Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Vì sao nói con đường cứu nước do Nguyễn Ái Quốc lựa chọn cho dân tộc VN đầu thế kỷ 20 là hoàn toàn phù hợp với nhu cầu lịch sử của xã hội?

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (79.31 KB, 12 trang )

MỤC LỤC
1, Vì sao nói con đường cứu nước do Nguyễn Ái Quốc lựa chọn cho dân tộc VN
đầu thế kỷ 20 là hoàn toàn phù hợp với nhu cầu lịch sử của xã hội đầu thế
kỷ?....................................................................................................................trang 2
1.1. Nội dung của con đường cách mạng vô
sản.....................................................................................................................trang
2
1.2. Sự phù hợp của con đường Cách mạng vơ sản với hồn cảnh xã hội lịch sử
Việt Nam lúc bấy
giờ.....................................................................................................................trang
6
1.2.1. Con đường phù hợp trong thời kì Việt Nam khủng hoảng đường lối cứu
nước, sau sự thất bại của các phong trào yêu nước theo các đường lối
khác..................................................................................................................trang 6
1.2.2. Giai cấp công nhân là giai cấp duy nhất có khả năng lãnh đạo Cách mạng
Việt Nam đầu thế kỷ
XX....................................................................................................................trang 7
1.2.3. Con đường này hướng tới xã hội tương lai là XHCN và cộng sản chủ nghĩa,
là các chế độ xã hội đem đến hạnh phúc cho đơng đảo nhân dân lao
động..................................................................................................................trang 9
1.2.4. Có thể học tập kinh nghiệm trong quá trình thực hiện Cách mạng vơ sản đi
lên CNXH đã có tiền lệ ở Liên
Xô...................................................................................................................trang 10
2. Ý nghĩa của việc nghiên
cứu..................................................................................................................trang 11
TÀI LIỆU THAM
KHẢO............................................................................................................trang 13


Bài làm
1, Vì sao nói con đường cứu nước do Nguyễn Ái Quốc lựa chọn cho dân tộc


VN đầu thế kỷ 20 là hoàn toàn phù hợp với nhu cầu lịch sử của xã hội đầu thế
kỷ?
Ngày 1-9-1858, Thực dân Pháp bắt đầu nổ phát súng đầu tiên xâm lược nước ta, tại
bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng), đánh dấu thời kì gần một trăm năm nước ta bị đơ hộ,
nhân dân lâm vào cảnh lầm than. Trong thế sự đó, lẽ ngẫu nhiên sẽ có nhiều nhà
yêu nước đứng lên đi tìm con đường giải phóng cho Tổ quốc. Những năm cuối thế
kỉ XIX - đầu thế kỷ XX, lịch sử Việt Nam đứng trước khơng ít các con đường lựa
chọn. Có người đã tìm đến con đường phong kiến, người lại tìm đến con đường tư
sản, con đường tiểu tư sản,… Nhưng tất cả đều thất bại do khơng đáp ứng được
nhu cầu địi hỏi của lịch sử Cách mạng Việt Nam: đồng thời vừa phải đánh đổ chế
độ phong kiến, vừa phải đánh đổ chế độ thực dân. Cuối cùng chỉ có chủ tịch Hồ
Chí Minh, sau hơn bao năm bôn ba khắp năm châu, Bác đã tìm thấy chân lý cứu
nước đúng đắn “muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có con đường nào
khác ngồi con đường cách mạng vơ sản”. Con đường hồn toàn đúng đắn của
Người đã được lịch sử chứng minh: qua chiến thắng vang dội của Cách mạng
tháng Tám, sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa vào ngày 2/9/1945 và
đến đại thắng mùa xuân 1975 - một kỷ nguyên lịch sử mới của dân tộc đã được mở
ra, kỷ nguyên đất nước độc lập thống nhất và tiến lên chủ nghĩa xã hội.
1.1. Nội dung của con đường cách mạng vô sản
Trong khoảng 10 năm vượt qua các đại dương, đến với nhân loại cần lao đang đấu
tranh ở nhiều châu lục và quốc gia trên thế giới, Nguyễn Ái Quốc đã kết hợp tìm
hiểu lý luận và khảo sát thực tiễn, nhất là ở ba nước tư bản phát triển: Anh, Pháp,
Mỹ - xứ sở người ta gọi là văn minh, khai sáng. Tại đây, Người đã nhận ra rằng: ở
đâu đâu trên thế giới cũng có người bị áp bức; ở đâu cũng có tầng lớp bóc lột và bị
bóc lột. Người đọc Tuyên ngơn độc lập của nước Mỹ, tìm hiểu thực tiễn cuộc cách
mạng tư sản Mỹ, đọc Tuyên ngôn dân quyền và nhân quyền của cách mạng Pháp,
tìm hiểu cách mạng tư sản Pháp. Người nhận thấy: “cách mệnh Pháp cũng như
cách Mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư sản, cách mệnh khơng đến nơi, tiếng là cộng
hịa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục cơng nơng, ngồi thì nó áp bức thuộc
địa”. Bởi lẽ đó, Người khơng đi theo con đường cách mạng tư sản. Hồ Chí Minh

thấy được Cách mạng Tháng Mười Nga không chỉ là một cuộc cách mạng vơ sản,
mà cịn là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Nó nêu tấm gương sáng về sự
nghiệp giải phóng các dân tộc thuộc địa và “mở ra trước mắt họ thời đại cách mạng
chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”. Người “hồn toàn tin theo Lênin và


quốc tế thứ ba” bởi vì Lênin và quốc tế thứ ba đã “bênh vực cho các dân tộc bị áp
bức”. Người thấy trong lý luận của Lênin một phương hướng mới để giải phóng
dân tộc: Con đường cách mạng vô sản.
Những nội dung cơ bản nhất của con đường Cách mạng Vô sản tại Việt Nam đã
được xác định rõ trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam
(bao gồm Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt) do
Nguyễn Quốc soạn thảo, đã được thông qua tại hội nghị thành lập Đảng Cộng
sản Việt Nam vào ngày 3, tháng 2, năm 1930.
Một là, Cương lĩnh xác định rõ phương hướng chiến lược chính là cách mạng tư
sản dân quyền (sau này gọi là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân) là chống đế
quốc, chống phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng. Xuất
phát từ chế độ thuộc địa nửa phong kiến, Cương lĩnh đã phân tích mối quan hệ gắn
bó giữa hai nhiệm vụ cơ bản là chống đế quốc và chống phong kiến gắn bó chặt
chẽ với nhau nhưng trước hết phải đánh đổ đế quốc, “làm cho nước Việt Nam hoàn
toàn độc lập”. Đây là cơ sở để giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng
con người. Chỉ có độc lập tự do của đất nước mới đủ điều kiện để thực hiện quyền
con người, quyền công dân.
Tiếp theo, xác định nhiệm vụ chủ yếu của cách mạng trong cách mạng tư sản dân
quyền và thổ địa cách mạng:
Về chính trị: đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến; làm cho nước
Việt Nam được hoàn toàn độc lập; lập chính phủ cơng nơng binh và tổ chức qn
đội cơng nơng.
Về kinh tế: tịch thu tồn bộ các sản nghiệp lớn của bọn đế quốc giao cho Chính phủ
cơng nơng binh; tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc làm của công và chia cho dân

nghèo, mở mang công nghiệp và nông nghiệp, miễn thuế cho dân cày nghèo, thi
hành luật ngày làm 8h.
Về văn hóa – xã hội: dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền; phổ thơng
giáo dục theo cơng nơng hóa.
Thứ ba, Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc phải bao gồm toàn dân tộc.
Trong cách mạng Tháng Tám 1945 cũng như hai cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ, Hồ Chí Minh lấy nhân dân làm nguồn sức mạnh. Quan điểm
“lấy dân làm gốc” xuyên suốt q trình chỉ đạo chiến tranh của Người. “Có dân là
có tất cả”, “dễ trăm lần khơng dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Khi
cịn hoạt động ở nước ngồi, Hồ Chí Minh nói: “Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng:
trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, huấn luyện họ, đưa họ ra


đấu tranh giành tự do độc lập”. Hồ Chí Minh đánh gia rất cao vai trò của quần
chúng nhân dân trong khởi nghĩa vũ trang. Người coi sức mạnh vĩ đại và năng lực
sáng tạo vô tận của quần chúng là nhân tố then chốt bảo đảm thắng lợi. Người
khẳng định: “dân khí mạnh thì qn lính nào, súng ống nào cũng không chống lại
nổi”, “phải dựa vào dân, dựa chắc vào dân thì kẻ địch khơng thể nào tiêu diệt
được”, “chúng ta tin chắc vào tinh thần và lực lượng của quần chúng, của dân tộc”.
Người xác định lực lượng cách mạng bao gồm cả dân tộc: Đảng phải tập hợp đại
bộ phận giai cấp công nhân, tập hợp đại bộ phận nông dân và phải dựa vào hạng
dân cày nghèo, lãnh đạo nông dân làm cách mạng ruộng đất; lơi kéo tiểu tư sản, trí
thức, trung nơng... đi vào phe vô sản giai cấp; đối với phú nông, trung, tiểu địa chủ
và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới
làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng (như Đảng Lập
hiến) thì phải đánh đổ. Trong lực lượng toàn dân tộc, Hồ Chí Minh hết sức nhấn
mạnh vai trị động lực cách mạng của cơng nhân và nơng dân. Người phân tích:
Các giai cấp cơng nhân và nơng dân có số lượng đơng nhất, nên có sức mạnh lớn
nhất. Họ lại bị áp bức, bóc lột nặng nề nhất, nên “lịng cách mệnh càng bền, chí
cách mệnh càng quyết... cơng nơng là tay khơng chân rồi, nếu thua thì chỉ mất một

cái kiếp khổ, nếu được thì được cả thế giới, cho nên họ gan góc”. Từ đó, Người
khẳng định: cơng, nơng là “gốc cách mệnh”. Khẳng định vai trò động lực cách
mạng của công nhân và nông dân là một vấn đề hết sức mới mẻ so với nhận thức
của những nhà yêu nước trước đó. Trong khi hết sức nhấn mạnh vai trị của cơng
nhân và nơng dân, Hồ Chí Minh không coi nhẹ khả năng tham gia sự nghiệp giải
phóng dân tộc của các giai cấp và tầng lớp khác. Người coi tiểu tư sản, tư sản dân
tộc và một bộ phận giai cấp địa chủ là bạn đồng minh của cách mạng. Người chỉ
rõ: “...học trị, nhà bn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị tư bản áp bức, song không cực
khổ bằng công nông; ba hạng ấy chỉ là bầu bạn cách mệnh của công nông thôi”.
Thứ tư, lãnh đạo Cách mạng phải là giai cấp vô sản, cụ thể là giai cấp công nhân
với đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam, phải thu phục cho được đại bộ
phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng, trong
khi liên lạc với các giai cấp phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng bộ một chút
lợi ích gì của cơng nơng mà đi vào con đường thỏa hiệp. Phát triển sáng tạo học
thuyết Mac – Lênin về Đảng Cộng sản, Người cho rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam
là “Đảng của giai cấp vô sản”, đồng thời là “Đảng của dân tộc”. “Đảng của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động, nghĩa là những người thợ thuyền, dân cày và lao
động trí óc kiên quyết nhất, hăng hái nhất, trong sạch nhất, tận tâm tận lực phụng
sự tổ quốc và nhân dân”. Thực tế đã chứng minh, ngay từ khi mới ra đời, Đảng do
Hồ Chí Minh sáng lập đã quy tụ được lực lượng và sức mạnh của toàn bộ giai cấp


cơng nhân và cả dân tộc Việt Nam. Đó là một đặc điểm đồng thời là một ưu điểm
của Đảng. Nhờ đó, Đảng đã nắm ngọn cờ lãnh đạo duy nhất đối với cách mạng
Việt Nam và trở thành nhân tố hàng đầu bảo đảm cho mọi thắng lợi của cách mạng.
Thứ năm, Về phương pháp cách mạng cơ bản của Việt Nam là dùng sức mạnh
tổng hợp của quần chúng nhân dân để đánh đổ đế quốc phong kiến và thực dân
Pháp, “đó là bạo lực cách mạng, chứ khơng phải bằng con đường cải lương, thỏa
hiệp”. Hình thức của bạo lực cách mạng bao gồm cả đấu tranh chính trị và đấu
tranh vũ trang, nhưng phải “tùy tình hình cụ thể mà quyết định những hình thức

đấu tranh cách mạng thích hợp, sử dụng đúng và khéo kết hợp các hình thức đấu
tranh vũ trang và đấu tranh chính trị để giành thắng lợi cho cách mạng”. Lịch sử
dân tộc từ ngàn xưa cho thấy dân tộc Việt Nam khơng có biểu hiện của sùng bái
bạo lực, tuy nhiên, một khi khơng thể tránh khỏi chiến tranh thì phải kiên quyết
tiến hành chiến tranh, kiên quyết dùng bạo lực cách mạng của quần chúng để
giành, giữ và bảo vệ hịa bình. Đảng Cộng sản Việt Nam đã lựa chọn hình thức đấu
tranh giành chính quyền - khơng chỉ là đấu tranh giành chính quyền cho Đảng, đấu
tranh để Đảng trở thành Đảng cầm quyền mà còn đấu tranh giành quyền lực chính
trị cho nhân dân. Đây là cuộc đấu tranh vừa mang tính chất dân chủ, vừa mang tính
chất của cuộc cách mạng dân tộc – vì vậy Đại hội II đã gọi Cách mạng Việt Nam là
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Tóm lại, phương pháp cách mạng đúng đắn,
cùng với đường lối đúng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng
đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng đúng đắn, linh hoạt các phương pháp
cách mạng trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân như phương pháp sử
dụng bạo lực cách mạng của quần chúng, phương pháp thắng từng bước và phương
pháp phát huy sức mạnh tổng hợp đã góp phần đưa cách mạng tiến lên từng bước
và giành thắng lớn.
Cuối cùng, về quan hệ của Cách mạng Việt Nam với Cách mạng thế giới: Cách
mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Vấn đề đoàn kết quốc tế
cũng là một nội dung quan trọng của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Đồn
kết quốc tế là một vấn đề có tính nguyên tắc của cách mạng Việt Nam: "Trong khi
tuyên truyền cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng thời tuyên truyền và
thực hành liên lạc với các dân tộc và giai cấp vô sản bị áp bức trên thế giới, nhất là
giai cấp vô sản Pháp". “ VÔ SẢN TẤT CẢ CÁC NƯỚC VÀ CÁC DÂN TỘC BỊ ÁP
BỨC ĐOÀN KẾT LẠI !!!”
1.2. Sự phù hợp của con đường Cách mạng vơ sản với hồn cảnh xã hội lịch
sử Việt Nam lúc bấy giờ


1.2.1. Con đường phù hợp trong thời kì Việt Nam khủng hoảng đường lối cứu

nước, sau sự thất bại của các phong trào yêu nước theo các đường lối khác.
Trước Bác đã có rất nhiều các nhà yêu nước khác đã lên đường ra đi tìm đường
cứu nước, điển hình như cụ Phan Bội Châu, cụ Phan Châu Trinh, Hoàng Hoa
Thám… Mỗi người đều tìm ra cho mình một con đường riêng, một lối đi riêng, tuy
vậy đều đã không thành công. Phan Bội Châu chọn đi theo con đường bạo động
cách mạng, hướng về phương Đông, đưa học sinh sang du học tại Nhật Bản, đất
nước có cuộc Duy tân Minh Trị, đối tượng mà ông gặp gỡ là những chính khách
Nhật Bản để xin họ giúp Việt Nam đánh Pháp. Nhưng sai lầm của cụ là quá tin và
bị động vào Nhật Bản mà không nhận rõ bản chất của các nước đế quốc. Con
đường cứu nước của cụ vì thế mà thất bại, khơng phù hợp với xu thế khách quan
của thời đại. Người nhận xét về con đường cứu nước của Phan Bội Châu, dựa vào
Nhật để đánh Pháp thì khác gì "đuổi hổ cửa trước rước beo cửa sau". Khác với
Phan Bội Châu, cụ Phan Châu Trinh theo con đường thương thuyết, kêu gọi hoà
binh, cụ mang những tư duy rất mới mẻ của Phương Tây, cụ cho rằng “bất bạo
động bạo động tắc tử, bất bạo động bạo động đại ngu”, ngược hoàn toàn với con
đường cứu nước của cụ Phan Bội Châu. Chủ trương của cụ là cải cách đất nước,
dựa vào Pháp để đánh đổ ngôi vua và bọn phong kiến hủ bại, giành độc lập dân
tộc. Con đường này được Bác Hồ cho rằng “chẳng khác gì xin giặc rủ lịng
thương”. Các nhà yêu nước đi trước Bác đều là các sĩ phu phong kiến, mong muốn
của họ là giải phóng dân tộc, thiết lập lại chế độ phong kiến (như cụ Phan Bội
Châu) hoặc đi theo con đường dân chủ tư sản (như cụ Phan Châu Trinh). Do đó,
Bác tuy khâm phục tinh thần yêu nước của thế hệ đi trước nhưng khơng hề đồng
tình với đường lối cứu nước của họ, rút được bài học từ những thất bại của những
nhà nho yêu nước trước, Người nhận thấy: muốn giải phóng dân tộc, giải phóng
con người chỉ có thể dựa vào chính ta, chính dân ta chứ khơng thể trông chờ vào
bất cứ sự giúp đỡ nào từ bên ngoài được; phải đánh đổ đồng thời cả hai chế độ
phong kiến và chế độ thực dân bấy lâu đã kìm hãm sự phát triển của dân ta, mở ra
một thời đại mới mà ở đó đất nước độc lập, con người có thể sống tự do và hạnh
phúc (chính là con đường tiến lên XHCN mà Bác đã tìm thấy sau này). Vào tuổi
mười ba, nhận thấy sức hấp dẫn của những từ Tự do, Bình đẳng, Bác ái… mà

người Pháp đã tuyên truyền, Người muốn tìm hiểu xem cái gì ẩn dấu đằng sau
những từ ngữ mỹ miều ấy… Nguyễn Tất Thành thấy, cần phải ra nước ngoài xem
cho rõ. Người đã nung nấu ý chí ra nước ngoài, xem nước Pháp và các nước khác
làm ăn ra sao, nhất là xem họ “tổ chức và cai trị như thế nào” rồi sẽ về giúp dân,
giúp nước. Với mục đích và ý chí đó, Người đã rời Sài Gịn đi ra nước ngồi vào
ngày 5 tháng 6 năm 1911. Như vậy, sức hấp dẫn trong buổi đầu tìm đường cứu


nước của Nguyễn Tất Thành không phải lá cờ của Phan Châu Trinh, Hồng Hoa
Thám, Phan Bội Châu… mà chính là lá cờ cách mạng dân chủ tư sản ở phương
Tây. Đó là một con đường đúng đắn, sáng suốt. Nó khơng mang tính chủ quan hay
cải lương mà nó mang tính chất thời đại, chỉ có đi sâu vào tìm hiểu chính kẻ thù
của mình để tìm ra điểm yếu, đúng sai, tìm ra bản chất thì mới nhận diện kẻ thù
một cách chính xác nhất. Từ chủ nghĩa yêu nước chân chính, Nguyễn Tất Thành Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin; từ khát vọng độc lập, giải
phóng đất nước, Người đã tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt
Nam – con đường Cách mạng vô sản: Mười hai luận điểm quan trọng trong bản
Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I.Lênin đã tác động mạnh mẽ đến
Nguyễn Ái Quốc và chính Người đã tiếp thu, bổ sung và phát triển sáng tạo các
luận điểm này trong việc lựa chọn con đường cứu nước đúng đắn cũng như bước
đầu triển khai lý luận về con đường giải phóng dân tộc tiến lên xây dựng chủ nghĩa
xã hội (CNXH) ở Việt Nam. Sự kiện Người bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế
Cộng sản, tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp (tháng 12/1920) có ý nghĩa quan
trọngNgười chính thức trở thành người cộng sản đầu tiên của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động Việt Nam, chính thức đưa cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc
ở nước ta vào quỹ đạo cách mạng vô sản thế giới, gắn liền độc lập dân tộc với chủ
nghĩa xã hội (CNXH).
1.2.2. Giai cấp công nhân là giai cấp duy nhất có khả năng lãnh đạo Cách
mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX
Trước khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược, xã hội Việt Nam vẫn là một xã hội
phong kiến với hai giai cấp cơ bản là giai cấp địa chủ phong kiến và giai cấp nông

dân; duy trì nền kinh tế lạc hậu dựa vào sản xuất tiểu nơng là chính, cơ sở kinh tế
cơng nghiệp, dịch vụ chưa phát triển. Sau khi Pháp tràn vào nước ta, do tác động
của chính sách khai thác thuộc địa trên quy mơ lớn và chính sách thống trị của thực
dân Pháp, cơ cấu giai cấp xã hội ở Việt Nam bị phân hóa sâu sắc hơn. Cùng với sự
phân hóa của lực lượng xã hội cũ, một số giai cấp mới ra đời và ngày càng phát
triển. Mỗi giai cấp có địa vị và quyền lợi khác nhau nên cũng có thái độ, chính trị
và khả năng khác nhau trước sự nghiệp giải phóng dân tộc:
Giai cấp địa chủ phong kiến: Vốn là giai cấp thống trị cũ đã đầu hàng, được đế
quốc nuôi dưỡng để làm tay sai, chúng ôm chân đế quốc, phản bội dân tộc là chỗ
dựa của chủ nghĩa đế quốc, câu kết với đế quốc để cướp đoạt ruộng đất và đàn áp
nông dân nên sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, địa chủ phong kiến được tăng
cường cả về thế và lực. Địa chủ phong kiến bị phân hóa thành ba bộ phận rõ rệt:
tiểu địa chủ, trung địa chủ và đại địa chủ. Sinh ra và lớn lên trong một dân tộc có


truyền thống yêu nước chống ngoại xâm nên một bộ phận khơng ít tiểu và trung
địa chủ có tinh thần dân tộc chống thực dân Pháp và bọn tay sai phản động, khi có
điều kiện có tham gia vào phong trào dân tộc.
Giai cấp tiểu tư sản thành thị và tri thức bao gồm những người buôn bán nhỏ, chủ
xưởng nhỏ, học sinh, sinh viên, cơng chức, trí thức, dân nghèo thành thị,… cũng
tăng lên về số lượng sau chiến tranh. Do bị khinh miệt, bạc đãi, đời sống bấp bênh,
họ rất hăng hái cách mạng nhưng dễ hoang mang dao động nên không thể lãnh đạo
được cách mạng. Tuy vậy, nhờ được tiếp xúc với các tư tưởng mới nên họ có tinh
thần dân tộc, chống thực dân Pháp và tay sai. Đặc biệt, bộ phận học sinh, sinh viên,
trí thức rất nhạy cảm với thời cuộc và tha thiết canh tân đất nước nên rất hăng hái
tham gia vào các cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do của dân tộc.
Giai cấp tư sản ra đời sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, bị phân hóa làm hai bộ
phận: Tư sản mại bản có quyền lợi gắn liền với đế quốc nên câu kết chặt chẽ với
chính quyền thực dân và là lực lượng cần phải đánh đổ.Tư sản dân tộc có lịng u
nước, muốn phát triển chủ nghĩa tư bản Việt Nam, có khuynh hướng kinh doanh

độc lập, có tinh thần chống đế quốc và phong kiến, tán thành độc lập dân tộc
nhưng vì kinh tế quá nhỏ yếu, có thái độ khơng kiên định, dễ thỏa hiệp nên không
lãnh đạo được cách mạng, chỉ là một lực lượng nhỏ trong cách mạng dân tộc dân
chủ ở nước ta.
Giai cấp nông dân Việt Nam là giai cấp của những người lao động trong lĩnh vực
sản xuất nông nghiệp. Giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội
Việt Nam, bị thực dân và phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề. Tình cảnh khốn khổ,
bần cùng của giai cấp nông dân Việt Nam đã làm tăng thêm lòng căm thù đế quốc
và phong kiến tay sai, làm tăng thêm ý chí cách mạng của họ trong cuộc đấu tranh
giành lại ruộng đất và quyền sống, tự do. Tuy nhiên họ là những người tư hữu nhỏ,
tư hữu của nông dân không đồng nhất với tư hữu của giai cấp bóc lột. Do phương
thức sản xuất phân tán nên nơng dân khơng có sự liên kết chặt chẽ cả vê kinh tế, tư
tưởng và tổ chức. Giai cấp nơng dân khơng có hệ tư tưởng độc lập mà tư tưởng của
họ phụ thuộc vào hệ tư tưởng của giai cấp thống trị xã hội, không có tổ chức vững
mạnh, ít học thức, sống tản mạn nên khơng thể lãnh đạo được cách mạng. Nếu có
một lực lượng tiên tiến dẫn dắt thì họ sẽ trở thành lực lượng chính của cách mạng.
Giai cấp cơng nhân Việt Nam ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của
thực dân Pháp, họ là những người nông dân bị tước đoạt hết ruộng đất, những
người thợ thủ công bị phá sản buộc phải vào làm việc trong các doanh nghiệp tư
bản Pháp…, chủ yếu tập trung ở một số thành phố lớn như: Hà Nội, Sài Gòn - Chợ


Lớn, Hải Phòng và vùng mỏ Quảng Ninh... Theo số liệu thống kê sau Chiến tranh
Thế giới lần thứ nhất, số lượng công nhân Việt Nam đã phát triển nhanh chóng lên
đến trên 22 vạn người vào đầu năm 1929. Đây là giai cấp có đủ các tố chất để lãnh
đạo cách mạng. Công nhân Việt Nam sinh ra trong lịng một dân tộc có truyền
thống đấu tranh bất khuất chống ngoại xâm, trong điều kiện đất nước bị kẻ thù xâm
lược, dưới ba tầng lớp áp bức bóc lột (thực dân, phong kiến và tư bản xứ), khiến
cho ý chí và động cơ cách mạng của giai cấp cơng nhân Việt Nam được nâng lên
gấp bội. Ngay từ khi ra đời, giai cấp công nhân nước ta đã đã anh dũng, kiên cường

đấu tranh chống kẻ thù xâm lược. Phong trào đấu tranh của công nhân từng bước
trưởng thành, phát triển từ tự phát đến tự giác và không ngừng lớn mạnh. Điều kiện
cơ bản và quan trọng nhất để giai cấp công nhân Việt Nam lãnh đạo cách mạng đó
là đặc tính cách mạng của họ: Kiên quyết, triệt để, tập thể, có tổ chức, có kỷ luật.
Lại vì là giai cấp tiền tiến nhất trong sản xuất, gánh trách nhiệm đánh đổ chế độ tư
bản và đế quốc, để xây dựng một xã hội mới, giai cấp cơng nhân có thể thấm
nhuần một tư tưởng cách mạng nhất, tức là Chủ nghĩa Mác-Lênin. Đồng thời, tinh
thần đấu tranh của họ ảnh hưởng và giáo dục các tầng lớp khác. Đồng thời họ là
lực lượng sản xuất chính trong xã hội. Lợi ích cơ bản của giai cấp cơng nhân đối
lập với lợi ích cơ bản của giai cấp tư sản, nhưng phù hợp với lợi ích, khát vọng giải
phóng của nhân dân lao động. Do đó giai cấp cơng nhân càng có đủ điều kiện, khả
năng trở thành lực lượng tổ chức lãnh đạo các giai cấp và tầng lớp lao động khác
trong cơng cuộc xố bỏ áp bức, bóc lột của chủ nghĩa tư bản, xây dựng thành công
xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
1.2.3. Con đường này hướng tới xã hội tương lai là XHCN và cộng sản chủ
nghĩa, là các chế độ xã hội đem đến hạnh phúc cho đông đảo nhân dân lao
động.
Như đã phân tích ở trên, giai cấp cơng nhân là lực lượng sản xuất chính trong xã
hội và có khả năng ảnh hưởng đến các giai cấp khác, lợi ích của giai cấp cơng nhân
phù hợp với lợi ích của đa số nhân dân lao động, do đó chế độ XHCN do giai cấp
cơng nhân lãnh đạo sẽ đem đến hạnh phúc cho đông đảo nhân dân lao động. Chính
vì vậy chế độ XHCN sẽ có được sức mạnh tổng hợp từ sự ủng hộ của đơng đảo
quần chúng nhân dân, do đó khơng có lí do gì để thất bại. Chỉ có Cách mạng vơ
sản mới là con đường duy nhất để dẫn lối đất nước đi theo con đường XHCN, bỏ
qua TBCN. Ngay từ khi mới thành lập, Đảng ta đã xác định con đường dẫn đến
mục tiêu cao nhất là Chủ nghĩa xã hội. Bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ
nghĩa là một chế độ xã hội do nhân dân làm chủ, phát huy đầy đủ quyền dân chủ
của nhân dân. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu



vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Đảng và Nhà nước ta luôn bảo đảm tất
cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Dân chủ được thực hiện trong thực tế
cuộc sống ở mọi cấp, mọi ngành, trên tất cả các lĩnh vực. Nhân dân làm chủ thơng
qua các hình thức dân chủ gián tiếp và dân chủ trực tiếp. Tất cả mọi chủ trương,
chính sách của Đảng, Nhà nước đều vì con người, chăm lo xây dựng con người,
phát triển tồn diện cả đức, trí, thể, mỹ. Bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ
nghĩa còn thể hiện ở việc thực hiện chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ
yếu. Chủ nghĩa xã hội mà Đảng và nhân dân ta xây dựng dựa trên nền tảng kinh tế
sở hữu toàn dân, phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, với
nhiều thành phần kinh tế, hình thức phân phối đảm bảo tính cơng bằng, bình đẳng
trước pháp luật, tuân theo quy luật của kinh tế thị trường, đảm bảo tính định hướng
xã hội chủ nghĩa. Lực lượng sản xuất mà nhân dân ta đang xây dựng là lực lượng
sản xuất hiện đại với khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, gắn với phát triển
kinh tế tri thức. Quan hệ sản xuất, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thực
hiện chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu, đó là yếu tố đảm bảo định
hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường với nhiều thành phần
kinh tế. Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tơn trọng và
giúp nhau cùng phát triển. Nhà nước XHCN là nhà nước của nhân dân, do dân và
vì nhân dân do Đảng lãnh đạo. Trong quan hệ với Nhà nước, Đảng lãnh đạo Nhà
nước phát huy vai trị quản lý chứ khơng bao biện, làm thay Nhà nước. Đảng luôn
luôn chịu sự giám sát của nhân dân và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và
pháp luật.
1.2.4. Có thể học tập kinh nghiệm trong q trình thực hiện Cách mạng vơ
sản đi lên CNXH đã có tiền lệ ở Liên Xơ
Năm 1917, dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản (Bơn-sê-vích) Nga, giai cấp công
nhân và nhân dân lao động Nga đã làm nên thắng lợi Cách mạng Tháng Mười, mở
ra bước ngoặt mới trong tiến trình lịch sử nhân loại. Cuộc cách mạng vĩ đại này
vẫn luôn tỏa sáng và sống mãi trong lòng nhân loại và là tấm gương để mọi cuộc
Cách mạng vô sản trên khắp thế giới noi theo, trong đó có Cách mạng vơ sản tại
Việt Nam. Thực tiễn cho thấy, sau Cách mạng Tháng Mười Nga, với đường lối phù

hợp với tiến bộ xã hội, Đảng Cộng sản Nga, đứng đầu là lãnh tụ V.I.Lênin đã lãnh
đạo giai cấp vô sản và nhân dân lao động Nga tiến hành cải tạo xã hội cũ, xây dựng
xã hội mới đạt được nhiều thành tựu to lớn trên tất cả lĩnh vực: kinh tế, chính trị,
khoa học-kỹ thuật, văn hóa-xã hội, quốc phịng, an ninh... đưa Liên Xơ từ nước tư
bản trung bình trở thành quốc gia hùng mạnh trên thế giới. Nước Nga đã làm cách
mạng thành công, cuối năm 1923, Nguyễn Ái Quốc đến Nga hoạt động trong Quốc


tế Cộng sản và trực tiếp quan sát, nghiên cứu việc xây dựng nền dân chủ mới – dân
chủ vô sản. Ở đất nước của V.I.Lênin, Nguyễn Ái Quốc không chỉ nghiên cứu lịch
sử cách mạng, con đường, phương pháp và những kinh nghiệm cách mạng trong
giai đoạn “giành chính quyền” mà Người cịn rất chú ý tìm hiểu cách thức, kinh
nghiệm tổ chức xây dựng chế độ dân chủ mới. Bác nhận thấy, ở nước Nga mọi
người đều ra sức học tập, nghiên cứu để tiến bộ. Chính phủ giúp đỡ, khuyến khích
nhân dân học tập. Ruộng đất thuộc sở hữu Nhà nước nhưng thực tế do nông dân sử
dụng. Mọi người làm chung và phân phối theo lao động. Những người ốm đau
được chăm sóc khơng mất tiền. Trẻ em, phụ nữ được Nhà nước, xã hội, nhà máy
chăm sóc chu đáo. Trẻ em được ưu ái trong ni dưỡng, học hành. Những gì tốt
nhất đều để dành cho trẻ em… Đó là kết quả vận dụng lý thuyết dân chủ xã hội chủ
nghĩa vào điều kiện nước Nga. Đó là những ưu việt của một nền dân chủ mới dưới
ánh sáng khoa học của học thuyết dân chủ cách mạng Mác-Lênin. Dân chủ đã trở
thành hiện thực sinh động trước mắt Bác, nhân dân Nga đã tạo nên một nền dân
chủ mới đầy sức sống và bước đầu thụ hưởng những giá trị dân chủ đích thực của
chính mình. Những thành cơng “đến nơi” của cách mạng Nga, những ưu việt thực
chất của nền dân chủ XHCN mới ở Nga đã trở thành mẫu hình quan trọng, đầy tính
gợi mở để Hồ Chí Minh từng bước xây dựng mơ hình dân chủ cho Cách mạng Việt
Nam.
2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu
Đối với sinh viên, trí thức tương lai của nước nhà như em, việc học tập và nghiên
cứu về Cách mạng vô sản, về con đường cứu nước chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm ra

cho dân tộc Việt Nam có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nhất là trong thời kì đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa phát triển đất nước gắn với phát triển kinh tế
tri thức, hội nhập quốc tế như hiện nay. Thứ nhất, nghiên cứu Cách mạng vô sản
giúp em càng hiểu thêm về lịch sử nước nhà; tăng cường khả năng tư duy biện
chứng, bồi dưỡng thêm lập trường, quan điểm Cách mạng, kiên định mục tiêu độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; tích cực chủ động đấu tranh phê phán
những quan điểm sai trái; ra sức bảo vệ chủ nghĩa Mác Lê nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và nhà nước ta; vận
dụng lý thuyết vào giải quyết các vấn đề đặt ra trong cuộc sống. Thứ hai, qua việc
nghiên cứu em càng có thêm động lực để tu dưỡng, rèn luyện bản thân, hoàn thành
tốt nghĩa vụ của mình với Tổ quốc, góp sức mình vào cơng cuộc xây dựng nước
nhà theo con đường mà Bác đã lựa chọn.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
-

-

-

Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh dành cho sinh viên Đại học, Cao đẳng
khối không chuyên ngành Mác – Lê nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh (NXB
Chính trị quốc gia sự thật).
Văn kiện Đảng tồn tập, tập 9 (NXB Chính trị quốc gia – Hà Nội) (2002)
Giáo trình Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam dành cho
sinh viên Đại học, Cao đẳng khối khơng chun ngành Mác – Lê nin, Tư
tưởng Hồ Chí Minh (NXB Chính trị quốc gia sự thật).
Tạp chí Lịch sử Đảng
Tạp chí Tổ chức Nhà nước




×