Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Phân tích mối liên hệ giữa pháp luật với cơ cấu xã hội – nhân khẩu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (83.42 KB, 14 trang )

Đề bài: Phân tích mối liên hệ giữa pháp luật với cơ cấu xã hội – nhân
khẩu, cho ví dụ cụ thể?
Bài làm
1. Khái niệm cơ cấu xã hội – nhân khẩu
Cơ cấu xã hội – nhân khẩu được hiểu là tổng số dân được phân loại theo giới tính,
độ tuổi, dân tộc, trình độ học vấn, nghề nghiệp, tình trạng hôn nhân và các đặc
trưng khác được quy định tại khoản 3 điều 3 Pháp lệnh dân số năm 2003.
Cơ cấu xã hội – nhân khẩu có ảnh hưởng lớn đến quá trình vận động, phát triển của
xã hội. Những biến động về dân số, cư dân sinh sống, các đặc điểm của dân cư ảnh
hưởng lớn đến hoạt động kinh tế, xã hội, văn hóa, đất đai và đặc biệt quyết định
đến sự thay đổi hệ thống pháp luật, các quy định hiện hành của hệ thống pháp luật.
Chỉ số về tỉ suất sinh, tử, di dân, thành phần lao động, lứa tuổi có ảnh hưởng nhiều
đến nguồn lao động trong tương lai.
Cơ cấu xã hội – nhân khẩu giúp tìm hiểu quá trình tái sản xuất dân cư (sinh sản, tử
vong...), mật độ dân số và cơ cấu dân cư, sự biến động của dân cư (di dân), độ tuổi,
tỷ lệ giới tính và cấu trúc thế hệ...Thơng qua đó, dự báo được quy mơ biến đổi và
những đặc trưng xu hướng xã hội của dân số, sự tương tác của cơ cấu dân số đến
những vấn đề liên quan trực tiếp đến số lượng và chất lượng cuộc sống con người.
Chẳng hạn: Sự phân phối nguồn lao động cho nền kinh tế, kế hoạch xây dựng nhà
ở, các vấn đề về phát triển đô thị và nông thôn, bảo vệ phúc lợi xã hội... Sự vận
động của cơ cấu dân số phụ thuộc vào hoạt động sản xuất, tính chất của các quan
hệ xã hội, các chuẩn mực văn hoá, các định hướng giá trị tâm lý của con người...Sự
phát triển dân số không hợp lý sẽ dẫn đến việc hạ thấp năng suất lao động, làm cạn
kiệt các nguồn tài nguyên, dẫn tới đói nghèo...
Từ sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các đặc tính cơ cấu xã hội – nhân khẩu chúng ta có
thể thấy việc nghiên cứu xu hướng, đặc trưng phá triển của cơ cấu xã hội – nhân
khẩu góp phần tìm ra quy luật, sự phụ thuộc các yếu tố về nhân khẩu trong xã hội
để đưa ra những đánh giá kịp thời, chính xác nhất. Từ những đánh giá đó, các nhà
quản lý, nhà lãnh đạo đưa ra các chủ trương, chính sách, các quy định của pháp luật
1



một cách phù hợp, kịp thời, giải quyết những bài tốn phát sinh từ q trình phát
triển của xã hội.
2. Mối quan hệ giữa pháp luật với cơ cấu xã hội – nhân khẩu
2.1 Mối quan hệ giữa pháp luật với cơ cấu xã hội – nhân khẩu dựa trên cơ cấu
giới tính
Giới tính để chỉ các đặc điểm sinh học của nam, nữ theo Điều 5 Luật Bình đẳng
giới năm 2006. Theo các nhà khoa học giới tính được quy định bởi gen di truyền từ
cha mẹ sang con. Là đặc tính, sản phẩm của q trình tiến hóa sinh học ở trình độ
cao, biến đổi theo quy luật sinh học khơng phụ thuộc vào ý chí chủ quan của cá
nhân. Người ta phân biệt giới tính bởi sự khác nhau của cấu tạo thể chất, giải phẫu,
sinh lý, gen, cơ quan sinh dục, hooc môn…)
Giới là cách gọi để chỉ đặc điểm, vị trí, vai trị của nam, nữ trong các quan hệ xã
hội, các quan hệ pháp luật, đồng thời phản ánh sự khác biệt giữa nam và nữ về khía
cạnh xã hội. Sự khác biệt này xuất phát từ đặc điểm khác nhau tự nhiên giữa các
giới, từ yếu tố văn hóa, lịch sử, truyền thống, kinh tế chính trị… Tuy nhiên, phần
lớn các nhà khoa học xã hội lại cho rằng phần lớn dẫn đến sự khác biệt giữa nam và
nữ là do xã hội tạo ra.
Ví dụ ở miền bắc thì đàn ơng thường là người trụ cột gia đình bởi do đặc tính định
cư cuộc sống từ xa xưa, đồng bào miền bắc chủ yếu sống bằng săn bắn, họ thường
xuyên chịu cảnh chiến tranh xâm lược nên sức mạnh của người đàn ơng là vơ cùng
quan trọng, từ đó hình thành nên chế độ phụ hệ, người đàn ông là trụ cột của gia
đình. Tuy nhiên một số đồng bào ở vùng Tây Nguyên như Ê đê, Ba Na do cuộc
sống chủ yếu là hái lượn, nuôi tằm… để sinh tồn nên họ đòi hỏi sự khéo léo, tỉ mỉ
của người phụ nữ là chính. Vì vậy hình thành nên chế độ mẫu hệ.
Những khác biệt, quan niệm về vai trò của nam- nữ giới có sự khác nhau dẫn đến
bất bình đẳng giới diễn ra trong xã hội. Từ đó nhà nước phải áp dụng các quy định
pháp luật để điều chỉnh những quan niệm đó góp phần tạo sự cân bằng, ổn định
trong xã hội. Sự khác biệt giữa nam giới và nữ giới chỉ là tương đối, khơng có căn
cứ tự nhiên để chứng tỏ sự thống trị của đàn ơng, đàn bà. Vì thế bình đẳng được coi

2


như là yếu tố tự nhiên cần phải được duy trì. Tuy nhiên hầu hết mọi xã hội đều có
những quy định đặc thù cho nam và nữ. Quan niệm đó hình thành hàng vài nghìn
năm và đến nay vẫn còn tồn tại.
Việc khác nhau về vai trò của nam, nữ còn phụ thuộc rất lớn vào yếu tố chế độ
chính trị mỗi khu vực, mỗi quốc gia. Riêng ở Việt Nam ngay từ khi thành lập, các
văn bản pháp luật ln ln có các quy định về quyền bình đẳng giới giữa nam và
nữ. Điển hình như Điều 9 bản Hiến pháp 1946 đã quy định “ Đàn bà ngang quyền
với đàn ông về mọi phương diện”. Các bản hiến pháp từ Hiến pháp 1959, 1980,
1992 cũng đều quy định về quyền bình đẳng giới. Gần đây nhất là Hiến pháp 2013
với điều 26 khẳng định và nhấn mạnh hơn cả về quyền bình đẳng của nữ với nam
trong xã hội. Điều 26 quy định: “1. Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà
nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới. 2 Nhà nước, xã hội và
gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phá huy vai tỏ của mình trong
xã hội. 3.Nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới”.
Chưa dừng lại ở việc quy định một cách cơ bản về nguyên tắc bình đẳng giới, Nhà
nước Việt Nam cịn cụ thể hóa hơn nữa ngun tắc này ở trong Luật Bình đẳng giới
năm 2006. Cụ thể ở Điều 4 đã quy định “ Mục tiêu bình đẳng giới là xóa bỏ phân
biệt đối xử về giới, tạo cơ hội như nhau cho nam và nữ trong phát triển kinh tế-xã
hội và phát triển nguồn nhân lực, tiến tới bình đẳng giới thực chất giữa nam, nữ
trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình.” Ngồi ra chúng ta ln cố
gắng duy trì thực thi một cách nghiêm túc quy định về bình đẳng giới trong các lĩnh
vực: giáo dục, lao động, chính trị, văn hóa…
Dù đã có nhiều văn bản quy định về đối xử bình đẳng giới trong mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội tuy vậy quan niệm phân biệt giới tính vẫn còn tồn tại ở nước ta.
Bằng chứng là việc mất cân bằng về giới tính khi sinh giữa trẻ em nam và trẻ nữ
cho thấy một bộ phận không nhỏ người dân vẫn cịn trọng nam khinh nữ, thích sinh
con trai với quan niệm lối dõi tông đường. Hiện nay theo thống kê tỉ lệ chênh lệch

giới tính khi sinh là 115 trẻ em nam/100 trẻ nữ. Điều này vơ hình chung sẽ nảy sinh
rất nhiều hệ lụy cho sự phát triển của xã hội về sau.

3


Ngồi ra vấn nạn bạo lực gia đình vẫn tồn tại và có dấu hiệu gia tăng cũng là biểu
hiện của sự bất bình đẳng trong giới tính. Theo thống kê gần đây nhất, có tới 58%
phụ nữ từng chịu cảnh bạo lực thể xác, tinh thần, tình dục. Phụ nữ vẫn cịn được ít
tham gia vào lĩnh vực chính trị, thường chỉ tham gia ở các công việc giản đơn, bị
trả cơng ít hơn trong cùng một loại hình công việc.
Những năm gần đây, quan niệm về giới trong xã hội Việt Nam có những thay đổi
đáng kể. Ngày càng xuất hiện nhiều hơn những người giám đứng ra nhận mình
thuộc những nhóm đồng tính luyến ái nữ, đồng tính luyến ái nam, song tính luyến
ái, cộng đồng chuyển giới. Điều này tác động rất lớn tới hệ thống pháp luật về giới
địi hỏi phải có sự thay đổi để đảm bảo quyền lợi của những nhóm này trong xã hội.
-> Như vậy, cơ cấu xã hội - nhân khẩu được phân chia theo giới tác động mạnh mẽ
đến hệ thống pháp luật về giới, đòi hỏi những thay đổi, thích nghi của hệ thống
pháp luật nhằm phù hợp với mục tiêu chính trị và góp phần cân bằng, đảm bảo sự
tồn tại, phát triển của mỗi giới trong xã hội.
Ví dụ:
- Trước sự chênh lệch cơ cấu giới tính giữa nam và nữ có nguy cơ để lại hệ lụy cho
quá trình phát triển của xã hội về sau Nhà nước đã ban hành một loạt các văn bản
để hạn chế sự mất cân bằng này. Pháp lệnh dân số năm 2003 đã nghiêm cấm việc
lựa chọn giới tính cho thai nhi. Nghị định số 176/2013/NĐ-CP quy định rất cụ thể
các chế tài xử phạt với hành vi vi phạm hành chính về dân số và trẻ em. Để cụ thể
hóa những giải pháp nhằm ngăn chặn tình trạng này, ngày 23/3/2016 Thủ tướng đã
ban hành Quyết định số 468/QĐ-Ttg nhằm kiểm sốt mất cân bằng giới tính giai
đoạn 2016-2025.
- Trong những năm gần đây, Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng với các nước

trên thế giới, trào lưu thừa nhận giới tính thật của mình ở những người thuộc cộng
đồng đồng tính nam, đồng tính nữ ngày càng phổ biến. Trước sự thay đổi đó, chúng
ra tuy chưa thừa nhận những người thuộc nhóm này trong các văn bản pháp lý
nhưng đã có sự điều chỉnh để các văn bản mềm mại hơn, phù hợp với xu thế chung
trên thế giới về tư cách của những người này. Điển hình là sự thay đổi ở Luật Hơn
nhân và gia đình năm 2014. Tại khoản 2 điều 8 Luật Hơn nhân và gia đình năm
4


2014 chỉ quy định: “2. Nhà nước không thừa nhận hơn nhân giữa những người
cùng giới tính.”
Đây là một bước thay đổi lớn trong tư duy của những người làm cơng tác lập
pháp về người đồng tính. Qua quy định này cho thấy pháp luật đã thay đổi cách
nhìn với hôn nhân đồng giới. Pháp luật không nghiêm cấm một cách cứng nhắc như
trước đây mà chỉ không thừa nhận hơn nhân giữa những người đồng giới. Do đó,
các cặp đơi đồng tính vẫn có thể tổ chức đám cưới trên thực tế, vẫn được chung
sống với nhau nếu có nhu cầu nhưng về mặt pháp lý thì sẽ khơng được pháp luật
thừa nhận là vợ chồng. Cùng với đó, Nghị định 110/2013/NĐ-CP cũng không quy
định về việc xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi kết hơn giữa những người
đồng tính. Hiện nay, nhu cầu cơng nhận hôn nhân đồng giới ở Việt Nam là rất lớn.
Các cặp đơi đồng tính tại nước ta đều kỳ vọng rằng pháp luật Việt Nam cho phép
kết hôn đồng giới như 26 quốc gia khác trên thế giới. Những người trong cộng
đồng LGBT đều khao khát được kết hôn với những người có cùng giới tính để
đồng cảm, chia sẻ, quan tâm và chăm sóc lẫn nhau, cùng xây dựng hạnh phúc gia
đình. Tuy nhiên để Việt Nam chấp nhận hơn nhân đồng giới thì cần rất nhiều thời
gian. Bản thân nước ta là nước có nền văn hóa Á Đơng, nếu thừa nhận có thể sẽ gây
ra những hệ lụy tiêu cực với xã hội, không phù hợp với thuần phong mỹ tục, truyền
thống gia đình Việt Nam, khơng phù hợp quy luật sinh học và không bảo đảm chức
năng duy trì nịi giống của gia đình. Hiện tại, mọi người tuy đã có cái nhìn cởi mở,
tích cực hơn về cộng đồng LGBT nhưng để hợp pháp hóa hơn nhân đồng giới thì

lại là một vấn đề cần cân nhắc kĩ lưỡng. Dưới góc độ pháp lý, nếu thừa nhận hơn
nhân đồng giới thì sẽ phải sửa đổi, bổ sung tất cả các quy định liên quan trong hệ
thống pháp luật, như xác định quan hệ vợ chồng, quan hệ tài sản, xác định cha, mẹ
con. Cùng với đó là các vấn đề sửa đổi hộ tịch sẽ phát sinh, gây ra việc khó khăn
trong việc thực thi, quản lý.
2.2 Mối quan hệ giữa pháp luật với cơ cấu xã hội – nhân khẩu dựa trên cơ cấu
lứa tuổi
Cơ cấu lứa tuổi là sự phân chia cơ cấu xã hội theo nhóm tuổi trên cơ sở đặc điểm
tâm, sinh lý lứa tuổi hoặc theo khả năng lao động của từng nhóm tuổi khác nhau.
5


Có nhiều cách phân chia cơ cấu lứa tuổi để chia thành các nhóm nhân khẩu khác
nhau nhưng thơng thường người ta dựa vào 2 đặc điểm đó là dựa vào đặc điểm tâm
sinh lý và dựa vào đặc điểm khả năng lao động.
2.2.1 Căn cứ vào đặc điểm tâm, sinh lý lứa tuổi
Dựa vào yếu tố này chúng ta chia cơ cấu lứa tuổi thành các nhóm: trẻ em, thanh
niên, trung niên, người cao tuổi.
Trẻ em theo quy định của Luật Trẻ em 2016 là người dưới 16 tuổi. Trẻ em theo
quan niệm phải được đi học để rèn luyện các quy tắc ứng xử, học tập những thái độ
tình cảm tốt đẹp thơng qua q trình xã hội hóa. Q trình này bắt nguồn từ mơi
trường gia đình, được thực hiện một cách khơng chính thức, là sản phẩm của quá
trình tương tác và học tập xã hội. Cách giáo dục, hướng dẫn cho trẻ em của mỗi gia
đình là khác nhau mang tính đặc thù. Những quy tắc ứng xử, kinh nghiệm đầu tiên
của trẻ cũng xuất phát từ chính các thành viên trong gia đình, từ đó tạo nên những
đứa trẻ với tính cách riêng biệt đặc thù. Ngồi ra đình trẻ em cịn được học tập bơi
những nhân tố ngoài xã hội khi chúng tiếp xúc và giao lưu. Ví dụ nhóm bạn bè,
thầy cơ, môi trường sống xung quanh của đứa trẻ. Chẳng hạn một đứa trẻ sẽ trở nên
ngoan ngoãn, hiền lành nếu sống trong môi trường với những người tử tế, cư xử
chuẩn mực, biết yêu thương giúp đỡ nhau. Trái lại đứa trẻ đó sẽ hư hỏng, bướng

bỉnh nếu ở trong mơi trường nhiều bạo lực, có những vi phạm chuẩn mực đạo đức
xã hội.
Những hành vi xử sự của cha mẹ, các thành viên trong xã hội tiếp xúc với trẻ em sẽ
tác động trực tiếp đến trẻ em. Một chương tình giáo dục phù hợp sẽ giúp định hình
thói quen xử sự theo đúng quy định của pháp luật của trẻ. Do đặc thù về thể chất và
trí lực nên bản thân trẻ em có nhận thức chưa đầy đủ và tồn diện về mọi mặt. Vì
vậy quyền của trẻ em đôi khi phải được thực hiện thông qua cha mẹ, người giám
hộ, người nuôi dưỡng, nhà trường… Tùy từng lĩnh vực pháp lý mà độ tuổi của trẻ
em cũng có sự thanh đổi khác nhau sao. Chẳng hạn trong lĩnh vực hình sự thì độ
tuổi chịu trách nhiệm của trẻ em là 14 tuổi trở lên về một số loại tội phạm. Trong hệ
thống pháp luật nước ta, trẻ em luôn luôn được quan tâm và được bảo vệ ở mọi thời
điểm trước các nguy cơ xâm hại đến sự an toàn về sức khỏe, thể chất, tinh thần của
6


trẻ. Từ Hiến pháp là văn bản pháp lý cao nhất cho đến luật chuyên ngành về trẻ em,
các công ước quốc tế về quyền trẻ em luôn được nhà nước quan tâm và đảm bảo
thực hiện một cách nghiêm túc. Hiếp pháp 2013 đã quy định: “ Trẻ em được Nhà
nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc, giáo dục, được tham gia vào các vấn đề
về trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức
lao động và những hành vi vi phạm quyền trẻ em”. Để cụ thể hóa hơn tinh thần này
trong Hiến pháp, Luật Trẻ em 2016 đã quy định cụ thể quyền, nghĩa vụ của trẻ em,
của mọi thành viên có trách nhiệm ni dưỡng, bảo vệ giáo dục trẻ em. Trên
phương diện quốc tế Việt Nam đã phê chuẩn Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ
em năm 1990
Tất cả các lĩnh vực khác từ hình sự, dân sự, lao động, hơn nhân gia đình đều hướng
tới bảo vệ và đảm bảo tốt nhất cho quyền trẻ em được thực hiện đầy đủ.
Thanh niên theo quy định là những người từ đủ mười sáu tuổi đến ba mươi tuổi.
Trong suốt tiến trình thành lập và phát triển của đất nước vai trò của thanh niên
luôn được Đảng và nhà nước chú trọng trong công cuộc xây dựng, bảo vệ tổ quốc.

Các chính sách của nhà nước luôn tạo điều kiện để thanh niên học tập, tham gia vào
các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Với đặc trưng của thanh niên là
những người có trình độ, nhiều mơ ước cống hiến nhưng lại chưa đủ kinh nghiệm
lý trí để vượt qua mọi rào cản khó khăn trong cuộc sống hiện tại đầy cám dỗ. Vì
vậy việc tính đến khả năng và điều chỉnh các văn bản pháp luật về vai trò, định
hướng cho thế hệ thanh niên luôn cần phải được quan tâm, thay đổi kịp thời góp
phần đưa nhóm người này thực sự trở thành chỗ dựa cho đất nước.
Người cao tuổi theo định nghĩa của Luật Người cao tuổi năm 2009 là công dân
Việt Nam từ đủ 60 tuổi trở lên. Nhưng những quy định của Luật có thể sẽ phải cân
nhắc tính theo hướng điều chỉnh theo sự điều chỉnh của độ tuổi lao động, tuổi nghỉ
hưu. Bởi lẽ theo kết quả điều tra năm 2018, tuổi thọ trung bình của nam giới hiện
nay là 70,6, của nữ giới là 76. Tỉ lệ dân số từ 60 tuổi trở lên ở nước ta giờ đây đã
trên 10% dân số. Như vậy với thống kê này chúng ta đã chính thức bước sang giai
đoạn dân số “già”. Nếu khơng có sự điều chỉnh nhanh chóng trong chính sách dân
số thì nguồn lực cho sự phát triển đất nước sẽ bị ảnh hưởng rất nhiều. Việc trẻ hóa
7


dân số là giải pháp để cải thiện tình trạng trên. Việc quan tâm chăm sóc sức khỏe và
đời sống của người cao tuổi luôn được chúng ta chú trọng. Luật Người cao tuổi
năm 2009 đã quy định rất rõ quyền lợi, trách nhiệm của các nhân tổ chức trong việc
chăm sóc, phụng dưỡng người cao tuổi. Một loạt các chính sách hỗ trợ động viên
người cao tuổi được quan tâm. Ví dụ như là người cao tuổi trên 80 khơng có lương
hưu sẽ được hưởng trợ cấp hàng tháng. Các địa phương Hội Người cao tuổi phát
triển và trở thành tổ chức sinh hoạt cộng đồng của người cao tuổi. Trách nhiệm
chăm sóc phụng dưỡng ơng bà nói riêng đồng thời cũng là trách nhiệm của giới trẻ
với người cao tuổi được Luật Hơn nhân gia đình quy định cụ thể. Những hành vi vi
đi ngược lại với truyền thống đạo lý kính trọng, biết ơn với người cao tuổi cũng bị
coi là hành vi phạm tội. Bộ luật Hình sự 2015 có quy định tội ngược đãi , hành hạ
ông bà cha mẹ, vợ chồng, con cháu hoặc người có cơng ni dưỡng mình và có các

quy định giảm nhẹ trách nhiệm cho người cao tuổi khi họ phạm tội, đồng thời tăng
nặng hình phạt cho người nào phạm tội có nạn nhân là người cao tuổi.
Ví dụ:
Trước khi xây dựng Bộ luật hình sự năm 2015, theo thống kê của Bộ Công an tỉ lệ
tội phạm ở trẻ em ngày càng trẻ hóa về độ tuổi và với mức độ nghiêm trọng nguy
hiểm hơn trước. Vì vậy, khi xây dựng về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự của trẻ
em trong Bộ luật hình sự đã diễn ra rất nhiều tranh luận trái chiều để phù hợp với
tình hình thực tế của xã hội.
Có nhiều quan điểm khác nhau khi đề cập đến độ tuổi chịu TNHS. Nhóm quan
điểm thứ nhất cho rằng, cần quy định độ tuổi chịu TNHS sớm hơn 14. Quan điểm
này cho rằng, việc quy định tuổi chịu TNHS sớm hơn không vi phạm pháp luật
quốc tế cũng như không làm giảm đi tính chất nhân đạo của pháp luật hình sự Việt
Nam. Do điều kiện sống của trẻ em ngày càng tốt hơn, sự phát triển về thể chất,
năng lực nhận thức, năng lực hành vi của trẻ em vượt bậc hơn so với các thế hệ
trước đây. Trẻ em được tham gia các quan hệ xã hội từ rất sớm, có cơ hội tiếp cận
các dịch vụ công nghệ nên ngày càng có kinh nghiệm sống, phán xét, xử lý tình
huống nhanh nhạy hơn. Cũng chính vì vậy các hành vi phạm tội do trẻ em gây ra
ngày càng nghiêm trọng hơn. Đặc biệt là sự trẻ hóa về độ tuổi phạm tội của trẻ em
8


trong thời gian qua đã gióng lên hồi chng báo động, cảnh báo tình trạng trẻ vị
thành niên phạm tội ở nước ta. Do đó, cần quy định độ tuổi chịu TNHS là từ đủ 12
tuổi.
Quan điểm khác cho rằng, vẫn giữ nguyên độ tuổi chịu THNS của trẻ em như quy
định hiện nay 14. Quy định về độ tuổi chịu TNHS tại nước ta đã hợp lý và không
nên giảm độ tuổi chịu TNHS. Trẻ em phạm tội thường là những người có hồn
cảnh khó khăn, có tuổi thơ phức tạp, giáo dục không đầy đủ dẫn đến nhận thức lệch
lạc. Vì vậy, thay vì dán nhãn tội phạm cho những đứa trẻ, gia đình và xã hội trước
hết cần phải giải quyết từ “cái gốc”, tức là từ những nguyên nhân gây nên những

hành vi phạm tội ở người vị thành niên, để từ đó cơng tác phịng chống tội phạm
được hiệu quả, đồng thời góp phần ngăn chặn tình trạng tái phạm của người phạm
tội vị thành niên.
Đồng nhất với quan điểm trên, khi bàn về tuổi tối thiểu chịu TNHS có quan điểm
đã cho rằng quy định tuổi chịu TNHS không chỉ đơn thuần căn cứ vào năng lực
nhận thức của con người mà còn phải căn cứ vào chính sách của Nhà nước trong
việc bảo vệ và giáo dục trẻ em, chính sách hình sự của Nhà nước. Quy định độ tuổi
chịu TNHS không nên chỉ nhấn mạnh yêu cầu là điều kiện để chủ thể có năng lực
TNHS hay là biểu hiện của chính sách hình sự mà phải kết hợp cả hai. Do đó, để
đảm bảo tính ổn định tương đối của luật hình sự, trong điều kiện các phương tiện
đấu tranh phịng chống người chưa thành niên vi phạm và phạm tội ngày càng đa
dạng chứ không nhất thiết chỉ bằng phương tiện duy nhất là pháp luật hình sự, nên
giữ nguyên tuổi tối thiểu phải chịu TNHS là 14 tuổi như quy định của luật hình sự
hiện nay.
Khác với các quan điểm trên, quan điểm này cho rằng dù không phải chịu TNHS,
nhưng trẻ em từ đủ 12 tuổi đến dưới 14 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng thì có thể bị đưa vào trường giáo dưỡng. Biện pháp
này mặc dù là biện pháp xử lý vi phạm hành chính, nhưng có nội dung là loại biện
pháp cưỡng chế và có tính chất hạn chế tự do do vi phạm hình sự. Do đó, nếu mở
rộng phạm vi nghiên cứu thì có thể nói rằng, độ tuổi thấp nhất mà một người có thể

9


phải chịu trách nhiệm trước pháp luật khi họ vi phạm pháp luật hình sự ở Việt Nam
là 12 tuổi.
Tuổi chịu TNHS là một vấn đề không thể thiếu trong pháp luật hình sự của mỗi
quốc gia, thể hiện quan điểm của Nhà nước về cách thức xử lý người phạm tội, vừa
đảm bảo trật tự an toàn cho xã hội nhưng phải vừa đạt được mục đích bảo vệ quyền
con người, đặc biệt là quyền của người chưa thành niên, quyền của trẻ em kể cả khi

họ thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Từ quy định về độ tuổi của trẻ em theo
Luật Trẻ em, Điều 12 BLHS năm 2015 đã quy định về tuổi chịu TNHS của trẻ em
như sau:
“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm, trừ những tội
phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu TNHS về tội
giết người, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác,
tội hiếp dâm, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi
đến dưới 16 tuổi, tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản; về tội phạm
rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều
sau đây: …”
Khoản 2 Điều 12 đã liệt kê cụ thể những tội danh mà người từ đủ 14 tuổi đến dưới
16 phải chịu TNHS nhằm đảm bảo tính minh bạch, nhân đạo trong xử lý đối với
đối tượng này theo tinh thần của Hiếp pháp năm 2013 và Công ước của LHQ về
Quyền trẻ em. Theo đó, người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải
chịu TNHS về tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng về 28 tội danh
quy định tại khoản 2 Điều 12. Sửa đổi này phù hợp với quan điểm nhất quán của
Nhà nước ta được thể hiện trong BLHS năm 1985 và năm 1999 là chỉ xem xét
TNHS đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do
cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; đồng thời cũng phù hợp với Công ước
của LHQ về Quyền trẻ em mà Việt Nam là thành viên.
Như vậy, có thể nhận thấy rằng, so với BLHS năm 1999, độ tuổi chịu TNHS của
trẻ em trong BLHS năm 2015 không nhiều thay đổi. Tuy nhiên, BLHS năm 2015
đã điều chỉnh phạm vi chịu TNHS của trẻ em cho phù hợp với pháp luật quốc tế.
10


Vấn đề tuổi chịu TNHS của trẻ em nói riêng và người chưa thành niên nói chung
hiện ln ln là vấn đề tranh luận rộng rãi trên thế giới. Giới hạn tối thiểu về độ
tuổi chịu TNHS của trẻ em là một điều cần thiết trong một phần công lý của sự

trừng phạt. Vì trẻ em khơng phải là “người lớn thu nhỏ”, nên trẻ em không thể chịu
TNHS về những gì họ đã gây ra như đối với người thành niên hay thậm chí là chịu
TNHS giảm nhẹ. Quy định về các biện pháp chịu TNHS đối với trẻ em phải hướng
tới mục đích giáo dục là chủ yếu và trong một chừng mực nhất định phải luôn đảm
bảo lợi ích tốt nhất của trẻ em.
2.2.2 Căn cứ vào khả năng lao động, cơ cấu lứa tuổi
Dựa vào khả năng lao động, cơ cấu lứa tuổi người ta chia thành các nhóm: chưa
đến tuổi lao động; trong độ tuổi lao động, nghỉ hưu.
Như chúng ta đã biết cơ cấu lứa tuổi theo khả năng lao động có ảnh hưởng lớn đến
q trình bố trí, phân cơng lao động trong xã hội. Việc một xã hội có nhiều người
trong độ tuổi lao động là tiền đề để phát triển sản xuất, nâng cao GDP cho nền kinh
tế, phát triển đất nước. Tuy nhiên, quốc gia nào cũng vậy khi trải qua giai đoạn này
thì thường đối mặt với giai đoạn già hóa dân số vì vậy cần phải cân nhắc đến các
yếu tố để điều chỉnh cơ cấu và độ tuổi lao động. Sự thay đổi số lượng các nhóm
tuổi chưa đến tuổi lao động, đến tuổi lao động, nghỉ hưu có ảnh hưởng đến cường
độ và tính chất của sự di động xã hội, tính tích cực của xã hội, năng suất lao động.
Việc chú trọng tìm ra quy luật cơ cấu xã hội – nhân khẩu góp phần củng cố những
luận cứ thay đổi nhằm xác định con đường phát triển kinh tế đất nước trong những
giai đoạn tiếp theo.
Ví dụ:
Để có biện pháp thích ứng với q trình già hóa dân số đang diễn ra nhanh ở nước
ta trong thời gian gần đây, đồng thời đảm bảo sự phù hợp với quy mô, cơ cấu, chất
lượng, thể trạng sức khỏe và tuổi thọ của người lao động Việt Nam thì mới đây một
trong những quy định trong Bộ luật Lao động sửa đổi năm 2019 vừa được Quốc hội
khóa XIV thơng qua tại Kỳ họp thứ VIII, được dư luận hết sức quan tâm là việc
điều chỉnh tăng tuổi nghỉ hưu. Lý do tăng được các nhà quản lý dự trên điều kiện
thực tế của đất nước khi bắt đầu bước vào thời kỳ “dân số vàng”. Đặc biệt, tuổi thọ
11



của người Việt Nam đã được cải thiện tốt hơn, khi tuổi thọ bình quân đạt trên mức
trung bình của thế giới. Hơn nữa, điều kiện lao động đã được cải thiện đáng kể, nên
người lao động cũng có xu hướng muốn kéo dài thời gian làm việc để tăng thu nhập
và cải thiện lương hưu khi về già. Việc đề xuất mốc điều chỉnh tuổi nghỉ hưu của
nam lên 62, nữ lên 60 (từ 60 với nam và 55 với nữ theo Bộ luật Lao động hiện
hành) là rất cần thiết và phù hợp với các quy định của tổ chức ILO mà chúng ta là
một trong những thành viên tham gia.
2.2.3 Căn cứ vào tình trạng hơn nhân
Dựa vào tình trạng hơn nhân người ta chia cơ cấu dân số thành các nhóm bao
gồm: chưa bao giờ kết hơn, đang trong hơn nhân, li thân, li hơn, góa và liên minh tự
do.
Việc biến động tăng, giảm dân số tỉ lệ thuận, nghịch với cơ cấu nhân khẩu có
nhiều người đang trong hôn nhân, tác động trực tiếp đến sức khỏe, mức sinh, tỉ lệ
tử vong của các nhóm.
Việc phát triển kinh tế kéo theo xu hướng kế hôn cũng thay đổi tương đối rõ ràng.
Theo một khảo sát gần đây, ở những quốc gia phát triển kinh tế thì xu hướng kết
hơn muộn là xu hướng chủ đạo. Cịn ở các quốc gia nghèo, đang phát triển thì việc
kết hôn trở lên dễ dàng và ở độ tuổi khá thấp. Ở Việt Nam chúng ta, theo Tổng điều
tra dân số và nhà ở 2019, tuổi kết hôn trung bình của nam giới là 26,8 và nữ giới là
22,9. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng nữ giới thường bước vào hôn nhân sớm hơn nam
giới. Dân số ở độ tuổi từ 15 trở lên có 1,3% số nam trong tình trạng li thân và li
hơn, tỉ lệ ở nữ là 2,5%. Điều đó chỉ ra tỉ lệ li hơn và li thân ở nữ cao hơn khá nhiều
với nam.
Ngoài những nhóm trên một nhóm khác cũng có ảnh hưởng đến quá trình phát
triển dân số tuy nhiên lại gây khó khăn cho các cơ quan quản lý trong việc thống kê
đó là liên minh tự do. Liên minh tự do là tình trạng các cặp đơi chung sống như vợ
chồng nhưng khơng đăng kí kết hơn, hiện tượng này gần đây lại càng phát triển
mạnh bởi ảnh hưởng trong q trình du nhập văn hóa, lối sống từ bên ngoài. Địa
bàn lý tưởng xuất hiện lối sống này là ở các đô thị nơi mà không bị ràng buộc bởi
bất cứ giá trị truyền thống nào. Nguyên nhân có thể là do họ khơng thích sự ràng

12


buộc bởi yếu tố hôn nhân với nhiều trách nhiệm xung quanh gia đình. Họ muốn
một cuộc sống tự do, ưu chuộng và tôn sùng chủ nghĩa cá nhân. Số khác thì lựa
chọn sống thử rồi tiến tới hơn nhân sau khi cảm thấy chắc chắn. Hiện tượng này
cũng đòi hỏi nhà nước phải có sự nắm bắt tình hình, thu thập thơng tin và dự báo
những yếu tố có thể xảy ra để đưa ra những điều chỉnh thích hợp.
Ví dụ:
Sau q trình thống kê, thu thập thơng tin các cơ quan nhà nước nhận thấy xu
hương kết hôn, sinh con muộn đang diễn ra ngày càng phổ biến ở nam nữ. Đây là
vấn đề có thể ảnh hưởng khơng tốt đến cơ cấu dân số và q trình phát triển của đất
nước. Vì vậy, mới đây Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã ký Quyết định
số 588/QĐ-TTg Phê duyệt "Chương trình điều chỉnh mức sinh phù hợp các vùng,
đối tượng đến năm 2030”. Tại Quyết định này, Thủ tướng yêu cầu chính quyền địa
phương đã đạt mức sinh thay thế và có mức sinh thấp: nghiên cứu, ban hành các
biện pháp hỗ trợ các cặp vợ chồng sinh đủ hai con. Một số nội dung hỗ trợ, khuyến
khích cần thí điểm như sau:
+ Hỗ trợ tư vấn, cung cấp dịch vụ hơn nhân và gia đình: Phát triển các câu lạc bộ
kết bạn trăm năm, hỗ trợ nam, nữ thanh niên kết bạn; tư vấn sức khỏe trước khi kết
hơn; khuyến khích nam, nữ kết hơn trước 30 tuổi, không kết hôn muộn và sớm sinh
con, phụ nữ sinh con thứ hai trước 35 tuổi...
+ Thí điểm, nhân rộng các dịch vụ thân thiện với người lao động như đưa, đón trẻ,
trơng trẻ, ngân hàng sữa mẹ, bác sỹ gia đình...
+ Hỗ trợ phụ nữ khi mang thai, sinh con và sinh đủ hai con: Tư vấn, chăm sóc sức
khỏe bà mẹ và trẻ em bao gồm sàng lọc vô sinh, sàng lọc trước sinh và sau sinh,
phòng chống suy dinh dưỡng; tạo điều kiện trở lại nơi làm việc cho phụ nữ sau khi
sinh con; giảm thuế thu nhập cá nhân; miễn giảm các khoản đóng góp cơng ích
theo hộ gia đình...
+ Từng bước thí điểm các biện pháp tăng trách nhiệm đóng góp xã hội, cộng đồng

đối với những trường hợp cá nhân không muốn kết hôn hoặc kết hôn quá muộn.
13


Tất cả những điều này mục đích nhằm khuyến khích nam nữ kết hôn sớm trước
tuổi 30 và sinh đủ 2 con trong điều kiện dân số nước ta đang tiến tới độ già hóa.
Hết!

Danh mục tài liệu tham khảo:
Bài đăng của Ths NGUYỄN THỊ LAN ANH và Ths. HÀ LỆ THỦY - Khoa Luật
hình sự, Trường Đại học Luật Huế trên Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp của Viện
Nghiên cứu Lập pháp
/>Giáo trình Xã hội học pháp luật /Trường Đại học Luật Hà Nội ; TS.Ngọ Văn
Nhân chủ biên ; TS. Phan Thị Luyện

Mục lục:

14



×