Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Giáo trình lịch sử các học thuyết pháp lý phần 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 75 trang )

Chương 4
TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ LA MÃ CỔ ĐẠI

1. Khái quát chung
Nhà nước La Mã xuất hiện tương đối sớm và trải qua một thời kì phát triển lâu
dài. Lịch sử của La Mã cổ đại gắn liền với cuộc đấu tranh gay gắt giữa các tầng lớp xã
hội từ khi các quan hệ thị tộc bộ lạc bước vào giai đoạn tan rã hồn tồn và sự hình
thành các quan hệ chiếm hữu nơ lệ. Tư tưởng chính trị và pháp lý ở La Mã cổ đại được
hình thành trong điều kiện phát triển tột đỉnh của phương thức sản xuất chiếm hữu nơ
lệ và sau đó là sự sụp đổ của nó. Các mâu thuẫn giữa nơ lệ và chủ nô đạt đến độ sâu
sắc nhất đồng thời diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt giữa các chủ đất lớn và nhỏ, các tộc
trưởng và thị dân về vấn đề ruộng đất, vấn đề quyền chính trị. K. Marx nhận xét rằng:
"Có thể hồn tồn coi lịch sử bên trong của nước Cộng hòa La Mã là cuộc đấu tranh
của tiểu điền chủ với đại điền chủ, đương nhiên là dưới dạng thay đổi đặc biệt do chế
độ nô lệ tạo nên"1. Các mâu thuẫn xã hội sâu sắc càng trầm trọng thêm do có cuộc đấu
tranh trong nội bộ thượng tầng giai cấp thống trị - giữa quý tộc thị tộc và quý tộc công
nghiệp thương mại.
Trong tư tưởng thống trị của La Mã cổ đại, các vấn đề về nhà nước: Nguồn gốc,
thiết chế và hình thức của nó; các vấn đề về nơ lệ; địa vị pháp lý của các tầng lớp khác
nhau của người tự do; việc bảo vệ sở hữu cá nhân... có vị trí quan trọng. Tư tưởng
chính trị - pháp lý của La Mã cổ đại có nhiều nét giống với Hi Lạp cổ đại, song so với
Hi Lạp, tư duy chính trị của La Mã nghèo nàn hơn nhiều. Theo một số tác giả thì sự
tiếp nhận các quan điểm của Plato và của Aristote của người La Mã rất non yếu và hạn
chế. Sở dĩ như vậy là vì những lý do sau:
Thứ nhất, người La Mã vốn có tinh thần thực tiễn nên nền cộng hòa đã sản sinh
ra những con người cầm quyền nhà nước, những cố vấn pháp lí, những nhà hùng biện,
những quân lính trung thành với các công việc thực tế và các bài học của họ, lo lắng
đến sự kiện hơn là quan tâm soạn thảo các lí thuyết.
Thứ hai, người La Mã rất năng động, lại chịu sự tác động của chiến tranh, bởi
những cuộc hội nghị chính trường và bởi việc theo đuổi những vinh dự đã làm cho họ
xa cách phương hướng nghiên cứu duy lí. Phạm vi lãnh thổ rộng là sản phẩm của


những cuộc chinh phục mà La Mã đã tiến hành trên thế giới cũng không thuận lợi cho
việc nghiên cứu lý luận.
Thứ ba, người La Mã có tính kiêu căng, họ tự tơn sùng họ q mức nên họ chỉ

1

C.Mác v Ph. ngghen , To n t p, t p 28, Ti ng Nga, Nxb. Chính tr qu c gia, M.1962, tr. 238.

63


quan tâm đến lịch sử của riêng họ mà không quan tâm nghiên cứu các thiết chế của
của các dân tộc khác vì họ cho rằng đó chỉ là những dân tộc bị họ đánh bại hoặc phải
phụ thuộc vào họ nên khơng đáng tìm hiểu.
Tuy vậy, ở La Mã thời kì này cũng đã xuất hiện nhiều khuynh hướng tư tưởng
đại diện cho nhiều giai cấp, tầng lớp khác nhau như tư tưởng của những người nô lệ
khởi nghĩa, tư tưởng của nền dân chủ chiếm hữu nô lệ, tư tưởng của các luật gia La
Mã…
2. Tư tưởng chính trị của Nô lệ khởi nghĩa
Đồng thời với cuộc khởi nghĩa đầu tiên của các nô lệ ở Sicile đã nổ ra cuộc khởi
nghĩa lớn ở Tiểu Á (132 - 129 tr.CN) dưới sự lãnh đạo của Aristonic, trong đó có tầng
lớp nghèo khổ tự do và nơ lệ tham gia. Aristonic hứa hẹn thành lập "nhà nước mặt
trời" (ông vay mượn tư tưởng này từ tác phẩm không tưởng cùng tên của Yambun),
nơi có sự ngự trị của tự do, bình đẳng và bác ái.
Nói chung, các cuộc đấu tranh của những người nô lệ đã chỉ rõ mong muốn
khơng gì lay chuyển nổi của họ là xóa bỏ áp bức và nô dịch. Đồng thời, mặc dù những
người nô lệ đã không thể tạo nên hệ tư tưởng chính trị hài hịa, nhưng những phong
trào của họ đã có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển tư tưởng và học thuyết chính trị
được hình thành trong xã hội chiếm hữu nơ lệ.
3. Tư tưởng chính trị của nền dân chủ Chiếm hữu Nô lệ

Trong thời gian các đội quân lê dương La Mã chiến đấu chống những người nơ lệ
ở Sicile thì ở chính La Mã cũng khơng bình n. Một phong trào dân chủ mạnh mẽ của
nông dân phá sản đã được triển khai dựa trên cơ sở cuộc đấu tranh của những người tự
do sản xuất nhỏ - tiểu nông với đại điền chủ. Người nơng dân bị phá sản bắt đầu cuộc
đấu tranh địi phân chia điền địa, gắn cuộc đấu tranh này với địi hỏi dân chủ hóa Nhà
nước La Mã.
Tư tưởng của Tiberi phần nhiều trùng hợp với những tư tưởng chính trị của nền
dân chủ chiếm hữu nô lệ Hi Lạp, đã được em trai ông là Gai Grakho phát triển trong
cuộc đấu tranh với Viện nguyên lão và đã góp phần tạo lập khối liên minh rộng lớn
giữa nhân dân nông thôn và thành thị với các hiệp sĩ. Năm 123 TR.CN, khi được bầu
làm người đứng đầu tòa án, Gai Grakho đã đưa ra một số dự luật quan trọng trong đó
đáng lưu ý là dự luật giảm 50% giá bánh mì, dự luật cho phép người nghèo được đi
xem ở nhà hát, dự luật về quyền được trả tô thuế bằng tiền áp dụng cho dân Tiểu Á, dự
luật chuyển giao quyền xét xử trong Viện nguyên lão cho tầng lớp các hiệp sĩ...
Ý nghĩa quan trọng của các dự luật trên (dù chúng chưa được thực hiện triệt để)
là đã thể hiện đầy đủ tư tưởng pháp luật cơng bằng, phi bạo lực và nó đã có ảnh hưởng

64


lớn tới q trình hồn thiện nhà nước theo khuynh hướng dân chủ nảy sinh trong cuộc
đấu tranh gay gắt giữa các thế lực chính trị đối kháng ở La Mã. Đặc biệt, ý nghĩa chính
trị của đạo luật bánh mì do Gai đưa ra là ở chỗ: Nhà nước có trách nhiệm giúp đỡ về
vật chất cho thị dân. Người ta nói rằng, sau khi đạo luật được thơng qua, Gai đã nói:
"Bằng một cú đánh, tơi đã tiêu diệt Viện nguyên lão"1. Anh em Grakho đã bảo vệ cả tư
tưởng mở rộng các quyền của những người tự do nghèo khó, dân chủ hóa quân đội...
Phong trào của anh em Grakho đã bị thất bại vì việc duy trì chế độ tiểu điền chủ
cố hữu như là một trong những cơ sở của chế độ cộng hòa là không thể được. Sau khi
đàn áp xong phong trào này, giới quý tộc đã được tăng cường và cuộc đấu tranh giai
cấp ngày càng mạnh mẽ bởi vì với sự phát triển của đại điền chủ tư hữu, quyền chính

trị của đa số công dân La Mã ngày càng bị cắt xén và mất dần.
4. Tư tưởng chính trị của Marc Tulli Cicero (106 -43tr.CN)
Cicero vừa là nhà tư tưởng, vừa là nhà chính trị và nhà luật học. Các quan điểm
chính trị của ơng là sự trung hịa các quan điểm của Plato, Aristote và một số nhà tư
tưởng khắc kỉ. Ơng trực tiếp làm chính trị trong 25 năm, đã từng giữ các chức vụ như
pháp quan, quản lí viên thị chính, quan án đơ thị, Chấp chính viên tối cao, Tổng đốc
Sicile. Giữa những năm 70 - 60 tr.CN, ông lập ra cái gọi là một đảng cộng hịa trung
tâm. Ơng tập hợp một liên minh gồm những tư nhân tài chính giàu có từ tầng lớp trung
lưu, bộ phận ơn hịa của tầng lớp q tộc và bộ phận ơn hịa của những người bình
dân, chính liên minh này đã giúp ông vào được viện chấp chính năm 63. Sau khi xảy
ra vụ ám sát Cesar, ông đứng đầu phe đối lập và bị ám sát ngày 12/12/43 tr.CN, đầu
rời khỏi thân, tay bị chặt gửi về La Mã và bày ở mũi tàu. Nhận xét về Cicero, Graston
Borrissier đã viết: "Cicero đôi khi do dự và quá mềm yếu thì cuối cùng bao giờ cũng là
để bảo vệ điều mà ơng coi như lợi ích của cơng lí và pháp quyền... Khi lợi ích đó ln
bị thất bại, ơng đã làm trịn sự phục vụ cuối cùng cho lợi ích đó mà nó có thể địi hỏi
những người bảo vệ, ơng đã làm vẻ vang nó bằng cái chết của ơng”2.
Tác phẩm Nước cộng hịa gồm 6 quyển:
+ Quyển 1: Về những hình thức khác nhau của chính phủ;
+ Quyển 2: Các thiết chế La Mã;
+ Quyển 3: Về bản chất con người và công lí trong tất cả các chính phủ;
+ Quyển 4: Về giáo dục và đời sống gia đình;
+ Quyển 5: Về các phong tục khắc khổ của thời cổ đại;

1

Xem: “L ch s các h c thuy t chính tr trên th gi i”, sđd, tr. 94.

2

L ch s các t


t

ng chính tr , S d, tr.142.

65


+ Quyển 6: Về những quan hệ của tôn giáo và hạnh phúc của các xã hội.
Sau khi nghiên cứu về nhà nước trong Nước cộng hịa, ơng lại khảo cứu các luật
thích hợp nhất với các nhà nước trong tác phẩm Luật pháp. Tác phẩm này gồm 3
quyền:
+ Quyển 1: Nghiên cứu nguồn gốc của pháp quyền;
+ Quyển 2: Các luật tơn giáo;
+ Quyển 3: Tổ chức chính quyền, đồn pháp quan và các quy tắc chính trị thực
hành.
Hai tác phẩm này của Cicero là sự hỗn hợp từ Nền cộng hòa và Luật pháp của
Plato, theo sự luận giải của Cicero thì đó là lí tưởng về chính phủ tốt nhất và công dân
tốt nhất, được rút ra đồng thời trong mối quan hệ tất yếu của chúng. Vì thế, có người
đã chỉ trích ơng là ăn cắp văn của Plato, song lại có người nhận xét: "Nước cộng hịa
của Cicero khơng phải là sự ăn cắp văn của Plato, cũng khơng phải sự biện hộ có dự
tính trước cho ngơi hồng đế mà là một bức vẽ rất tốt về lí tưởng con người nhà nước,
do Cicero lấy ở tư duy Hi Lạp với kinh nghiệm cá nhân chín muồi của ơng và do đó đã
thích ứng với tư duy La Mã và với khn khổ chính trị của thành bang cộng hòa"1.
Theo Cicero, điều bât hạnh nhất đối với người tốt là bị buộc phải tuân theo người
xấu. Nhưng những người ác sẽ thắng lợi một cách tất yếu nếu những người tốt không
tham dự vào các cơng việc chung và nước cộng hịa sẽ bị phân thành nhiều mảnh. Đối
với những người tốt thì sẽ là khơng đủ nếu chỉ quan tâm đến mình mà bỏ qua các việc
công cộng. Họ cần phải theo dõi bước đi của việc công hàng ngày và chấp nhận các
quy tắc của nó. Chính trị học La Mã bao hàm một con đường đi lớn, nó làm cho người

ta liên tiếp phải trải qua các chức pháp quan khác nhau để cuối cùng đi đến việc chấp
chính.
Theo ơng, người cơng dân tốt nhất là người có văn hóa, có tài năng và quyền uy.
Người đó có phẩm chất của người công dân mà Plato gọi là các nhà triết học chấp
chính, cịn Cicero gọi họ là con người có uy thế tinh thần. Quan niệm của Cicero về
quyền lực là quan niệm của một quyền uy tốt bụng, theo ông nhà chính trị tác động tới
những người bị cai trị với chức năng phụ trợ và tiết chế, điều hòa.
Khi quyền uy thuộc về một vài người được lựa chọn thì người ta nói rằng thành
bang được cai trị bởi nhóm ưu tú hay chế độ quý tộc.
Cuối cùng, chính phủ nhân dân là chính phủ ở đó tất cả quyền lực thuộc về nhân
dân"2.

1

L ch s các t

t

ng chính tr , S d, tr.143.

2

L ch s các t

t

ng chính tr , S d, tr.150.

66



Như vậy, Cicero khẳng định rằng:
- Bản chất nhân loại, lí tính chính nghĩa cơng bằng phát ra những mệnh lệnh phải
được tôn trọng bởi người nghe những mệnh lệnh ấy.
- Những mệnh lệnh ấy của lí tính cơng bằng không thể bị thay đổi bởi pháp
quyền thực chứng và các quyền lực công cộng phải bất lực ngay trong mơi trường của
chúng.
- Những biểu hiện của lí tính cơng bằng đó phải có một tính chất vĩnh hằng và
phổ biến.
Người nào khơng biết đến ba ngun tắc đó sẽ khơng biết đến bản chất con người
trong bản thân mình.
Nói chung, Cicero đã viện dẫn đến pháp luật tự nhiên để chống lại luật pháp
thành văn của nhà nước lúc đó, đó là thứ pháp luật tồn tại trước những văn bản, trước
pháp luật của pháp quan, trước những lời nghị án của các quan tịa.
5. Tư tưởng chính trị của Thiên chúa giáo
Sự khủng hoảng của chế độ chiếm hữu nô lệ ngày càng tăng đã dẫn tới sự cùng
cực của quần chúng lao động. Những người nông dân và thợ thủ công bị phá sản và
biến thành "những người nghèo khổ tự do" khơng cịn phương tiện sinh sống. Đặc biệt
là tình cảnh khốn cùng của những người nơ lệ bị chủ nơ bóc lột tàn nhẫn. ở nhiều nơi
của đế quốc La Mã đã bùng nổ các cuộc khởi nghĩa của nô lệ và nhân dân bị áp bức,
nhưng tất cả họ đều bị nhà nước chiếm hữu nô lệ đàn áp dã man. Sự bất lực của quần
chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh với bọn bóc lột đã dẫn tới sự gia tăng tâm lí tín
ngưỡng, sự tìm kiếm "niềm an ủi tinh thần" trong tôn giáo.
Sứ mệnh của quyền lực là làm cho công bằng ngự trị, chính trong mục đích đó
mà uy lực đã được đem lại cho ông vua. Công bằng bản thân nó có trước quyền lực,
khơng thay đổi, vĩnh hằng, tối thượng chung trong không gian và trong thời gian, nó
áp đặt cho tất cả các ý thức. Theo Augustin, uy lực không phải là một điều xấu mà so
với cơng bằng, nó khơng phải là cái thứ nhất mà là cái thứ hai. Quyền lực, bản thân nó
có tất cả cái phải sợ nếu tách xa sự công bằng. Ơng viết: "Các vương quốc khơng có
cơng bằng là gì nếu khơng phải là những việc tham nhũng, cướp bóc". Vậy cơng bằng

nằm ở đâu? Nó cốt ở chỗ làm bổn phận của mình với sự đúng đắn nhất, trả lại cho mỗi
người cái mà mình mắc nợ.
Nhiệm vụ thứ ba của người thủ lĩnh là phải cố vấn cho nhân dân mình. Họ phải
đặt quyền uy của họ vào việc phục vụ nhân dân họ. Có thể thấy các quan điểm của
kinh phúc âm thể hiện khá rõ trong lập luận của Augustin. Theo ông, chỉ huy là một
mặt của lòng từ thiện; thần dân là những người anh em nên việc áp đặt ý chí đối với họ

67


cũng là điều tốt vì để thực hiện được việc chỉ huy họ. Do đó, "quyền uy phải được
chấp nhận như là một sự phục vụ và được yêu thích như là một việc làm phúc". Với sự
công bằng làm gốc và việc từ thiện làm ngọn, thành bang tạo ra hạnh phúc cho các
công dân. Cương lĩnh của Augustin về thành bang là trật tự, đồn kết, hịa bình, trật tự
giành được bằng đoàn kết và đoàn kết được thực hiện bằng hịa bình.
Về mối quan hệ giữa nhà nước và nhà thờ, Augustin cho rằng, quyền lực nhà
nước và quyền lực nhà thờ là rất khác nhau và độc lập với nhau. Mỗi loại quyền lực
chỉ phụ thuộc vào bản thân mình và vào Thượng đế, vận động trên những phương diện
khác nhau. Do vậy, mọi sự can thiệp của quyền lực này vào quyền lực khác vừa là
phạm tội vừa là nguy hiểm cho lợi ích chung hoặc cho chính nó.
Nói chung, Augustin đặt lịng tin sâu sắc vào các hoàng đế Thiên chúa giáo và
cũng chú ý đến việc đồng nhất nhà nước với nhà thờ thơng qua việc tun bố vai trị
của nhà nước như là điều mong muốn của Thượng đế là để duy trì trật tự và khẳng
định sự tất yếu phải phục tùng các thiết chế ấy để vâng theo những số phận thiên mệnh
ngay cả khi các vua chúa hay các hồng đế thay đổi tơn giáo hay là người phi đạo.
Ơng khẳng định rằng chế độ nơ lệ cũng là do Chúa định. Mặc dù mọi người bình đẳng
theo tự nhiên nhưng "kẻ nơ lệ phải là nơ lệ vì những tội lỗi của mình", "kẻ nơ lệ phải là
nơ lệ vì có lỗi" trước Chúa và bởi vậy nơ lệ phải hồn tồn cam chịu phục vụ chủ của
mình. Theo ông, sở hữu cá nhân, bất công xã hội, sự tồn tại kẻ giàu, người nghèo là "ý
Chúa". Ông viết: "Ai đã tạo ra những thứ đó? Chúa! Sinh ra người giàu là để giúp

người nghèo, sinh ra người nghèo là để thử thách người giàu...".
CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG 4:

1. Đánh giá một số giá trị tiêu biểu của tư tưởng chính trị La Mã cổ đại?
2. Nội dung tư tưởng chính trị của Thiên chúa giáo?

68


Chương 5
CÁC HỌC THUYẾT CHÍNH TRỊ TÂY ÂU TRUNG CỔ

1. Khái quát chung
Sau khi chế độ chiếm hữu nô lệ Lamã sụp đổ vào thế kỷ V-VI ở Tây Âu đã xuất
hiện các nhà nước, chế độ phong kiến dần hình thành. Nền tảng của chế độ phong kiến
là sở hữu ruộng đất của lãnh chúa phong kiến. Xã hội chia thành hai giai cấp chính:
các chúa phong kiến nắm hầu hết ruộng đất và nông dân bị bần cùng hoá, lệ thuộc vào
các chúa phong kiến. Tới thế kỷ IX chủ nghĩa phong kiến hình thành xong ở tất cả các
nước ở Tây Âu. Đồng thời vào thời gian này, Tây âu bị chia nhỏ thành các quốc gia
phong kiến, khơng lệ thuộc vào chính quyền trung ương tập quyền chiếm hữu ruộng
đất khác nhau. "Cơ cấu đẳng cấp của chế độ chiếm hữu ruộng đất và các đội hộ vệ vũ
trang gắn liền với cơ cấu đẳng cấp đó, đã đem lại cho quý tộc quyền lực đối với nông
nô".1
Nhận xét về hệ tư tưởng thời trung cổ, F. Engels viết: "Trong tay bọn giáo sĩ,
chính trị và luật học, cũng như tất cả các ngành khoa học khác vẫn chỉ là những ngành
của khoa học thần học và những nguyên lý thống trị thần học cũng được áp dụng cho
chính trị và luật học". Kinh thánh cũng có hiệu lực trước mọi tồ án như là pháp luật,
khoa học luật học trong một thời gian dài vẫn còn đặt dưới sự giám hộ của thần
học...".2
Như vậy, tư tưởng thần quyền như một "đám mây mù dầy đặc" bao trùm trên bộ

Tây Âu trong tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội.
2. Các học thuyết chính trị tiêu biểu
2.1. Học thuyết thần quyền
Với sức mạnh kinh tế, chính trị và sự thống trị về tinh thần của mình, nhà thờ
thiên chúa giáo mưu toan bắt các lãnh chúa phong kiến quý tộc, và toàn xã hội phải
quy phục và lệ thuộc vào mình. Các giáo hội tích cực tuyên truyền các học thuyết thần
quyền nhằm thống trị thế giới. Một trong những học thuyết được phổ biến rộng rãi là
"học thuyết mặt trời và mặt trăng", trong đó cho rằng "mặt trăng toả sáng nhờ mặt trời,
vương quyền chói sáng nhờ giáo hồng". Thuyết lý "hai gươm" cũng được phổ biến

1

K. Marx và.F. Engels: Toàn tập, tiếng Việt, NXB Sự thật, Hà Nội, 1996, t.3, tr.45.

2

K.Marx và F. Engels: Tuyển tập tiếng Việt NXB Sự thật Hà Nội, T II, tr 205-206.

69


rộng rãi, theo đó nhà vua có được gươm báu của mình - là chính quyền, nhờ có giáo
hội và do đó cũng phải phục tùng giáo hội.
2.2. Các phong trào tà giáo
Suốt chiều dài lịch sử chính trị nhân loại về cơ bản có hai dịng tư tưởng: phản
động và tiến bộ đối lập nhau, nó thuộc về những giai cấp có lợi ích rất khác nhau.
Phong trào tà giáo ở Tây Âu được chia thành hai giai đoạn: giai đoạn từ thế kỷ X XIII; giai đoạn XIV - XV.
Các phong trào tà giáo là sự phản kháng cách mạng của nhân dân lao động chống
lại sự áp bức, bóc lột phong kiến vào thời trung cổ. Tà đạo thời trung cổ, theo định
nghĩa của F. Engels là: "Sự đối lập có tính chất cách mạng chống chế độ phong kiến"

(1).
Phong trào tà giáo lớn đầu tiên bao trùm toàn bộ Châu Âu bắt đầu vào thế kỷ X ở
Bungari. Quyền lợi của nông dân Bungari bị nô dịch được thể hiện trong phong trào tà
giáo "thánh thiện" mang tính chất chống phong kiến. Các nhà truyền giáo thánh thiện
tun truyền khơng mệt mỏi học thuyết của mình trong giai cấp bị áp bức ở Bungari:
"Dạy cho đồng bào khơng tn chủ chính quyền, - một người đương thời của phong
trào thánh thiện viết, - nguyền rủa bọn giàu có, căm thù vua chúa, nguyền rủa các tộc
trưởng, phê phán bọn quan lại, coi việc phục vụ vua chúa là đớn hèn trước Chúa và
mọi kẻ nô lệ khơng được phục vụ cho ơng chủ của mình".
Một trong những đại diện đầu tiên của tà giáo thị dân là giáo sư Trường Đại học
tổng hợp Ơcxpho Giơn Oaiclíp, người vào cuối thế kỷ XIV đã chống lại sự phụ thuộc
của nhà thờ ở Anh vào giáo hoàng Lamã và sự thâm nhập của nhà thờ vào công việc
nhà nước. Oaiclip phê phán tôn tu đẳng cấp trong giáo hội và sự giàu có của nó, khi
khẳng định rằng những điều đó trái với kinh thánh.
Run sợ trước quy mơ ngày càng to lớn của phong trào Taborít, những người theo
phái Traních đã thoả hiệp với giai cấp phong kiến chống lại họ. Sự phản bội này và sự
mâu thuẫn trong trường phái Taborit đã dẫn tới sự thất bại của họ, song những khẩu
hiệu do họ đưa ra, chỉ ít lâu sau được Tơmat Mundơ sử dụng trong thời kỳ cải cách
tơn giáo ở Đức.
2.3. Tư tưởng chính trị của thời đại Phục hưng
Cho đến thế kỷ XVI, chế độ phong kiến và hệ tư tưởng chính trị của nó đã bước
vào giai đoạn khủng hoảng trầm trọng. Sự khủng hoảng và bắt đầu tan rã của chế độ
phong kiến là một hiện tượng hợp với quy luật phát triển của lịch sử. Điều này được
thể hiện ở một số điểm cơ bản sau đây:

1

C.Marx và Ph.Angghen: Tuyển tập, tiếng Việt, NXB Sự thật, Hà Nội, 1981, t.II, tr.206.

70



Cùng với xuất hiện nền kinh tế hàng hoá, các quan hệ xã hội và giai cấp phát
triển nhanh theo hướng bị phân hố, sự phân cơng lao động xã hội ở đô thị trong thời
kỳ phát triển với tốc độ nhanh của các hình thức cơng trường thủ cơng và ở nông thôn
do bộ phận nông dân bị phá sản để làm thay đổi bộ mặt xã hội phương Tây và cùng
với sự thay đổi đó là những bước phát triển quan trọng trong đời sống chính trị.
Đương nhiên, vì vừa mới ra đời trong lịng chế độ phong kiến chưa bị sụp đổ
hoàn toàn, giai cấp tư sản còn non yếu về mọi mặt, và trong những chừng mực nhất
định nó phải dựa vào thế lực phong kiến để tìm ra một mơ hình xã hội phù hợp với
quyền lực cho cả đôi bên. Nhưng điều này không phủ nhận tính tích cực trong tư
tưởng chính trị của giai cấp tư sản mà nội dung bao trùm là sự khẳng định những
quyền năng cơ bản của con người, và giá trị đích thực của con người hữu sản trong
cuộc sống thực tại khi giáo lý không đủ sức để che đậy bản chất của chế độ phong
kiến phi nhân quyền.
Như vậy, tư tưởng chính trị - pháp luật ở Tây Âu thời kỳ phong kiến khủng
hoảng và tan rã chứa đựng hai nội dung chủ yếu: nội dung mang tính tư sản và nội
dung mang tính bình dân, và sự xuất hiện những trào lưu tư tưởng chính trị - pháp luật
đó được bắt đầu từ thời đại Phục hưng.
Thời kỳ Phục hưng theo nghĩa hẹp của từ này chính là một phong trào trí thức bắt
đầu vào cuối thế kỷ thứ XV, và bành trướng mạnh vào thế kỷ XVI, nhằm xem xét lại
những kiến thức của thời Trung cổ, để trở về với thời Thượng cổ cổ điển. Nhưng theo
nghĩa rộng, thì Phục hưng có có ý nghĩa khơng những chỉ khơi phục, mà cịn dựa vào
quyền hành của Đức Giáo hoàng trên phương diện tinh thần và dựa vào quyền hành
của Hoàng đế trên phương diện trần tục. Trên phương diện trần tục, những quốc gia
thống nhất dưới chế độ quân chủ chuyên chế như Pháp, Anh và Tây Ban Nha, càng
ngày càng mạnh thêm, và các Vua Chúa của những quốc gia này càng ngày càng có
nhiều quyền lực . Trong khi đó với sự khám phá ra Châu Mỹ của Colomb, và sự khám
phá ra con đường đi tới án độ qua ngõ Cáp của Vasco de Gama, có tác động làm đảo
lộn nền kinh tế thế giới.

Trên phương diện tinh thần dần dần cũng bị đảo lộn bởi sự khám phá ra nghề in
vào cuối thế kỷ thứ XV.
Người đi đầu trong xu hướng chính trị nói trên là Niccolị Machiavelli (14691527). Machiavelli là nhà ngoại giao và nhà chính trị tư tưởng của nước Italia thời kỳ
văn nghệ phục hưng. Ông xuất thân trong một gia đình q tộc, người cha yêu thích
nghiên cứu các tác phẩm cổ điển, từ nhỏ ông đã chịu ảnh hưởng và sự rèn luyện của
cha, năm mười hai tuổi đã có thể dùng chữ la tinh viết lách, hồn thành sự nghiệp học
hành của mình tại Đại học Phraleorta.

71


Năm 1527, nhân dân Phraleorta khởi nghĩa, một lần nữa xua đuổi gia tộc
Matichi, khơi phục lại nước cộng hồ, Machiavelli yêu cầu khôi phục lại chức quan cũ
nhưng không được, ơng lâm bệnh rồi mất vào năm đó, hưởng thọ 58 tuổi.
2.4. Tư tưởng chính trị của phong trào cải cách Tôn giáo, và phong trào
chống chuyên chế
Cuối thế kỷ XV - đầu thế kỷ XVI - đời sống kinh tế - chính trị xã hội đã bước
vào giai đoạn phát triển cơ bản. Những gì người ta làm được trong thời kỳ Phục hưng
lại được củng cố bằng niềm tin vào khả năng thay đổi những bế tắc trong "tâm linh
luận" mà Ky tơ giáo là vịng luẩn quẩn của sự bế tắc đó. Và cải cách tơn giáo là biện
pháp mà người phương Tây sử dụng để mưu toan thay đổi xã hội của họ.
Lãnh tụ của phong trào Cải cách Tôn giáo là Martin Luther (1483-1546), con của
một nhà giàu có trong giới xí nghiệp hầm mỏ. Là một luật sư trẻ, một nhà thần học, có
lúc Martin Luther đã trải qua sự khủng hoảng về tinh thần để rồi từ đó ơng bắt đầu
nhận xét về Giáo hội như là một kẻ ngộ đạo. Ngày 31 tháng 10 năm 1517, ông đã
dán 95 luận đề của mình lên cửa nhà thờ Wittengerg ở Saxonie và hành động này đã
mở đầu cho thời kỳ Cải cách tôn giáo, đưa đến sự ra đời của một giáo hội tách rời hẳn
giáo hội Ky tô La mã. Năm 1528 Luther đã cơng khai lên án Giáo hồng và Giáo hội,
ông phủ nhận cái gọi là "Giai cấp tinh thần" (giới giáo sĩ) và cho rằng nếu đã gọi có
một "giai cấp tinh thần"thì mọi người Ky tơ giáo đều thuộc giai cấp tinh thần đó.

Điểm khác biệt trong quan niệm của Clavin so với quan niệm của Luther thể hiện
ở chỗ Calvin rất tin vào sự cao cả vĩ đại của Thượng đế và bi quan trước sự bé nhỏ
của con người. Chỉ có Thượng đế, theo ý của Calvin, mới có thể tự cứu rỗi bằng đức
tin. Tuy nhiên, Thượng đế đã chọn rất ít người để cứu rỗi và không biết là ai sẽ được
Thượng đế đối tới, nên chỉ cịn hy vọng mà thơi. Đây là điểm nổi bật trong lý thuyết
của Calvin. Trong suốt 23 năm, Calvin đã giữ quyền cai trị tối cao ở Genéve và
Genéve đã như là "xã hội thần quyền", và Giáo hội. Calvin thực tế đã đóng vai trị như
một chính quyền thế tục, và tính chất dân chủ, giáo lý tôn trọng lao động, tiết kiệm, tư
tưởng vươn tới sự giàu có đã ảnh hưởng trực tiếp đến tính chất của chính quyền nhà
nước, thoả mãn phần nào nguyện vọng của giai cấp tư sản mới xuất hiện trong cuộc
đấu tranh chống thiết chế chính trị của chủ nghĩa phong kiến và cuối cùng phong trào
cải cách đã chuẩn bị những tiền đề cơ bản cho sự ra đời và phát triển của các học
thuyết chính trị - pháp luật giai đoạn tiếp sau đó.
Theo cách đánh giá của Grotius thì pháp luật thực định phong kiến đã vi phạm
nghiêm trọng quyền con người và tự do tư hữu bị chà đạp bởi bạo lực và sự đố kỵ
phong kiến. Vì vậy, chế độ phong kiến khơng cịn là sự bảo đảm nữa, chế độ đó cần
phải bị lật đổ. Thiết chế nhà nước được tạo dựng say này phải do sự thoả thuận giữa

72


những người hữu sản, quyền lực nhà nước đó là tối thượng, là quyền lực không phụ
thuộc trong trách nhiệm thông qua các đạo luật, xét xử, bổ nhiệm và giám sát hoạt
động cả các quan chức, thu thuế, giải quyết những vấn đề liên quan đến chiến tranh và
hoà bình, ký kết các hiệp ước quốc tế v.v...
Nhà tư tưởng xuất sắc thứ hai ở Hà Lan sau thời kỳ cách mạng là Baruc Spinôza
(1632 - 1677). Tư tưởng của Spinơza hình thành trong hồn cảnh của cuộc đấu tranh
gay gắt giữa các phe phái chính trị ở Hà Lan nhằm khôi phục chế độ quân chủ hoặc
phủ nhận chế độ đó mà ca ngợi tính hợp lý của thiết chế cộng hồ.
Theo Spinơza thì sức mạnh nhà nước không thể là vô hạn. Điều làm cho tư

tưởng của Spinôza khác với tư tưởng của một số người khi đề cao quyền lực tuyệt đối
của nhà nước đối với cá nhân con người. Spinôza đặc biệt nhấn mạnh những giá trị tự
do của con người trong quyền tín ngưỡng và ngơn luận. Ơng phủ nhận mọi sự ràng
buộc từ phía nhà nước hoặc nhà thờ đối với tư duy của con người và cho rằng sức
mạnh của nhà nước phụ thuộc vào việc nhà nước đó có bảm đảm quyền lợi cho đám
đông được hay không. Trong trường hợp nếu pháp luật của nhà nước bị vi phạm từ
phía những người cầm quyền thì sẽ gây ra sự phản đối trong dân chúng và sức mạnh
của nhà nước sẽ bị suy giảm. Spinôza đã khuyên các quan chức hãy tôn trọng tài sản,
an ninh, danh dự và nhiều lợi ích khác của dân chúng, và theo ơng thì chế độ qn chủ
chun chế là một hình thức chính thể nguy hại cho quyền tự do tự nhiên của con
người. Mặc dầu coi nền dân chủ là hình thức nhà nước tốt nhất bởi nó "gần với tự do
và tự nhiên hơn cả", nhưng Spinôda cũng đưa ra một số dự án nhằm cải tạo chế độ
quân chủ. Theo ông, quyền lực trong nhà nước quân chủ phải thuộc về thiết chế đại
biểu. Nó thơng qua các đạo luật và giám sát việc thực hiện những đạo luật đó của các
quan chức và chánh án. Người đứng đầu nhà nước có quyền lực hạn chế trong việc
giải quyết những bất đồng nếu chúng nảy sinh và hạn chế những mưu toan của ai đó
muốn gây nguy hại cho quyền lợi của tất cả.
CÂU HỎI ƠN TẬP CHƯƠNG 5:

1. Trình bày khái quát nội dung tư tưởng chính trị Tây Âu trung cổ?
2. Điểm tương đồng và khác biệt giữa tư tưởng chính trị Thần quyền và Tơn
giáo?

73


Chương 6
CÁC HỌC THUYẾT CHÍNH TRỊ CỦA ANH THỜI CẬN ĐẠI

1. Khái quát chung

Cuộc cách mạng tư sản Anh thế kỷ XII được coi là dấu mốc cho sự phát triển của
nền dân chủ phương Tây, cách mạng tư sản phương Tây. Cuộc cách mạng này tấn
công vào chế độ phong kiến chuyên chế. Học thuyết chính trị Anh thời kỳ này được
coi như là cơ sở tư tưởng cho cách mạng tư sản Anh. Các nhà tư tưởng chính trị Anh
thời cách mạng đã đề cập đế những vấn đề mâu thuẫn trực diện với vương quyền
phong kiến như quyền tự nhiên, chủ quyền nhân dân, phân chia quyền lực. Những tư
tưởng này được thể hiện tập trung ở hai nhà tư tưởng là Thomas Hobbes và John
Locke. Những tư tưởng dân chủ ở Anh tiếp tục được phát triển bởi J. S. Mill.
2. Các học thuyết chính trị tiêu biểu
2.1. Học thuyết chính trị của John Locke (1632 - 1704)
John Locke sinh năm 1632 tại Wrington, hạt Somerset, và qua đời 72 năm sau
đó vào năm 1704, trong mơt gia đình Thanh giáo. Ơng học cử nhân và thạc sĩ tại đại
học Oxford. Năm 1689, ông viết một danh tác chính trị để đời Khảo luận thứ hai về
chính quyền. Học thuyết của ơng tập trung vào vấn đề quyền tự nhiên, khế ước xã hội
và phân chia quyền lực.
Tuy nhiên vì những lý do nhất định, con người không thể sống trong trạng thái tự
nhiên với quyền tự do và bình đẳng một cách tuyệt đối. Khơng đồng ý với Hobbes,
Locke cho rằng trạng thái tự nhiên khơng phải là một trạng thái hỗn độn vì có luật tự
nhiên điều chỉnh : ‘’ Trạng thái tự nhiên có luật tự nhiên để cai quản, bắt buộc mọi
người phải tuân thủ ; và lý trí- vốn là luật này, huấn thị cho tồn thể lồi người- những
người có ý chí riêng nhưng phải tham vấn nó, rằng tất cả đều bình đẳng và độc lập với
nhau. Khơng ai được phép làm hại đến sinh mạng, sức khoẻ, tự do hay tài sản của
người khác vì tất cả đều là tuyệt tác của một đáng sáng tạo toàn năng và thông thái vô
hạn.’’1
Người ta bước sang trạng thái dân sự như thế nào ? Bằng con đường mọi người
cùng ký kết với nhau một khế ước xã hội để thành lập ra nhà nước. Locke lập luận về
việc ký kết khế ước xã hội như một phương thức thành lập ra nhà nước, bước vào xã
hội chính trị của con người: “Con người, như đã nói, theo luật tự nhiên, tất cả đều tự
do, bình đẳng và độc lập, khơng một ai có thể bị đưa ra khỏi tình trạng này và phải


1

John Locke. Khảo luận thứ hai về chính quyền. NXB Tri thức, 2005, tr.35-36.

74


khuất phục trước quyền lực chính trị của người khác mà khơng có sự chấp thuận của
chính người bị đặt ra. Cách duy nhất mà một người tước bỏ của chính mình quyền tự
do tự nhiên và gắn với những ràng buộc của xã hội dân sự, là bằng sự đồng thuận với
những người khác để cùng liên kết và hợp nhất trong một cộng đồng, vì cuộc sống tiện
lợi, an tồn, và thành bình giữa họ với nhau, trong sự thụ hưởng một cách bảo đảm đối
với sở hữu của họ, và một sự an ninh lớn hơn [ trước đây, trong trạng thái tự nhiên] để
chống lại bất cứ thứ gì khơng thuộc về điều đó. Bất kỳ thành viên nào của lồi người
cũng có thể thực hiện điều này, vì nó khơng gây phương hại đến tự do của những
người cịn lại; có thể nói, [khi hành động như vậy] họ được để lại trong sự tự do của
trạng thái tự nhiên. Khi có một lượng bất kỳ nào đó của lồi người đã chấp thuận việc
xây dựng một cộng đồng hay chính quyền, họ vì thế và tức khắc hợp thành tổ chức và
làm nên một cơ thể chính trị, nơi mà đa số có quyền hành động và quyết định so với
những người còn lại.”1
Locke cũng nói rằng lập luận của ơng về quyền lật đổ cơ quan lập pháp của nhân
dân cũng đúng với cơ quan hành pháp. Quy kết chung của ông là người nào sử dụng
quyền lực trái với sự uỷ thác ban đầu thì khơng thể tiếp tục được uỷ thác. Những người
lập quốc của nước Mỹ là những người đâu tiên ảnh hưởng đậm nét của những tư tưởng
này, thể hiện trong Tun ngơn độc lập của họ:
CÂU HỎI ƠN TẬP CHƯƠNG 6:

1. Khái quát chung về các học thuyết Anh thời cận đại?
2. Nội dung cơ bản của tư tương chính trị Jonh Locke?


1

John Locke. Khảo luận thứ hai về chính quyền. NXB Tri thức, 2005, tr.137-138.

75


Chương 7
CÁC HỌC THUYẾT CHÍNH TRỊ CỦA PHÁP THỜI CẬN ĐẠI

1. Khái quát chung
Các học thuyết chính trị của Pháp trong thời cận đại đặt biệt phát triển trong giai
đoạn diễn ra trước, trong, và sau khi diễn ra cuộc đại cách mạng Pháp năm 1789. Do
đó, cần điểm qua những sự kiện quan trọng liên quan đến cuộc cách mạng này.
Cuộc cách Pháp 1789 là cuộc cách mạng tư sản lật đổ nền quân chủ phong kiến
của triều đại Bourbons, thiết lập chính quyền tư sản, mở đường cho sự phát triển của
chủ nghĩa tư bản ở Pháp. Lực lượng cách mạng chủ yếu là đẳng cấp thứ ba gồm giai
cấp tư sản, công nhân, nông dân, quý tộc lớp dưới. Tại Hội nghị tam giới tháng 5 năm
1789 đại biểu đẳng cấp thứ ba địi quyền bình đẳng trước pháp luật. Thái độ ngoan cố
của nhà vua dẫn đến việc thành lập Hiệp hội dân tộc của đẳng cấp thứ ba (17.6), thành
lập Quốc hội lập hiến (9.7). Đỉnh cao của cuộc khởi nghĩa quần chúng là ngày
14.7.1789 phá ngục Bastille. Cuộc cách mạng gồm ba giai đoạn. Trong giai đoạn thứ
nhất, phái lập hiến cầm quyền (tháng 7.1789 đến tháng 9.1792), công bố Tuyên ngôn
nhân quyền và dân quyền (26.8.1789), bầu Quốc hội lập pháp (1.10.1791). Đầu năm
1792, Áo và Phổ ký hiệp ước liên minh quân sự kêu gọi các nước Châu Âu tham gia
chiến tranh chống nước Pháp cách mạng. Trước nguy cơ mất nước, nhân dân Pháp nổi
dậy (10.8.1792) lật đổ chính quyền, thay thế bằng chính phủ Girondins. Giai đoạn thứ
hai là giai đoạn phái Girondins nắm quyền từ tháng 8.1792 đến tháng 6.1793, thành
lập hội nghị Quốc ước và tuyên bố nước Pháp theo chế độ cộng hòa (22.9.1792), quyết
định xử tử vua Lu-I XVI (21.1.1793). Lực lượng cánh tả, phái Jaconbins, các công dân

đã thành lập Công xã ở các địa phương đòi hỏi tăng cường chiến đấu chống ngoại xâm
và cải thiện đời sống của dân nghèo, đã nổi dậy lật đổ chính phủ Girondins ngày
2.6.1793. Giai đoạn thứ ba là gian đoạn pháp Jacobins nắm quyền từ tháng 6.1793 đến
tháng 7.1794 do Robespierre đứng đầu đã quyết định chính sách chia ruộng đất cho
dân nghèo, soạn thảo Hiến pháp 1793 (chưa công bố), thành lập đội quân cách mạng
để trấn áp kẻ thù bên trong và đẩy lùi kẻ thù bên ngoài bằng những biện pháp kiên
quyết. Nhờ vậy nước Pháp thoát khỏi nguy cơ bị xâm lược. Do sự phân hóa nội bộ,
chính quyền Jacobins bị lật đổ bởi cuộc đảo chính Thermidor ngày 27.7.1794.
Robespierre và các bạn chiến đấu bị hành quyết. Cuộc nổi dậy của phái bảo hoàng bị
Napoleon đề bẹp và năm 1796 thành lập đốc chính, năm 1796 Napoleon chiến thắng ở
Arcole; năm 1797 Babeuf bị hành quyết. Năm 1798 liên minh lần thứ hai chống Pháp

76


thất bại. Năm 1799 cuộc đảo chính của Napoleon và việc thành lập Nhiếp chính ngày
9, 10, tháng 11 là sự kiện đánh dấu sự kết thúc của cách mạng.1
Học thuyết chính trị Pháp thời kỳ này thể hiện rõ tinh thần dân chủ qua các học
thuyết về quyền tự nhiên, khế ước xã hội, chủ quyền nhân dân, phân chia quyền lực là
cơ sở tư tưởng quan trọng cho cách mạng Pháp. Tinh thần dân chủ trong đó tiếp tục
được phát triển sau cách mạng.
2. Các học thuyết chính trị tiêu biểu
2.1. Học thuyết chính trị của Charles de Secondat Montesquieu (1689 - 1755)
Montesquieu (1689 - 1755) sinh trong một gia đình q tộc giầu có ở Chaateau
de la Brède. Năm 27 tuổi ông được thừa kế tước vị Chánh án tịa án tỉnh Bordeaux
cùng gia tài. Ơng đã học luật và làm chánh án trong 10 năm. Những quyến rũ của cuộc
sống ở trị trấn bắt đầu làm ông ghê tởm và ông đã bán chức Thẩm phán và dời đi Paris.
Nhưng ông không ở Paris lâu mà đi du lịch vịng quanh Châu Âu và nhờ đó ơng có tư
liệu để viết danh tác « Tinh thần pháp luật ». Ông đã đi thăm Áo, Hung, Venice, La
Mã, Thụy Sĩ, Hòa Lan, và sau cùng là Anh, nơi đâu ơng ở 2 năm. Tuy có nhiều đặc

điểm của người Anh ông không ưa, nhưng ông cảm phục nền tự do của họ. Thực tế,
một trong những đoạn quan trọng nhất trong Tinh thần pháp luật khơng có gì hơn là
một bài tán tụng Hiến pháp Anh, mà Montesquieu tin rằng hiến pháp đó là nền tảng
của những tổ chức tự do ông thấy ở nước này.2 Học thuyết chính trị của Montesquieu
bao quát nhiều vấn đề từ bản chất của pháp luật, đến các hình thức chính quyền, phân
chia quyền lực, địa chính trị…nhưng quan trọng nhất là học thuyết phân chia quyền
lực.
Thuyết phân quyền của Mongtesquieu không phải là một sự suy luận pháp lý
diễn dịch mà là từ sự quan sát nước Anh lúc bấy giờ. Sự mơ tả Hiến pháp Anh chính là
nguồn cảm hướng cho suy luận của Montesquieu về phân quyền.3
Nội dung đầu tiên trong học thuyết phân quyền của Montesquieu là quyền lực
nhà nước được cấu thành bởi ba hình thái cơ bản (tam quyền): lập pháp, hành pháp, và
tư pháp: “ Trong mỗi quốc gia đều có ba thứ quyền lực: quyền lập pháp, quyền thi
hành những điều hợp với quốc tế công pháp và quyền thi hành những điều hợp với luật
dân sự. Với quyền thứ nhất, nhà vua hay pháp quan làm ra các thứ luật cho một thời
gian hay vĩnh viễn, và sửa đổi hay huỷ bỏ luật này. Với quyền lực thứ hai, nhà vua

1

Từ điển bách khoa Lịch sử thế giới. NXB Từ điển bách khoa. 2003, tr.96-97.

2

Michael B. Foster. Những bậc danh sư của triết lý chính trị. Houghton Mifflin Conpany, Boston the Riberside
Press Cambridge, tr.637.
3

Lê Đình Chân. Luật hiến pháp. Sài gịn, 1966, tr220

77



quyết định hoà hay chiến, gửi Đại sứ đi các nước, thiết lập an ninh, đề phòng xâm
lược. Với quyền lực thứ ba, nhà vua hay pháp quan trừng trị tội phạm, phân xử tranh
chấp giữa các cá nhân. Người ta gọi đây là quyền tư pháp, và trên kia là quyền hành
pháp quốc gia.”1
Nội dung tiếp theo là quyền lực nhà nước phải được tổ chức làm sao cho tự do
của cơng dân được bảo đảm: “Tự do chính trị của cơng dân là sự n tâm vì mỗi người
nghĩ rằng mình được an ninh. Muốn đảm bảo tự do chính trị như vậy thì chính phủ
phải làm thế nào để mỗi cồng dân không phải sợ một công dân khác.”2
Mongtesquieu kịch liệt lên án chế độ quân chủ chuyên chế ở Pháp lúc bấy giờ.
Chế độ quân chủ chuyến chế là tổ chức quyền lực phi lý. Chuyên chế là hình thức cầm
quyền của một người phủ nhận pháp luật, nhà nước phụ thuộc vào sự lộng quyền của
người cầm quyền. Chế độ chuyên chế sở dĩ tồi tệ, phi lý là vì: nhà nước tồn tại vốn
biểu hiện của ý chí chung nhưng trong chế độ chuyên chế nó lại biểu hiện ý chí đặc
thù; chế độ chuyên chế với bản chất vô pháp luật và ý chí tuỳ tiện của nó lại trái với
bản chất pháp luật và nhu cầu pháp luật. Mongtesquieu nhận thấy pháp luật gồm nhiều
lĩnh vực, phân ngành rõ rệt, cho nên tập trung vào một người duy nhất là trái với bản
chất của nó. Gắn với bản chất của chế độ chuyên chế là tình trạng lạm quyền. Vì vậy
việc thanh tốn hiện tượng lạm quyền chỉ có thể là đồng thời là sự thanh toán chế độ
chuyên chê. Theo Mongtesquieu một khi quyền lực được tập trung vào một mối, kể cả
một người hay một tổ chức, thì nguy cơ chun chế vẫn cịn. Từ đó, Mongtesquieu cho
rằng tổ chức quyền lực nhà nước theo phương thức phân chia quyền lực nhà nước để
chống lại chế độ chuyên chế, thanh toán nạm làm quyền, bảo đảm quyền tự do của con
người..
Mongtesquieu viết:" Khi mà quyền lập pháp và quyền hành pháp nhập lại trong
tay một người hay một Viện Nguyên lão thì khơng cịn tự do nữa; vì người ta sợ rằng
chính ơng ta hay viện ấy sẽ đặt ra những luật độc tài để thi hành một cách độc tài.
Cũng khơng có gì là do nếu quyền tư pháp không tách khỏi quyền lập pháp và quyền
hành pháp. Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền lập pháp, thì người ta sẽ độc đoán

với quyền sống và quyền tự do của cơng dân; quan tịa sẽ là người đặt ra luật. Nếu
quyền tư pháp nhập lại với quyền hành pháp, thì ơng quan tịa sẽ có cả sức mạnh của
kẻ đàn áp. Nếu một người hay một tổ chức của quan chức, hoặc của quý tộc, hoặc của
dân chúng nắm ln cả ba thứ quyền lực nói trên thì tất cả sẽ mất hết.”3

1

C.L.Montesquieu. Tinh thần pháp luật. NXB Giáo dục,Hà nội, 1996, tr.100.

2

C.L.Montesquieu. Tinh thần pháp luật. NXB Giáo dục,Hà nội, 1996, tr.100.

3

C.L.Montesquieu. Tinh thần pháp luật. NXB Giáo dục,Hà nội, 1996, tr.101.

78


Chứng nghiệm vào những thực tế, nhận xét của Montesquieu rất đúng. Tự do sẽ
khơng có nếu quyền lập pháp và quyền hành pháp chập vào một bàn tay. Vì người
nắm quyền lực sẽ đặt ra những quy tắc thuận tiện cho mình cai trị và sẽ khơng ban
hành các quy tắc gây bất lợi cho mình.
Quyền lập pháp nhập với quyền tư pháp thì tự do cũng sẽ bị đe doạ. Nếu một
người vừa có quyền lập pháp vừa có quyền tư pháp thì sẽ: làm luật cho những trường
hợp hay cá nhân mà ông ta muốn hại, chẳng hạn một nhà độc tài làm ra những đạo luật
riêng nhằm bỏ tù những kẻ chống đối mình; sẽ khơng đem thi hành hành đạo luật cho
những cá nhân mà ông ta bênh vực hay biệt đãi, chẳng hạn một nhà độc tài đóng vai
trị thẩm phán sẽ khơng phạt tù những kẻ thân thuộc đã phạm tội. Như vậy, luật khơng

cịn là luật nữa vì khơng có có giá trị tổng quán nữa mà thay đồi tuy theo ý muốn chủ
quan của nhà cầm quyền.
Lạm quyền là thuộc tính của quyền lực nhà nước. Một người càng có nhiều
quyền hành trong tay thì càng có khả năng lạm quyền. Nếu một người hay một cơ
quan nắm trọn cả ba quyền lập pháp, hành pháp, và tư pháp thì tự do của dân chúng sẽ
khơng cịn gì. Phân quyền có nghĩa là ba quyền đó được giao cho những cơ quan khác
nhau, độc lập với nhau có phương thức hình hành riêng, cách thức hoạt động, lĩnh vực
hoạt động riêng. Tương ứng với ba quyền đó là ba cơ quan: cơ quan lập pháp là Quốc
hội, cơ quan hành pháp là Chính phủ, cơ quan tư pháp là tồ án.
Một ý tưởng tiếp theo của thuyết phân quyền là sự bình đẳng giữa các ngành
quyền lực. Mongtesquieu cho rằng quyền lực tối thượng được phân chia thành ba hình
thái quyền lực cơ bản là lập pháp, hành pháp, và tư pháp nên khơng có ngành quyền
lực nào được gọi là tối thượng. Ba ngành quyền lực này nganh bằng với nhau, bình
đẳng với nhau, khơng ngành nào cao hơn ngành nào. Thuyết phân quyền quan niệm
rằng mỗi cơ quan đại diện quốc gia thi hành một nhiệm vụ, một quyền hạn và chỉ có
nhiệm vụ quyền hạn ấy mà thơi. Cơ quan lập pháp chỉ có quyền lập pháp, chỉ có nhiệm
vụ làm luật. Cơ quan hành pháp chỉ có quyền hành pháp, nghĩa là nhiệm vụ thi hành
luật lệ. Cơ quan tư pháp chỉ có quyền tài phán, nhiệm vụ xét xử để áp dụng pháp luật.
Phân chia quyền hạn thơi chưa đủ, mà phải có sự độc lập giữa các cơ quan.
Nghĩa là các cơ quan khơng có hành động hỗ trợ nào. Ví dụ, quyền hành pháp khơng
có quyền trình các sáng kiến lập pháp lên cơ quan lập pháp.
Một khi tam quyền đã được phân lập rồi thì vấn đề tiếp theo là làm sao thể ba
quyền đó kiểm sốt lẫn nhau. Để tránh tập trung quyền lực vào tay một hay một nhóm
người thì cần phải có một cơ chế kiểm sốt quyền lực, mà khả thi nhất là dung quyền
lực để kiểm soát quyền lực. Như vậy người ta sẽ trách được rỏi ro là: một quyền lực
mạnh quá sẽ có tham vọng trở nên độc đốn vì rằng kinh nghiệp vĩnh viễn cho hay là:

79



ai có quyền cũng sẵn sàng lạm quyền. Do đó thuyết phân quyền của Mongtesquieu đặt
vấn đề: Phải làm thế nào cho cái việc quyền hành ngăn chặn quyền hành trở nên một
sự dĩ nhiên. Một chính phủ ơn hồ là một chính phủ trong đó sự lạm quyền khơng thể
xẩy ra được, nhở ở một lối tổ chức nào, một tổ chức có thể phân phối những thẩm
quyền của chủ quyền quốc gia cho những lực lượng chính trị khác biệt nhau, để khiến
cho "quyền hành ngăn chặn quyền hành."
Tiếp theo, Montesquieu nói đến cơng cụ để hành pháp ngăn chặn lập pháp. Trước
tiên là quyền của hành pháp quy định thời hạn và thời gian các phiên họp của ngành
lập pháp: “Cơ quan lập pháp không nên tự mình triệu tập lấy mình. Nêu để cho cơ
quan hành pháp quy định thời hạn và thời gian các cuộc họp nghị viện tuỳ theo tình
huống mà cơ quan hành pháp cho là cần thiết.”1 Ngoài ra, quyền hành pháp khơng có
quyền đưa ra các sáng kiến trước lập pháp (như quyền trình dự án luật của chính phủ
trước nghị viện ở nhiều nước Châu Âu ngày nay), nhưng có quyền ngăn cản việc thi
hành các đạo luật đã được ngành lập pháp thông qua (như quyền phủ quyết của Tổng
thống Mỹ ngày nay). Montesquieu lập luận: “Nếu cơ quan hành pháp khơng có quyền
ngăn cản các dự định của cơ quan lập pháp, thì cơ quan lập pháp sẽ trở thành chuyên
chế, tự ban cho mình mọi thứ quyền hành mà xoá bỏ mọi thứ quyền lực khác.”2 Nếu
như quyền hành pháp có quyền ngăn cản đối với quyền lập pháp thì quyền lập pháp
cũng có quyền xem xét việc thi hành các đạo luật mà mình đã ban hành ra: “Trong một
nước tự do, nếu cơ quan lập pháp khơng nên có quyền ngăn cản cơ quan hành pháp thì
nó phải có chức năng xem xét các đạo luật đã ban hành được thực hiện như thế nào.”3
Ngay nay, ta gọi đây là quyền giám sát của nghị viện.
Thuyết tam quyền phân lập của Mongtesquieu có ảnh hưởng sâu sắc đến những
quan niệm sau này về tổ chức nhà nước cũng như thực tiễn tổ chức nhà nước của các
nước tư bản. Học thuyết này là một nguồn quan trong của chủ nghĩa lập hiến. Đa số
Hiến pháp của các nước tư bản hiện nay đều tuyên bố phân quyền là một nguyên tắc
cơ bản của việc tổ chức quyền lực nhà nước.
Theo cơ chế phân quyền, các ngành quyền lực độc lập nên sự lạm quyền được
kiểm sốt. Hơn nữa, với cơ chế phân quyền, khơng một ngành quyền lực nào có thể
được coi là đại diện duy nhất cho chủ quyền nhân dân. Mỗi một ngành quyền lực chỉ

đại diện cho chủ quyền nhân dân trên một phương diện nhất định: nghị viện sẽ đại diện
cho chủ quyền nhân dân trên phương diện lập pháp, chính phủ trên phương diện hành

1

C.L.Montesquieu. Tinh thần pháp luật. NXB Giáo dục, Hà nội, 1996, tr.107.

2

C.L.Montesquieu. Tinh thần pháp luật. NXB Giáo dục, Hà nội, 1996, tr.108.

3

C.L.Montesquieu. Tinh thần pháp luật. NXB Giáo dục, Hà nội, 1996, tr.108.

80


pháp, và toà án trên phương diện tư pháp. Do đó, khơng một cơ quan nào có thể thao
túng được tồn bộ quyền lực của dân chúng.
Chính quyền hợp hiến ở Mỹ theo sát học thuyết phân quyền hơn (nhưng không
phải là tuyệt đối). Về mặt tổ chức, theo mô hình tổng thống chế, cả lập pháp và hành
pháp đều được thành lập từ dân chúng (nhân dân bầu ra cả Nghị viện và Tổng thống;
các Bộ trưởng không thể đồng thời là thành viên của Nghị viện. Về mặt hoạt động,
Tổng thống khơng có quyền trình dự án luật lên Nghị viện mặc dù có những quyền có
thể ảnh hưởng đến ngành lập pháp như quyền đọc thông điệp trước Nghị viện. Về cơ
chế chịu trách nhiệm, Nghị viện không thể giải tán tập thể các Bộ trưởng của Tổng
thống; Tổng thống khơng có quyền giải tán Nghị viện.
CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG 7:


1. Khái quát chung về nội dung tư tưởng chính trị Pháp thời cận đại?
2. Nội dung cơ bản của học thuyết chính trị Mongtesqiue?

81


Chương 8
CÁC HỌC THUYẾT CHÍNH TRỊ ĐỨC THỜI CẬN ĐẠI

1. Khái qt chung
Khơng khí chính trị xã hội Đức trước ngưỡng cửa năm 1789 bề ngồi khơng
khác gì mấy khơng khí ảm đạm và thê lương của đời sống xã hội Đức các thập kỷ đầu
thế kỷ X VIII. Cuộc cách mạng tư sản Pháp vĩ đại hệt như tia chớp đã đánh vào đất
nước này. Tất cả đều bắt đầu chuyển động. Những cuộc nổi dậy bùng lên ở Baden,
Xacxơn, Phantxơ. Sự bất bình của thị dân thể hiện ra mặt. Mùa thu năm 1793 đã nổ ra
cuộc khởi nghĩa của thợ dệt ở các quận Xilêdi và Maintxơ và đã tuyên bố thiết lập nền
cộng hoà.
Ba vấn đề mấu chốt cần phải giải quyết trên đất Đức là: thành lập sự thống nhất
dân tộc; dân chủ hoá chế độ nhà nước, chế độ pháp luật, bãi bỏ chế độ nơng nơ. Tư sản
Đức, thời đó là phe đối lập với chế độ phong kiến cổ hủ - như trước đây, vẫn lo ngại
những hành động cấp tiến, họ sự đưa hẳn vào những tầng lớp rộng rãi người lao động .
Các nhà tư tưởng của họ coi trọng việc hcuyển những tư tưởng cách mạng của thế kỷ
sang ngơn ngữ khó hiểu của triết học và mài mịn những mũi dùi các vấn đề chính trị
thực tiễn nóng bỏng của thời đại. Giá trị cao nhất họ tuyên bố là ý thức, tự do trí tuệ
v.v... Điều quan tâm chính của họ là làm thế nào chính phủ khơng nổi giận.
Tin tức về cách mạng Pháp được đón nhận ở Đức rất khác nhau. Các nhóm thị
dân và tiểu tư sản mừng rỡ. Giai cấp thống trị, quan lại địa chủ và giáo hội thì chán
nản, tức giận và căm hờn. Giới phản động quý tộc phong kiến phản ứng điên cuồng.
Nhất là trường phái lịch sử pháp quyền và các trào lưu bảo thủ khác gần với nó, đối
lập với khuynh hướng khai sáng và cộng hồ cách mạng đã thể hiện rõ nhất sự căm

thù những cải cách nhà nước và pháp luật của cuộc cách mạng Pháp.
2. Các học thuyết chính trị tiêu biểu
2.1. Học thuyết chính trị của Imanuel Kant (1724 -1804)
I.Kant sinh năm 1724 trong một gia đình quý tộc Phổ ở Keninxbec, trong một
gia đình nghèo đã rời bỏ xứ TơCách lan từ 100 năm trước. Thời trẻ Kant rất sùng mộ
tôn giáo, thời tráng nên ông xa giáo đường và về già ơng duy trì đức tin. Ơng tại
trường đại học tổng hợp Keninxbec. Trừ một thời gian ngắn đi dạy ở một làng lân
cận, vị giáo sư nhỏ người lặng lẽ này, con người rất yêu thích giảng về địa lý và nhân
chủng học về những xứ xa xôi - khơng bao giờ rời khỏi đơ thị q hương mình. Đến
năm 1755 ơng bắt đầu giảng dạy siêu hình học và các môn học tự nhiên ở đây. Từ năm

82


1770 ông chủ yếu quan tâm đến vấn đề triết học I.Kant là một trong những nhà triết
học vĩ đại nhất của lịch sử tư tưởng phương Tây trước K.Marx.
Giáo sư triết học trường đại học tổng hợp Keninxbec là I.Kant (1724-1804) ở
Đức là người đầu tiên hệ thống hoá chủ nghĩa tự do - nền tảng tư tưởng cho giai cấp tư
sản. Vào thời đại của Kant do bị áp chế bởi chế độ chuyên chế và giáo hội, giai cấp tư
sản Đức tỏ ra hết sức hèn nhát. Về các vấn đề quan trọng nhất của thời đại, giai cấp
này có lập trường hết sức dao động, và thậm chí đơi khi q bảo thủ. Kant đặt ra mục
đích phân tích lập trường này như là lập trường duy nhất hợp lý, tạo cho nó nền tảng
triết học thẩm mỹ và từ đó biện minh cho nó.
Kant quá yếu sức về thể chất đến nỗi ông phải theo những phương thức nghiêm
nhặt để giữ gìn sức khoẻ; ơng nghĩ tốt hơn không nên nhờ đến một y sĩ. Bởi thế ông
sống tới tuổi tám mươi. Vào năm thất tuần ông viết một tiểu luận "Về năng lực tâm lý
để khắc phục cảm giác bệnh hoạn nhờ sức mạnh của quyết ý". Một trong những
nguyên tắc yêu thích của ông là chỉ thở bằng mũi, nhất là khi ở ngồi trời; do đó về
mùa thu, đơng và xn, ơng thường khơng cho phép ai nói chuyện với ơng trong
những buổi đi dạo hàng ngày: im lặng tốt hơn là cảm lạnh. Ông suy ngẫm mọi sự chu

đáo trước khi hành động; và bởi thế ông ở độc thân suốt đời. Có hai lần ơng suy nghĩ
đến việc cầu hơn một thiếu nữ, nhưng suy nghĩ lâu quá nên lần đầu thì thiếu nữ kết
hơn với một người dạn dĩ hơn, và lần sau thì cơ kia dọn nhà khỏi Koenigsberg trước
khi nhà triết học có thể quyết định. Có lẽ ông nghĩ, như Nietzsche, rằng hôn nhân sẽ
chướng ngại ông trong công việc theo đuổi chân lý một cách đứng đắn. "Một người
đàn ơng có gia đình, Talleyrand thường bảo, sẽ làm bất cứ việc gì để kiếm tiền". Và
vào năm hai mươi hai tuổi, Kant đã viết với tất cả lịng nhiệt thành tốt đẹp của tuổi trẻ:
"Tơi đã chuyên chú vào đường hướng hành động mà tôi quyết địh giữ. Tôi sẽ đi con
đường của tôi và khơng gì ngăn cản được tơi đi theo đường ấy".
Tràn đầy tinh thần khai sáng và phần nào chủ nghĩa cá nhân của trường phái
pháp quyền tự nhiên, nguyên tắc hòn đá tảng cho các quan điểm xã hội của Kant là:
mỗi cá nhân có phẩm hạnh tồn diện, có giá trị tuyệt đối; nhân cách không phải là
công cụ thực hiện các kế hoạch nào đó, thậm chí của những kế hoạch cao thượng nhất
về phúc lơi xã hội. Con người là chủ thể có ý thức về phẩm giá. Về thực chất, khác
biệt với thiên nhiên xung quanh con người trong hành vi của mình phải tuân thủ những
đạo luật đạo đức. Đạo luật này là đương nhiên và khơng chịu những ảnh hưởng của
hồn cảnh và do đó là tất yếu.
Thực chất của tự do là cái bên trong của nhân cách con người. Con người bẩm
sinh có khả năng ứng xử theo mục đích và theo những cách thức phù hợp với mục đích
đó. Song vấn đề là ở chỗ không phải ai cũng sử dụng được tự do cá nhân một cách

83


đúng mức và do đó nó trở thành chuyên quyền. Tổng thể các điều kiện hạn chế chuyên
quyền của người này đối với người khác bằng các đạo luật chung khách quan về tự do,
sẽ loại trừ xung đột pháp lý trong xã hội, được Kant goi là pháp luật. Từ cách hiểu
pháp luật như vậy cho thấy pháp luật có nhiệm vụ điều chỉnh hình thức bên ngồi các
hành vi con người, pháp luật mới có tính tn thủ chung. Song đạt được điều đó bằng
cách nào? Thơng qua việc tạo cho nó hiệu lực bắt buộc. Bằng cách đó tạo ra cầu nối

pháp luật với nhà nước, bởi lẽ chỉ có quyền lực xã hội mới tạo được cho pháp luật hiệu
lực bắt buộc, quyền lực đó là nhà nước.
Theo Kant có ba loại pháp luật: pháp luật tự nhiên; pháp luật thực tế; và pháp
luật công lý. Pháp luật tự nhiên là những nguyên tắc tiên nhiệm tất nhiên; pháp luật
thực tế, mà nguồn là những ý chí của người lập pháp, pháp luật cơng lý là những địi
hỏi khát vọng khơng được pháp luật quy định và nó khơng được bảo đảm bằng cưỡng
chế. Pháp luật tự nhiên về phần mình chia thành hai nhánh: luật tư và luật công. Luật
tư điều chỉnh các mối quan hệ giữa các cá nhân với tư cách là các chủ sở hữu, cịn luật
cơng điều chỉnh các mối quan hệ giữa mọi người liên minh thành cộng đồng các công
dân (nhà nước), với tư cách là các thành viên của tổng thể chính trị. Chế định cơ bản
của luật tư là sở hữu dưới hình thức chiếm hữu thực tế mang tính pháp lý trong điều
kiện của trật tự dân sự, khi ý chí chung được mọi người thừa nhận ngự trị trên ý chí
của mỗi cá nhân.
Về hình thức nhà nước Kant chia ra ba dạng: chuyên chế, quý tộc và dân chủ.
Ông cho rằng trung tâm của vấn đề tổ chức nhà nước là phương thức nhân dân cầm
quyền. Từ quan điểm này ơng phân biệt hình thức dân chủ và độc tài. Hình thức đầu
dân chủ dựa trên sự phân tách quyền lực hành pháp khỏi quyền lực lập pháp, cịn hình
thức độc tài thì hồ nhập cả hai vào nhau. Với Kant nền cộng hòa không đồng nghĩa
với dân chủ, cũng như chuyên chế không hồn tồn đồng nhất với độc tài. Ơng phản
bác việc đồng nhất các khái niệm đó. Hơn nữa ơng tin rằng hình thức chính quyền
chun chế hồn tồn là có thể là nền cộng hồ (nếu trong đó tách quyền hành pháp
khỏi lập pháp), còn nền dân chủ (với sự tham gia của tất cả vào thực hiện quyền lực
và sẽ cực kỳ khó khăn khi muốn tách hoạt động lập pháp khỏi hành pháp) thì dễ dàng
chuyển hố thành chun chế và dung hồ với nó. Có lẽ ơng coi hình thức quân chủ
lâp hiến là đã chấp thuận hơn cả.
Xuất phát từ quan niệm khẳng định tính nghịch lý của phát triển xã hội, một mặt
Kant đánh giá cao vai trị của các xung đột xã hội. Ơng coi đó khơng chỉ là động lực
thúc đẩy phát triển lịch sử, mà còn là một điều cao cả đáng được trân trọng, nếu như

84



chúng "được tiến hành một cách đúng đắn."

1

Mặt khác Kant kêu gọi tất cả các dân

tộc hãy thiết lập mỗi quan hệ hồ bình, hữu nghị. Kêu gọi tất cả các quốc gia hãy đoàn
kết xây dựng một liên bang tất cả dân tộc trên hành tinh.
Tư tưởng xây dựng một thế giới đại đồng của tất cả các dân tộc, vì sự phồn vinh
của nhân loại, vì tự do của mỗi con người phù hợp với xu hướng chung của thời đại
ngày nay.
2.2. Học thuyết chính trị pháp luật của Hegel G.F (1770 – 1830)
G.F Hegel là một nhà biện chứng lỗi lạc bậc tiền bối của triết học Macxít. Theo
nhận xét của Ph.Angghen, ơng "khơng chỉ là một thiên tài sáng tạo, mà còn là một nhà
bác học có tri thức bách khoa nên trong mọi lĩnh vực, ông xuất hiện như là một người
vạch thời đại" (1)
G.F Hegel sinh năm 1770 trong một gia đình quan chức cao cấp ở Stut-ga thuộc
Đức, sau đó theo học khoa triết, thần học ở Trường Đại học Tổng hợp Tubingen. Thời
trẻ, ông chủ yếu quan tâm nghiên cứu các vấn đề lịch sử, pháp quyền và tôn giáo.
Hegel là người có cơng rất lớn đóng góp cho lí thuyết của Nhà nước pháp quyền.
Theo ông Nhà nước pháp quyền là sự thể hiện trong thực tế những ý niệm dưới hình
thức nhất định của tồn tại thực tế con người. Pháp luật là sự thể hiện của tư tưởng tự
do. Pháp luật trong Nhà nước pháp quyền là “hiện thực của tự do” và là “tồn tại thực tế
của ý chí tự do.” Trong xã hội, nhà nước ở vị trí cao nhất và cao hơn cả con người.
Pháp quyền vừa là sự sáng tạo vừa là sản phẩm của nhà nước. Con người không thể
tồn tại thiếu nhà nước. Sự phân quyền trong nhà nước là nhằm đảm bảo sự tự do công
cộng, chống lạm quyền, chuyên chế, vũ lực và phi pháp. Tuy nhiên, ông cũng cho
rằng, sự phân chia tuyệt đối quyền lực lại là nguy cơ dẫn đến thù địch và chống đối.

Tự do sở hữu tài sản là thành quả vĩ đại nhất của thời đại cách mạng tư sản kéo theo
việc đòi tự do hợp đồng. Nhà nước là nền tảng của pháp quyền, là pháp nhân cao nhất
có quyền uy và sức mạnh chỉ huy tồn xã hội. Ơng coi Nhà nước pháp quyền là biểu
hiện của lí trí sáng suốt đối với hình thức tồn tại thực tế của con người. Nhà nước là
biểu hiện cao nhất của pháp luật cụ thể, biểu hiện cao nhất của tự do. Ông tập trung
vào việc chống sự tuỳ tiện, vô pháp luật của cá nhân con người. Nhưng Nhà nước pháp
quyền của Hegel luôn gắn với duy tâm. Ông coi, nhà nước là sự ngoạn du của trời trên
trái đất. Nhà nước pháp quyền là một trong những học thuyết có cách hiểu rất khác
nhau, tuỳ theo sự vận dụng của từng nước.

1

I.Kant, các tác phẩm Matxcơva 1964 tập 5 tr 271

1

C.Marx -Ph.Angghen, tuyển tập, tập 6 NXB sự thật 1984 tr 367.

85


Thực chất của vũ trụ, theo ông là ý niệm tuyệt đối tự phát triển - nó siêu tự nhiên
và khởi thuỷ duy tâm (giống như Chúa tạo nên thiên nhiên và con người. Sự phát triển
của ý niệm tuyệt đối tự phát triển này trải qua ba giai đoạn: giai đoạn lơ gích, hay là sự
tồn tại của thể tuyệt đối trước khi tạo ra thiên nhiên, giai đoạn hai là giai đoạn tự
nhiên hay thời kỳ thể tuyệt đối thâm nhập vào thế giới vật chất, thời kỳ thứ ba là thời
kỳ lý trí hay thời kỳ thể tuyệt đối trở lại với chính mình (tự tư duy) trong trí tuệ con
người.
Theo Hegel, xã hội lồi người phát triển trải qua 4 loại hình thái nhà nước có tính
lịch sử tồn thế giới. Hình thái nhà nước có tính lịch sử tồn thế giới đầu tiên là nhà

nước phong kiến phương Đông. Trong nhà nước phong kiến phương Đơng, những vấn
đề nhân quyền, lợi ích cá nhân, quyền tự do cá nhân chưa được thừa nhận. Hình thái
Nhà nước có tính lịch sử tồn thế giới tiếp theo sẽ là Nhà nước chủ nô Hy Lạp. Trong
Nhà nước chủ nô Hy Lạp, cái đặc thù đã “nhú lên", nhân quyền, lợi ích cá nhân, quyền
tự do cá nhân của một bộ phận xã hội (giới chủ nô) đã được cơng nhận, nhưng nhân
quyền, lợi ích cá nhân, quyền tự do cá nhân của tất cả mọi người (bao gồm nơ lệ) thì
chưa được cơng nhận.
Theo Hegel, nhà nước chính trị thể hiện sự thống nhất quyền lực sống động trên
cơ sở phân hoá, khác biệt hợp lý của 3 loại quyền lực: 1) quyền của cái phổ quát (đại
diện cho ý chí của tất cả các tầng lớp xã hội), nói cách khác, đó là quyền lập pháp.
Thiết chế tương ứng với nó là nghị viện (Thượng nghị viện và Hạ nghị viện). 2) Quyền
của cái đặc thù (giải quyết các vấn đề đặc thù, liên quan đến từng tầng lớp, trường hợp
cụ thể trên cơ sở các luật lệ phổ quát do nghị viện ban hành). Đó là cơ quan hành pháp.
Thiết chế tương ứng là chính phủ. 3) Quyền của cái đơn nhất, nói cách khác, đó là
quyền của nguyên thủ quốc gia, người ký các quyết định của nhà nước và có một số
quyền phủ quyết đối với nghị viện. Trong Nhà nước pháp quyền, quyền lực của cái
đơn nhất (nguyên thủ quốc gia) không phải là thứ quyền lực tuỳ tiện như trong các
kiểu Nhà nước khác, mọi văn bản để nguyên thủ quốc gia ký đều do các cơ quan chức
năng chuẩn bị kỹ lưỡng, cho nên, về thực chất, chữ ký của nguyên thủ quốc gia chỉ có
ý nghĩa, theo cách nói của Hegel, là "đánh dấu chấm trên đầu chữ i".
Quan niệm nhà nước pháp quyền của Hegel hoàn toàn khác với quan niệm nhà
nước pháp trị. Nhà nước pháp quyền trước hết phải là một nhà nước hợp lý, chỉ có thể
được hình thành trong xã hội hiện đại (khi đã có xã hội cơng dân). Luật pháp của Nhà
nước pháp quyền nghiễm nhiên được đề cao, không cẩn bất cứ một áp lực nào, vì nó là
sản phẩm của một Nhà nước hợp lý. Sự đề cao pháp luật chỉ là hệ quả chứ không phải
là tiền đề của Nhà nước pháp quyền. Không phải cứ đề cao pháp luật là có được nhà
nước pháp quyền. Theo Hegel, Nhà nước hợp lý là Nhà nước mà trong đó, sự thống

86



nhất giữa ý chí của cá nhân với quy luật phát triển tất yếu của xã hội được đảm bảo.
Muốn thế, Nhà nước này phải là một Nhà nước chính trị, sự thống nhất của quyền lực
là sự thống nhất hữu cơ - thống nhất trên cơ sở phân hoá, đối lập hợp lý của 3 thiết chế
quyền lực: 1) Nghị viện: cơ quan lập pháp, đại diện cho ý chí của tồn dân, 2) Chính
phủ: cơ quan hành pháp, giải quyết công việc hàng ngày của đất nước trên cơ sở các
quy định pháp luật, 3) Nguyên thủ quốc gia: người đứng đầu đất nước, có quyền quyết
định cuối cùng đối với các công việc của đất nước. Nhà nước này chỉ có thể được hình
thành khi xã hội công dân đã ra đời. Hai nền tảng cơ bản của Nhà nước pháp quyền là
gia đình và xã hội công dân.
Hegel cho rằng, nhân quyền thể hiện quyền tự do của con người đối với tồn tại
bên ngoài, trước hết là các sản phẩm lao động do chính mình làm ra (quyền sở hữu, ký
kết hợp đồng kinh tế, quyền thành lập và tham gia các hiệp hội...). Đạo đức thể hiện
quyền tự do của con người đối với chính bản thân mình: con người lấy mình làm đối
tượng, tự bắt mình tn theo các khn mẫu hành vi, ứng xử mà mình cho là tất, thiện.
Chính vì thế, hành vi đạo đức mới là hành vi tự nguyện. Quyền của đạo đức cao hơn
nhân quyền. Tuy nhiên, cả nhân quyền và đạo đức cũng chỉ là những quyền tự do có
tính hình thức, phiến diện, khơng thực chất nếu không phù hợp với quốc quyền, với
luật pháp của Nhà nước pháp quyền.
Nhà nước pháp quyền là sự thống nhất biện chứng "chân lý" của gia đình và xã
hội công dân. Nền tảng của nhà nước là cái lý tính. Cái lý thể hiện qua các quy định
pháp luật của Nhà nước pháp quyền giống như các mạch máu xuyên suốt các thiết chế
xã hội công dân và gia đình, thâm nhập vào các quy định cảm tính của gia đình và trí
tỉnh của xã hội cơng dân, khắc phục tính chủ quan, phiến diện, sự hạn chế của chúng.
Trong Nhà nước pháp quyền, tình yêu (gia đình), nhân quyền, đạo đức (xã hội cơng
dân) và cái lý tính (Nhà nước chính trị) thống nhất với nhau. Theo Hegel, Nhà nước sẽ
tồn tại vĩnh cửu. Quyền của Nhà nước chỉ thấp hơn quyền của thời đại.1
Bảo vệ tính hợp lý của tư hữu tư sản, Hegel phê phán dự án "cộng sản chủ nghĩa"
của Plato. Ơng cũng khơng đồng ý với Rousseauvề việc bãi bỏ bất công tài sản. Đồng
thời ông đấu tranh chống các quyền phong kiến. Hegel tin tưởng rằng chúng không

phù hợp với khái niệm đúng về sở hữu, mà theo đó chủ ruộng đất phải là những người
sở hữu và canh tác chung. Hegel cũng không chấp nhận chế độ nông chế độ nông nô
và nơ lệ, vì lẽ chúng chà đạp nhân phẩm con người. "Trong tự nhiên sự vật, có quyền
tuyệt đối của kẻ nơ lệ giành cho mình tự do". Phán luận như vậy không hề làm Hegel

1

Xem, Phạm Chiến Khu, tạp chí Triết học , 2007 số 6

87


×