Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

Giáo trình lịch sử các học thuyết pháp lý phần 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (584.61 KB, 62 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO TỪ XA
Chủ biên: PGS.TS Đồn Minh Duệ

GIÁO TRÌNH
LỊCH SỬ CÁC HỌC THUYẾT PHÁP LÝ

Vinh - 2011

1


TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO TỪ XA

Chủ biên: PGS.TS Đồn Minh Duệ

GIÁO TRÌNH
LỊCH SỬ CÁC HỌC THUYẾT PHÁP LÝ
(Giáo trình đào tạo từ xa)

Vinh - 2011

2


Phân cơng biên soạn:
Chủ biên: PGS.TS Đồn Minh Duệ

3



MỤC LỤC
Phần mở đầu: NHẬP MÔN KHOA HỌC LỊCH SỬ CÁC HỌC THUYẾT CHÍNH TRỊ
1. Khái quát chung về lịch sử các học thuyết chính trị
2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu lịch sử các học thuyết chính trị
Chương 1:TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
1. Tư tưởng của đạo Brahman (Bàlamon)
2. Tư tưởng của đạo Phật
3. Tư tưởng của Kautilya
4. Tư tưởng của Asoka Đại đế
Chương 2: CÁC HỌC THUYẾT CHÍNH TRỊ TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI
1. Xu hướng “Nhân đạo chính vi đại” ở Trung Quốc thời cổ đại
2. Tổng quan về sự hình thành các học thuyết chính trị Trung Quốc cổ đại
3. Một số các học thuyết chính trị tiêu biểu của Trung Quốc cổ đại
3.1. Chủ thuyết chính trị của Khổng tử.
3. 2. Chủ thuyết chính trị của Mạnh tử
3. 3. Chủ thuyết chính trị của Tuân tử
3. 5. Chủ thuyết chính trị của Lão tử.
3. 6. Chủ thuyết chính trị của Trang tử
3. 7. Chủ thuyết chính trị của Hàn Phi tử
3. 8 Tư tưởng chính trị trong Kinh Dịch
Chương 3:CÁC HỌC THUYẾT CHÍNH TRỊ HY LẠP CỔ ĐẠI
1. Khái quát chung
2. Tư tưởng chính trị - pháp lý thời kỳ hình thành chế độ Chiếm hữu Nô lệ
2. 1. Tư tưởng của Solon (638- 559 tr.CN)
2.2. Tư tưởng của Pythagore (580- 500 tr.CN)
2. 3. Học thuyết của Heraclite
3. Tư tưởng chính trị - pháp lý trong thời kỳ hưng thinh và suy vong của nền dân chủ
Chiêm hưu Nô lệ
3. 1. Democrite (460- 370 tr.CN)

3. 2. Hippodame
3. 3. Ephiantes và Pericles
3. 4. Socrate (469-399 tr.CN)
3. 5. Plato (428- 347 tr.CN)
3. 6. Aristotle (384- 322tr.CN)

4


4. Tư tưởng chính trị - pháp lý thời kỳ văn minh Huy Lạp
4.1. Epicure (341- 270 tr.CN)
4.2. Trường phái khắc kỉ
4.3. Polybe (201- 120 tr.CN)
Chương 4: TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ LA MÃ CỔ ĐẠI
1. Khái quát chung
2. Tư tưởng chính trị của Nơ lệ khởi nghĩa
3. Tư tưởng chính trị của nền dân chủ Chiếm hữu Nô lệ
4. Tư tưởng chính trị của Marc Tulli Cicero (106 -43tr.CN)
5. Tư tưởng chính trị của Thiên chúa giáo
Chương 5: CÁC HỌC THUYẾT CHÍNH TRỊ TÂY ÂU TRUNG CỔ
1. Khái quát chung
2. Các học thuyết chính trị tiêu biểu
2.1. Học thuyết thần quyền
2.2. Các phong trào tà giáo
2.3. Tư tưởng chính trị của thời đại Phục hưng
2.4. Tư tưởng chính trị của phong trào cải cách Tôn giáo, và phong trào chống chuyên
chế
Chương 6: CÁC HỌC THUYẾT CHÍNH TRỊ CỦA ANH THỜI CẬN ĐẠI
1. Khái quát chung
2. Các học thuyết chính trị tiêu biểu

Chương 7: CÁC HỌC THUYẾT CHÍNH TRỊ CỦA PHÁP THỜI CẬN ĐẠI
1. Khái quát chung
2. Các học thuyết chính trị tiêu biểu
Chương 8: CÁC HỌC THUYẾT CHÍNH TRỊ ĐỨC THỜI CẬN ĐẠI
1. Khái quát chung
2. Các học thuyết chính trị tiêu biểu
2.1. Học thuyết chính trị của Imanuel Kant (1724 -1804)
2.2. Học thuyết chính trị pháp luật của Hegel G.F (1770 – 1830)
Chương 9: CÁC HỌC THUYẾT CHÍNH TRỊ CỦA MỸ THỜI CẬN ĐẠI
1. Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm tư tưởng chính trị thời kỳ đấu tranh độc lập ở Mỹ
2. Các học thuyết chính trị tiêu biểu
2.1. Những quan điểm chính trị của T. Jefferson
2.2. Những quan điểm chính trị của Thomas Paine
2.3. Những quan điểm chính trị của Hamilton (1757 - 1804).

5


Chương 10: TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ MARX-LÊNIN
1. Tổng quan
2. Một số quan niệm của Chủ nghĩa Max- Lênin về nhà nước pháp quyền
2.1. Về nguồn gốc và bản chất của nhà nước
2.2. Về hiến pháp và mơ hình tổ chức quyền lực nhà nước
2.3. Về nguồn gốc và bản chất của pháp luật
Chương 11: TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM
1. Tư tưởng chính trị của người Việt bản địa buổi đầu dựng nước
2. Tư tưởng chính trị Nho giáo ở Việt Nam
4. Tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh

6



Phần mở đầu
NHẬP MÔN KHOA HỌC
LỊCH SỬ CÁC HỌC THUYẾT CHÍNH TRỊ

1. Khái quát chung về lịch sử các học thuyết chính trị
Có thể nói rằng lịch sử xã hội lồi của chúng ta có được ngày hơm nay là nhờ sự
đóng góp vơ cùng giá trị của các thế hệ đi trước. Trong số những đóng góp của các thế
hệ đi trước tư tưởng của họ có một ý nghĩa rất quan trọng. Nhiều quan điểm, học
thuyết của họ khơng những đã góp phần giải quyết các vướng mắc của chính xã hội
đương đại của họ, mà cịn trở thành kim chỉ lam cho mọi hoạt động của chúng ta sau
này. Những học thuyết, những quan điểm của những người đi trước rất toàn diện bao
quát rất nhiều lĩnh vực của cuộc sống xã hội loài người từ tự nhiện cho đén các hoạt
đọng của xã hội. Trong số nhưng học thuyết, quan điểm, tư tưởng đa dạng đó, các học
thuyết, quan điểm tư tưởng về nhà nước và pháp luật có một ý nghĩa quan trọng rất
lớn, vì nó trực tiếp quan hệ mang tính quyết định đén sự phát triển của xã hội .
Lịch sử các học thuyết chính trị là lịch sử các hệ luận cơ bản về bản chất và hình
thức thể hiện của các chính thể. Các hệ luận cơ bản này lại chính là những nhận thức
và những cách đánh gía về các thiết chế nhà nước từ khi chúng mới xuất hiện. Vì vậy,
hồn tồn có thể nhận thấy rằng lịch sử các học thuyết chính trị là bộ phận khơng thể
tách rời của khoa học lý luận về nhà nước pháp quyền.
Trải qua các thời kỳ kế tiếp nhau của lịch sử, các thiết chế chính trị dần hồn
thiện hơn và các học thuyết mang nội dung phản ánh các thiết chế đó cũng được nâng
lên về tính khoa học trong lập luận và phạm vi các vấn đề. Lịch sử các học thuyết
chính trị cịn được coi là lịch sử đấu tranh các tư tưởng. Điều này được giải thích qua
nội dung những vấn đề mà các học thuyết này đã thể hiện. Bởi vì dù các luận thuyết
chính trị có thể được biểu hiện bằng nhiều hình thức khác nhau (qua hệ lý luận triết
học, xã hội học, kinh tế học .v.v..) thì chúng cũng phản ánh một cách cô đọng nhất
những quan điểm, tư tưởng của các giai cấp xã hội và các đảng phái chính trị cũng như

của các giáo phái khác nhau. Bằng những quan điểm chính trị và thậm chí cả bằng
những giáo lý, các giai cấp xã hội thể hiện khát vọng muốn bảo vệ lợi ích kinh tế của
mình trong q trình vận động không ngừng của các quan hệ xã hội mà trong đó quan
hệ kinh tế đóng vai trị thiết yếu. Lợi ích kinh tế của các giai cấp xã hội có thể được
duy trì hoặc bị xâm phạm tùy thuộc vào thiết chế nhà nước. Điều này lý giải tại sao lại
có sự khác nhau trong các học thuyết chính trị về bản chất của cùng một chính thể.
Chẳng hạn, đối với nhà nước chiếm hữu nô lệ (Hy Lạp, La Mã .v.v..) thì cùng tồn tại
hai hệ luận đối nghịch, một hệ luận chính trị coi nhà nước chiếm nô là hợp lý, sự phân
biệt giàu nghèo là điều nguy hiểm bởi giàu nghèo là hiện tượng mang tính tự nhiên

7


.v.v.. cịn một hệ luận khác thì coi nhà nước là điều ác, là trái với tự nhiên, hoặc nhà
nước sẽ hợp lý nếu nó là cơng cụ ngăn chặn bạo lực và kìm chế tham muốn từ phía
những người giàu có. Sự trái ngược có tính ngun tắc nói trên cũng được thể hiện
trong nội dung các học thuyết chính trị thời kỳ phong kiến và tư sản.
Đối tượng nghiên cứu của mơn lịch sử các học thuyết chính trị là hệ tư tưởng
chính trị được thể hiện qua các học thuyết có nội dung đề cập một cách tổng thể về nhà
nước và pháp luật qua các thời đại lịch sử. Nội dung lịch sử các học thuyết chính trị
khơng thể được hình thành ngồi các mối quan hệ kinh tế xã hội lịch sử cụ thể, tức là
khơng nằm ngồi lịch sử. Điều này có nghĩa là: Khi nghiên cứu các học thuyết chính
trị cịn phải đi sâu vào việc khám phá ra những nguyên nhân mang tính lịch sử - xã hội
đã làm phát sinh ra chúg. Bởi vì sự phát sinh và phát triển các tư tưởng chính trị và
pháp luật đã được thừa nhận như là một hình thức nhận biết xã hội liên quan tới sự
phát sinh phát triển của xã hội có giai cấp làm sản sinh ra nó. Một học giả rất có lý
khi nói rằng: "Muốn biết và hiểu được các chế định chính trị của một xã hội đúng ra là
trước tiên phải nghiên cứu chính bản thân xã hội ấy đã. Các chế định, trước khi trở
thành nguyên nhân đã là kết qủa, xã hội đã sản sinh ra chúng, trước khi bị chúng làm
biến đổi ..."

Môn Lịch sử các học thuyết chính trị khơng nghiên cứu các tư tưởng và học
thuyết nói chung mà chỉ nghiên cứu hệ tư tưởng và học thuyết chính trị có q trình
phát sinh và phát triển liên quan chặt chẽ tới sự vận động khơng ngừng của xã hội có
nhà nước và hệ thống quy phạm pháp luật của nhà nước đó được thể hiện trong cuộc
đấu tranh nhằm giữ gìn và phát triển xã hội loài người.
Đặc điểm đối tượng nghiên cứu của mơn lịch sử các học thuyết chính trị được thể
hiện trong nội dung cuả các học thuyết đó là nội dung đề cập được những vấn đề cơ
bản có liên quan tới sự lý giải về nhà nước, chế độ chính trị bản chất và hình thứuc thể
hiện của nhà nước, tính hợp lý hoặc những hạn chế của các loại hình nhà nước và hệ
thống các quy phạm pháp luật kèm theo của mỗi một chế độ nhà nước, mưc độ tương
xứng giữa nhà nước và nội dung của pháp luật. Nội dung các học thuyết chính trị
thường đề cập được những vấn đề cơ bản có liên quan tới sự giải về: nguồn gốc nhà
nước, chế độ chính trị, bản chất và hình thức thể hiện của nó, tính hợp lý hoặc những
hạn chế của các loại hình nhà nước và hệ thống các quy phạm pháp luật, sự tương
xứng giữa nhà nước và nội dung của pháp luật.
Nói tóm lại, đối tượng nghiên cứu của mơn lịch sử các học thuyết chính trị là
những tư tưởng chính trị, những quan điểm về nhà nước và pháp luật xuất hiện và phát
triển trong dòng lịch sử của lồi người từ khi có tổ chức nhà nước. Những học thuyết
chính trị này được xác định bởi các mối quan hệ kinh tế và chúng đã phản ánh lợi ích

8


của giai cấp xã hội trong cuộc đấu tranh không khoan nhượng về quyền lợi xã hội và
tài sản nói chung.
2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu lịch sử các học thuyết chính trị
Mọi lý thuyết và mọi lý luận làm cơ sở các hoạt động của nhà nước và xã hội loài
người hiện nay phần nhiều đều bắt nguồn từ những tư tưởng xưa, trong đó có các học
thuyết chính trị. Sự phát triển ra những quan điểm tư tưởng mới thời hiện đại thường
chỉ là sự hoàn thiện, sự chỉnh lý những quan điểm tư tưởng học thuyết của những

người đi trước trong điều kiện và hoàn cảnh mới mà thơi. Nghiên cứu lịch sử các học
thuyết chính trị rất quan trọng trong thời đại của chúng ta, vì những nghiên cứu này sẽ
góp phần cho chúng ta những suy nghĩ rõ hơn về những vấn đề đang cần phải giải
quyết hiện nay.
Giáo trình này được viết trên tinh thần chỉnh sửa lại căn bản cuốn trình Lịch sử
các học thuyết chính trị xuất bản lần đầu tiên của Khoa Luật Đại học Tổng hợp Hà Nội
năm 1997, có thêm lại những tư tưởng mới phù hợp với công cuộc đổi mới hiện nay và
thêm phần của các tác giả cận hiện đại và hiện đại như K. Mark, J. S. Mill,
Tocqueville, những người có chủ trương áp dụng các học thuyết về dân chủ vào cuộc
sống, mà trước đây vì nhiều lý do khách quan và chủ quan khác nhau, và nhất là phần
tư tưởng chính trị của các nhà tư tưởng Việt Nam, mà ở cuốn giáo trình trước khơng
có điều kiện thể hiện.

9


Chương 1
TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI

1. Tư tưởng của đạo Brahman (Bàlamon)
Ấn Độ - một trung tâm văn minh cổ đại - vốn có nền văn minh phát triển sớm, từ
khoảng hơn 3000 nămtr.CN. Theo các tài liệu khảo cổ học, ở một số vùng thuộc hạ lưu
sông Indus như Amri, Mohenjo, Dao, Harapa, Chanhudaro người ta đã tìm được
những di tích của những thành phố rộng lớn được thành lập khoảng hơn 3000 năm
tr.CN mà đã có nhà 2 tầng, có những đồ đồng thuộc nền văn minh đồ đồng phát triển
cao.
Ấn Độ là quê hương của nhiều loại tôn giáo khác nhau: Đạo Vêđa, Đạo Bàlamơn,
Đạo Phật, Ấn Độ giáo v.v..., Tơn giáo hình thành cùng với sự xuất hiện của những nền
văn minh đầu tiên nên cũng giống như ở Ai Cập và Babilon, cơ sở của các tư tưởng
chính trị nói chung, tư tưởng nhà nước và pháp luật nói riêng ở Ấn Độ cổ đại là tơn

giáo. Sau khi thơn tính được vùng Punjab và các vùng khác của Ấn Độ, để củng cố địa
vị của mình, người Arya đã lập ra đạo Vêda hoặc Rig -Vêda là đạo đầu tiên của Ấn
Độ. Vêda có nghĩa là tri thức là trên tất cả, là tồn năng. Vêda là đa thần giáo. Nó cho
rằng vạn vật đều có thần. Thần chung nhất và cao nhất là Bàlamôn (Brahmanaspati).
Xuất phát từ chữ Bàlamôn (Brahmanas) tức là quyền lực thiêng liêng. Bàlamôn
là căn bản của vạn vật, nguồn gốc của vạn vật. Mọi vật đều là hình thức biểu hiện,
hình thức tồn tại của Bàlamơn và lại trở về với Bàlamôn. Đạo Bà la môn với tư tưởng
khẳng định những đặc quyền của đẳng cấp Bàlamôn, đồng thời xây dựng và củng cố
một trật tự xã hội vô cùng hà khắc với những người lao động nên ngay từ khi mới ra
đời, nó đã gặp phải sự chống đối mạnh mẽ của những người nghèo khổ. Họ không tin
vào thần thánh nên đã phủ nhận, chống đối kịch liệt các giáo sĩ Bàlamôn. Họ chống lại
sự phân chia con người trong xã hội thành các Varna, cho rằng sự phân chia này không
công bằng và phản tự nhiên. Tư tưởng bình đẳng về tinh thần của tất cả mọi người
không phụ thuộc vào đẳng cấp đã nảy sinh trong xã hội.
Sau khi tràn vào Ấn Độ vài thế kỷ, người Arya đã lập ra những nhà nước đầu
tiên, bao gồm nhiều nước và luôn luôn đấu tranh với nhau để tranh giành cỏ và nước
(người Arya vốn là người chăn nuôi du mục). Các nhà nước này xuất hiện trong
khoảng thế kỷ X- VItr.CN. Để củng cố mạnh mẽ hơn nữa quyền thống trị của người
Arya, quyền lực nhà nước, các nhà nước này đã sử dụng đạo Veda, tạo điều kiện cho
nó phát triển lên thành đạo Bàlamơn (Brahman) và thừa nhận nó thành hệ tư tưởng
chính thống của xã hội. Các tư tưởng của đạo này đã được thừa nhận, củng cố và bảo
vệ bằng chính các quy định của một trong các đạo luật cổ của loài người - Bộ luật
Manou. Đây là Bộ Luật bằng thơ gồm 2685 điều chia thành 12 chương, là sự sưu tập

10


các tập quán, biên tập thành sách vào khoảng thế kỷ I Công nguyên. Giống như Bộ
luật Hammourabi, Manou là một bộ luật tổng hợp gồm các quy định về nhiều lĩnh vực:
dân sự, hình sự, hơn nhân gia đình, tố tụng, quyền và nghĩa vụ của nhà vua, của các

giai cấp trên của xã hội và đặc biệt là nghĩa vụ của các tầng lớp dưới với tầng lớp trên,
với nhà nước, với người Bàlamôn, nghĩa vụ của nô lệ với chủ, với các tầng lớp khác.
Bộ luật đã điều chỉnh các mối quan hệ chủ yếu trong xã hội như: quan hệ giữa nhà
nước và cá nhân, giữa các giai cấp với nhau và với nhà nước, giữa cá nhân với cá
nhân. Thông qua các quy định của đạo luật có thể thấy tốt lên một số quan điểm cơ
bản.
Thứ nhất, nó thần thánh hóa nguồn gốc của Nhà Vua - người đứng đầu nhà nước
- và pháp luật. Vua được coi là sự hóa thân của thánh thần trên trần thế. "Vua được tạo
ra từ những phần của các vị thánh siêu đẳng này... người là vị thánh tối cao mang hình
người". Do vậy, mọi người phải kính trọng, thần phục Hồng đế như Thượng đế trên
trái đất. Bộ luật khẳng định sự toàn quyền của Nhà Vua. Vua nắm trong tay toàn bộ bộ
máy nhà nước, lãnh đạo việc thực hiện chính sách đối nội, đối ngoại, việc xét xử...
Nhà Vua có trách nhiệm thúc giục các đẳng cấp dưới thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của
mình, nếu khơng thì thế giới sẽ sinh loạn. Đồng thời đạo luật cũng quy định trách
nhiệm của các Nhà Vua là phải bảo vệ đất nước và thưởng phạt cơng minh.
Thứ hai, nó thể hiện tư tưởng lập pháp, khẳng định tầm quan trọng của pháp luật
thành văn, của hình thức văn bản quy phạm pháp luật, khẳng định sự cần thiết và vai
trò của pháp luật trong điều chỉnh các quan hệ xã hội, quản lý xã hội, bảo vệ quyền lợi
của giai cấp thống trị, sự tồn tại của nhà nước.
Thứ ba, thừa nhận tư tưởng của đạo Vêda và đạo Bàlamôn, luật Manou thiết lập
và bảo vệ trật tự đẳng cấp khá hà khắc trong xã hội. Theo quy định của đạo luật này,
con người được phân chia thành bốn đẳng cấp (Varna) với địa vị hồn tồn khác biệt
nhau. Cao nhất là đẳng cấp Bàlamơn tức là tăng lữ đạo Bàlamôn. Những người này
được Thượng đế sinh ra từ cái miệng của mình để làm chúa tể thế giới và vì sự phồn
vinh của thế giới, vì vậy họ chiếm địa vị trọng yếu nhất trong xã hội và được luật pháp
đặc biệt ưu đãi.
Đẳng cấp thứ hai là vua chúa, vương tôn quý tộc và binh lính (Ksatriya) được
sinh ra từ cổ tay của Thượng đế. Những người này sẽ cùng với người Bàlamôn tham
gia vào bộ máy nhà nước, nắm giữ quyền lực nhà nước, song phải đồn kết với đẳng
cấp Bàlamơn, theo sự cố vấn của họ để củng cố chế độ chiếm hữu nơ lệ. Họ có trách

nhiệm bảo vệ nhân dân vùng mình cai trị, phân phát của bố thí, hành lễ tôn giáo và
nghiên cứu kinh Vêda.

11


Đẳng cấp thứ ba là Vaisya, tức là nông dân, thợ thủ công và những nhà buôn.
Những người này được sinh ra từ cái đùi của Thượng đế. Họ có nghĩa vụ phải phục
tùng nhà vua, những người thuộc đẳng cấp trên và phải hoàn thành mọi nghĩa vụ đối
với nhà nước, có trách nhiệm trồng trọt, chăn ni, bn bán, cho vay lãi, phân phát
của bố thí, cúng lễ và nghiên cứu kinh Veda.
Đẳng cấp thứ tư là Sudra, là những người nghèo khơng có tài sản, họ được sinh
ra từ cái bàn chân của Thượng đế nên là những người hèn hạ và phải phục dịch, hầu hạ
tất cả các đẳng cấp khác, không được chống đối và được phục vụ người Bàlamôn là
một đặc ân đối với họ.
Mỗi đẳng cấp lại được chia thành nhiều môn phái khác nhau. Người khác đẳng
cấp, môn phái không được phép cùng ngồi, cùng ăn, cùng ở với nhau, không được
giúp đỡ nhau và không được kết hôn với nhau. Trong đẳng cấp Sudra có hai hạng
người khốn khổ nhất, đó là Paria và Sandala. Sandala là con cái của những người phụ
nữ Bàlamôn lấy chồng Sudra sinh ra. Họ bị coi là hạng người đê tiện, bẩn thỉu nhất.
Chỗ ở của họ phải tách biệt khỏi làng, họ không được mua bán, tiếp xúc với những
hạng người khác, ban đêm không được đi lại trong làng và trong thành phố. Mặc dù
không phải là nô lệ song địa vị xã hội và đời sống của những người này không khác nô
lệ là mấy.
Thứ tư, Bộ luật nêu lên tư tưởng các Nhà Vua phải khủng bố, đàn áp sự chống
đối của những người bị áp bức. Nó tuyên bố: "Nếu như Nhà Vua không quy định xử
phạt đối với những kẻ đáng phạt thì chẳng một ai có sở hữu và sẽ xảy ra sự xáo trộn
trên dưới,... mọi đẳng cấp bị phá vỡ và nhân dân sẽ phản ứng... ở đâu có sự trừng phạt
dữ dội, nhãn tiền tiêu diệt bọn tội phạm thì ở đó thần dân khơng làm loạn..
Thứ năm, để khẳng định vị trí thống trị và củng cố địa vị của đạo Bà la môn, bộ

luật Manou cịn giành cả Chương 12 để giải thích về luật luân hồi và cứu vãn linh hồn.
Nó cho rằng trong con người thì cái quan trọng là linh hồn chứ không phải là thể xác.
Kiếp sống trần gian chỉ là tạm bợ, linh hồn mới là bất tử. Sau khi chết, linh hồn sẽ
thoát khỏi thể xác để đầu thai sang kiếp khác sướng hơn hoặc khổ hơn, tùy thuộc vào
hành vi của mỗi người khi còn sống. 2. Tư tưởng của đạo Phật
Đạo Phật ra đời vào khoảng thế kỷ thứ VI – V tr.CN, tương truyền là do Thái tử
Gautama Siddharta đặt ra. Ơng cịn có nhiều tên xưng khác như: Bouddha hay Phật,
Sakyamouni - Thích Ca màu ni, Tathagata hay Như Lai. Phật sinh ra trong gia đình
Gautama (Cồ Đàm). Ở Á Đơng người ta quen gọi là Thích ca Mâu Ni Phật. Sự chống
đối tư tưởng của đạo Bàlamôn không chỉ nảy sinh trong những người lao động mà còn
thể hiện trong tư tưởng của các tôn giáo khác. Đạo Phật là một trong các tôn giáo ấy.

12


Phật mong muốn có một xã hội trong đó vua thì có đạo đức và dựa vào pháp luật
để trị dân, khơng chun quyền độc đốn, cịn nhân dân thì được an cư lạc nghiệp,
được chăm lo đến lợi ích của mình. Sách Phật kể rằng: một hơm Phật thấy một nhà đại
phú đang lập một đàn tế lớn, Phật nói: "Bày việc tế lớn, tốn tiền của mà khơng ích lợi.
Trái lại, lợi ích lớn nhất là hãy làm cho tất cả dân chúng đều được no đủ".
Phật giáo thời kỳ sơ khai cho rằng thủa ban đầu tất cả mọi người đều sống hạnh
phúc, bình đẳng và tự do. Nhưng sau đó xuất hiện sự cướp bóc và lừa đảo nên sinh ra
bất bình đẳng xã hội. Lúc đó, thơng qua con đường lựa chọn, mọi người đã thiết lập
nên chính quyền nhà vua với tư cách là người phân xử và đã xóa bỏ được những hiềm
khích. Có thể nói, ở đây đã thể hiện sự mong muốn thiết lập một nhà nước mà các
chức vụ nhà nước được hình thành bằng con đường bầu cử và tư tưởng về chức năng
trọng tài, làm dịu xung đột xã hội của nhà nước.
Đạo Phật kêu gọi mọi người hãy yêu thương lẫn nhau, tu nhân tích đức, từ bi bác
ái, vị tha, ngăn chặn và không làm điều ác, bố thí cho kẻ nghèo khó... để bảo vệ cuộc
sống thanh bình. Nó đã có những ý tưởng chống lại sự bóc lột, nhưng lại khơng kêu

gọi đấu tranh tích cực để xóa bỏ điều đó mà lại kêu gọi phục tùng tuyệt đối.
3. Tư tưởng của Kautilya
Kautilya là tể tướng trong triều đại Maurya hùng cường - triều đại có cơng xây
dựng một quốc gia Ấn Độ thống nhất, phồn thịnh và hùng mạnh thời cổ đại. Chúng ta
đều biết tiểu lục địa ấn Độ trong thời cổ đại là lãnh thổ của nhiều nước nhỏ. Trong số
các nước ở lưu vực sông Gange (Hằng) miền Đông Ấn thì Magadha là nước giàu
mạnh nhất, do dịng vua Nanda cai trị. Năm 317tr.CN, Chandragupta đã nổi dậy lật đổ
dòng họ Nanda chiếm ngơi vua. Sau đó Chandragupta chinh phục được hầu hết các
nước lân cận từ Đông đến Trung Ấn Độ và dựng lên triều đại Maurya.
Tư tưởng của Kautilya được thể hiện trong tác phẩm Artha Sastram (Luận về bổn
phận hay cịn gọi là khoa học chính trị) một bộ sách chuyên khảo về những vấn đề
quản lý nhà nước, bộ sưu tập những lời khuyên đối với nhà vua trong việc trị nước.
Kautilya cho rằng muốn cho đất nước hưng thịnh thì trước tiên phải thiết lập
được trật tự xã hội. Muốn có trật tự ấy thì vai trò và trách nhiệm đầu tiên và cơ bản
thuộc về nhà nước mà cụ thể là nhà vua, bên cạnh đó cịn có trách nhiệm của tồn dân.
Trong tác phẩm có đoạn viết: "Quốc vương tức là Quốc gia". "Trăm họ mà biết đến
quyền lợi của Quốc gia là trước hết phải phục vụ cho quyền lợi của Quốc vương được
khuyếch trương đã.
Kautilya cho rằng vai trò của nhà vua chỉ là điều khiển, chỉ huy, còn nhân dân
mới là lực lượng hoạt động để xây đắp nền thịnh trị cho đất nước. Trách nhiệm của
nhà vua là phải thúc giục mọi giai cấp, tầng lớp trong xã hội thực hiện đầy đủ nghĩa vụ

13


của mình, bởi vì: "nếu mọi lớp người khơng chịu tích cực phục vụ trong phạm vi vị trí
xã hội của giới mình và của riêng bản thân, quốc gia tất sinh biến loạn và vương quyền
tất bị sụp đổ theo". Kautilya khuyên các nhà vua phải đặt quyền lợi của nhà vua, của
quốc gia lên trên hết.
Về việc hoạch định chính sách ngoại giao của nhà nước Kautilya nêu lên đường

lối đối ngoại dựa trên sức mạnh quân sự, bằng bạo lực. Đây là đường lối đối ngoại
phản tiến bộ song lại là khá phổ biến trong thời gian đó. Ơng khun các nhà vua:
"Ngoại giao là tìm đồng minh để liên kết cho quốc gia thêm hùng mạnh.
Kautilya nêu lên một cụ thể để tổ chức, huấn lyện, ni dưỡng qn đội, các
chiến thuật qn sự… Đó là kế hoạch xây dựng một đất nước hung mạnh, gồm các nội
dung chính như: xã hội trật tự, ổn định; kinh tế phồn thịnh, quân đội hùng hậu và thế
lực được mở mang. Để thực hiện được kế hoạch ấy thì vai trị của hàng ngũ quan lại
vơ cùng quan trọng. Họ như quả cân treo ở mãi đầu ngoài của cán cân, nhỏ thơi nhưng
đủ sức vít nổi hàng trăm tạ. Muốn cho đội ngũ này đảm nhiệm được chức vụ của mình
thì ơng vua sáng suốt phải biết chọn người hiền tài mà trao nhiệm vụ. Đội ngũ quan lại
phải trung thành, chính trực.
Kautilya đề cao vai trị của lợi ích thực tế, ơng chủ trương gắn liền pháp luật với
lợi ích thực tế. Ơng viết: "Thực lợi là điều cốt yếu nhất cần đạt được của chính trị.
Chính trị phải lấy pháp luật làm gốc. Pháp luật là phải phối hợp tình u với lịng ham
muốn của trăm họ. Và chung quy tình u và lịng ham muốn của dân khơng ngồi hai
chữ: thực lợi"1. "Pháp luật là cần được sự hỗ trợ của tình yêu và lòng ham muốn của
dân để cùng dốc lực tạo nên tài hóa. Được như vậy có lo gì dân khơng giàu, nước
khơng mạnh"2. Có thể thấy Kautilya đã thấy được vai trò rất quan trọng của kinh tế,
nhà nước, pháp luật đối với sự hưng thịnh của quốc gia, chỉ ra được mối quan hệ giữa
kinh tế với chính trị, với pháp luật.
Tóm lại, các quan điểm của Kautilya chủ yếu nhằm bảo vệ quyền lợi của nhà
vua, nhà nước và của giai cấp thống trị, bảo vệ sự trường tồn của chế độ chiếm hữu nô
lệ.
4. Tư tưởng của Asoka Đại đế
Sẽ là thiếu nếu nói đến tư tưởng nhà nước và pháp luật Ấn Độ cổ đại mà không
nhắc đến tư tưởng cuả Asoka Đại đế. Asoka là cháu nội của Chandragupta, người kế
nghiệp xuất sắc của triều đại Mauria, người có cơng đưa đất nước ấn Độ phát triển đến
đỉnh cao nhất của sự hùng mạnh trong thời cổ đại. Ông được mệnh danh là một trong

1


Xem: "Lịch sử triết học Ấn Độ", Sđd, tr.166

2

Xem: "Lịch sử triết học Ấn Độ", Sđd, tr.166

14


những quốc vương anh minh, đầy đủ đức tài của Ấn Độ. Trung thành với đường lối
của ông nội, Asoka ra sức củng cố chế độ chuyên chế trung ương tập quyền, bảo vệ sự
thống nhất đất nước và tiếp tục mở rộng bờ cõi.
Asoka cho rằng nhân loại, thế gian đã có cái lý để sinh tồn thì pháp luật phải xây
dựng dựa trên cơ sở cái lý đó. Vì vậy ơng gọi pháp luật là lý pháp chứ không gọi là
pháp luật. Nhiệm vụ của người đứng đầu quốc gia là phải bảo vệ và làm sáng tỏ cái lý
pháp ấy. Theo ơng: "Chính trị là vì sự lợi ích và sự an lạc của mọi người. Nếu khơng
giúp được lợi ích cho dân thì sao gọi được là làm chính trị"1. Có thể nói, ơng là người
theo quan điểm quốc thái dân an.
Điểm khác so với các luồng tư tưởng trên và cũng là điểm tiến bộ trong tư tưởng
của Asoka là ông quan niệm rằng nhà vua cũng có nguồn gốc trần tục như mọi người
chứ khơng phải có nguồn gốc thần thánh. Ơng nói: "Vua là gì? Vua cũng chỉ là một
chúng sinh trong hằng hà chúng sinh. Vua có khác chăng chỉ ở điểm, vua là chúng sinh
được hưởng ân huệ mà các chúng sinh khác khơng được. Vậy đã là vua thì phải có
trách vụ thi hành nền chính trị tốt, để báo đáp đặc ân riêng ấy"2.
Khi xem xét về pháp luật, Asoka đã nêu lên quan điểm mọi người đều bình đẳng
trước pháp luật, ông cho rằng: trước lý pháp, không có phân biệt quốc tịch, chủng tộc
hay tơn giáo. Trong việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, Asoka đã phân
biệt chức năng của hành pháp với tư pháp và nêu lên quan điểm: không ai bị kết tội
nếu khơng qua xét xử của tịa án.

Tóm lại, với quan niệm và các việc làm như trên, Asoka xứng đáng là một trong
những vị vua anh minh của Ấn Độ cổ đại và cũng là người nêu lên một số quan điểm
tiến bộ về pháp luật, pháp chế.
CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG 1:

1. Khái quát chung về tưởng chính trị Ấn Độ cổ đại?
2. Nội dung cở bản của tư tưởng chính trị Asoka Đại đế?

1

Xem: "Lịch sử triết học Ấn Độ", Sđd, tr.170.

2

Xem: "Lịch sử triết học Ấn Độ", sđd, tr.170.

15


Chương 2
CÁC HỌC THUYẾT CHÍNH TRỊ TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI

1. Xu hướng “Nhân đạo chính vi đại” ở Trung Quốc thời cổ đại
Trong thời cổ đại, Trung Quốc là một khối biệt lập. Ba phía Bắc, Tây, Nam là
núi cao, đồng cỏ và sa mạc, phía Đơng nhìn ra Thái Bình Dương mênh mơng. Trung
Quốc thời cổ đại gần như qua lưng lại với các nền văn minh ở Trung Á, Tây Á, sống
một đời riêng biệt. Nó tuy có bờ biển dài nhưng ở miền Bắc bờ biển thấp, lầy, lại thiếu
đảo ở gần, nên người Trung Hoa thời cổ khơng muốn mạo hiển ra khơi; cịn ở miền
Nam bờ biển lại khơng bằng phẳng, khí hậu xấu, giơng tố nhiều. Nhìn chung, núi và
biển gần như chắn ảnh hưởng của các nền văn minh Tây á, không cho ảnh hưởng tới

Trung Quốc, và trong thời cổ đại, ít nhất là tới đầu kỉ nguyên Tây lịch, dân tộc Trung
Quốc sống cách biệt với các nền văn minh khác.1
Trung Hoa cổ đại là một xứ biệt lập nhưng không thống nhất về mặt địa lí. Vì là
một khu vực rộng lớn, nên Trung Quốc thời cổ đại gồm nhiều nước nhỏ hợp thành,
nhiều dân tộc khác nhau về lịch sử, phong tục, lối sống. Các dãy núi lớn ở phía Tây
chạy từ Bắc tới Nam; ngồi ra lại có những dãy núi nhỏ, thấp hơn ở phía ngồi, hướng
từ Tây qua Đơng (phía biển), chia Trung Hoa thành nhiều miền cách biệt với nhau, chỉ
thông với nhau bằng những đèo như đèo thông Thiểm Tây với Hà Nam, Sơn Tây với
Hà Bắc, Thiểm Tây với Tứ Xuyên, Hà Nam với Hồ Bắc...
Đặc tính về địa lí đó ảnh hưởng lớn đối với các quan điểm về chính trị trong các
tư tưởng triết học Trung Quốc cổ đại. Lãnh thổ rộng lớn, lại không thống nhất, bao
gồm nhiều quốc gia nhỏ khác nhau, các dân tộc khác nhau đã tạo nên một sự phức tạp
về mặt địa lí. Chính sự phức tạp này đã làm nẩy sinh nhu cầu cai trị một cách hiếu quả.
Đây là mối quan tâm thường trực đối với các nhà tư tư tưởng triết học. Đó chính là lí
do hình thành sự quan tâm của các nhà triết học Trung Quốc cổ đại đối với vấn đề
chính trị.
Phép tỉnh điền như sau: ruộng đất được phân định ranh giới thành từng khu
vuông vức 900 mẫu (đời nhà Chu). Mỗi khu chia làm chín phần bằng nhau, mỗi phần
là 100 mẫu. Tám phần chung quanh chia cho 8 nông dân từ 20 tuổi đến 60 tuổi để cày
cấy và nuôi vợ con. Khi con trai được 20 tuổi thì cấp cho phần khác. Phần ở giữa để lại
một ít làm chỗ ở cho tám gia đình, cịn lại thì tám gia đình cày cấy chung nộp lúa cho
nhà vua. Hình miếng đất khi chia như vậy giống chữ tỉnh nên gọi là phép tỉnh điền.

1

Nguyễn Hiến Lê. Sử Trung Quốc, tập I. NXB Văn hố thơng tin, H, 1997, tr20.

16



Dân phải cày cấy phần công điền ở giữa rồi mới cày cấy phần tư điền của mình.
Như vậy số lúa nộp cho nhà vua cũng vào khoảng 1/10 số thu hoạch của mỗi gia đình.
Dân khơng được phép trồng cây lớn trong ruộng, sợ mất đất trồng lúa, nhưng được
phép trồng dâu, rau, trái cây chung quanh mỗi nhà. Cũng khơng được trồng độc một
giơng lúa, sợ giống đó mất mùa thì sẽ chết đói. Cịn những khu đất, vì những lí do nhất
định, nhà vua khơng chia cho dân, chẳng hạn rừng, đất lầy chỉ trồng được sậy, cỏ lát,
đay. Những đất đó dân được tự ý khai thác nhưng phái đóng thuế cho nhà vua.
Nhìn chung đời sống của nhân dân vất vả. Nhưng dù sao chăng nũa chế độ tỉnh
điền cũng làm cho người dân có được đời sống bảo đảm. Khi tới 60 tuổi, không làm
việc được nữa thì trả lại đất cho nhà vua và được nhà nước nuôi nấng. Con côi, người
tàn tật cũng được trờ cấp.1
Tộc người Hoa Hạ (Trung Hoa) theo nơng nghiệp, hiền lành, nhưng ngay từ khi
hình thành tộc người của mình đã phải chống cự lại với sự gây rối loạn của của các tộc
người du mục hiến chiến ở phía Tây. Điều này đã có ý nghĩa làm cho người Trung
Hoa phải suy nghĩa về các chính sách cai trị sao cho có hiệu quả để một mặt ổn định
và phát triến trong nước và mặt khác đấu tranh chống lại những kể thù xâm lấn lãnh
thổ của mình.
Điều đặc biệt quan trọng là trong vùng đất Trung Nguyên, vào thời Đông Chu,
thời đại phát triển rực rỡ của các tư tưởng triết học Trung Quốc, cục diện xã hội có
những biến đổi sâu sắc, xã hội lâm vào tình trạng hỗn loạn.
Đời Chu chia làm hai thời kỳ: thời kỳ thứ nhất đóng đơ ở đất Phong, đất Cảo
thuộc phía Tây (Miền Thiểm Tây bây giờ) nên gọi là Tây Chu(1134-770); đến thời
Chu Bình vương bị rợ Hiểm Doãn và rợ Khuyển Nhung uy hiếp, nhà Chu phải dời đơ
qua Lạc Dương ở phía Đơng, từ đó bắt đầu thời kỳ thứ nhì gọi là Đơng Chu(770-221).
Đông Chu lại chia làm hai thời kỳ: Xuân Thu (722- 479) và Chiến Quốc (479 -221).
Nhà Chu tuy suy yếu nhưng các nước chư hầu chưa nước nào đủ mạnh để dẹp tất
cả các nước khác để thay nhà Chu làm thiên tử. Các nước chư hầu lớn mạnh tiếm
quyền thiên tử, họ tranh giành đất đại, đánh nhau không ngớt.
Số chư hầu trước kia trên một ngàn, tới đầu đời Đơng Chu chỉ cịn lại trên một
trăm, vì nhiều nước nhỏ đã bị các nước lớn thơn tính. Nhưng trong số trên trăm nước

đó, thời Xuân Thu chỉ có mười lăm nước là đáng kể: Tấn, Tần, Tề, Ngô, Việt, Sở, Lỗ,
Vệ, Yên, Tào, Tống, Trần, Thái, Thịnh, Trâu. Trong mười lăm nước đó lại chỉ có năm
nước là hùng cường kế tiếp nhau làm minh chủ: Tề (Hoan Công), Tấn (Văn Công),
Tống (Tương Công), Sở(Trang Công), Tần (Mục Công).

1

Nguyễn Hiến Lê. Sử Trung Quốc, tập I. NXB Văn hố thơng tin, H, 1997, tr22.

17


Qua thời chiến Quốc, số chư hầu giảm xuống còn trên một chục: Tề, Tấn, Sở,
Triệu, Nguy, Hàn, Tống, Lỗ, Tần, Đằng, Yên, Trung Sơn...Nhưng chỉ 7 nước lớn tranh
hùng với nhau Tề, Tần, Sở, Triệu, Nguy, Hàn, Yên. Trong số thất hùng, mạnh nhất là
Tần đất đai rộng, tài nguyên nhiều. Các nước đó tổ chức thành những liên minh để
đánh nhau. Có hai kế hoạch liên minh lớn nhất là kế hoạch "hợp tung" của Tô Tần và
kế hoạch "liên hoành" của Trương Nghi.1
Xã hội Trung Hoa cuối thời Xuân Thu diễn ra sự rối loạn về quan hệ đẳng cấp và
danh phận, quan hệ tơng pháp. Tình trạng tôi giết vua, cha con tranh giành quyền lợ
với nhau, anh em mâu thuẫn nhau là thường thấy. Nước Lỗ thời Xn Thu có trên 30
vụ thí qn. Nếu tính đến cả nước khác thì có đến trên 300 vụ. Điển hình có thể nói tới
vụ Thơi Trữ giết Tề Trang Công, Trần Thành Tử giết Tề Giản Công. Sự rối loạn trong
quan hệ tơng pháp có thể kể đến những vụ như: Nam tử, vợ vua Vệ Linh Vương, dâm
loạn, gây chia rẽ giữa Khoái Quý và con là Triết; Sở Bình Vương tranh vợ của con;
Ngũ Tử Tư báo thù cha đem quân Ngô về phá tan tổ quốc.
2. Tổng quan về sự hình thành các học thuyết chính trị Trung Quốc cổ đại
Triết học Trung Quốc có một truyền thống lịch sử xuất hiện lâu đời từ cuối thiên
niên kỉ thứ II, đầu thiên niên kỷ thứ Itr.CN. Các tác giả người Trung Quốc- Hầu Ngoại
Lư, Triệu Kỷ Bân, Đỗ Quốc Tường đã phân định các giai đoạn của tư tưởng triết học

Trung Quốc cổ đại: Từ lúc bắt nguồn từ tư tưởng cổ đại khoảng giữa từ đời Ân và đời
Chu, qua cái học '' học ở quan phủ '' đời Tây Chu đến tư tưởng trước sau cuộc dời qua
phía Đơng, là giai đoạn thứ nhất của tư tưởng cổ đại Trung Quốc: từ tư tưởng trước
sau cuộc đời qua phía Đơng, đến nho học của thân sĩ là giai đoạn thứ hai của tư tưởng
cổ đại Trung Quốc; Từ sự phê phán của hiển học Khổng, Mặc đối với nho học, qua cái
học trăm nhà đua nói, đến tư tưởng khoảng giữa Chu, Tần, là giai đoạn thứ ba của tư
tưởng Trung Quốc.2
Trước Khổng, Mặc cũng đã có những tư tưởng về chính trị, nhưng còn rất tản
mạn, chưa thành những học phái nhất định. Nổi bật lên là tư tưởng thần quyền, đề cao
tính siêu nhiên của quyền lực chính trị; tư tưởng thiên ý, ý của vua chính là ý trời...
Trong phạm vi của cuốn Giáo trình này khơng có tham vọng khảo cứu về tất cả ba giai
đoạn hình thành và phát triển của tư tưởng triết học Trung Quốc như đã nói trên, mà
chỉ tập trung vào giai đoạn cuối cùng- giai đoạn rực rỡ nhất của triết học cổ đại Trung
Quốc.
1

Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê. Chiến Quốc Sách. NXB Văn hố thơng tin, H, 1996, tr9.

2

Hầu Ngoại Lư, Triệu Kỷ Bân, Đỗ Quốc Tường. Bàn về tư tưởng cổ đại Trung Quốc. NXB Sự thật, H, 1959,
tr68.

18


Các sử gia đời sau cố gắng sắp xếp, phân loại các học phái. Người đầu tiên là Tư
Mã Đàm (mất năm 110tr.CN), cha của Tư Mã Thiên (khoảng 145-86tr.CN). Tư Mã
Thiên là tác giả của bộ "Sử ký", một bộ sử vĩ đại của Trung Quốc. Trong chương cuối
bộ sách, Tư Mã Thiên chép lại lời văn của cha, nhan đề "Luận lục gia yếu chỉ". Trong

bài này Tư Mã Đàm đã phân loại bách gia thành sáu học phái: âm dương gia, nho gia,
mặc gia, danh gia, pháp gia, đạo đức gia.
Theo các cách phân loại trên, chủ thuyết chính trị của các học phái chính gồm:
Nho gia, mặc gia, đạo gia, pháp gia, dịch học phái.
Nho gia
Khổng tử mở đầu phong trào mà sau này được gọi là Nho gia. Khổng Tử họ
Khổng tên Khâu, hiệu Trọng Ni, người nước Lỗ thời Xuân Thu của nước Trung Quốc.
Ông sinh vào thời Chu Linh Vương năm 21, tức năm 551 trước Công nguyên. Khổng
Tử xuất thân từ tầng lớp quý tộc sa sút. Sử kí Tư Mã Thiên cho biết: ''Khổng Tử
nghèo hèn, đến khi lớn lên làm lại cho họ Quý.”1 Trong Luận Ngữ, Khổng tử cũng
nhận mình lức nhỏ nghèo hèn. Năm 19 đời vua Chu Kính Vương, Khổng tử được vua
nước Lỗ dùng làm quan Trung đồ tể. Sau do những âm mưu chính trị ông phải từ chức
bỏ xứ mà đi. Trong ba mươi năm tiếp theo ông chu du từ nước này sang nước khác,
mong tìm một ơng vua tài đức có thể thực hiện được chính sách cai trị của mình.
Nhưng đến đâu cũng không thành công, cuối cùng phải trở về Lỗ khi tuổi đã già. Ba
năm sau ông mất ở đấy vào thời Chu Kính Vương năm 41, tức năm 479 tr.CN.
Tác phẩm chủ yếu thể hiện tư tưởng Khổng Tử là bộ Luân Ngữ. Sách Hán thư
chép:'' Sách Luận Ngữ là những lời của Khổng Tử đáp ứng những học trò hoặc các
người đương thời, và những lời học trị nói với nhau khi nghe lời thầy. Hồi đó các học
trị đều có ghi chép. Phu Tử mất rồi, họ mới tập trung lại luận bàn với nhau mà soạn
ra, cho nên gọi là Luận Ngữ'.'' Số nguyên chương của sách Luận Ngữ là bao nhiêu đến
nay là chưa xác định được, nhưng có điều chắc chắn là đã bị thất lạc một phần. Bản
Luận Ngữ ngày nay có 20 chương.
Giải pháp của Khổng tử đối với việc cai trị để ổn định xã hội xuất phát từ chủ
trương tịng Chu đến thuyết chính danh và sau cùng là chính sách nhân trị. Chính sách
nhân trị của Khổng tử đề cập đến các vấn đề chính trị như: chính sách cai trị (giáo dân,
dưỡng dân, tiết dụng, phân phối tài sản, sử dụng sức dân...), các quan chức (tuyển
dụng, tiêu chuẩn, nghệ thuật lãnh đạo...).
Đại học và Trung dung xưa vốn là hai thiên trong Kinh Lễ. Sau đến đời Tống,
các nho gia mới in riêng, cùng với sách Luận Ngữ và sách Mạnh tử làm thành Tứ thư.


1

Tư Mã Thiên. Sử Ký, bản dịch của Nhữ Thành. NXB Văn học, H , 1988.Tr 214.

19


Sau Tử Tư có Mạnh tử, một đại biểu xuất sắc của nho gia. Mạnh tử tên là Mạnh Kha,
tự là Tử Dư, dịng dõi Lỗ Cơng, người ấp Trâu. Ông sống vào khoảng 372-289
tr.CN.Từ nhỏ, Mạnh tử đã được hấp thụ những lễ giáo phong kiến từ gia đình. Lớn lên,
Mạnh tử theo học Tử tư. Mạnh tử học xong, đi chu du các nước Tề, Lương, Tống,
Đằng với muốn các nước này thực hành chính sách cai trị của mình nhưng khơng
thành cơng. Ơng lui về cùng với mơn đệ của mình xếp đặt thứ tự trong Kinh Thi, Kinh
Thư, thuật cái ý của Khổng tử là ra bảy thiên sách Mạnh tử.
Sau Mạnh tử bốn năm mươi năm, tại nước Triệu xuất hiện một danh nho là Tuân
Tử. Tuân Tử tên là Huống, tự là Khanh, 50 tuổi mới đi học ở nước Tề. Ông cũng chu
du ở các nước Tề, Tần, Sở, rồi quay về Triệu. Tư Mã Thiên viết:'' Tuân Khanh ghét
chính sự đời dơ đục, nước mất vua hỏng luôn luôn nối nhau. Các vua khơng theo đạo
đức lớn mà lo cúng tế, bói toán , tin điều may , điều rủi.''1 Sách của ông hiện nay có
bộ Tuân tử, tất cả 32 thiên. Theo các nhà khảo cứu thì chỉ có các thiên Thiên luận, Giải
tế, Chính danh, Tính ác là chính thật là cái tinh hoa của Tuân tử, còn các thiên khác
thì có lắm chỗ của người đời sau phụ hoạ vào hoặc sai lạc đi nhiều.2
Mặc gia
Sau khi Khổng tử mất thì Mặc tử ra đời. Mặc Tử là đối thủ đầu tiên của Khổng
tử. Về tiểu sử của Mặc tử có nhiều nghi vấn. Châm chước các quan điểm có thể tạm
chấp nhận một số chi tiết: Ơng họ Mặc tên Địch, người nước Lỗ, sống vào khoảng
những năm 479-381tr.CN. Khổng tử sống vào đầu thời Xuân Thu. Mặc tử mở đầu thời
Chiến Quốc. Suốt hai thời Xuân Thu và Chiến Quốc xã hôi Trung Hoa vẫn biến
chuyển liên tục, khơng bị gián đoạn, nhưng xét chung thì thời Chiến Quốc xã hội loạn

lạc hơn, biến cố dồn dập hơn.3
Nguồn tài liệu chính nghiên cứu tư tưởng của ơng là bộ Mặc tử gồm 53 chương,
bộ sách thu thập trứ tác của những người nối chí cũng như của chính Mặc tử. Ơng là
người sáng lập ra một học phái, lấy tên là Mặc gia. Xưa kia Mặc tử cũng nổi tiếng như
Khổng tử và học thuyết của ông cũng ảnh hưởng không kém.4
Mặc tử nhận thức rằng sự loạn lạc của xã hội, nỗi khổ cực của dân chúng xuất
phát từ lòng tự tư, tự lợi của con người, khơng u người khác mà chỉ u bản thân
mình, làm hại cho người khác để làm lợi cho mình. Thái độ tự tư, tự lợi đó Mặc tử gọi
là "biệt". "Biệt" thì gây chia rễ, rối loạn trật tự xã hội. Cho nên chủ trương chính trị

1

Tư Mã Thiên. Sử Ký, bản dịch của Nhữ Thành. NXB Văn học, H , 1988.Tr 438

2

Trần Trọng Kim . Nho giáo . NXB VHTT, H, 2001, Tr 266

3

Nguyễn Hiến Lê. Mặc học (Mặc tử và Biệt Mặc). NXB Văn Hố Thơng Tin, H, 1998,tr18.

4

Phùng Hữu Lan. Đại cương triết học sử Trung Quốc. NXB Thanh niên, H, 1999, tr 65.

20


của Mặc tử là phải thay "biệt" bằng "kiêm". Kiêm là gồm. Từ đó ơng xây dựng nên

thuyết kiêm ái. Kiêm ái là gồm yêu mọi người, coi ai cũng như mình làm lợi cho mọi
người. Kiêm ái là cái gốc sinh ra các quan niệm khác của Mặc tử về chính trị.
Từ chủ trương kiêm ái, Mặc tử chống chiến tranh (phi cơng). Gồm u người
(kiêm ái) thì trật tự xã hội được xác lập. Tranh nhau thì xã hội rối loạn. Mặc tử mạt sát
việc dùng võ lực để xâm lẫn nước khác.
Đạo gia
Đạo gia do Lão tử khởi sáng lập. Theo Sử Ký của Tư Mã Thiên, Lão tử họ Lý,
tên Nhĩ, người nước Sở, sống cùng thời với Khổng tử và có đưa ra câu truyện về việc
Khổng tử học lễ từ Lão tử.1 Lão tử để lại một bộ sách mang tên ông mà đời sau gọi là
Đạo Đức Kinh.Tiểu sử của Lão tử chứa đựng rất nhiều những điều bí ẩn. Từ thời Tư
Mã Thiên đến nay, biết bao nhiêu nhà tra cứu đủ các sách cổ để tìm hiểu Lão tử tên
thật là gì sống ở thời nào, làm gì, tiếp xúc với những ai, nhưng chỉ đưa ra những giả
thuyết, và càng bàn càng thêm rối vì ý kiến mâu thuẫn nhau.
Học thuyết của Lão tử rất có hệ thống. Ơng xây dựng một thế giới quan khá mới
mẻ là cơ sở cho các quan niệm của mình về xã hội. Một chữ "vơ" có thể thâu tóm được
tồn bộ học thuyết của Lão tử. Trong tự nhiên thì là "vơ danh", trong xã hội thì là "vơ
vi". Lão tử đặt cơ sở cho sự ra đời một học phái là phái Lão gia hay cịn gọi là Đạo gia.
Triết lý chính trị của Lão tử thâu tóm trong hai chữ “vơ vi.”
Trang tử là một đạo gia kiệt xuất sau Lão tử, và cũng như Lão tử, ông sống một
đời ẩn sĩ mai danh nên thân thế cịn nhiều bí mật. Theo học giả Nguyễn Hiến Lê, đời
Trang tử chỉ có mấy điểm này là chắn chắn: Ông sinh ở đất Mơng thời đó thuộc Tống,
sống vào thế kỷ thứ IV Tr. CN, đồng thời với Mạnh tử, hồi nhỏ làm một chức quan
nhỏ, coi một xưởng chế tạo sơn, sau ở ẩn, viết một bộ sách, người đời sau gọi là Trang
tử, tư tưởng chịu ảnh hưởng của Lão tử.2
Triết lý chính trị của Trang tử chịu ảnh hưởng của Lão tử. Tư Mã Thiên viết:
"Học thuyết của ông không có việc gì là khơng xét đến, nhưng gốc là theo thuyết của
Lão tử."3 Sự độc đáo trong triết lý chính trị của Trang tử nằm ở luận thuyết của ông về
tự do và con đường từ tự do đến vô vi.
Pháp gia
Phái pháp gia đại biểu cho tằng lớp địa chủ kiêm thương nhân đang lớn mạnh

vào cuối đời Chiến Quốc. Học phái này đã có nguồn gốc tư tưởng từ thời Xuân Thu

1

Tư Mã Thiên. Sử Ký, bản dịch của Nhữ Thành. NXB Văn học, H , 1988.Tr 330.

2

Nguyễn Hiến Lê. Trang tử- Nam Hoa kinh. NXB Văn hố thơng tin, H, 1993, tr. 16-17.

3

Tư Mã Thiên. Sử Ký, bản dịch của Nhữ Thành. NXB Văn học, H , 1988.Tr 333.

21


như các tư tưởng của Phạm Lãi, Quản Trọng, Tử Sản. Sang thời Chiến Quốc phái pháp
gia phát triển manh và dần dần tư tưởng chính trị của họ được các nước chư hầu áp
dụng. Cuối cùng chính tư tưởng của phái pháp gia đã giúp cho nhà Tần thống nhất
Trung Quốc. Tiêu biểu cho các pháp tri thời Chiến Quốc là Thân Bất Hại. Thận Đáo,
Thương Ưởng và tập đại thành tư tưởng pháp gia là Hàn Phi. Hàn Phi (khoảng 280233tr.CN) là công tử nước Hàn. Hàn Phi cùng với Lý Tư theo học Tuân tử. Hấp thụ tư
tưởng tính ác của người thầy Tuân tử, Hàn Phi cho rằng tính người là ác nhưng khơng
giống thầy là dùng đạo đức để đưa con người về đường chính đạo, mà chủ trương phải
dùng hình pháp. Hàn Phi dâng thư trình bầy phương thức cai trị của mình cho vua Hàn
nhưng không được vua Hàn chấp nhận. Tần Thuỷ Hồng đọc sách của Hàn Phi rất
ngưỡng mộ ơng. Khi Hàn Phi đến nước Tần, Lý Tư, bạn cũ của ông lúc bấy giờ đang
làm tướng quốc nước Tần, biết tài năng của mình khơng bằng Hàn Phi, nên đã gièm
pha với vua Tần bắt Hàn Phi bỏ ngục và ép uống thuốc độc chết trong ngục chết năm
233tr.CN.

Hàn Phi là một công tử nước Hàn, tức là thuộc gia thế của vua chúa phong kiến
cũ. Nhưng với những điều kiện kinh tế xã hội như trên, Hàn Phi phát ngôn với tư cách
là người kế thừa những di sản của tầng lớp địa chủ mới, đồng thời phát triển thêm cho
phù hợp với tình hình thực tế của thời đại. Do đó hệ thống lý luận của Hàn phi là đáp
ứng yêu cầu tương đối tiến bộ của giai cấp địa chủ mới.
Giải pháp đối với vấn đề chính trị của pháp gia ngược lại với nho gia. Chủ
chương chính trị của phái gia theo một phương thức gọi là phái trị.
3. Một số các học thuyết chính trị tiêu biểu của Trung Quốc cổ đại
3.1. Chủ thuyết chính trị của Khổng tử.
“Nhân”- nền tảng học thuyết chính trị của Khổng tử
Khổng tử đã sớm coi con người là con người. Ý tưởng coi con người là con
người vào thời đại của Khổng tử là một phát kiến nhân bản. Cội nguồn của ý tưởng
này là từ Chu lễ. Khổng tử chủ chương “tòng Chu”. Cả đời Khổng tử có một ý nguyện
khơng ngi là khơi phục lại Chu lê. Khổng tử bảo lâu lâu mà không nằm mơ thấy
Chu Cơng là thấy mình đã suy rồi. Sở dĩ Khổng tử “tịng Chu” là vì chính Chu lễ đã
gợi mở cho ông ý tưởng coi con người là con người. Chu lễ giúp Khổng tử phát hiện ra
chữ “nhân.”
Chính tư tưởng lấy dân làm gốc (dĩ dân vi bản) của nhà Chu đã được phát triển
bởi Khổng tử thành lấy người làm gốc (dĩ nhân vi bản). “ Dĩ nhân vi bản “ có nghĩa là
lấy người làm căn bản, coi con người là trung tâm, coi con người là quý giá nhất trong

22


vũ trụ. Tư tưởng “ dĩ nhân vi bản “ của Khổng tử lần đầu tiên đã có sự phân biệt con
người với con vật về mặt xã hội, coi con người là con người, ngay cả là nô lệ.
Không chỗ nào Khổng tử nói rõ “ nhân “ là gì ? Đây có lẽ là đặc điểm của tư duy
triết học Trung Hoa. Triết gia Trung Hoa không xây dựng chủ thuyết của mình bằng
hệ thống các khái niệm trừu tượng. Nhìn vào các trứ tác triết học Trung Hoa, người ta
có thể thấy ngay sự rời rạc, thiếu hệ thống về mặt ngơn ngữ.

“Nhân” là bản tính của con người, là thuộc tính xã hội của lồi người. Học thuyết
nhân của Khổng tử đã khẳng định tính thống nhất trong bản tính con người. “ Nhân” là
bản tính thống nhất của con người với tư cách là con người nói chung. ý tưởng về bản
tính thống nhất của con người thể hiện qua câu nói: “ Tính tương cận, tập tương
viễn.”1 Tính người sinh ra là gần nhau, nhưng do hồn cảnh, giáo dục, tập luyện, thói
quen mà xa nhau. Khẳng định này của Khổng tử rất mơ hồ nên có nhiều cách giải
thích khác nhau.
Khổng tử khơng đặt ra vấn đề thiện ác. Ngay cả châm ngôn “ tính tương cận tập
tương viễn” thì “tính” ở đây cũng không phải là một khái niệm theo nghĩa tâm lý học,
mà theo nghĩa triết học. “Tính” là thuộc tính phân biệt con người với con vật. Mà cái
phân biệt con người với con vật theo Khổng tử đó chính là “ nhân “. Như vậy, “ nhân”
là bản tính của con người với tính chất lồi. Tơi nghĩ rằng “ nhân “ chính là cái “tính
tương cận” của con người theo quan điểm của Khổng tử.
Như vậy, Khổng tử chỉ coi bản tính của con người là giá trị tinh thần cao q của
con người, mà khơng có bản tính tự nhiên trong con người. Những di sản động vật tính
của con người khơng được Khổng tử hiểu là nhân, không được coi là bản chất của con
người. Đây có lẽ là một hạn chế lớn nhất của học thuyết nhân của Khổng tử.
Tuy nhiên, với chữ “nhân” Khổng tử đã có ý thức về tính thống nhất của nhân
loại. Bàn về bản chất con người bằng chữ “nhân” ông chưa phản ảnh hết bản chất của
con người nhưng ơng khơng sai khi khẳng định thuộc tính của lồi người là những giá
trị tinh thần. Với một nhận thức như vậy ơng đã nhận diện được con người nói chung,
con người viết hoa. Có lẽ Khổng tử là người đầu tiên của nhân loại phát hiện ra con
người nói chung. Với chữ “nhân”, Khổng tử đã nhận thức được tính thống nhất của
con người nhân loại.
Học thuyết nhân trị
Khổng tử sống vào cuối thời Xuân thu. Đó là thời đại mà cục diện xã hội Trung
Hoa diễn ra nhiều biến đổi lớn về chính trị -xã hội. Quyền lực của lãnh chúa phong

1


Luận ngữ, Đồn Trung Cịn dịch. NXB Thuận Hoá, Huế, 1995, tr268.

23


kiến tối cao- thiên trị bị lung lay, chư hầu lấn áp thiên tử, danh thiên tử dần dần chỉ là
hư danh. Các vua chư hầu không ngừng sát phạt nhau.
Chính danh là để xác định lại danh phận, đẳng cấp. Thước đo của danh phận
đẳng cấp là Lễ. Lễ, với tư cách là chuẩn mực chính danh, có hai nghĩa: một là chỉ pháp
điển phong kiến; hai là chỉ kỷ luật của tinh thần. Lễ là một nguyên tắc về chính trị, là
một thứ chế độ hay một thể chế chính trị. Trong các tầng lớp do chế độ đẳng cấp tạo
nên thì có một thước đo để phân biệt họ, duy trì xã hội là Lễ. Lễ cụ thể hố cơng việc
chính trị cho các đẳng cấp. Trên cơ sở Lễ, trật tự xã hội được xác lập .
Trong một nhà nước nhân bản yếu tố con người nhà cầm quyền là căn bản. Sự
thịnh vương của nhà nước tuỳ thuộc vào nhà cầm quyền như thế nào, chứ không phải
là pháp luật. Khổng tử đề cao yếu tố con người- nhà cầm quyền hơn là vai trò của pháp
luật trong việc quản trị quốc gia. Trong một nhà nước lấy con người làm căn bản, nhà
cầm quyền phải tu dưỡng đạo nhân. Mà như đã nói, Khổng tư hiểu nhân là những giá
trị đạo đức cao quý của con người- những thuộc tính riêng có của lồi người; cho nên
nhà cầm quyền tu dưỡng đạo nhân có nghĩa phải là những người có đạo đức cao quý.
Một nhà cầm quyền có đạo đức được Khổng tử gọi là người quân tử.
Đầu đời nhà Chu như vậy, nhưng qua đời Xuân Thu, vì nhà Chu suy vi, một số
chư hầu lớn mạnh lên, muốn lấn quyền của nhà Chu, khơn khéo biết dùng hạnh bình
dân có tài để giúp mình làm cho nước mau phú cường. Điển hình là trường hợp Tề
Hồn Cơng dùng Quản Trọng.1
Cuối thời Xn Thu, nhiều nước chư hầu bị các nước mạnh thôn tính, và cùng
với sự pháp triển của lực lượng sản xuất, giai cấp bình dân đã dần dần lớn mạnh về
kinh tế, đồng thời có xu hướng tham gia vào đời sống nhà nước. Trong khi đó, giai cấp
quý tộc ngày càng suy vi, thiếu tài, bất đức khơng có khả năng điều hành xã hội.
Khổng tử vốn xuất thân từ tầng lớp quý tộc suy vi. Trên lập trường gia cấp của

mình, Khổng tử chủ trương rằng giai cấp quý tộc để có thể nắm được quyền cai trị
phải là người tài đức. Khổng tử khơng phản đối chính sách 'thân thân", nhưng do thực
tiễn của giới quý tộc đương thời, ông cho rằng nếu như bọn "cha anh" khơng có tài đức
thì khơng đáng để lãnh đạo nhà nước; ngược lại, người bình dân nếu có tài đức thì
cũng xứng đáng để quản lý nhà nước. Từ đó Khổng tử xây dựng lên lý thuyết về người
quân tử.
"Quân tử" về mặt ngữ nguyên có thể hiểu là "con vua"(quân là vua, tử là con).
Quân tử là những người giúp việc cho vua trong việc quản lý đất nước. Trong Kinh thi
chữ “quân tử” đã xuất hiện trên trăm rưởi lần. Như vậy trước Khổng tử, chữ "quân tử"

1

Nguyễn Hiến Lê. Mặc học (Mặc tử và Biệt Mặc). NXB Văn Hố Thơng Tin, H, tr188.

24


đã được sử dụng phổ biến nhưng thuần tuý chỉ địa vị trong nhà nước, tức là chỉ giới
quý tộc.
Như vậy theo Khổng tử, người quân tử phải là người có đủ những tiêu chuẩn về
tài và đức để trị quốc. Bọn quý tộc dù là đang nắm những địa vị trong nhà nước mà
khơng có những tiêu chuẩn về tài đức thì cũng khơng phải là qn tử, muốn là người
quân tử họ phải sửa mình theo những tiêu chuẩn nhất định; người bình dân nếu có
những tiêu chuẩn về tài đức thì cũng được gọi là người quân tử về đáng để tham gia
vào việc quốc gia.
Theo Khổng học, quan chức nhà nước phải là những người quân tử. Quân tử
phải đạt được những tiêu chuẩn về tài và đức. Những làm các nào để có được tài và
đức ? Các nho gia cho rằng phải học.
Như vậy, chỉ có học mới trở thành người quân tử và xứng đáng tham dự vào
đời sống chính trị. Trong thời gian dài trong xã hội Trung Quốc sau này, trong xã hội

địa chủ phong kiến, sự học đã có tác dụng thống trị to lớn. Nhưng, có sức mà theo đuổi
cái học như thế chỉ có bọn sỹ; nói cách khác, chỉ có con em những người có của mới
có thể có cơ hội tìm học, cịn những người sản xuất, những cơng nơng suốt ngày chỉ
tích luỹ vào nghề sản xuất, rõ ràng là khơng có sức theo học được.1 Sự học của người
quân tử là học đạo lý. Đạo lý của nho gia căn bản là đạo nhân. Quân tử phải là người
có đạo nhân. Nhân là đức mục thuộc phạm trù quân tử và bao trùm các đức mục khác.2
Nhân là thuộc tính của người quân tử; qn tử khơng cịn đức nhân thì khơng cịn là
người quân tư nữa. Trên cơ sở đạo nhân, Nho giáo đưa ra hành loạt những tiêu chuẩn
của người quân tử với tư cách là những mặt thể hiện của nhân.
Như vậy, triết lý nhân bản chính trị của Khổng tử coi yếu tố con người nhà cầm
quyền làm căn bản; lấy sự tu dưỡng đạo đức của nhà cầm quyền làm yếu tố căn bản
trong việc trị quốc. Thực tiễn của các nhà nước trong xã hội phong kiến Trung Quốc
cũng như ở Việt Nam chịu ảnh hưởng của triết lý này cho thấy nhà cầm quyền được
tuyển chọn theo một hình thức phổ biến là thi cử (ngồi ra cịn có tiến cử, thế tập...).
Hơn nữa, do q nhấn mạnh đến các yếu tố đạo đức, mà trong nhà nước phong
kiến Trung Quốc cũng như Việt Nam chịu ảnh hưởng của triết lý chính trị Khổng tử,
nhà cầm quyền- những bậc quân tử mặc dù có tư cách đạo đức rất đáng kính, nhưng họ
lại thiếu đi các tri thức cần thiết về kinh tế, kỹ thuật. Đây là một hạn chế của triết lý
chính trị của Khổng tử.

1

Lã Trấn Vũ. Lịch sử tư tưởng chính trị Trung Quốc. NXB Sự thật, H, 1964, tr269.

2

Trần Đình Hượu. Các bài giảng về tư tưởng phương Đông. NXB Đại học quốc gia Hà Nội, H, 2001, tr52.

25



×