Tiểu luận Kinh tế phát triển đề tài Tăng trưởng kinh tế và phát
triển bền vững nền kinh tế của Việt Nam
LỜI NÓI ĐẦU
Tăng trưởng kinh tế là một trong những vấn đề cốt lõi của lý luận về phát
triển kinh tế. Tăng trưởng và phát triển kinh tế là mục tiêu hàng đầu của tất cả
các nước trên thế giới, là thước đo chủ yếu về sự tiến bộ trong mỗi giai đoạn
của
mỗi quốc gia.
Mục tiêu tổng quát của kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội giai đoạn 2010-2020
của Việt Nam là “đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đạt được bước
chuyển biến quan trọng về nâng cao hiệu quả và tính bền vững của sự phát
triển,
sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Cải thiện rõ rệt đời sống vật
chất văn hoá, tinh thần của nhân dân. Đẩy mạnh cơng nghiệp hố hiện đại hoá
và phát triển kinh tế tri thức tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành một
nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Giữ vững ổn định chính
trị và trật tự, an tồn xã hội. Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn
lãnh
thổ và an ninh quốc gia. Nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên
trường quốc tế.”
Muốn Việt Nam đứng vững trên con đường phát triển thì cần phải hiểu
đúng nghĩa về tăng trưởng, phát triển kinh tế và phát triển bền vững. Vì vậy
em
xin trình bày về vấn đề: “ Tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững nền kinh
tế
của Việt Nam”.
1
NỘI DUNG
Chương I.
Những lý luận về phát triển kinh tế và sự phát triển bền vững
1. Cơ sở lý luận.
1.1. Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong một
khoảng thời gian nhất định( thường là một năm).
Sự gia tăng được thể hiện ở qui mô và tốc độ. Qui mô tăng trưởng phản ánh
sự gia tăng nhiều hay ít, cịn tốc độ tăng trưởng được sử dụng với ý nghĩa so
sánh
tương đối và phản ánh sự gia tăng nhanh hay chậm giữa các thời kì.
Thu nhập của nền kinh tế có thể biểu hiện dưới dạng hiện vật hoặc giá trị.
Thu nhập bằng giá trị phản ánh qua các chỉ tiêu GNP, GNI và được tính cho
tồn
thể nền kinh tế hoặc tính bình qn trên đầu người.
Như vậy, bản chất của tăng trưởng là phản ánh sự thay đổi về lượng đối với
nền kinh tế. Ngày nay, yêu cầu tăng trưởng kinh tế được gắn liền với tính bền
vững hay việc bảo đảm chất lượng tăng trưởng ngày càng cao. Theo khía cạnh
này, điều được nhấn mạnh nhiều hơn là sự gia tăng liên tục, có hiệu quả của
chỉ
tiêu qui mơ và tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người. Hơn thế nữa, qúa
trình
ấy phải được tạo nên bởi nhân tố đóng vai trị quyết định là khoa học, cơng
nghệ
và vốn nhân lực trong điều kiện một cơ cấu kinh tế hợp lí.
Để đạt được sự tăng trưởng kinh tế tốt nhất là đề đạt được sự tăng trưởng ở
mức cao thì cần có sự phối hợp đồng bộ giữa điều hành vĩ mô và điều khiển vi
mô, kết hợp nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan, vận dụng các quy luật
kinh
tế và sử dụng các cơng cụ địn bẩy như thuế, tiền tệ, lãi suất, việc làm...
Tăng trưởng kinh tế là vấn đề cực kỳ quan trọng, liên quan đến sự thịnh suy
của một quốc gia. Bởi thế, chính phủ nước nào cũng ưu tiên các nguồn lực của
mình cho sự tăng trưởng kinh tế, coi đó là cái gốc, là nền tảng để giải quyết
mọi
vấn đề khác. Trên cơ sở giải quyết vấn đề tảng trưởng kinh tế tạo ra nhiều của
cải
2
mới, người ta mới có thể giải quyết hàng loạt vấn đề khác như cân bằng ngân
sách, đầu tư chiều sâu, phúc lợi xã hội, giải quyết việc làm, chống lại các loại
tội
phạm, đảm bảo ngân sách cho quốc phịng an ninh... Ngược lại nếu khơng đạt
được sự tăng trưởng kinh tế ở mức độ cần thiết thì trong xã hội sẽ có khả năng
nảy sinh hàng loạt vấn đề rất nan giải. Bài học của Việt Nam trong thời kỳ
khủng
hoảng kinh tế trầm trọng (khoảng những năm 1976 - 1986) đã cho ta thấy rõ
vai
trò của sự tăng trưởng kinh tế quan trọng như thế nào.
1.2. Phát triển bền vững:
Khái niệm: Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm thoả mãn các nhu
cầu hiện tại của con người nhưng không tổn hại tới sự thoả mãn các nhu cầu
của
thế hệ tương lai.
Ðể xây dựng một xã hội phát triển bền vững, Chương trình Mơi trường Liên
Hợp Quốc đã đề ra 9 nguyên tắc:
- Tôn trọng và quan tâm đến cuộc sống cộng đồng.
- Cải thiện chất lượng cuộc sống của con người.
- Bảo vệ sức sống và tính đa dạng của Trái đất.
- Quản lý những nguồn tài nguyên không tái tạo được.
- Tôn trọng khả năng chịu đựng được của Trái đất.
- Thay đổi tập tục và thói quen cá nhân.
- Ðể cho các cộng đồng tự quản lý mơi trường của mình.
- Tạo ra một khn mẫu quốc gia thống nhất, thuận lợi cho việc phát triển và
bảo vệ.
- Xây dựng một khối liên minh toàn cầu.
Phát triển bền vững đang là thách thức cho mọi quốc gia, nhất là trong điều
kiện tồn cầu hố, hội nhập kinh tế quốc tế.việc ựa chọn con đường, biện pháp
và
thể chế, chính sách đảm bảo phát triển bền vững luôn là mối quan tâm hàng
đầu
của mọi người trong bước đường phát triển.
2. Tiêu chí đánh giá
3
Tăng trưởng kinh tế được xem xét dưới góc độ chất lượng. Chất lượng tăng
trưởng kinh tế được thể hiện ở sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững của
nền
kinh tế, thể hiện qua các đặc điểm sau:
- Tốc độ tăng trưởng cao và được duy trì trong 1 thời gian dài;
- Phát triển có hiệu quả, thể hiện qua năng suất lao động, năng suất
tài sản cao và ổn định, hệ số, hiệu quả sử dụng vốn (ICOR) phù hợp, và
đóng góp của nhân tố năng suất tổng hợp (TPF) cao;
- Nền kinh tế có tính cạnh tranh cao;
- Tăng trưởng kinh tế gắn liền với đảm bảo hài hòa đời sống xã hội;
- Tăng trưởng kinh tế đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái;
4
Chương II.
Thực trạng tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững nền
kinh tế ở Việt Nam
I. Tình hình cụ thể.
Bước vào năm 2015, nền kinh tế nước ta tiếp tục gặp nhiều khó khăn, thách
thức. Khủng hoảng tài chính của một số nền kinh tế lớn trong những năm trước
đã đẩy kinh tế thế giới vào tình trạng suy thối, làm thu hẹp đáng kể thị trường
xuất khẩu, thị trường vốn, thị trường lao động và tác động tiêu cực tới nhiều
lĩnh
vực kinh tế-xã hội khác của nước ta. Ở trong nước, thiên tai dịch bệnh xảy ra
liên tiếp trên địa bàn cả nước cũng đã gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời
sống dân cư.
Trong bối cảnh khơng thuận lợi đó, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số
30/2008/NQ-CP ngày 11/12/2008 về những giải pháp cấp bách nhằm ngăn
chặn
suy giảm, duy trì tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội; Ngày 6/4/2015,
Bộ
Chính trị đã ra Kết luận về tình hình kinh tế-xã hội quý I/2015 và các giải pháp
chủ yếu đến cuối năm 2015. Ngày 19/6/2015, Quốc hội Khoá XIV đã ra Nghị
quyết số 72/2015/QH14 điều chỉnh mục tiêu tổng quát của Kế hoạch phát triển
kinh tế-xã hội năm 2015 là “Tập trung cao độ mọi nỗ lực ngăn chặn suy giảm
kinh tế, phấn đấu duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế hợp lý, bền vững, giữ ổn
định
kinh tế vĩ mơ; chủ động phịng ngừa lạm phát cao trở lại, bảo đảm an sinh xã
hội,
quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an tồn xã hội, trong
đó,
mục tiêu hàng đầu là ngăn chặn suy giảm kinh tế”.
Nhờ sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành nhạy bén, kịp thời, tập trung và quyết
liệt của Đảng, Chính phủ; sự nỗ lực và chủ động khắc phục khó khăn, sự sáng
tạo của các Bộ, Ngành, địa phương, các tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp, cơ sở
sản xuất và của toàn dân nên nước ta đã ngăn chặn được suy giảm kinh tế,
càng
về cuối năm càng nâng cao được tốc độ tăng trưởng.
1.1. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước
5
Theo đà suy giảm kinh tế những tháng cuối năm 2010, tốc độ tăng tổng sản
phẩm trong nước quý I/2013 chỉ đạt 3,14%, là quý có tốc độ tăng thấp nhất
trong nhiều năm gần đây; nhưng quý II, quý III và quý IV của năm 2014, tốc
độ
tăng tổng sản phẩm trong nước đã nâng dần lên lần lượt là 4,46%; 6,04% và
6,9%. Tính chung cả năm 2014, tổng sản phẩm trong nước tăng 5,32%, bao
gồm: khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 1,83%; khu vực công nghiệp
và xây dựng tăng 5,52%; khu vực dịch vụ tăng 6,63%.
Từ diễn biến và kết quả tăng tổng sản phẩm trong nước năm 2014 có thể
đưa ra một số nhận xét, đánh giá như sau:
- Một là, tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2014 tuy vẫn thấp hơn tốc độ tăng
6,18% của năm 2013, nhưng đã vượt mục tiêu tăng 5% của kế hoạch. Trong
bối
cảnh kinh tế thế giới suy thoái, nhiều nền kinh tế tăng trưởng âm mà kinh tế
nước
ta đạt được tốc độ tăng trưởng dương tương đối cao như trên là một thành công
lớn.
- Hai là, tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước quý I và quý II năm 2014
thấp hơn tốc độ tăng của quý I và quý II năm 2013; nhưng quý III/2014 tăng
6,04%, cao hơn tốc độ tăng 5,98% của quý III/2013 và quý IV/2014 tăng
6,9%,
cao hơn tốc độ tăng 5,89% của quý IV/2013 cho thấy nền kinh tế nước ta đã
vượt qua thời kỳ suy giảm tốc độ tăng trưởng, chứng tỏ các chính sách, giải
pháp ngăn chặn suy giảm kinh tế của Chính phủ đề ra, được triển khai trong
năm
vừa qua phù hợp với tình hình thực tế, đã và đang phát huy hiệu quả.
1.2. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 6 tháng đầu năm 2014 theo giá
so sánh 1994 đạt 97,1 nghìn tỷ đồng, tăng 2,76% so với cùng kỳ năm trước;
đến 6
tháng cuối năm đã đạt 122,8 nghìn tỷ đồng, tăng 3,16% so với 6 tháng cuối
năm
2013. Do vậy, tính chung cả năm 2014 đạt 219,9 nghìn tỷ đồng, tăng 3% so với
năm 2013, bao gồm nơng nghiệp đạt 160,1 nghìn tỷ đồng, tăng 2,2%; lâm
nghiệp
đạt 7 nghìn tỷ đồng, tăng 3,8%; thuỷ sản đạt 52,8 nghìn tỷ đồng, tăng 5,4%.
1.3. Sản xuất công nghiệp
6
Công nghiệp là ngành bị ảnh hưởng mạnh do thị trường xuất khẩu hàng hoá
thu hẹp; nhưng các cơ sở sản xuất, các doanh nghiệp và tập đoàn kinh tế có
nhiều
cố gắng; Chính phủ và các cấp, các ngành đã đề ra nhiều giải pháp kịp thời, có
hiệu
quả như hỗ trợ lãi suất vay vốn; mở rộng thị trường tiêu thụ trong nước thông
qua
các gói kích cầu đầu tư và kích cầu tiêu dùng; vận động nhân dân hưởng ứng
chủ
trương “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” nên kết quả sản xuất,
kinh
doanh từng bước được khôi phục và tiếp tục tăng trưởng.
1.4. Đầu tư phát triển
Với mục tiêu ưu tiên là ngăn chặn suy giảm kinh tế, bảo đảm an sinh xã
hội, trong năm qua Chính phủ đã tập trung thực hiện các gói kích cầu đầu tư và
tiêu dùng; đồng thời chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án, cơng trình
trọng điểm nhằm nâng cao hiệu quả vốn đầu tư và thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế.
Nhờ vậy, vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2014 theo giá thực tế ước tính
đạt 704,2 nghìn tỷ đồng, tăng 15,3% so với năm 2013 và bằng 42,8% GDP,
bao
gồm vốn khu vực Nhà nước 245 nghìn tỷ đồng, chiếm 34,8% tổng vốn và tăng
40,5%; khu vực ngoài Nhà nước 278 nghìn tỷ đồng, chiếm 39,5% và tăng
13,9%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi 181,2 nghìn tỷ đồng, chiếm
25,7% và giảm 5,8%.
Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2014
Nghìn tỷ
đồng So với cùng
Cơ cấu kỳ năm trước
(%)
(%)
TỔNG SỐ
Khu vực Nhà nước
Khu vực ngoài Nhà nước
Khu vực có vốn đầu tư trực tiếp
704,2
245,0
278,0
100,0
34,8
39,5
115,3
140,5
113,9
nước ngoài
181,2
25,7
94,2
7
II. Thành tựu và hạn chế tăng trưởng kinh tế nhằm mục tiêu phát triển
bền vững ở Việt Nam
1. Kết quả đạt được về tăng trưởng kinh tế nhằm hướng tới phát triển
bền vững:
1.1. Nền kinh tế nước ta đã liên tục tăng trưởng với tốc độ khá cao và
tương đối ổn định.
Cần khẳng định rằng dưới tác động mạnh của khủng hoảng kinh tế tồn cầu,
q trình suy giảm kinh tế của Việt Nam đã không kéo dài và sự phục hồi tốc
độ
tăng trưởng đến nhanh. Hình 1 cho thấy nền kinh tế chạm đáy suy giảm tăng
trưởng trong quý I/2014 sau đó liên tục cải thiên tốc độ ở các quý sau. Tốc độ
tăng GDP quý II đạt 4,5%, quý III đạt 5,8% và dự đoán quý IV sẽ đạt 6,8%.
Hình 1: Tăng trưởng GDP theo quý
Các chỉ số tăng trưởng cho các ngành cũng thể hiện một xu hướng phục
hồi rõ rệt. Giá trị sản xuất công nghiệp quý I đạt 3,2%, quý II tăng lên 7,6% và
quý III là 8,5%. So với khu vực công nghiệp, thì khu vực dịch vụ chịu tác động
ảnh hưởng của suy thoái kinh tế thế giới ở mức độ thấp hơn. Nhìn chung, khu
vực dịch vụ vẫn duy trì tăng trưởng khá cao, tốc độ tăng trưởng trong quý I là
5,1%, trong quý II, 5,7% và 6,8% trong quý III. Căn cứ kết quả thực hiện 9
tháng
đầu năm và triển vọng các tháng tiếp theo, tốc độ tăng trưởng giá trị khu vực
dịch vụ ước thực hiện cả năm 2009 có thể đạt 6,5%. Đối với lĩnh vực nơng
8
nghiệp, do sản lượng lương thực năm 2013 đã đạt mức kỷ lục so với trước, nên
ngành nông nghiệp tăng không nhiều trong năm 2014. Uớc thực hiện giá trị
tăng
thêm ngành nông, lâm, thủy sản tăng khoảng 1,9%.
Tổng sản phẩm trong nước năm 2013
theo giá so sánh 1994
%
2013
2014
6,18
5,32
Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
4,07
1,83
Công nghiệp và xây dựng
6,11
5,52
Dịch vụ
7,18
6,63
7,49
3,14
5,72
4,46
Tổng số
A. Phân theo khu vực kinh tế
B. Phân theo quý trong năm
Qúy I
Qúy II
Qúy III
5,98
6,04
Qúy IV
5,89
6,90
Nguồn:Tổng cục thống kê
Như vậy xu hướng phục hồi tăng trưởng là khá vững chắc và đạt được
ngay từ trước khi các gói kích cầu được triển khai trên thực tế. Với mức tăng
trưởng như vậy dự báo GDP cả năm 2014 sẽ đạt 5,2%, cao hơn so với mức
tăng
trưởng đáy trong 20 năm qua ở mức 4,77% của năm 1994. Đây là một thành
tựu
kinh tế nổi bật trong năm 2014 nếu đặt trong bối cảnh Việt Nam là một trong số
ít
nền kinh tế trong khu vực và thế giới vẫn đạt mức tăng trưởng dương.
1.2. Tăng trưởng kinh tế đã dựa trên sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã
hội theo hướng CNH, HĐH, từng bước hội nhập vào sự phân công của nền
kinh tế khu vực và thế giới .
Cơ cấu nền kinh tế đã chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH, đó là tỷ trọng
trong GDP của ngành nông – lâm - thuỷ sản đã giảm nhanh từ 38,1% năm
1990
xuống 27,2% năm 1995, 24,5% năm 2000, năm 2005 xuống 20,9%, và đến
năm
2006 cịn 20,4%; Tỷ trọng cơng nghiệp và xây dựng trong GDP đã tăng nhanh,
năm 1990 là 22,7%, năm 1995 đã tăng lên 28,8%, năm 2000 là 36,7%, năm
2005
là 41% và đến năm 2006 đã tăng đến 41,6%; Tỷ trọng dịch vụ trong GDP chưa
9
biến động nhiều, năm 1990 là 38,6%, năm 1995 là 44,0%, năm 2010 là 38,8%
năm 2012 là 38,07% và đến năm 2013 là 38,08%
Cơ cấu nền kinh tế đã chuyển dịch tích cực theo hướng mở cửa, hội nhập
vào kinh tế toàn cầu, thể hiện ở tỷ lệ XK/GDP ngày càng tăng, từ 34,7% năm
1992 lên 47% năm 2001 và đến năm 2005 là trên 50%. Tổng KNXK 5 năm
20012005 đã đạt 111 tỷ USD, tăng bình quân 17,5%/năm (kế hoạch 16%/năm),
khiến
cho năm 2005 bình qn KNXK/người đã đạt 390 USD/năm, gấp đơi năm
2000.
Năm 2006, KNXK tiếp tục đạt mức cao 40 tỷ USD, tăng 24% so với năm
2005.
Năm 2007, KNXK 9 tháng đầu năm đã đạt khoảng 35,2 tỷ USD, tăng 19,4%
so
với cùng kỳ năm 2006. Dự báo tổng KNXK năm 2007 có thể đạt tới 48 tỷ
USD,
tăng 20,5% so với cùng kỳ năm 2006, đưa tỷ lệ XK/GDP lên đến 67,4%.
Nhiều
sản phẩm của Việt Nam như gạo, cao su, may mặc, giày dép, hải sản... đã có
sức
cạnh tranh cao trên thị trường thế giới. Các hoạt động kinh tế đối ngoại khác
như
đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI), và viện trợ phát triển chính thức (ODA)
cũng đều tăng trưởng khả quan, đặc biệt là vốn FDI đã có bước phát triển tích
cực, tăng mạnh từ năm 2004 đến nay. Năm 2001: vốn FDI vào Việt Nam là 3,2
tỷ
USD; tiếp theo, năm 2002: 3,0 tỷ USD; 2003: 3,2 tỷ USD; 2004: 4,5 tỷ USD;
2005: 6,8 tỷ USD; 2006: 10,2 tỷ USD; và 9 tháng đầu năm 2007 đã đạt 9,6 tỷ
USD, tăng 38% so với cùng kỳ năm 2006. Theo dự báo của Cục Đầu tư nước
ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam), kết thúc năm 2007 này nếu các thủ
tục
hành chính cấp phép triển khai thuận lợi, nhanh chóng, kịp với nhu cầu các nhà
đầu tư thì có thể vốn FDI vào Việt Nam sẽ đạt tới con số kỷ lục là 13 tỷ USD).
Cơ cấu lao động cũng chuyển dịch theo hướng tích cực. Nếu như năm 1990,
lực lượng lao động trong ngành nơng-lâm-thuỷ sản cịn chiếm đa số lực lượng
lao
động xã hội (73%) thì đến năm 2000 giảm xuống còn 68,2% và đến năm 2005
còn khoảng 56,8%; Tỷ lệ lao động công nghiệp năm 1990 là 11,2%, năm 2000
là
12,1%, năm 2005 khoảng 17,9%; Tỷ lệ lao động trong các ngành dịch vụ năm
1990: 15,6%, năm 2000: 19,7, năm 2005: 25,3%.
10
Cơ cấu thành phần kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng phát huy tiềm
năng của các thành phần kinh tế và đan xen nhiều hình thức sở hữu. Kinh tế
nhà
nước đang được tổ chức lại, đổi mới, chiếm 38,4% GDP vào năm 2005 và
đang
chi phối nhiều ngành kinh tế then chốt. Kinh tế dân doanh phát triển khá
nhanh,
chiếm 45,7% GDP, đóng góp quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội, nhất là
giải quyết việc làm và cải thiện đời sống nhân dân; trong đó kinh tế hợp tác và
HTX phát triển khá đa dạng, chiếm 6,8% GDP. Kinh tế có vốn đầu tư nước
ngồi
có tốc độ tăng trưởng khá cao, đóng góp 15,9 % GDP của cả nước năm 2015.
1.3 Tăng trưởng và phát triển kinh tế đã đưa đến nâng cao trình độ và
chất lượng sống của các tầng lớp dân cư.
Việc đánh giá trình độ và chất lượng dân sinh của các quốc gia, lãnh thổ có
thể được căn cứ vào nhiều tiêu chí khác nhau, song thơng thường có tính phổ
biến
ngày nay người ta vẫn dùng tiêu chí chỉ số phát triển con người (HDI) là một
thước đo tổng hợp về nhiều khía cạnh trình độ và chất lượng dân sinh. Theo
Báo
cáo hàng năm của Liên hiệp quốc, chỉ số HDI của Việt Nam đã liên tục tăng
trong những năm gần đây, từ 0,671 điểm (năm 2010) đã tăng lên 0,688 điểm
(2011), tăng lên 0,704 điểm (2012) và có khả năng đạt tới 0,750 điểm vào năm
2010 như mục tiêu Chiến lược Dân số đã đề ra. Đáng lưu ý là, từ năm 1995
đến
nay, xếp hạng HDI của Việt Nam trong khu vực đã được nâng lên từ thứ bậc 7
lên thứ bậc 6; ở Châu Á từ thứ bậc 32 lên thứ bậc 28 và trên thế giới từ thứ bậc
122 lên thứ bậc 108 so vớí 177 nước trên thế giới.
Để thấy rõ một cách chi tiết về trình độ và chất lượng sống của các tầng lớp
dân cư Việt Nam đã ngày càng nâng cao hơn, nên xem xét tổng thể các tiêu chí
cơ bản sau đây:
- Đời sống các tầng lớp nhân dân tiếp tục được cải thiện. Thu nhập GDP
bình quân/người của cả nước đã tăng từ 5,7 triệu đồng năm 2000 lên trên 10
triệu
đồng năm 2005, tương đương 640 USD (tăng 12,1%/năm và 1,75 lần sau 5
năm).
Năm 2007, ước tính có thể đạt 835 USD.
11
- Tuổi thọ bình quân của người Việt Nam tăng từ 65,2 tuổi năm 1995 lên 70
tuổi năm 2003 và lên 71,5 tuổi năm 2005.
- Xếp hàng chỉ số giới của Việt Nam cao hơn xếp hạng về HDI và GDP bình
quân đầu người, đứng thứ 89 trên 144 nước năm 2005
- Cơng tác chăm sóc sức khoẻ cộng đồng có nhiều tiến bộ, cụ thể là:
Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng đã liên tục giảm nhanh từ•
33,4% năm 2000, giảm xuống còn 31,9% năm 2001, 30,1% năm 2002, 28,4%
năm 2003, 26,6% năm 2004 và 25,5% năm 2005.
Tỷ lệ trẻ mới sinh nặng dưới 2.500gam ở mức thấp, gần 8%.•
.
Tỷ lệ trẻ em bị tử vong dưới 1 tuổi năm 2005 giảm cịn 18/1.000 trẻ đẻ•
sống. Tỷ suất tử vong bà mẹ liên quan đến thai sản giảm xuống còn
80/100.000
trẻ đẻ sinh sống.
Tỷ lệ người dân nông thôn được sử dụng nước sạch đạt 62% năm 2005,•
vượt mục tiêu đề ra.
Hầu hết các xã phường trong cả nước đều đã có trạm y tế, trong đó có trên•
65% số trạm có bác sĩ. Chế độ khám, chữa bệnh cho người nghèo, bảo hiểm y
tế
có bước phát triển. Đã triển khai khám, chữa bệnh miễn phí cho trẻ em dưới 6
tuổi.
Đã ngăn chặn có hiệu quả và khắc phục nhanh một số bệnh dịch mới như•
SARS, cúm gia cầm, được thế giới đánh giá cao; đẩy mạnh phòng chống
HIV/AIDS.
Sản xuất thuốc chữa bệnh chiếm 45% thị phần thuốc chữa bệnh...•
Sự nghiệp phát triển giáo dục - tạo có bước phát triển mạnh. Năm 2000, cả
nước đã đạt chuẩn quốc gia về xóa nạn mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học,
đến
năm 2005, có 31/64 tỉnh, thành phố đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục
trung
học cơ sở. Tỷ lệ người lớn biết chữ đạt 94%, trong khi đó trung bình của thế
giới
là 79%, các nước thu nhập thấp là 61%, các nước thu nhập trung bình là 90%,
các
nước châu Á – Thái Bình Dương là 90%. Đến hết năm 2005, số học sinh đi
học
12
bậc tiểu học đạt 97,5%, số học sinh trung học chuyên nghiệp tăng 15,1%/năm,
dạy nghề dài hạn tăng 12%/năm, sinh viên đại học và cao đẳng tăng 8,4%/năm.
Cơ sở vật chất các cơ sở giáo dục và đào tạo ở các cấp được tăng cường. Nhiều
tỉnh đã xây dựng được trường chuẩn quốc gia. Đầu tư cho giáo dục và đào tạo
tăng lên. Năm 2005, chi cho giáo dục và đào tạo đã đạt tới 18% tổng chi ngân
sách nhà nước.
Đời sống văn hố khơng ngừng nâng cao. Tính đến năm 2005, đã có khoảng
95% số hộ được nghe Đài tiếng nói Việt Nam, 90% số hộ được xem truyền
hình
Việt Nam. Đáng lưu ý, có nhiều vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc
thiểu số đã được phủ sóng phát thanh, truyền hình. Đến năm 2005, đã có 650
cơ
quan báo chí, vớí 713 ấn phẩm, có70 tờ báơ điện tử và hàng trăm ngàn trang
tin
điện tử. Các hoạt động văn hoá, nghệ thuật, thể dục, thể thao đều tiếp tục phát
triển mạnh, cơ sở vật chất được tăng cường. Nước ta dã tổ chức hành công Đại
hội thể thao Đông Nam Á lần thứ 22 và Đại hội thể thao của người khuyết tật
Đông Nam Á lần thứ 2, gây ấn tượng tốt trong khu vực và quốc tế.
1.4 Tăng trưởng và phát triển kinh tế đi đôi với giải quyết việc làm, gắn
liền với tiến bộ và công bằng xã hội.
Đời sống nhân dân đã được cải thiện rõ rệt, thể hiện ở thu nhập GDP bình
quân đầu người nước ta đã không ngừng tăng lên, từ 220 USD những năm đầu
thập niên 90 của thế kỷ XX, đã tăng lên 400 USD năm 2000, tăng 1,8 lần, 483
USD năm 2003, đến năm 2005 đã là 640 USD, và đến năm nay 2007 có thể đạt
tới 835 USD. Đáng lưu ý là cơng tác xố đói giảm nghèo đã đạt kết quả rất khả
quan, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Là một trong những quốc gia có
kết
quả giảm tỷ lệ đói nghèo tốt nhất. đến cuối năm 2005, tỷ lệ hộ nghèo theo
chuẩn
cũ còn 7% (kế hoạch là 10%; năm 2001 là 17,5%). Theo Báo cáo của Chính
phủ
do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trình bày tại kỳ họp thứ 12, Quốc hội khoá
XII
(Nhân dân, 23/10/2007), đến nay đã có gần 4 triệu hộ nghèo và 1,7 triệu người
có
hồn có hồn cảnh khó khăn được tiếp cận với nguồn vốn thuộc 10 chương
trình
tín dụng ưu đãi của Nhà nước, góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 18% năm 2006
13
xuống còn 14,7% (theo chuẩn mới) năm 2007. Theo đánh giá của Liên hợp
quốc,
Việt Nam đã hoàn thành Mục tiêu Thiên niên kỷ xố đói nghèo đến năm 2015
trước 10 năm
2. Hạn chế:
2.1 Tăng trưởng kinh tế vẫn chưa vững chắc:
Tăng trưởng kinh tế đạt bình quân 7,5%/năm trong 5 năm 2001-2005 là một
thành tựu lớn, nhưng tăng trưởng vẫn chủ yếu dựa vào các yếu tố về vốn, lao
động, khai thác tài ngun thiên nhiên... Bên cạnh đó, cơng nghiệp chế biến
nơng
sản và chế tạo tư liệu sản xuất còn kém, chủ yếu vẫn là lắp ráp, gia công. Các
yếu
tố đem lại giá trị gia tăng cao như khoa học, công nghệ chưa được khai thác và
phát huy.
Quy mô đầu tư ngày càng tăng, thể hiện ở tỷ lệ đầu tư trên GDP ngày càng
cao, nhưng hiệu quả đầu tư, trình độ của nền kinh tế và chất lượng tăng trưởng
kinh tế vẫn còn ở mức thấp, chưa tương xứng với đầu tư. Khả năng cạnh tranh
của doanh nghiệp, của nền kinh tế cịn thấp, lao động có tay nghề cao vẫn còn
chiếm tỷ trọng nhỏ trong lực lượng lao động.
Nhịp độ tăng trưởng kinh tế còn dưới mức khả năng phát triển của đất
nước,chất lượng phát triển còn thấp, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn
yếu . Tăng trưởng kinh tế những năm qua chưa phát huy được hết các nhân tố
theo chiều sâu. Năng lực cạnh tranh, năng suất, chất lượng, hiệu quả của nền
kinh
tế còn thấp. Chưa kết hợp thật tốt giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công
bằng xã hội, bảo vệ và chăm lo đúng mức cho sự phát triển của con người, bảo
vệ và cải thiện mơi trường sinh thái.
Đóng góp vào tăng trưởng chủ yếu vẫn là yếu tố vốn và lao động, yếu tố về
tiến bộ khoa hoc và công nghệ tuy có tăng lên nhưng vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ.
Kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội vẫn còn yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu
phát triển và nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Một số cơng trình
xây dựng lớn, quan trọng quốc gia khơng hồn thành theo kế hoạch. Năng lực
sản
xuất một số ngành, sản phẩm quan trọng, thiết yếu tăng chậm.
14
Môi trường cịn ơ nhiễm nặng và bị tàn phá nghiêm trọng, chưa có các giải
pháp hữu hiệu trong giải quyết vấn đề môi trường.
2.2 Chuyển dịch cơ cấu kinh tế chưa đồng đều và chưa phát huy thế
mạnh trong từng ngành, từng vùng, từng sản phẩm. Cơ cấu dịch vụ chưa có
sự chuyển dịch đáng kể, dịch vụ chất lượng cao phát triển chậm.
Cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp và nơng thơn triển khai cịn
chậm và thiếu tính bền vững. Tỷ trọng dịch vụ trong GDP còn thấp và chưa có
chuyển biến rõ rệt. Các vùng kinh tế trọng điểm phát triển chưa tương xứng
với
tiềm năng, chưa phát huy được vai trị đầu kéo kinh tế vùng; chính sách đầu tư
và
hỗ trợ các vùng kém phát triển chưa đáp ứng được yêu cầu. Sự phát triển của
các
thành phần kinh tế chưa đồng đều. Tỷ lệ lao động qua đào tạo cịn thấp so với
u
cầu cơng nghiệp hố, hiện đại hố và chuyển dịch cơ cấu kinh tê.
2.3. Tăng trưởng kinh tế nhanh làm ô nhiễm môi trường
So với các nước trong khu vực sản xuất công nghiệp của nước ta có quy mơ
cịn rất nhỏ bé nên sự tác động gây ô nhiễm môi trường phần lớn đang ở phạm
vi
hạn chế gây suy thoái cục bộ trong ranh giới của vùng hẹp. Tuy vậy, với tốc độ
tăng trưởng công nghiệp hàng năm của chúng ta hiện nay, để bảo đảm phát
triển
bền vững chúng ta đang đứng ở thời điểm không thể trì hỗn, bắt buộc phải
xác
lập các bước đi thích hợp, thực hiện các biện pháp giải quyết và ngăn ngừa ô
nhiễm môi trường.
3. Giải pháp để phát triển bền vững nền kinh tế ở Việt Nam.
3.1. Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa nhằm đáp ứng sự nghiệp đổi mới của Đảng và thực hiện các mục
tiêu kinh tế – xã hội.
Điều cần chú ý là đổi mới hoạt động ngân hàng – tài chính là khâu đột phá
trong suốt tiến trình đổi mới nền kinh tế. Cơ chế quản lý, giám sát hoạt động
ngân hàng – tài chính được đổi mới theo hướng thơng thống hơn, phù hợp với
tự do hóa tài chính nhằm tạo mơi trường thuận lợi, cho các tổ chức tín dụng
hoạt
động theo nguyên tắc thị trường. Tập trung hoàn thiện hệ thống pháp luật về
15
kinh tế thị trường. Tạo lập đồng bộ và vận hành thông suốt các loại thị trường,
nhất là thị trường tài chính. Chú trọng liên kết giữa thị trường tiền tệ với thị
trường vốn. Kết hợp chặt chẽ chính sách tiền tệ với chính sách tài khóa để ổn
định kinh tế vĩ mơ, tăng dự trữ ngoại tệ, khuyến khích thực hành tiết kiệm
trong
tiêu dùng, tập trung vốn cho đầu tư phát triển. Cơ chế điều hành chính sách
tiền
tệ được chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa sang cơ chế điều hành dựa vào thị
trường
với việc từng bước loại bỏ các biện pháp kiểm soát tiền tệ trực tiếp như các kế
hoạch tiền mặt, kế hoạch tín dụng, trần tín dụng ấn định lãi suất và đưa vào áp
dụng các cơng cụ chính sách tiền tệ gián tiếp như nghiệp vụ thị trường mở,
chiết
khấu, dự trữ bắt buộc được vận hành linh hoạt và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Xây dựng hệ thống ngân hàng đáp ứng với cơ chế thị trường cùng với các loại
hình dịch vụ tiện ích nhằm phục vụ cho hội nhập kinh tế quốc tế. Sớm cổ phần
hóa các ngân hàng thương mại theo sự chỉ đạo của Chính phủ. Đương nhiên,
để
cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước cần có lộ trình và có giải pháp mạnh
để
đẩy nhanh q trình cổ phần hóa. Ngân hàng Nhà nước không phát hành tiền
cho chi tiêu ngân sách. Các khoản tín dụng của Ngân hàng Nhà nước dành cho
ngân sách nhà nước và các ngân hàng thương mại là các khoản tín dụng ngắn
hạn, có bảo đảm. Lãi suất được chuyển từ cơ chế lãi suất cố định được kiểm
soát
bằng các mệnh lệnh hành chính sang cơ chế lãi suất thị trường. Nhờ vậy, lãi
suất
và tỷ giá trở thành thước đo giá trị và đòn bẩy kinh tế quan trọng thúc đẩy tiết
kiệm, đầu tư, kiểm soát lạm phát, ổn định hệ thống tài chính, góp phần khuyến
khích xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế.
3.2. Xây dựng môi trường kinh doanh thơng thống tạo điều kiện để các
doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh phát huy trong cơ chế thị trường.
Đương nhiên để thực hiện được nội dung này cần có luật pháp đồng bộ.
Lâu nay, chúng ta chuyển sang cơ chế mới song luật pháp lại thiếu đồng bộ
nên
việc thực hiện cịn nhiều vướng mắc. Có nhiều văn bản dưới luật và kể cả các
luật còn mâu thuẫn, “chồng chéo” đã làm cho các doanh nghiệp khó vận dụng,
thậm chí luồn lách luật. Tình trạng trốn thuế, chây ỳ thuế ở các doanh nghiệp,
16
nhất là các doanh nghiệp tư nhân là khá phổ biến đã gây thất thoát lớn cho
nguồn thu của Nhà nước. Việc thỏa thuận thuế giữa cơ sở và cơ quan thuế tồn
tại một quá trình dài khiến cho cơng tác hành thu chưa đáp ứng được tính cơng
bằng, khách quan. Khơng ít trường hợp cùng trên địa bàn, cùng sản xuất, kinh
doanh mặt hàng song nộp thuế lại khác nhau do “cơ chế thỏa thuận thuế”,
khiến
cho các cơ sở, doanh nghiệp chưa phấn khởi nộp thuế đúng với trách nhiệm và
nghĩa vụ. Đối với doanh nghiệp liên doanh cùng ở chân hàng rào khu cơng
nghiệp, việc áp thuế với mỗi đơn vị có số thu chênh lệch nhau gây bức xúc cho
các doanh nghiệp. Điều này được các ý kiến phát biểu ở “Cuộc đối thoại giữa
các doanh nghiệp với lãnh đạo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính.”
Đáng lưu ý là có một thực trạng là thủ tục hành chính ở Việt Nam là quá
rườm rà, phức tạp, qua nhiều khâu, chi phí tốn kém. Khơng ít các nhà đầu tư
ngại việc làm thủ tục do chậm trễ, thủ tục hành chính qua nhiều cửa mà chủ
yếu
“hành là chính”. Nếu có “lót tay” thì thơng đồng bén giọt, nếu khơng cịn chờ
đợi. Mặt khác, ngay việc thực hiện các ưu tiên cho các doanh nghiệp sử dụng
nguyên liệu trong nước làm hàng xuất khẩu còn bị thu thuế như doanh nghiệp
mua nguyên liệu từ bên ngồi; thậm chí nếu tính đầy đủ cịn bị thuế cao hơn.
Tất
cả các tồn tại trên đều là do việc các văn bản, luật pháp còn chưa đồng bộ
khiến
cho q trình thực hiện gặp khó khăn. Đương nhiên cũng không loại trừ nhiều
bộ phận như hải quan ở nhiều địa phương còn tự đặt ra quy chế riêng để thực
hiện công tác hành thu, nhằm tạo nguồn thu bất chính để mưu cầu lợi ích riêng.
Thực tế cho thấy, ở nhiều cửa khẩu hàng xuất đi nước ngoài vẫn còn nhiều tiêu
cực mà chưa được ngăn chặn, như áp thuế khơng đúng với số lượng, chủng
loại
hàng hóa. Các mặt hàng “nhạy cảm” vẫn chưa được kiểm soát triệt để bảo đảm
nghiêm minh đúng luật pháp.
3.3. Tiếp tục phát triển các thành phần kinh tế để đẩy nhanh tăng trưởng
kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xóa đói giảm nghèo.
Qua hơn 20 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu
đáng phấn khởi, được bạn bè thế giới đánh giá cao. Những thành tựu đó là nhờ
17
sự lãnh đạo của Đảng trong đổi mới tư duy kinh tế, đưa nền kinh tế nhiều
thành
phần thay cho việc chỉ chú trọng kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Sự
nhận
thức rõ về phát triển nền kinh tế nhiều thành phần đã tạo điều kiện cho đất
nước
khởi sắc. Thực tiễn cho thấy phát triển kinh tế hàng hóa là giai đoạn thấp của
kinh tế thị trường, cho nên đẩy mạnh sản xuất hàng hóa trong điều kiện đất
nước
cịn nghèo thì phát triển nền kinh tế nhiều thành phần là đúng hướng. Những
kỳ
thị về kinh tế tư nhân đã dần dần khơng cịn mặc cảm. Chính nhờ phát triển
kinh
tế tư nhân, kinh tế trang trại đã giải quyết nhiều việc làm cho người lao động,
tăng thu nhập cho dân cư, góp phần xóa đói giảm nghèo. Trong thực tiễn đã
xuất
hiện nhiều mơ hình kinh tế hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, trở
thành
triệu phú. Đến Đại hội Đảng X, cho phép đảng viên làm kinh tế tư nhân là một
bước nhận thức mới trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Mục tiêu là đưa
Việt Nam trở thành một nước công nghiệp, dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh. Để thực hiện mục tiêu này, kinh tế nhà nước phải là
đầu tàu để cùng các thành phần kinh tế khác phát triển. Kinh tế nhà nước sẽ có
mặt ở những nơi khó khăn, xung yếu, làm những việc mà kinh tế tư nhân và
các
thành phần kinh tế khác không thể làm được, hoặc làm không hiệu quả. Điều
quan trọng là bất cứ một đảng cầm quyền nào thì việc điều hành nền kinh tế –
xã
hội đều phải xây dựng một nền kinh tế mạnh. Sức mạnh của nền kinh tế là phải
điều phối được nhịp độ tăng trưởng kinh tế, kiềm chế được tốc độ tăng lạm
phát,
tự chủ được tài chính quốc gia khơng phụ thuộc vào kinh tế bên ngồi. Sự độc
lập trong tiến trình điều hành đất nước đi theo mục tiêu và định hướng đã chọn
là thể hiện thế mạnh của một quốc gia. Cho nên để làm được điều đó, kinh tế
nhà nước cần được nắm giữ và coi trọng phát triển.
3.4. Phát triển các loại hình dịch vụ trong nền kinh tế thị trường sẽ tạo
nguồn thu lớn thúc đẩy nền kinh tế phát triển, theo hướng cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
Ở các nước phát triển, các loại hình dịch vụ phát triển chiếm tỷ trọng cao
(Mỹ chiếm 70%, Anh, Pháp, Đức là 60%, Nhật Bản là 50%, Hàn Quốc 50%
…)
18
trong nền kinh tế. Sở dĩ ở các nước cơng nghiệp có các loại hình dịch vụ phát
triển vì:
Do yêu cầu khách quan của nền kinh tế thị trường địi hỏi phải có các dịch
vụ mới thúc đẩy được sản xuất kinh doanh phát triển.
Đây là nguồn thu nhập rất lớn cho ngân sách, dễ thu hồi vốn, lãi cao thậm
chí cịn hơn cả sản xuất.
Nó phát triển theo xu hướng là xã hội hóa và quốc tế hóa nhất là các ngành
tài chính, ngân hàng, giao thông, thương mại – du lịch, xây dựng… Chẳng hạn
thẻ rút tiền tự động ATM gửi một nơi mà rút ra ở nhiều nơi, thậm chí ở cả nước
ngồi. Dịch vụ của các công ty lớn xuyên quốc gia như Hon Đa (Nhật Bản),
Sam Sung (Hàn Quốc), Si-ê-men (Đức), Cô ca – Cơ la (Mỹ), Đun Hin (Anh)…
mang tính tồn cầu. Sự tiện ích của các dịch vụ đã làm cho con người thỏa
mãn
nhu cầu của cuộc sống, nó thúc đẩy cho sản xuất kinh doanh phát triển. Thước
đo của các loại hình dịch vụ có chất lượng cao được bạn hàng lựa chọn. Điện
thoại di động, máy ảnh kỹ thuật số, internet… là dịch vụ tiện ích mà đến nay
những người khó tính nhất cũng phải thừa nhận đó là nhanh và tiện lợi, là văn
minh nhân loại của thế kỷ XXI này.
Điều đáng chú ý là các loại hình dịch vụ ở mỗi ngành lại có tính đặc thù
riêng địi hỏi phải có chun mơn phù hợp. Nhưng điều cần nhận thức rằng dù
dịch vụ ở lĩnh vực nào thì cái chung của dịch vụ là phục vụ cho sản xuất kinh
doanh của nền kinh tế. Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, các loại hình
dịch vụ phải vươn lên phục vụ cho các nước. Vấn đề đặt ra là các loại hình
dịch
vụ phải chun sâu, có nghiệp vụ vững mới đáp ứng được khách hàng trong
nước và nước ngoài mến mộ. Sẽ là mất cơ hội, nếu tàu nước ngồi đến cập
cảng
lại từ bỏ khơng cần dịch vụ của ta mà lại đến cảng nước khác, dẫu rằng họ rất
cần sửa chữa và các dịch vụ khác. Sự phát triển kinh tế – xã hội của mỗi giai
đoạn địi hỏi các loại hình dịch vụ phải vươn lên thích ứng nắm bắt để phục vụ
có hiệu quả.
19
KẾT LUẬN
Từ những phân tích trên ta thấy được mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế
và phát triển bền vững. Tăng trưởng và phát triển kinh tế phản ánh hai mặt của
quá trình phát triển kinh tế xã hội.
Tăng trưởng là điều kiện cần, là phương tiện, còn phát triển là động lực, là
mục tiêu của nền kinh tế. Có các quan điểm tăng trưởng phiến diện, tăng
trưởng
bằng mọi giá. Quan điểm nhấn mạnh vào cơng bằng và bình đẳng xã hội. Quan
điểm phát triển tồn diện.
Nếu một đất nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế quá nhanh sẽ làm cho nền
kinh tế phát triển khơng bền vững . Vì thế, để có được một nền kinh tế phát
triển
bền vững phải có sự kết hợp chặt chẽ nhiều yếu tố như bảo vệ mơi trường, có
cơ
cấu kinh tế một cách hợp lý và đặc biệt là phải quan tâm đến việc cải thiện các
vấn đề xã hội và đời sống cho người dân.
Bền vững về kinh tế là có GDP, GDP/người tăng cao, ổn định và cơ cấu kinh
tế hợp lý.
Bền vững về mơi trường là giữ gìn được khơng gian sinh tồn của con người,
cung cấp được tài nguyên, chứa đựng, xử lý được các phế thải.
Bền vững về xã hội là mở rộng cơ hội lựa chọn, nâng cao năng lực lựa chọn,
mọi người cùng được tham gia và hưởng lợi từ quá trình phát triển.