hiện nhưng chưa đủ điều kiện để hình thành một giai cấp.

Do đó có thể nói giai cấp tư sản ra đời thậm chí còn sau cả sự ra đời của giai cấp công
nhân, và giai cấp công nhân Việt Nam dường như ra đời gắn với tư sản người Pháp
nhiều hơn là với tư sản người Việt. Và như vậy, giai cấp làm tiền đề quan trọng cho sự
xuất hiện, tiếp thu hệ tư tưởng tư sản tràn vào Việt Nam giai đoạn trước chiến tranh thế
giới thứ nhất chưa có. Nhưng điều đó cũng không quyết định sự chuyển biến tư tưởng
trong cách mạng Việt Nam. Cụ thể là Phan Bội châu, Phan Châu Trinh,… bản thân
Bài tiểu luận : Lịch sử Việt Nam
22
Học viên : Lê Thanh Dũng - Cao học Lịch sử Đảng _ K16
không phải là tư sản mà vẫn tiếp thu được tư tưởng dân chủ tư sản, thành lập các tổ
chức lãnh đạo và phát động phong trào đấu tranh theo tư tưởng tưởng mới.
Bên cạnh đó, quá trình cai trị của Pháp làm thay đổi hẳn bộ mặt kinh tế xã hội Việt
Nam. Hàng loạt các thành phố theo kiểu phương Tây ra đời. Cùng với nó đã tạo ra một
bộ phận thị dân. Thị dân là những người sống ở các thành thị, gồm không phải chỉ là
một giai cấp nhất định, mà có thể là giới thương nhân, công nhân, học sinh, viên chức,
… Những thị dân này, một mặt có nhu cầu và điều kiện về sinh hoạt văn hóa, tư tưởng;
mặt khác họ được tiếp xúc với các luồng tư tưởng mới. Họ cũng là lớp người có tư
tưởng cởi mở nhất, có thể thường xuyên giao tiếp với nhau và giao tiếp với những
người đến từ các nước khác nên rất nhanh chóng tiếp thu với những thông tin, tri thức
mới…Vậy nên, bộ phận thị dân chính là nơi du nhập đầu tiên các luồng tư tưởng tiến
bộ nói chung, trong đó có tư tưởng dân chủ tư sản. Họ là lực lượng quan trọng cho
khuynh hướng đấu tranh mới và là thành phần có thể giác ngộ đông đảo quần chúng
nhân dân trong buổi giao thời.
Thị dân cũng có mâu thuẫn với chính quyền thuộc địa về chính trị. Tuy nhiên, họ
đa phần tư tưởng còn phân tán, chưa qua trải nghiệm đấu tranh. Thế nên, họ chưa thể
đóng vai trò lãnh đạo. Lãnh đạo phong trào bấy giờ là các sĩ phu Nho học, những tri
thức đang trong quá trình tư sản hóa. Lực lượng này có gắn bó thiết tha với sự nghiệp
cách mạng trước đó, những người tiếp nối trực tiếp phong trào vũ trang kháng Pháp
cuối thế kỉ XIX, mà lúc bấy giờ không có lực lượng nào khác đủ điều kiện thay thế. Họ
hình thành nên các nhóm chính trị, đề ra tôn chỉ, mục đích để vận động cách mạng với

nhiều hình thức phong phú lôi kéo quần chúng tham gia.
Những điều kiện nói trên, đặc biệt về giai cấp lãnh đạo sẽ quyết định rất nhiều tới
đặc điểm của khuynh hướng chính trị-tư tưởng dân chủ tư sản ở Việt Nam đầu thế kỉ
XX.
1.2. Các phong trào đấu tranh theo khuynh hướng dân chủ tư sản trước chiến
tranh thế giới thứ nhất
1.2.a. Phong trào Đông Du
Đây là cuộc vận động giải phóng dân tộc theo khuynh hướng dân chủ tư sản do
Phan Bội Châu khởi xướng.
Bài tiểu luận : Lịch sử Việt Nam
23
Học viên : Lê Thanh Dũng - Cao học Lịch sử Đảng _ K16
Phan Bội Châu xuất thân là một tri thức Nho học. Ông lớn lên có sự gắn bó mật
thiết với các phong trào yêu nước theo tư tưởng phong kiến trước đó. Lúc nhỏ, ông
thường cùng bạn bè chơi trò “bình Tây”. Khi Pháp đánh Bắc Kì lần thứ nhất (1883),
ông thảo hịch “Bình Tây thu bắc” để kêu gọi nhân dân chống Pháp. Năm 1885, hưởng
ứng chiếu Cần Vương, ông lập “Đội Thí sinh quân”. “Tiếp đó là mười năm dạy học,
mở rộng giao du, tìm những người đồng tâm, đồng chí bí mật liên lạc với các dư đảng
Cần Vương…”
5
Trong buổi giao thời, tư tưởng dân chủ tư sản bên ngoài dội vào ngày càng nhiều.
Trong đó, gương tự cường của Nhật Bản theo chủ nghĩa dân chủ tư sản có sức hấp dẫn
lớn đối với các sĩ phu yêu nước tiến bộ. Nó giúp cho các sĩ phu khắc phục nhanh chóng
sự luyến tiếc chế độ phong kiến, cung cấp cho họ nhiều kiến thức mới về tư tưởng
chính trị và truyền cho họ ngọn lửa nhiệt tình cách mạng. Cả châu Á xuất hiện phong
trào “Châu Á bừng tỉnh”. Lúc này bất luận là cách mạng Ba Tư, Thổ Nhĩ Kỳ, Trung
Quốc hay là cuộc đấu tranh chống Anh của Ấn Độ do Tilak lãnh đạo đều mang tính
quần chúng rộng rãi và thêm vào đó tính chất mới-tính chất tư sản. Điều đáng nói ở đây
là sự vùng lên của phong trào “Châu Á bừng tỉnh” đều có ảnh hưởng ít nhiều từ phong
trào Minh Trị Duy Tân (1868). Thành công của nước Nhật trên con đường cải cách và

công nghiệp hóa sau Minh Trị Duy Tân, rồi chiến thắng trong cuộc chiến tranh Nga-
Nhật (1904-1905), đã cổ vũ các dân tộc phương Đông về khả năng khắc phục tình trạng
lạc hậu và khả năng phục hưng của mỗi nước. Phan Bội Châu và một số sĩ phu cấp tiến
Việt Nam mở đường Đông Du bởi sự thôi thúc và hấp dẫn của tấm gương phục hưng tự
cường từ nước “đồng chủng, đồng văn” này.
Tháng 1 năm 1905, một số sĩ phu Việt Nam do Phan Bội Châu đứng đầu sang
Nhật cầu viện. Nhưng Nhật từ chối giúp đỡ viện trợ quân sự cho Việt Nam. Điều này
cũng dễ hiểu. Muốn có độc lập tự do thì không thể trông chờ vào người khác được,
huống chi bản thân Nhật là một nước đế quốc. Luận thuyết đồng chủng, đồng văn của
chúng chẳng qua là một trò bịp bợm. Chủ nghĩa đế quốc “hút máu người” thì không kể
đó là cùng màu da hay chủng tộc. Đế quốc làm gì đều có sự tính toán. Nếu họ có đem
5
Nguyễn Ngọc Cơ (chủ biên) (2005), Lịch sử Việt Nam từ năm 1858-1918, Nxb Đại học sư
phạm., 151
Bài tiểu luận : Lịch sử Việt Nam
24
Học viên : Lê Thanh Dũng - Cao học Lịch sử Đảng _ K16
quân giúp đỡ nước ta thì nhất định sẽ mang theo âm mưu nào đó, thậm chí đó là một
mối hiểm họa mới mà chính ta rước vào. Từ đó, Phan Bội Châu nhận ra vấn đề quan
trọng muốn giải phóng dân tộc là phải xây dựng thực lực của chính mình. Việc cầu viện
quân sự từ đây đã biến thành xuất dương du học.
Mặc dù Nhật không giúp Việt Nam quân sự nhưng hứa giúp du học sinh Việt Nam
ăn học. Từ năm 1906, phong trào Đông Du đi vào hoạt động ngày càng rầm rộ trên cả
ba miền đất nước. Hàng loạt tác phẩm của Phan Bội Châu được dịch từ chữ Hán ra chữ
Quốc ngữ, gửi về nước. Những năm 1907 - 1908 là thời kì phong trào Đông Du phát
triển mạnh nhất. “Năm 1908, số du học sinh lên tới 200 người, trong đó có hơn 100
người quê ở Nam Kì, 50 người quê ở Bắc Kì, và 40 người quê ở Trung kì”
6
.
Chương trình học tập ở đây khá đa dạng, chủ yếu là học tri thức phổ thông và tri

thức quân sự. Phan Bội Châu cùng các đồng chí của ông lập ra Hội Việt Nam Công
Hiến (10/1907). Hội chú trọng tổ chức những buổi sinh hoạt chính trị giúp học sinh rèn
luyện tư tưởng, đạo đức cách mạng. Hệ thống tổ chức bố trí nhân sự và điều hành hoạt
động ở đây giống như một chính phủ lâm thời.
Cũng chính vào lúc này, Pháp nhận thấy sự phát triển của phong trào Đông Du
ngày càng gây bất lợi cho chúng. Pháp-Nhật câu kết nhau đàn áp cách mạng Việt Nam.
Tháng 9 năm 1908, Bộ Nội vụ Nhật hạ lệnh giải tán tổ chức học sinh Việt Nam, đuổi
học sinh ra ngoài nước Nhật. Phía Pháp ở Việt Nam bắt buộc các phụ huynh có con em
du học tại Nhật phải viết thư gọi về, nhiều người còn bị bắt giam. Tháng 2 năm 1909,
Phan Bội Châu và Cường Để cũng bị trục xuất khỏi Nhật.
Có thể khẳng định, Đông Du là hoạt động đầu tiên chống chủ nghĩa thực dân trên
nền tảng duy tân, đổi mới. Đây là một cuộc đổi mới từ tư duy yêu nước, cứu nước
truyền thống là bạo động để khôi phục độc lập dân tộc đã chuyển sang tư duy cải cách,
đề cao việc học tập tiến bộ. Xuất dương cầu học là một quyết định mang tính đột phá,
thay đổi hướng đi và phương pháp đấu tranh, mở cửa hướng ra bên ngoài để học hỏi,
tiếp nhận những cái mới cho phong trào giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Phan Bội
Châu, chính là con người với hoài bão cách tân, đứng trước bế tắc của lịch sử dân tộc
đã cố gắng đi tìm lời giải đáp: tự cường để cứu nước. Xuất phát điểm của Phan Bội
Châu chính là lòng yêu nước, thương dân-nền tảng vĩ đại đưa ông suốt cuộc đời phấn
6
Nguyễn Khánh Toàn (2004), Lịch sử Việt Nam, tập II (1958-1945), Nxb Khoa học xã hội, 144
Bài tiểu luận : Lịch sử Việt Nam
25

×