Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

Những vấn đề cơ bản của phương thức sản xuất TBCN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (62.02 KB, 5 trang )

LỚP TRUNG CẤP CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH KHĨA 98
BÀI THU HOẠCH
Bài 3: Những vấn đề cơ bản của phương thức sản xuất TBCN
Bài Làm
Câu 1: Tiền có mấy chức năng? Đó là những chức năng nào? Trong những
chức năng đó thì chức năng nào là cơ bản của tiền? Vì sao?
* Tiền tệ là một phạm trù lịch sử, nó là sản phẩm tự phát của nền kinh tế
hàng hóa, sản phẩm của sự phát triển các hình thái giá trị. Đồng thời cũng là sản
phẩm của sự phát triển mâu thuẫn giữa lao động và phân công lao động xã hội
trong sản xuất hàng hóa. Sự ra đời và phát triển của tiền tệ gắn liền với sự ra đời và
phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa.
Theo Mac, tiền tệ là một thứ hàng hố đặc biệt, được tách ra khỏi thế giới
hàng hoá, dùng để đo lường và biểu hiện giá trị của tất cả các loại hàng hố khác.
Nó trực tiếp thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ sản xuất giữa những
người sản xuất hàng hóa.
Theo các nhà kinh tế hiện đại: Tiền được định nghĩa là bất cứ cái gì được
chấp nhận chung trong việc thanh tốn để nhận hàng hoá, dịch vụ hoặc trong việc
trả nợ.
* Tiền có 5 chức năng, cụ thể như sau:
1/ Chức năng thước đo giá trị:
Tiền tệ dùng để biểu hiện và đo lường giá trị của các hàng hóa. Muốn đo
lường giá trị của các hàng hóa, bản thân tiền tệ cũng phải có giá trị. Vì vậy, tiền tệ
làm chức năng thước đo giá trị phải là tiền vàng. Để đo lường giá trị hàng hóa
khơng cần thiêt phải là tiền mặt mà chỉ cần so sánh với lượng vàng nào đó trong ý
tưởng. Sở dĩ có thế làm được như vậy vì giữa giá trị của vàng và giá trị của hàng
hóa trong thực tế đã có một tỷ lệ nhất định. Cơ sở của tỷ lệ đó là thời gian lao động
xã hội cần thiết hao phí để sản xuất ra hàng hóa đó. Giá trị hàng hóa được biểu hiện
bằng tiền gọi là giá cả hàng hóa. Hay nói cách khác, giá cả là hình thức biểu hiện
bằng tiền của giá trị hàng hóa.
2/ Chức năng phương tiện lưu thông:



Tiền thực hiện chức năng phương tiện lưu thông khi tiền mơi giới cho q
trình trao đổi hàng hóa. Khi tiền xuất hiện, hình thái trao đổi trực tiếp bằng hiện vật
dần dần nhường chỗ cho hình thái trao đổi gián tiếp thực hiện thông qua trung gian
của tiền tệ. Hình thái trao đổi này trở thành phương tiện và động lực thúc đẩy nền
kinh tế tăng trưởng nhanh chóng, buôn bán trở nên dễ dàng, sản xuất thuận lợi. Có
thể ví tiền như một chất nhớt bơi trơn guồng máy sản xuất và lưu thơng hàng hóa.
Khi mức dộ tiền hóa ngày càng cao thì hoạt động giao lưu kinh tế càng được diễn
ra thuận lợi, trôi chảy.
Nghiệp vụ trao đổi giá tiếp thực hiện qua trung gian của tiền, gồm hai vế:
* Vế thứ nhất: bán hàng để lấy tiền: H-T
* Vế thứ hai : dùng tiền để mua hàng T – H
Trong đó H là hàng hóa, T là tiền mặt. Khi tiền làm môi giới trong trao đổi
hàng hoá đã làm cho hành vi bán và hành vi mua có thể tách rời nhau cả về thời
gian và khơng gian. Với việc khơng nhất trí giữa mua và bán vơ tình gây ta những
nguy cơ của khủng hoảng kinh tế.
Nhưng thỉnh thoảng hai vế này không di liền với nhau. Tiền là phương tiện
làm trung gian trao đổi dần dần trở thành mục tiêu trong các cuộc trao đổi và được
ưa chuộng.
3/ Chức năng phương tiện cất trữ :
Tiền chấp hành chức năng phương tiện cất trữ khi tiền tạm thời rút khỏi lưu
thông, trở vào trạng thái tĩnh, chuẩn bị cho nhu cầu chi dùng trong tương lai.Khi
tiền tệ chưa xuất hiện, người ta thường thực hiện cất trữ dưới hình thái hiện vật,
hình thái này khơng tiện lợi vì nó địi hỏi phải có chỗ rộng rãi, phải tốn nhiều chi
phí bảo quản, dễ hư hỏng, khó lưu thơng và it sinh lời.Khi tiền tệ xuất hiện, người
ta dần dần thay thế cất trữ dưới hình thái hiện vật bằng hình thái cất trữ dưới dạng
tiền. Hình thái này có nhiều ưu điểm, điểm nổi bật là dễ lưu thông và thanh khoản.
Tuy nhiên, cất trữ dưới hình thái tiền có nhược điểm là có thể dễ mất giá khi nền
kinh tế có lạm phát. Do vậy, để tiền thực hiện được chức năng phương tiện cất trữ
đòi hỏi hệ thống tiền quốc gia phải đảm bảo được sức mua.

4/ Chức năng phương tiện thanh toán:
Làm phương tiện thanh toán, tiền được dùng để trả nợ, nộp thuế, trả tiền mua
chịu hàng... Khi sản xuất và trao đổi hàng hóa phát triển đến trình độ nào đó tất yếu
nảy sinh việc mua bán chịu. Trong hình thức giao dịch này, trước tiên tiền làm chức


năng thước đo giá trị để định giá cả hàng hóa. Nhưng vì là mua bán chịu nên đến
kỳ hạn tiền mới được đưa vào lưu thông để làm phương tiện thanh toán. Sự phát
triển của quan hệ mua bán chịu này một mặt tạo khả năng trả nợ bằng cách thanh
tốn khấu trừ lẫn nhau khơng dùng tiền mặt. Mặt khác, trong việc mua bán chịu
người mua trở thành con nợ, người bán trở thành chủ nợ. Khi hệ thống chủ nợ và
con nợ phát triển rộng rãi, đến kỳ thanh tốn, nếu một khâu nào đó khơng thanh
tốn được sẽ gây khó khăn cho các khâu khác, phá vỡ hệ thống, khả năng khủng
hoảng kinh tế tăng lên.
5/ Chức năng tiền tệ thế giới:
Khi trao đổi hàng hóa vượt khỏi biên giới quốc gia thì nên làm chức năng
tiền tệ thế giới. Với chức năng này, tiền phải có đủ giá trị, phải trở lại hình thái ban
đầu của nó là vàng. Trong chức năng này, vàng được dùng làm phương tiện mua
bán hàng hóa, phương tiện thanh tốn quốc tế và biểu hiện của cải nói chung của xã
hội.
Năm chức năng của tiền trong nền kinh tế hàng hóa quan hệ mật thiết với
nhau. Sự phát triển các chức năng của tiền phản ánh sự phát triển của sản xuất và
lưu thơng hàng hóa.
* Trong các chức năng của tiền trên thì chức năng phương tiện lưu thơng
chính là chức năng quan trọng nhất của tiền. Bởi vì, ngày nay tiền ln là phương
tiện bơi trơn cho phép nền kinh tế hoạt động trôi chảy hơn, từ đó giúp nâng cao
hiệu quả hoạt động của nền kinh tế.Vì tiền là mơi giới trao đổi hàng hóa, theo công
thức H – T – H. Trao đổi này phải dùng đến tiền thật: vàng, bạc…Nhờ có tiền, q
trình mua, bán diễn ra thuận lợi.
Tiền làm môi giới trong quá trình trao đổi hàng hóa. Để làm chức năng lưu

thơng hàng hóa địi hỏi phải có tiền mặt.
Câu 2: Thế nào được gọi là tín dụng ngân hàng tư bản?
- Tín dụng ngân hàng tư bản: là hình thức vận động của chủ nghĩa tư bản
cho vay, phản ánh quan hệ kinh tế giữa chủ thể sở hữu và chủ thể sử dụng tư bản
cho vay dựa trên các nguyên tắc hồn trả, có kỳ hạn và có lợi tức
- Tín dụng ngân hàng là quan hệ vay mượn thơng qua ngân hàng làm mơi giới.
- Tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng giữa ngân hàng với các nhà tư bản
trực tiếp kinh doanh và các tầng lớp dân cư khác trong xã hội. Ngân hàng đóng vai
trị trung gian giữa những người cho vay và những người đi vay.


- Tín dụng ngân hàng ra đời và phát triển dựa trên sự phát triển của tín dụng
thương nghiệp. Đồng thời, tín dụng ngân hàng tạo điều kiện thuận lợi cho tín dụng
thương nghiệp phát triển lên đỉnh cao hơn. Nhờ có tín dụng ngân hàng, các kỳ
phiếu được chiết khấu dễ dàng, được chuyển thành tiền mặt, tạo điều kiện thuận lợi
cho kinh doanh, cho việc dùng kỳ phiếu làm phương tiện lưu thơng và thanh tốn.
- Sự vận động của tín dụng ngân hàng gắn liền với sự vận động của tư bản
tiền tệ, vì đối tượng của tín dụng ngân hàng là tiền tệ.
Câu 3: Thế nào là công ty cổ phần? Thế nào là thị trường chứng khốn
TBCN?Thế nào là tư bản giả?
* Cơng ty cổ phần : Là một dạng pháp nhân có trách nhiệm hữu hạn, được
thành lập và tồn tại độc lập đối với những chủ thể sở hữu nó. Vốn của cơng ty được
chia nhỏ thành những phần bằng nhau gọi là cổ phần và được phát hành huy động
vốn tham gia của các nhà đầu tư. Công ty cổ phần là một thể chế kinh doanh, một
loại hình doanh nghiệp hình thành, tồn tại và phát triển bởi sự góp vốn của nhiều cổ
đông. Trong công ty cổ phần, số vốn điều lệ của công ty được chia nhỏ thành các
phần bằng nhau gọi là cổ phần. Các cá nhân hay tổ chức sở hữu cổ phần được gọi
là cổ đông. Cổ đông được cấp một giấy chứng nhận sở hữu cổ phần gọi là cổ phiếu.
Chỉ có cơng ty cổ phần mới được phát hành cổ phiếu, cịn cơng ty trách nhiệm hữu
hạn thì khơng có điều này (Chỉ có công ty cổ phần mới được giao dịch trên sàn

chứng khốn, cịn cơng ty trách nhiệm hữu hạn thì khơng có điều này). Như vậy, cổ
phiếu chính là một bằng chứng xác nhận quyền sở hữu của một cổ đông đối với
một Công ty Cổ phần và cổ đông là người có cổ phần thể hiện bằng cổ phiếu. Cơng
ty cổ phần là một trong loại hình cơng ty căn bản tồn tại trên thị trường và nhất là
để niêm yết trên thị trường chứng khốn.Bộ máy các cơng ty cổ phần được cơ cấu
theo luật pháp và điều lệ công ty với nguyên tắc cơ cấu nhằm đảm bảo tính chuẩn
mực, minh bạch và hoạt động có hiệu quả.
* Thị trường chứng khoán : Là nơi diễn ra các giao dịch về chứng khoán.
Cụ thể hơn thị trường chứng khốn có thể được định nghĩa như là nơi tập trung các
nguồn tiết kiệm để phân phối lại cho người muốn sử dụng những nguồn tiết kiệm
đó theo giá mà người sử dụng sẵn sàng trả. Nói cách khác thị trường chứng khoán
là nơi tập trung và phân phối các nguồn đầu tư này, có thêm nhiều vốn hơn để đưa
vào sản xuất trong nền kinh tế vì vậy có thể làm cho nền kinh tế tăng trưởng và tạo
nên sự thịnh vượng.
Chứng khốn là các loại cơng cụ tài chính dài hạn, bao gồm các loại cổ phiếu
và trái phiếu.


* Tư bản giả : Là tư bản tồn tại dưới hình thức các chứng khốn có giá và
mang lại thu nhập cho người sở hữu các chứng khốn đó.
- Tư bản giả bao gồm hai loại chủ yếu:
+ Cổ phiếu
+Trái phiếu



×