Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

Tội đánh bạc theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn quận nam từ liêm, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (342.79 KB, 86 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN ĐỨC DŨNG

TỘI ĐÁNH BẠC TỪ THỰC TIỄN QUẬN NAM TỪ LIÊM
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI - 2021


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN ĐỨC DŨNG

TỘI ĐÁNH BẠC TỪ THỰC TIỄN QUẬN NAM TỪ LIÊM
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS: PHÙNG THẾ VẮC

HÀ NỘI - 2021



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các kết
quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số
liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy, trung thực.
Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính
theo quy định của Học viện Khoa học Xã hội.
Vậy, tôi viết lời cam đoan này đề nghị Học viện Khoa học Xã hội xem xét
để tơi có thể bảo vệ luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Đức Dũng


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU............................................................................................................................................... 1
1.1 Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội đánh bạc trong luật
hình sự Việt Nam..................................................................................................................... 7
1.2 Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của Luật hình sự Việt
Nam về tội đánh bạc........................................................................................................... 16
1.3. Tội Đánh bạc trong pháp luật hình sư một số nước trên thế giới:.....20
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
HIỆN HÀNH VỀ TỘI ĐÁNH BẠC VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI
QUẬN NAM TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI.................................................... 25
2.1. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay về tội Đánh bạc
.................................................................................................................25
2.2 Thực tiễn áp dụng pháp luật về tội Đánh bạc tại Tòa án nhân dân
quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội.................................................................... 36
Chương 3: MỘT SỐ YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN GĨP

PHẦN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TRONG PHỊNG CHỐNG TỘI
PHẠM VỀ TỘI ĐÁNH BẠC................................................................................................. 58
3.1. Một số yêu cầu cơ bản góp phần khơng ngừng hồn thiện quy
định và áp dụng pháp luật trong phòng chống tội phạm đánh bạc.............58
3.2 Một số giải pháp cơ bản góp phần nâng cao chất lượng trong
phòng chống tội phạm về tội đánh bạc:.................................................................... 67
KẾT LUẬN....................................................................................................................................... 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................ 76


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS

: Bộ luật hình sự

BLTTHS

: Bộ luật tố tụng hình sự

CSĐT

: Cảnh sát điều tra

HSST

: Hình sự sơ thẩm

HĐTP


: Hội đồng Thẩm phán

TNHS

: Trách nhiệm hình sự

TAND

: Tịa án nhân dân

TANDTC

: Tịa án nhân dân tối cao

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1 Tổng số vụ án, số bị cáo phải xét xử, số bị cáo đã xét xử về tội đánh
bạc trên tổng số vụ án, số bị cáo đưa ra xét xử trên địa bàn quận Nam Từ
Liêm (2016 – 6/2020)................................................................................................................... 39
Bảng 2.2 Hình phạt của các bị cáo đã bị xét xử về tội đánh bạc trên địa bàn
quận Nam Từ Liêm (2016-2020)............................................................................................ 44
Bảng 2.3 Hình phạt bổ sung đối với các bị cáo đã bị xét xử về tội đánh bác
trên địa bàn quận Nam Từ Liêm (2016-2020)................................................................. 45



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quận Nam Từ Liêm là một quận nội thành nằm ở phía tây trung tâm Thủ đô
Hà Nội, Việt Nam. Quận Nam Từ Liêm được thành lập vào năm 2013 trên cơ sở
2

chia tách địa giới hành chính huyện Từ liêm (cũ) có diện tích 32,27 km , dân số là
236.700 người (2017). Tuy mới được thành lập, nhưng quận Nam Từ Liêm là một
trong những quận có tốc độ phát triển nhanh nhất của Thủ đô, nộp ngân sách Nhà
nước đạt 8.400 tỷ đồng (2018), đồng thời có nhiều cơng trình kiến trúc hiện đại và
quan trọng như Trung tâm Hội nghị Quốc gia, sân vận động Mỹ Đình, Đại lộ Thăng
Long, Trung tâm huấn luyện Vận động viên cấp cao.... đặc biệt là khu trường đua
F1 đang đi vào hoạt động được đơng đảo người dân trong và ngồi nước biết đến.
Song song với q trình phát triển nhanh chóng của quận Nam Từ Liêm, đã
kéo theo rất nhiều vấn đề buộc chính quyền địa phương phải giải quyết như giáo
dục, việc làm, nhà ở, vui chơi, giải trí.... Đồng thời, cùng với việc một số lượng
không nhỏ dân cư từ khác tỉnh thành, khu vực khác đến sinh sống, học tập, làm việc
đã làm tình hình an ninh trật tự xã hội diễn biến hết sức phức tạp, tập trung chủ yếu
tại các điểm “nóng” như khu vực bến xe Mỹ Đình, khu vực Đình Thơn, khu vực
Phú Đơ. Khơng những vậy, việc nở rộ các ngành nghề nhạy cảm như karaoke,
massage, cầm đồ, đòi nợ thuê, cho vay lãi chính là một trong những ngun nhân
làm tình hình tội phạm về ma túy, trật tự xã hội gia tăng cả về số lượng, cũng như
tính chất mức độ của các loại tội phạm.
Là một quận non trẻ đang trên đà phát triển, bên cạnh việc tập trung xây
dựng cơ sở hạ tầng, phát triển trên mọi lĩnh vực, quận Nam Từ Liêm cũng hết sức
quan tâm đến công tác đấu tranh, phịng, chống tội phạm nói chung, đặc biệt là các
tội phạm liên quan đến đánh bạc nói riêng.
Tội đánh bạc là hành vi nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm hại tới trật tự
công cộng, xâm hại tới đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về phòng
chống các tệ nạn xã hội, mà còn là nguyên nhân của các loại tội phạm khác như

trộm cắp tài sản, cho vay nặng lãi, cưỡng đoạt tài sản... Đồng thời hành vi đánh bạc
cũng là nguyên nhân gây thiệt hại về tinh thần, vật chất cho nhiều gia đình, làm tha

1


hóa đạo đức một phần khơng nhỏ bộ phận người dân, ảnh hưởng đến nếp sống văn
minh mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta đang hướng tới.
Qua nghiên cứu thực tiễn, tình hình tội phạm về đánh bạc trong những năm
qua trên địa bàn quận Nam Từ Liêm không gia tăng mạnh về số lượng, nhưng về
phương thức diễn ra hết sức tinh vi, phức tạp, sử dụng các phương tiện, phần mềm
điện tử nhằm lôi kéo nhiều người chơi và qua mặt các cơ quan chức năng.
Trong quá trình áp dụng pháp luật Hình sự, để xử lý những hành vi đánh bạc,
các cơ quan tố tụng và một số cơ quan Nhà nước khác vẫn còn những quan điểm chưa
thống nhất, dẫn đến hiệu quả pháp luật chưa cao. Hơn nữa theo quy định của BLHS
năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017, tội đánh bạc vẫn còn một số quy định mới
chưa được hướng dẫn, giải đáp kịp thời dẫn đến việc áp dụng chưa thống nhất.

Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài:“Tội Đánh bạc theo pháp luật hình sự
Việt Nam từ thực tiễn quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội” không những có ý
nghĩa sâu sắc về mặt lý luận mà cịn góp phần làm rõ những hạn chế, vướng mắc
trong quá trình định tội danh và quyết định hình phạt. Ngồi ra, trong một chừng
mực nhất định, việc nghiên cứu đề tài sẽ góp phần vào việc kiến nghị hồn thiện các
quy định của pháp luật về tội “ Đánh bạc”, đồng thời nâng cao hiệu quả trong công
tác xét xử, phịng, chống tội phạm trên địa bàn nói riêng và cả nước nói chung.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm qua, đã có rất nhiều các cơng trình nghiên cứu, cơng trình
khoa học của nhiều tác giả về tội đánh bạc cùng với các giáo trình, sách tham khảo,
sách bình luận, các bài viết và các bài bình luận được đăng trên tạp chí uy tín trong
ngành Luật, điển hình như:

a) Dưới góc độ các bộ luật, giáo trình, sách tham khảo:
- Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, Nxb Chính trị Quốc
gia Sự thật, Hà Nội;
- Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Nxb Cơng an nhân dân, Hà Nội;
- Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội;
- GS.TSKH. Lê Cảm, PGS.TS Trịnh Quốc Toản (2011), Định tội danh: Lý luận,
lời giải mẫu và 500 bài tập thực hành, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội;

2


- GS.TSKH. Lê Cảm (2005), Sách chuyên khảo Sau đại học: Những vấn đề
cơ bản trong khoa học Luật hình sự (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,
Hà Nội;
- GS.TS. Nguyễn Ngọc Hịa (chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự
năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, Nxb Tư pháp, Hà Nội;
.......
b) Dưới góc độ các luận văn Thạc sĩ:
- Bùi Minh Giang (2014), Tội đánh bạc theo Luật hình sự Việt Nam và thực
tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Hịa Bình, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật Đại
học Quốc gia Hà Nội;
- Hoàng Thị Yến (2018), Tội đánh bạc theo Luật hình sự Việt Nam và thực
tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện
khoa học xã hội - Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam;
.....
Các cơng trình trên về cơ bản đã đánh giá khái quát được tình hình tội đánh
bạc trên phạm vi cả nước hoặc trên một số địa bàn nhất định, xác định các nguyên
nhân của tội phạm và từ đó đưa ra các biện pháp phịng ngừa tội phạm này.
Tuy nhiên, chưa có cơng trình nghiên cứu độc lập, có hệ thống ở cấp độ luận
văn thạc sĩ dưới góc độ pháp lý hình sự và thực tiễn xét xử về tội đánh bạc từ thực

tiễn tại Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Vì vậy, việc nghiên
cứu đề tài “ Tội Đánh bạc từ thực tiễn quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội” là
cần thiết, thông qua quá trình nghiên cứu Luận văn này, tác giả đi sẽ sâu tìm hiểu
tồn diện về tội đánh bạc trên địa bàn quận Nam Từ Liêm, cũng học hỏi những cơng
trình nghiên cứu của các tác giả, học giả, các nhà khoa học đi trước, kết hợp phân
tích tình hình thực tế để tìm ra nguyên nhân của những tồn tại, bất cập trong việc áp
dụng pháp luật hình sự đối với loại tội phạm này, từ đó đưa ra những giải pháp,
cũng như đưa ra những đề xuất kiến nghị góp phần hồn thiện hệ thống pháp luật.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu một số vấn đề về lý luận cơ bản của pháp luật Việt Nam
về tội đánh bạc đồng thời so sánh với các quy định pháp luật của tội này đối với một
số nước trên thế giới. Cũng như phân tích thực trạng áp dụng pháp luật

3


trong xét xử tại Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, từ đó chỉ ra những vướng
mắc, hạn chế còn bất cập và đề xuất các giải pháp nhằm hồn thiện hơn các quy
định của Bộ luật hình sự về tội đánh bạc
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên đây, luận văn thực hiện các nhiệm vụ
chính sau đây:
- Nghiên cứu một số vấn đề chung về tội đánh bạc để góp phần sâu sắc và
hoàn thiện hơn các vấn đề về lý luận của tội danh theo pháp luật Việt Nam.
- Quy định về tội đánh bạc trong Bộ luật hình sự Việt Nam và thực tiễn áp
dụng của Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, Hà Nội.
- Hoàn thiện các quy định pháp luật và kiến nghị các giải pháp nâng cao hiệu
quả áp dụng quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về tội đánh bạc.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu cơ sở pháp lý cơ bản về tội đánh bạc, thực tiễn áp dụng
pháp luật trong xét xử đối với loại tội này tại Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm,
thành phố Hà Nội. Đồng thời, luận văn sẽ làm nổi bật tình hình phức tạp của loại tội
phạm này cả về cách thức, sự phổ biến cũng như quy mơ, từ đó rút ra những phương
pháp đúng đắn trong cơng tác phịng, chống tội phạm về đánh bạc.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn nghiên cứu đề tài dưới góc độ chun ngành luật hình sự và tố
tụng hình sự, đồng thời dưới góc độ thực tiễn áp dụng pháp luật tội đánh bạc của
Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, trong thời gian 05 năm từ
năm 2015 đến năm 2020
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lê
nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng về Nhà nước và Pháp luật, về
quyền con người, về tội phạm và hình phạt, về đấu tranh phịng ngừa và chống tội
phạm, về cải cách tư pháp và những luận điểm khoa học trong các cơng trình nghiên
cứu, sách chun khảo, các bài viết trên các tạp chí chuyên ngành.

4


5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp đặc thù của khoa học luật hình sự như:
Phương pháp tổng hợp, phương pháp đánh giá, phương pháp phân loại, phương
pháp phân tích, phương pháp liệt kê và một số phương pháp khác, đồng thời có
tham khảo, kế thừa và sử dụng các kết quả nghiên cứu khoa học của các tác giả đã
nghiên cứu trước đó.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận

Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện về mặt lý luận đối với
tội đánh bạc trong khoa học luật hình sự Việt Nam, cụ thể:
- Đưa ra khái niệm, nghiên cứu các dấu hiệu pháp lý của tội đánh bạc
- Phân tích, khái quát lịch sử hình thành và quá trình phát triển của luật hình
sự Việt Nam đối với tội đánh bạc.
- Liệt kê một số quy định của các nước trên thế giới về tội đánh bạc, đồng
thời so sánh với quy định pháp luật về tội này tại Việt Nam.
- Phân tích thực tiễn xét xử trên địa bàn quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà
Nội nhằm chỉ ra vướng mắc, hạn chế, nhằm đưa ra những giải pháp hoàn thiện
BLHS đối với các quy định của tội này.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Với kết quả nghiên cứu các khía cạnh lý luận, pháp luật và thực tiễn của tội
trộm cắp tài sản, Luận văn là tài liệu có giá trị tham khảo cho các cấp cơ quan có
thẩm quyền sữa đổi, bổ sung quy định của pháp luật về và có liên quan đến tội đánh
bạc. Ngồi ra, Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong khởi tố
điều tra, truy tố, xét xử và trong nghiên cứu giảng dạy và học tập về Luật hình sự
nói chung và về tội đánh bạc nói riêng.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 3 chương
như sau:
Chương 1: Những vấn đề chung về tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam
và quy định về tội đánh bạc của các nước trên thế giới

5


Chương 2: Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về tội đánh
bạc và thực tiễn áp dụng tại quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội
Chương 3: Một số yêu cầu và giải pháp cơ bản góp phần nâng cao chất
lượng trong phịng chống tội phạm về tội đánh bạc


6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1 Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội đánh bạc trong luật hình sự Việt Nam

1.1.1 Khái niệm tội đánh bạc trong luật hình sự Việt Nam
Theo GS.TSKH Lê Cảm, khái niệm về tội phạm như sau :”Tội phạm là một
hiện tượng xã hội – pháp lý gắn liền với sự ra đời của nhà nước và pháp luật, cũng
như với sự sở hữu tư nhân và sự phân chia xã hội thành các giai cấp đối kháng”[3,
tr.287]. Vì vậy, để bảo vệ đặc quyền của mình, Nhà nước sẽ quy định những hành
vi nào là hành vi được xem là tội phạm và áp dụng trách nhiệm hình sự đối với hành
vi đó. Khái niệm về tội phạm được quy định tại Điều 8 Bộ luật hình sự năm 2015
như sau:
“ Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật
hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực
hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc
phịng, an ninh, trật tự, an tồn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm
phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những
lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật
này phải bị xử lý hình sự”.
Với định nghĩa này, các nhà làm luật định nghĩa tội phạm có bốn đặc điểm
cơ bản đó là: hành vi nguy hiểm cho xã hội, do người có năng lực trách nhiệm hình
sự thực hiện, và trái với pháp luật hình sự.
Về khái niệm tội phạm cụ thể, tội đánh bạc là sự cụ thể hóa khái niệm tội
phạm, tuy nhiên hiện nay trong khoa học luật hình sự cịn nhiều quan điểm khác

nhau về khái niệm của tội đánh bạc, cụ thể:
Theo từ điển Tiếng Việt:”Đánh bạc được hiểu là chơi các trò chơi ăn thua
bằng tiền”[52]

7


Tác giả Đinh Văn Quế cho rằng:”Đánh bạc là tham gia trị chơi có được thua
bằng tiền hoặc tài sản dưới bất kỳ hình thức nào” [28 tr.176];
Cịn tác giả Nguyễn Ngọc Điệp cho rằng:”Đánh bạc được hiểu là nhiều
người (ít nhất hai người trở lên) cùng tham gia thực hiện hành vi được thua bằng
tiền hay hiện vật dưới bất kỳ hình thức nào” [17, tr.295]
Cả ba quan điểm trên đều chưa làm rõ khái niệm về tội đánh bạc cũng như
chưa làm nổi bật và đầy đủ những đặc trưng của tội phạm. Đặc biệt với bối cảnh
công nghệ phát triển, người chơi có thể đánh bạc đổi thưởng ra tiền mặt với “máy
tính” là các trị chơi trực tuyến, nên không thể quy định cứng nhắc đánh bạc là ít
nhất hai người trở lên cùng tham gia được.
Theo một quan điểm trong cuốn từ điển Luật học (2006):”Đánh bạc là (hành
vi) tham gia vào trò chơi được tổ chức bất hợp pháp mà sự được (hoặc thua) kèm
theo việc được (hoặc mất) lợi ích vật chất đáng kể (tiền, hiện vật hoặc các tài sản
khác). Đánh bạc là hành vi nguy hiểm cho xã hội, không chỉ ảnh hướng xấu đến gia
đình và cá nhân người chơi mà cịn có thể là ngun nhân của tệ nạn xã hội và tội
phạm khác” [48, tr.227].
Quan điểm này đã nêu được khách thể của tội phạm xâm phạm đến, tuy
nhiên vẫn chưa nêu cụ thể hành vi phạm tội và dấu hiệu chủ thể của tội phạm này.
Cũng theo khoản 1 Điều 1 Nghị quyết 01/2010 ngày 22/10/2010 của HĐTP
TANDTC:“Đánh bạc trái phép” là hành vi đánh bạc được thực hiện dưới bất kỳ hình
thức nào với mục đích được thua bằng tiền hay hiện vật mà không được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền cho phép hoặc được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép
nhưng thực hiện không đúng với quy định trong giấy phép được cấp.”[41]


Theo tác giả, đây là quan điểm rõ ràng nhất về định nghĩa tội danh đánh bạc
dưới góc độ khoa học hình sự, khái niệm về tội đánh bạc đã được thể hiện đầy đủ
với toàn bộ các đặc điểm (dấu hiệu) của tội phạm, đồng thời cũng thể hiện sự trái
pháp luật đối với các quy định của Nhà nước.
Từ khái niệm trên có thể nhận ra được các đặc điểm của tội đánh bạc như sau:

Thứ nhất, tội đánh bạc là hành vi tham gia trò chơi trái phép được thua bằng
tiền hay hiện vật từ năm triệu đồng trở lên dưới nhiều hình thức khác nhau mà trái

8


pháp luật, xâm hại đến trật tự, an tồn cơng cộng, hoặc dưới năm triệu đồng, nhưng
đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc kết án về hành vi này hoặc về hành vi Tổ
chức đánh bạc theo quy định tại Bộ luật hình sự chưa được xóa án tích mà cịn vi
phạm.
Thứ hai, người thực hiện hành vi đánh bạc có đủ năng lực trách nhiệm hình
sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự dưới hình thức lỗi cố ý trực tiếp.
Thứ ba, Tội đánh bạc nằm trong nhóm tội xâm phạm đến trật tự cơng cộng.
Trật tự công cộng là hệ thống các quan hệ xã hội được hình thành và điều chỉnh bởi
các quy định của pháp luật và các nội quy, quy tắc về trật tự chung, an tồn chung,
mà địi hỏi mọi thành viên của xã hội phải tuân theo những quy định chung đó nhằm
đảm bảo cho cuộc sống, lao động, sinh hoạt bình thường của mọi người trong xã
hội. Vì vậy, đi ngược lại với điều này chính là xâm phạm trật tự công cộng và phải
bị xử lý theo quy định tại Bộ luật hình sự của nước Cộng hịa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam trong trường hợp hành vi vi phạm đó đủ yếu tố cấu thành tội phạm.[54]
1.1.2 Các dấu hiệu pháp lý của tội đánh bạc
Căn cứ Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định về tội đánh bạc như sau:


“1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng
tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới
5.000.000 đồng, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy
định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại
Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà cịn vi phạm, thì bị phạt cải
tạo khơng giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm
đến 07 năm:
a) Có tính chất chun nghiệp;
b) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá 50.000.000 đồng trở lên;
c) Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện
điện tử để phạm tội;
d) Tái phạm nguy hiểm.

9


3. Người phạm tội cịn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000
đồng.”[36]
Từ quy định nêu trên, chúng ta có thể thấy dấu hiệu pháp lý của tội đánh bạc
có đặc điểm như sau:
- Khách thể của tội phạm:
Khách thể của tội phạm là một trong bốn yếu tố cấu thành tội phạm và được
hiểu là đối tượng bị tội phạm xâm hại. Luật hình sự coi đối tượng bị tội phạm xâm
hại là quan hệ xã hội. Bất cứ tội phạm nào cũng đều xâm hại một hoặc một số quan
hệ xã hội nhất định được Luật hình sự bảo vệ.
Có thể hiểu: “Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự
bảo vệ và bị tội phạm xâm hại.” [45].
Hoặc cũng có quan điểm khác về khách thể của tội phạm như sau: “Khách
thể của tội phạm là các quan hệ xã hội được BLHS xác lập và bảo vệ, bị tội phạm

xâm hại bằng cách gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại trong một chừng mực
nhất định. Bất kỳ tội phạm nào cũng xâm phạm đến ít nhất một khách thể được
BLHS xác lập bảo vệ.”[47].
Khách thể của tội phạm là một trong bốn yếu tố cấu thành tội phạm, là quan
hệ xã hội bị tội phạm xâm hại. Luật hình sự coi khách thể của tội phạm xâm hại là
các quan hệ xã hội. Bất cứ tội phạm nào cũng đều xâm hại một hoặc một số quan hệ
xã hội nhất định được luật hình sự bảo vệ.
Việc nhận thức như vậy về khách thể của tội phạm, về bản chất chính trị xã
hội của nó liên quan hữu cơ với khái niệm vật chất về tội phạm. Pháp luật hình sự
được xác lập để bảo vệ các quan hệ đó, góp phần phát triển và củng cố các quan hệ
xã hội bằng cách đấu tranh với các hành vi xâm hại đến các quan hệ xã hội
Xác định khách thể của tội phạm có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc làm
sáng tỏ bản chất giai cấp của luật hình sự của hệ thống pháp luật này hay hệ thống
pháp luật khác. Bản chất giai cấp của luật hình sự Việt Nam thể hiện rất rõ trong
quy định về khách thể của tội phạm. Pháp luật hình sự nước ta quy định rõ các quan
hệ xã hội bị hành vi nguy hiểm cho xã hội gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại
(điều 8 BLHS năm 2015) là khách thể của tội phạm gồm: “độc lập, chủ quyền,

10


thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế,
nền văn hóa, quốc phịng, an ninh, trật tự, an tồn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp
của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân,
xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy
định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.”[36]
Tính chất của khách thể quy định nội dung chính trị xã hội của tội phạm và
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm phạm khách thể đó. Khách thể của
tội phạm càng quan trọng thì hành vi xâm phạm khách thể đó càng nguy hiểm cho
xã hội, do vậy biện pháp bảo vệ càng nghiêm khắc.

Hành vi đánh bạc là tệ nạn xã hội tuy không trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe,
tính mạng, sở hữu của người khác nhưng cũng là một trong những hành vi gián tiếp gây
ra các hành vi vi phạm dẫn đến các hậu quả nghiêm trọng như vì đánh bạc dẫn đến nợ
nần, ép các “con bạc” đến cảnh túng quẫn phải đi trộm cắp, cướp giật, cưỡng đoạt tài
sản, thậm chí lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, cũng như giết người để
có tiền đánh bạc. Theo pháp luật hình sự Việt Nam thì tội đánh bạc trực tiếp xâm hại
đến trật tự an tồn cơng cộng, an tồn xã hội, ảnh hưởng đến thuần phong mỹ tục, đồng
thời cũng ảnh hưởng đến đời sống vật chất của cá nhân người đánh bạc, gia đình của họ
và cả xã hội. Đối với bản thân người đánh bạc, sẽ khơng cịn nghĩ đến chuyện đi làm ăn
để nuôi bản thân và gia đình, “máu” cờ bạc trong con người họ ln muốn ăn thua, dẫn
đến khơng đóng góp gì, trái lại cịn là gánh nặng khơng chỉ của gia đình mà cả xã hội.
Đối với gia đình, người thân của người đánh bạc, họ ln lo lắng người thân của mình
ham mê cờ bạc, dẫn đến phải bán hết tài sản, thậm chí có thể vi phạm pháp luật, bị xử
phạt hành chính, xử phạt tù khơng chỉ về tội đánh bạc mà có thể ở các tội danh khác với
khung hình phạt nặng hơn.

Từ những phân tích trên, chúng ta có thể thấy tội đánh bạc đều trực tiếp hoặc
gián tiếp xâm phạm đến trật tự công cộng. Như vậy cũng có thể hiểu, để bảo vệ trật
tự cơng cộng, đòi hỏi chúng ta phải đấu tranh, phòng ngừa đối với loại tội phạm này
- Mặt khách quan của tội phạm:
Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm, bao gồm những
biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan [45].

11


Cũng có quan điểm cho rằng: “Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên
ngoài của tội phạm hay là những dấu hiệu của tội phạm biểu hiện ra ngoài thế giới
khách quan, gồm các dấu hiệu: hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm
cho xã hội, mối quan hệ giữa hành vi nguy hiểm và hậu quả nguy hiểm cho xã hội,

thời gian, địa điểm phạm tội, phương pháp, thủ đoạn phạm tội, công cụ, phương
tiện phạm tội và hoàn cảnh phạm tội” [47].
Quan điểm thứ hai đã nêu bật được những đặc điểm cốt lõi của mặt khách
quan của tội phạm, thể hiện đầy đủ các dấu hiệu, trong đó ta có thể thấy hành vi
nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu khách quan, hay cịn gọi là hành vi khách quan có
tính chất bắt buộc của tất cả cấu thành tội phạm.
Hành vi nguy hiểm cho xã hội của tội phạm có đặc điểm chung giống nhau là
tính chất nguy hiểm cho xã hội, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện
xâm phạm đến quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ. Tội phạm trong BLHS rất
đa dạng nên hành vi nguy hiểm cho xã hội cũng rất đa dạng. Có tội phạm được thực
hiện bằng hành vi nguy hiểm mang tính chất đơn lẻ, để thực hiện tội phạm người
phạm tội chỉ cần thực hiện một hành vi được phản ánh trong quy định của cấu thành
tội phạm.
Hành vi khách quan là biểu hiện quan trọng nhất trong mặt khách quan của tội
phạm, giữ vai trò chi phối và quyết định những yếu tố còn lại của mặt khách quan.

Hành vi khách quan bao gồm những biểu hiện của con người ra thế giới
khách quan, đồng thời được ý thức kiểm sốt cũng như ý chí điều khiển, là kết quả
hoạt động của ý chí. Hành vi khách quan có ba đặc điểm như sau:
- Có tính chất nguy hiểm cho xã hội
- Là hoạt động có ý thức và ý chí
- Là hành vi trái pháp luật hình sự.
Bất kỳ một loại tội phạm nào cũng đều phải có hành vi khách quan, khơng có
hành vi khách quan thì khơng có tội phạm. Mặt khách quan của tội phạm là một
trong bốn yếu tố của tội phạm, khơng có các yếu tố thuộc mặt khách quan thì khơng
có các yếu tố khác của tội phạm và đương nhiên cũng khơng có tội phạm.[56]
Hành vi khách quan của tội đánh bạc cũng có những đặc điểm cơ bản chung là:

12



- Là hành vi đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng
tiền hay hiện vật có giá trị nhất định. Hành vi được thua bằng tiền hay hiện vật là
hành vi có tính chất sát phạt lẫn nhau để kiếm lời bất hợp pháp.
- Theo quy định tại Điều 321 BLHS, người thực hiện hành vi đánh bạc được
coi là tội phạm đánh bạc khi hành vi của họ thỏa mãn các điều kiện như sau:
+ Tiền hay hiện vật dùng đánh bạc có trị giá 5 triệu đồng trở lên;
+ Tiền hay hiện vật dùng đánh bạc có trị giá dưới 5 triệu đồng, nhưng
người thực hiện hành vi đánh bạc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc
hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này;
+ Tiền hay hiện vật dùng đánh bạc có trị giá dưới 5 triệu đồng, nhưng
người thực hiện hành vi đánh bạc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều
322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà cịn vi phạm.[36]
Trên đây là các căn cứ trong việc phân định giữa tội đánh bạc và hành vi vi
phạm hành chính, cũng là các đặc điểm thể hiện rõ nhất về hành vi nguy hiểm cho
xã hội theo mức độ mới bị coi là tội phạm, mà ở đây là “giá trị vật chất” dùng để
đánh bạc và nhân thân của người thực hiện hành vi đánh bạc.
Tất nhiên khi xét tổng thể, cũng cần phải nói đến tính “trái phép” trong tội
danh này, điều này được cụ thể hóa tại Nghị định số 03/2017/NĐ-CP quy định về
kinh doanh tại casino được Nhà nước cho phép để phục vụ nhu cầu giải trí của
người nước ngồi đến Việt Nam. Theo đó, người nào thực hiện hành vi đánh bạc
đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy định tại Nghị định trên, đều không được coi
là tội phạm.
Hành vi khách quan của tội đánh bạc có tính nguy hiểm cho xã hội cao, ảnh
hưởng tiêu cực đến trật tự công cộng. Bản thân người phạm tội nhận thức được
hành vi của mình là trái pháp luật.
- Chủ thể của tội đánh bạc:
Chủ thể của tội phạm là con người cụ thể đang sống đã thực hiện tội phạm
đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có năng lực trách nhiệm hình sự [47].
Hay nói cách khác chủ thể của tội phạm là con người cụ thể đã thực hiện

hành vi nguy hiểm cho xã hội trong tình trạng có năng lực trách nhiệm hình sự và

13


đạt độ tuổi luật định. Chủ thể của tội phạm là người thực hiện hành vi phạm tội
được quy định trong BLHS phải thỏa mãn ít nhất hai điều kiện: Có năng lực TNHS
và đủ tuổi chịu TNHS. Đây là dấu hiệu pháp lý thông thường của chủ thể tội phạm.
BLHS năm 2015 quy định:”Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình
thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá....”[36] Như vậy, đối với tội
đánh bạc, luật chỉ địi hỏi người phạm tội có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ
tuổi chịu TNHS.
Thứ nhất, tuổi chịu TNHS:BLHS năm 2015 quy định tuổi chịu TNHS tại
Điều 12:"1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội
phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội
phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các
điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248,
249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật
này."[35]
Như vậy, đối chiếu với quy định trên, vì tội đánh bạc không nằm trong danh
mục tại khoản 2, vì vậy tuổi của người phải chịu TNHS trong tội này là từ đủ 16
tuổi trở lên.
Thứ hai, về năng lực trách nhiệm hình sự: Năng lực trách nhiệm hình sự là
năng lực có thể phải chịu trách nhiệm hình sự của một người nếu thực hiện hành vi
phạm tội. Năng lực trách nhiệm hình sự là một dạng năng lực pháp lý. Nhà nước
xác nhận năng lực này dựa trên các cơ sở:
- Người có năng lực trách nhiệm hình sự phải là người có năng lực nhận thức
và năng lực điều khiển hành vi theo đòi hỏi của xã hội và
- Người có năng lực trách nhiệm hình sự là người có độ tuổi phù hợp với

chính sách hình sự của nhà nước trong giai đoạn cụ thể.
Cơ sở thứ nhất đảm bảo chủ thể của tội phạm là người có năng lực để có thể
có lỗi khi thực hiện hành vi có tính gây thiệt hại cho xã hội. Cơ sở thứ hai là cần
thiết để thể hiện chính sách hình sự của nhà nước đối với người chưa đủ 18 tuổi có
hành vi có tính gây thiệt hại cho xã hội.

14


Con người với cấu tạo sinh học đặc biệt luôn có khả năng hình thành và phát
triển năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi nói trên. Nhưng khả năng
đó chỉ trở thành hiện thực khi con người được sống trong môi trường xã hội và phải
qua quá trình được giáo dục và tự giáo dục nhất định. Khi đó, con người sẽ có năng
lực nhận thức được đòi hỏi của xã hội và trên cơ sở nhận thức đó có năng lực điều
khiển hành vi phù hợp với đòi hỏi của xã hội (Năng lực điều khiển hành vi ở đây
được hiểu đầy đủ là năng lực kiềm chế và năng lực lựa chọn). Năng lực này cũng
như độ tuổi để có năng lực này khơng phụ thuộc vào quy định của pháp luật. Do
vậy, năng lực này có thể được coi là năng lực “tự nhiên” của con người.
Trong trường hợp bình thường, con người đều có năng lực nhận thức và năng
lực điều khiển hành vi theo đòi hỏi của xã hội khi đạt độ tuổi nhất định. Do vậy, vẩn
đề kiểm tra năng lực này không cần được đặt ra cho mọi trường hợp mà mặc nhiên
được thừa nhận, khi chủ thể đã đạt độ tuổi nhất định đó, trừ trường hợp cá biệt khi
có nghi ngờ chủ thể khơng có năng lực này do mắc bệnh dẫn đến hoạt động của bộ
não bị rối loạn. Vấn đề được đặt ra ở đây là phải xác định độ tuổi mà ở độ tuổi đó,
chắc chắn một người bình thường sẽ có năng lực nhận thức và năng lực điều khiển
hành vi theo đòi hỏi của xã hội.
Độ tuổi để có năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi theo đòi hỏi
của xã hội ttên đây và tuổi chịu trách nhiệm hình sự (TNHS) là khác nhau nhưng có
liên quan với nhau. Tuổi chịu TNHS được quy định không thể thấp hơn tuổi có năng
lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi theo đòi hỏi của xã hội. Do vậy, luật hình

sự chỉ cần xác định tuổi chịu trách nhiệm hình sự và được hiểu khi đủ tuổi đó thì chủ
thể mặc nhiên được coi là có năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi theo
đòi hỏi của xã hội, trừ trường hợp cá biệt do mắc bệnh mà khơng có năng lực đó.

Dựa trên mối quan hệ như vậy, luật hình sự Việt Nam xác định người có năng
lực trách nhiệm hình sự là người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự (Điều 12 bộ luật
hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017) và khơng thuộc trường hợp ở trong
tình trạng khơng có năng lực nhận thức hoặc năng lực điều khiển hành vi theo đòi
hỏi của xã hội (Điều 21 bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 gọi là
tình trạng khơng có năng lực trách nhiệm hình sự).

15


Luật hình sự Việt Nam khơng trực tiếp quy định như thế nào là có năng lực
trách nhiệm hình sự mà chỉ quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự và quy định thế nào
là trường hợp trong tình trạng khơng có năng lực nhận thức hoặc năng lực điều khiển
hành vi theo đòi hỏi của xã hội. Với việc quy định này, luật hình sự Việt Nam mặc
nhiên thừa nhận người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự là có năng lực trách nhiệm hình
sự (trong đó bao gồm cả năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi theo đòi
hỏi của xã hội), trừ trường hợp cá biệt do bị bệnh mà khơng có năng lực nhận thức hoặc
năng lực điều khiển hành vi theo đòi hỏi của xã hội. Do vậy, trong thực tiễn áp dụng,
các cơ quan có trách nhiệm khơng địi hỏi phải đánh giá từng trường hợp một là có
năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi theo đòi hỏi của xã hội hay không
mà chỉ phải xác định đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự hay chưa và cá biệt, nếu có sự
nghi ngờ mới cần phải kiểm tra xem có phải là trường hợp trong tình trạng khơng có
năng lực TNHS hay khơng (tình trạng khơng có năng lực nhận thức hoặc năng lực điều
khiển hành vi theo đòi hỏi của xã hội).

1.2 Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của Luật hình sự Việt Nam về

tội đánh bạc
a) Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước khi ban hành
BLHS năm 1985
Ngày 14/4/1948, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ban hành Sắc
lệnh số 168/SL – Văn bản pháp luật hình sự đầu tiên của Nhà nước ta quy định về
tội cờ bạc. Có thể thấy, Sắc lệnh này thể hiện đường lối cứng rắn, thái độ nghiêm
khắc của Nhà nước đối với loại tội phạm này.Điều I của Sắc lệnh này quy định:
“Tất cả các trò chơi cờ bạc, dù là có tính cách may rủi hay là có thể dùng trí
khơn để tính nước, mà được thua bằng tiền, đều coi là tội đánh bạc và bị phạt như sau.

Những cuộc đánh đố nhau bằng tiền, những cuộc xổ số bằng tiền hay bằng
đồ mà không có nhà chức trách có thẩm quyền cho phép trước, cũng đều bị phạt
như tội đánh bạc.”
Điều II của Sắc lệnh quy định:
“Những người nào đánh bạc hay dự vào các cuộc chơi nói trên sẽ bị phạt tù
từ một năm đến ba năm và phạt bạc từ 5,000đ đến 50,000 đồng.

16


Bao nhiêu đồ đạc trần thiết nơi đánh bạc,các dụng cụ dùng vào việc đánh
bạc, tiền nong bắt được trên bàn hay chiếu, đều bị tịch thu”.
Ngoài ra, Điều IV Sắc lệnh cũng quy định:
“Dù rằng Tòa án xét xử có nên giảm, cũng bắt buộc áp dụng hình phạt tối
thiểu về tù và tiền trong Điều II và Điều III trên đây. Tòa án phải phạt vừa tù và
tiền mà không cho bị cáo hưởng can hưởng treo. Nếu có trường hợp tái phạm, hình
phạt sẽ tăng gấp đơi” [9]
Như vậy, có thể thấy từ những ngày đầu tiên của pháp luật hình sự, tội đánh
bạc cũng đã được quy định khá rõ ràng và rất nghiêm khắc, phù hợp với bối cảnh
lúc bấy giờ.

Sắc lệnh 168/SL là căn cứ pháp lý quan trọng trong việc phòng chống các tội
cờ bạc nói chung và tội đánh bạc nói riêng. Tuy nhiên sau đó, tình hình kinh tế, xã
hội chính trị của miền Bắc có nhiều thay đổi, một số quy định của sắc lệnh đã khơng
cịn phù hợp và cần được sửa đổi cho phù hợp với tình hình mới. Chính vì vậy,
thơng tư 301/VHH-HS ngày 14/2/1957 và thơng tư 2098/VHH-HS ngày 31/5/1957
đã được ban hành để giải quyết một phần những vướng mắc của Sắc lệnh 168/SL.
Ngoài Sắc lệnh số 168-SL, sau này Nhà nước có ban hành Nghị định số 32 ngày
06/04/1952, Sắc luật 03-SL/76 ngày 15/3/1976. Nhìn chung, các văn bản nêu trên
chưa hồn thiện về mặt lập pháp do bối cảnh nên kinh tế, chính trị và xã hội còn
nhiều biến động, các nhà làm luật chưa thực sự có kinh nghiệm và hiểu biết rõ ràng.
Tuy nhiên, đây là những cơ sở pháp lý quan trọng đầu tiên để đấu tranh phòng,
chống tội phạm cờ bạc, thực hiện những nhiệm vụ xây dựng xã hội của Nhà nước ta
trong giai đoạn lịch sử này và cũng là cơ sở để xây dựng những quy định pháp luật
hình sự.
b) Giai đoạn từ khi ban hành BLHS năm 1985 đến năm 1999:
BLHS năm 1985 là BLHS đầu tiên của nước ta, trong đó đã quy định tất cả
về tội phạm, hình phạt, đồng thời cũng thay thế cho toàn bộ các văn bản pháp luật
đã áp dụng trước đó. Các nội dung mới của BLHS năm 1985 đã giúp các quy phạm
pháp luật về tội đánh bạc được thể hiện khoa học hơn.

17


Có một điểm đáng chú ý trong BLHS năm 1985, đó là cả ba tội danh về cờ
bạc là tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc và gá bạc đều được quy định chung trong một
điều luật. Tuy rằng việc gộp chung cả ba tội này đã có bước tiến lớn về kỹ thuật lập
pháp, đi sâu hơn về khoa học hình sự, thế nhưng điều này vẫn bộc lộ rõ những hạn
chế cần khắc phục. Cụ thể là chưa có sự phân hóa về TNHS, cịn có sự chồng chéo
về các yếu tố cấu thành tội phạm, đặc biệt là chưa chỉ rõ về ranh giới giữa ba tội
trong hành vi phạm tội và hành vi vi phạm hành chính, dẫn đến chưa có sự thống

nhất trong việc xử lý, giải quyết giữa các cơ quan chức năng, làm phát sinh nhiều
bất cập, đòi hỏi sự ra đời của một Bộ luật hình sự mới.
c)

Giai đoạn từ khi ban hành BLHS năm 1999 đến năm 2015:
BLHS năm 1999 được Quốc hội khố X thơng qua ngày 21 tháng 12 năm

1999. Theo đó các quy định mới về tội danh, quyết định hình phạt, nguyên tắc xử
phạt, xử lý vật chứng đã khá rõ rệt, giúp ích cho các cơ quan chức năng nói chung
và đặc biệt là các cơ quan tiến hành tố tụng nói riêng tháo gỡ được các vướng mắc
mà BLHS năm 1985 để lại khi không theo kịp sự đổi mới của xã hội.
Điểm mới rõ rệt nhất, đó là các nhà làm luật đã chia tách 03 tội danh về cờ
bạc thành 02 điều luật, đó là Điều 248: Tội đánh bạc và Điều 249: Tội tổ chức đánh
bạc và gá bạc. Tuy nhiên, qua quá trình áp dụng thực tiễn,các cơ quan áp dụng pháp
luật còn gặp nhiều vướng mắc, một phần do điều luật chưa quy định rõ ràng, chi
tiết, cụ thể, một phần do sự chuyển mình quá nhanh của con người, xã hội, cơng
nghệ, nên Tịa án nhân dân tối cao đã ban hành 03 Nghị quyết qua từng thời kỳ
hướng dẫn áp dụng đối với tội danh này, cụ thể:
- Nghị quyết số 02/2003/NQ - HĐTP của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao
ngày 17 tháng 4 năm 2003, hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS năm 1999.
- Nghị quyết số 01/2006/NQ - HĐTP của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao
ngày 12 tháng 5 năm 2006, hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS năm 1999.
- Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao

ngày 22 tháng 10 năm 2010, hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Điều 248 và
Điều 249 BLHS năm 1999.

18



Sự ra đời của ba Nghị quyết trên góp phần rất lớn trong việc áp dụng pháp luật, tháo
gỡ nhiều nút thắt, những vướng mắc của các cán bộ nhân danh Nhà nước nhằm
hướng đến sự công bằng, xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Đặc biệt đối với Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán
TAND tối cao cho đến hiện nay vẫn còn được áp dụng mặc dù BLHS năm 2015 sửa
đổi bổ sung năm 2017 đã được ban hành và áp dụng từ lâu. Điều đó cũng cho thấy
một bất cập, đó là chưa có một văn bản dưới luật nào kịp thời hướng dẫn với những
khó khăn mới, những hạn chế mới trong việc áp dụng pháp luật ở thời điểm hiện tại
mà BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 chưa thể quy định rõ,
d)

Giai đoạn từ khi ban hành BLHS năm 2015 cho đến nay:
Ngày 27/11/2015, BLHS năm 2015 đã được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội

Chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thơng qua. Căn cứ Điều 426 cũng là
điều cuối cùng của BLHS năm 2015, ngày 01/7/2016 là ngày có hiệu lực thi hành,
đồng thời BLHS năm 1999 cũng hết hiệu lực thi hành từ ngày này.
Tuy nhiên, sau khi ban hành BLHS năm 2015, qua rà soát, tổng hợp ý kiến
của các chuyên gia, các nhà làm luật, các cơ quan tư pháp, hành pháp, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội ghi nhận có đến hơn 90 nội dung sai sót dẫn đến phải có một
phiên họp khẩn, bỏ phiếu hoãn thi hành BLHS năm 2015 vào ngày 29/6/2016 (tức
là chỉ vài ngày trước khi BLHS năm 2015 có hiệu lực).
Ngày 20/6/2017, Quốc hội đã ban hành Luật số 12/2017/QH14 về việc sửa
đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015, có hiệu lực từ ngày 01/01/2018,
đồng thời cũng ban hành Nghị quyết 41 cùng ngày để hướng dẫn thi hành Luật trên.
Việc ban hành Luật số 12 và Nghị quyết hướng dẫn, đã giải quyết triệt để các sai sót
của BLHS năm 2015, trong đó có tội đánh bạc quy định tại Điều 321 như sau:
“120. Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 321 như sau:
“1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng
tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới


5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành
vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy
định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà cịn vi phạm, thì bị

19


×