VJE
Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 8/2018, tr 155-158
XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN
Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM
NHẰM ĐÁP ỨNG CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC PHỔ THƠNG MỚI
Hồng Thị Minh Thảo - Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Tây
Ngày nhận bài: 01/06/2018; ngày sửa chữa: 02/07/2018; ngày duyệt đăng: 07/08/2018.
Abstract: Developing learners’ capacity, effectively applying knowledge into practice, satisfying
the industrialization and modernization of the nation are one of the prime requirements in the
general education program. With respect to the demand for teaching and learning innovation as
well as learner competency approach; the teacher training programs at pedagogical universities
need proper adjustment to provide best output in education - qualified teachers who can effectively
operate the new general education program. Since renovating teacher training program is one of
the most important tasks in pedagogical universities, the article studies changes in Literature
curriculum at high schools and proposes some suggestion for the design and development of
Literature at teacher training college to meet the requirement of education innovation.
Keywords: Design and develop program, general education curriculum, Literature curriculum at
teacher training college.
1. Mở đầu
Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể vừa là cơ
hội vừa là thách thức cho những cơ sở đào tạo giáo viên.
Để bắt nhịp với chương trình giáo dục phổ thơng mới sau
năm 2018, các trường sư phạm (SP) cần “đi tắt, đón đầu”
trước yêu cầu đổi mới của giáo dục. Nâng cao chất lượng
GV và đổi mới chương trình đào tạo giáo viên (GV)
trong các trường SP đã trở thành đòi hỏi cấp thiết trong
giai đoạn hiện nay. Đối với các trường cao đẳng sư phạm
(CĐSP) thì việc xây dựng, điều chỉnh các chương trình
chi tiết trong kế hoạch đào tạo được xác định rõ là việc
làm cần thiết, là điểm then chốt để hiện thực hóa chủ
trương đổi mới căn bản, toàn diện, thể hiện sự gắn kết
đào tạo ở trường SP với thực tiễn nghề nghiệp ở phổ
thông.
Bài viết đi sâu tìm hiểu những thay đổi của chương
trình môn Ngữ văn ở giáo dục phổ thông và đề xuất một
số định hướng xây dựng và phát triển chương trình Ngữ
văn ở trường CĐSP đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục
phổ thông.
2. Nội dung nghiên cứu:
2.1. Đổi mới chương trình đào tạo giáo viên - một trong
những nhiệm vụ quan trọng của nhà trường sư phạm
Những năm gần đây, với học chế tín chỉ, chương trình
đào tạo GV ngành Ngữ văn ở các trường CĐSP đã có rất
nhiều sự điều chỉnh, thay đổi để phù hợp với mục tiêu và
yêu cầu đào tạo thực tế. Các chương trình chi tiết học
phần ngành Ngữ văn được xây dựng theo hướng tiếp cận
mục tiêu phát triển năng lực; có sự lựa chọn các kiến thức
tích hợp, đáp ứng yêu cầu về kiến thức, kĩ năng, thái độ,
năng lực cần đạt theo mục tiêu và chuẩn đầu ra. Chương
trình đảm bảo sự chặt chẽ, có tính liên kết, hệ thống và tỉ
lệ hợp lí giữa lí thuyết và thực hành, tự học, tự nghiên
cứu nhằm trang bị những năng lực cần có của “người GV
tương lai”. Nội dung chương trình chi tiết các học phần
ngành Ngữ văn đều được chọn lọc thực sự là cốt lõi và
cần thiết, gắn kết kiến thức chuyên ngành với nội dung
dạy học ở phổ thông và được rà soát, kiểm tra trong từng
năm học mục đích để bổ sung và điều chỉnh cho cập nhật
và phù hợp với yêu cầu thực tiễn đổi mới dạy học. Tuy
nhiên, chương trình đào tạo ngành Ngữ văn hiện nay vẫn
cịn một số tồn tại như: chương trình mang nặng tính kinh
nghiệm; xây dựng chương trình theo hướng tiếp cận nội
dung và chủ đề, các học phần chuyên ngành vẫn chưa thể
hiện rõ được sự gắn kết giữa trường sư phạm với kiến
thức, năng lực cần đáp ứng ở trường phổ thơng; chương
trình chưa chú trọng thực sự đến việc phát triển năng lực
của sinh viên (SV), nhất là năng lực tự học, tự nghiên
cứu; chưa đề cập đến năng lực dạy học tích hợp và phân
hóa trong giảng dạy, SV chưa được trang bị nhiều về các
tổ chức hoạt động trải nghiệm. Bên cạnh đó một số
chương trình chun ngành kiến thức cịn q nặng (ví
dụ: Lí luận văn học, Văn học hiện đại, Văn học thế giới,
Văn bản và tạo lập văn bản); khối kiến thức nghiệp vụ sư
phạm và kiến thức chun ngành có tình trạng mất cân
đối, kiến thức nghiệp vụ sư phạm chỉ chiếm tỉ lệ thấp từ
16-20% khối lượng kiến thức chuyên ngành trong
chương trình đào tạo; các học phần bắt buộc nhiều trong
khi học phần tự chọn ít.
Các học phần Phương pháp dạy học tuy đã cố gắng
trang bị cho SV nắm vững hệ thống các phương pháp
155
VJE
Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 8/2018, tr 155-158
dạy học và cập nhật những vấn đề đổi mới về phương
pháp giảng dạy, song vẫn còn khoảng cách khá xa giữa
lí thuyết và thực tiễn, giữa đào tạo ở SP với thực tế giảng
dạy ở ở phổ thông. Trong chương trình đào tạo ngành
Ngữ văn ở trường CĐSP khơng có học phần riêng về
rèn luyện nghiệp vụ sư phạm nên việc rèn các kĩ năng
nghề nghiệp cho SV như: Kĩ năng giao tiếp, diễn đạt,
thuyết trình, làm việc nhóm, tư duy phê phán, giải quyết
vấn đề... còn hạn chế. Vì vậy, SV khi đi thực tập SP cịn
lúng túng giữa việc xác định mục tiêu bài dạy, cách lập
kế hoạch dạy học, thiết kế giáo án; trình bày bài giảng,
sử dụng các phương tiện, đồ dùng trực quan, tổ chức
các hoạt động dạy học - giáo dục ngoài giờ lên lớp và
khi ra trường chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn của
phổ thông.
Từ thực tế này cho thấy chương trình đào tạo ngành
Văn hiện nay ở trường CĐSP cịn nặng về kiến thức
chun mơn, chưa chưa chú trọng nhiều về năng lực sư
phạm. Để đáp ứng với yêu cầu của đổi mới giáo dục, đón
đầu và bắt nhịp với chương trình giáo dục phổ thơng mới
thì cần thiết phải xây dựng và phát triển chương trình đào
tạo GV ở trường SP cho phù hợp với sự thay đổi của
chương trình - sách giáo khoa sau năm 2018.
2.2. Những thay đổi của mơn Ngữ văn ở chương trình
phổ thơng mới
Chương trình giáo dục phổ thơng mơn Ngữ văn mới
được biên soạn công phu, khoa học, kế thừa ưu điểm của
chương trình hiện hành và có nhiều điểm mới đáng ghi
nhận: 1) Chương trình xác định được mục tiêu đào tạo
gồm các phẩm chất và năng lực của người học;
2) Chương trình đặt trọng tâm ở đào tạo năng lực người
học, lấy trục đọc - viết - nói - nghe làm trục chính để thiết
kế các yêu cầu cần đạt trong giao tiếp; 3) Chương trình
thực hiện tích hợp và phân hóa, đào tạo cơ bản và đào tạo
hướng nghiệp ở trung học cơ sở và trung học phổ thông;
4) Xây dựng hệ thống nội dung dạy học từ lớp một đến
lớp 12 theo từng lớp một cách chi tiết, điều mà các
chương trình trước đây chưa làm được; 5) Đề xuất các
phương pháp dạy học Ngữ văn và kiểm tra, đánh giá phù
hợp với tinh thần đổi mới giáo dục; 6) Đề xuất phương
án mở, tạo điều kiện để thực hiện thể thức một chương
trình nhiều sách giáo khoa.
Điểm khác biệt của chương trình Ngữ văn mới so với
chương trình hiện hành như sau:
2.2.1. Điểm khác biệt nhất so với các chương trình trước
đây là chương trình Ngữ văn lần này được xây dựng xuất
phát từ các phẩm chất và năng lực cần có của người học
để lựa chọn nội dung dạy học. Nội dung cốt lõi của môn
học sẽ bao gồm các mạch kiến thức và kĩ năng cơ bản,
thiết yếu về Văn học và tiếng Việt, đáp ứng các yêu cầu
cần đạt về phẩm chất và năng lực của học sinh ở từng cấp
học. Các yêu cầu cần đạt của mỗi lớp tập trung vào bốn
kĩ năng lớn: đọc, viết, nói và nghe. Chương trình nhấn
mạnh việc chú ý chú ý hình thành cho học sinh cách học,
tự học, từ phương pháp tiếp cận, phương pháp đọc hiểu
đến cách thức tạo lập văn bản và nghe - nói; thực hành,
luyện tập và vận dụng nhiều kiểu loại văn bản khác nhau
để sau khi rời nhà trường các em có thể tiếp tục học suốt
đời và có khả năng giải quyết các vấn đề trong cuộc sống.
Từ các yêu cầu cần đạt nêu trên, chương trình nêu lên các
nội dung dạy học, bao gồm kiến thức về tiếng Việt, văn
học và ngữ liệu văn bản. Trong đó: - Kiến thức tiếng Việt
với các nội dung chủ yếu là: Ngữ âm và chữ viết; Từ
vựng; Ngữ pháp; Hoạt động giao tiếp; Sự phát triển của
ngôn ngữ; - Kiến thức văn học gồm: Những vấn đề chung
về văn học; các thể loại văn học; các yếu tố của tác phẩm
văn học; một số hiểu biết sơ giản về lịch sử văn học Việt
Nam; - Về nội dung văn học bao gồm: tri thức văn học
chung, tri thức văn bản văn học, văn học Việt Nam,
tương quan văn học Việt Nam, thế giới, văn học dân gian,
văn học dân tộc thiểu số.
2.2.2. Chương trình Ngữ văn hiện hành và các chương
trình trước đây xây dựng theo định hướng nội dung, theo
trục lịch sử văn học nên thường chú trọng trang bị kiến
thức lí luận, kiến thức văn học sử cho đầy đủ. Giờ dạy
học văn thường bị biến thành các giờ lí thuyết chung về
lí luận, văn học sử rất hàn lâm, nặng nề. Đặc biệt là
chương trình chỉ bó hẹp, giới hạn trong một số tác phẩm
cụ thể nên việc dạy học nặng về đào sâu, phân tích tác
phẩm, làm bài văn mẫu; và nếu như đề thi ra vào một tác
phẩm khác chưa có trong sách giáo khoa thì học sinh sẽ
hết sức lúng túng...
Chương trình mơn Ngữ văn mới được xây dựng theo
hướng “mở”, không quy định chi tiết về nội dung dạy
học và các văn bản cụ thể mà chỉ quy định những yêu cầu
cần đạt về đọc, viết, nói và nghe cho mỗi lớp. Lấy tiêu
chí là các thể loại văn học, từ đó lựa chọn một số văn bản,
tác phẩm tiêu biểu để dạy và học. Việc thiết kế này cũng
nhằm đạt đến một trong những năng lực mà Ngữ văn
mang lại là năng lực biết đọc hiểu, biết tiếp nhận, biết
cảm thụ, phân tích và đánh giá các giá trị văn học, qua đó
mà phát triển cảm xúc thẩm mĩ, tâm hồn, tình cảm, nhân
cách (năng lực thẩm mĩ - nhân văn)... Thông qua các tác
phẩm tiêu biểu của các thể loại văn học ấy, HS dần dần
có thể tự đọc và học suốt đời chứ không chỉ chú ý dạy
vào một số tác phẩm cụ thể, học tác phẩm nào chỉ biết
tác phẩm ấy.
2.2.3. Điểm khác biệt nữa của chương trình Ngữ văn mới
so với chương trình hiện hành là Ngữ liệu văn bản. Cụ
thể, dựa vào các tác gia và các tác phẩm được học trong
chương trình và sách giáo khoa hiện hành sẽ lựa chọn và
156
VJE
Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 8/2018, tr 155-158
bổ sung thêm một số tác phẩm có vị trí quan trọng, tiêu
biểu cho thành tựu văn học dân tộc qua các giai đoạn, với
3 cấp độ: 1) Tác phẩm bắt buộc (tác giả sách giáo khoa
và giáo viên bắt buộc thực hiện theo quy định của chương
trình); 2) Tác phẩm tự chọn bắt buộc (tác phẩm được lựa
chọn theo thuộc hai bộ phận văn học dân gian và văn học
viết. Phần văn học dân gian bao quát đầy đủ các thể loại
từ thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, truyện ngụ ngôn,
truyện cười, ca dao, sử thi, truyện thơ... với các tác phẩm
quen thuộc, giá trị. Phần văn học viết sẽ bao gồm các tác
giả của văn học hiện đại); 3) Tác phẩm tự chọn (tác giả
sách giáo khoa tự lựa chọn theo gợi ý của chương trình
minh hoạ về thể loại, kiểu văn bản, đề tài và sự phù hợp
với nhận thức, tâm lí lứa tuổi; nhằm đáp ứng các yêu cầu
cần đạt về đọc, viết, nói, nghe ở mỗi lớp).
Có thể khẳng định: Chương trình Ngữ văn mới xây
dựng “theo hướng mở, không quy định chi tiết về nội
dung dạy học và các văn bản cụ thể mà chú trọng những
yêu cầu cần đạt về đọc, viết, nói và nghe cho mỗi lớp”.
Đó là hướng đi mới, khắc phục được tình trạng học vẹt,
học theo văn mẫu, chú trọng phát triển kĩ năng đọc, viết,
nói và nghe, kĩ năng đọc hiểu, kĩ năng tạo lập, thực hành,
vận dụng văn bản.
2.3. Một số định hướng xây dựng và phát triển chương
trình Ngữ văn ở trường cao đẳng sư phạm đáp ứng yêu
cầu đổi mới giáo dục phổ thông
dung, bổ sung thêm các năng lực cần thiết cho người học
phù hợp đặc thù của mơn học. Trong các chương trình
chi tiết cần cụ thể hóa và gắn kết giữa nội dung kiến thức
chuyên môn và kiến thức nghiệp vụ nghề nghiệp.
- Đối với đề cương môn học: cần điều chỉnh thời
lượng tổ chức dạy học theo hướng giảm bớt lí thuyết,
tăng thời lượng thực hành, thảo luận, bài tập nhận thức;
chú trọng các yêu cầu về thời gian tham gia học tập trên
lớp và tự học ở nhà của SV. Về nội dung kiến thức lí
thuyết cần điều chỉnh hoặc bổ sung nội dung học tập theo
hướng xây dựng các tình huống học tập để tổ chức cho
SV tăng cường các hoạt động trải nghiệm sáng tạo, thảo
luận nhóm, giải quyết vấn đề... theo hướng phát triển
năng lực cho SV.
- Đối với các giờ lên lớp: GV đổi mới việc thiết kế
bài giảng, chú ý đưa các nội dung lí thuyết về gắn với
đời sống thực; tăng cường tổ chức cho SV áp dụng kiến
thức, liên hệ thực tế và dự kiến việc vận dụng kiến thức
học phần đó vào dạy học nội dung tương ứng ở trường
trung học cơ sở. GV áp dụng các phương pháp dạy học
phát huy tính tích cực của người học; đặc biệt, tăng
cường sử dụng các phương pháp dạy học nhóm, phương
pháp dạy học dự án, công não, lược đồ tư duy, công nghệ
Blend, dạy SV phương pháp học, phương pháp nghiên
cứu khoa học.
2.3.1. Chương trình mơn Ngữ văn phải đảm bảo các tiêu
chí của chuẩn đầu ra, tiếp cận mục tiêu phát triển năng
lực nghề
2.3.2. Chương trình mơn Ngữ văn ở trường cao đẳng sư
phạm phải được thiết kế lại phù hợp với sự thay đổi của
chương trình - sách giáo khoa mới sau 2018
Phát triển chương trình mơn Ngữ văn trong trường
CĐSP nhằm đáp ứng sự đổi mới của chương trình và
sách giáo khoa phổ thơng sau năm 2018 đảm bảo tính
cập nhật và khoa học, đáp ứng chuẩn đầu ra của chương
trình theo hướng chuyển từ giáo dục chủ yếu trang bị
kiến thức sang mục tiêu phát triển phẩm chất và năng lực
của người giáo viên, để những giáo viên tương lai có thể
đảm nhận tốt vai trị dạy chữ, dạy nghề, dạy người và
truyền cảm hứng, khát vọng cho học sinh.
Chương trình Ngữ văn ở trường SP phải gắn bó chặt
chẽ với nội dung chương trình ở phổ thơng, theo hướng
coi trọng quá trình hình thành rèn luyện năng lực nghề
nghiệp, gắn kết chặt chẽ giữa học lí thuyết với thực hành,
thực tập; tri thức lí luận với tri thức thực tiễn; tri thức
khoa học với tri thức kinh nghiệm và tri thức hành động
theo định hướng phát triển năng lực nghề. Tăng cường tổ
chức rèn luyện nghiệp vụ sư phạm nhằm rèn luyện các
năng lực chuyên môn nghiệp vụ cho SV. Để đảm bảo
đáp ứng tiêu chí chuẩn đầu ra thì yêu cầu GV phải:
- Xây dựng chương trình “mở” và gắn kết kiến thức
chuyên ngành với kiến thức nghiệp vụ
- Đối với các chương trình chi tiết các học phần ngành
Văn: cần làm rõ các mục tiêu cần đạt, mơ tả cụ thể nội
Chương trình mơn Ngữ văn ở trường phổ thông sau
2018 được thiết kế theo hướng mở vì vậy để đón đầu sự
thay đổi này chương trình đào tạo ở trường SP cũng cần
phải được thiết kế mềm dẻo, linh hoạt đáp ứng được các
phù năng lực theo chuẩn đầu ra. Với chương trình “mở”,
chỉ nên quy định những nội dung mang tính khái quát và
những yêu cầu về chuẩn kiến thức, kĩ năng mà SV phải
đạt được sau khi học xong chương trình; khơng áp đặt
cách chọn lựa tác phẩm cụ thể nào mà dành quyền đó cho
người dạy và cả người học. Chương trình chỉ hướng dẫn
và gợi mở những nội dung khái quát chung, còn việc lựa
chọn những nội dung cụ thể sẽ do GV và SV tự quyết
định khi cùng nhau làm việc. Đặc biệt, trong nội dung
kiến thức cần có thêm modul về phương pháp tiếp nhận
văn bản theo loại thể để gắn kết kiến thức lí thuyết Lí
luận văn học với thực hành phân tích văn bản ở trường
phổ thơng theo đặc trưng thể loại (điều này áp dụng cho
các học phần Văn học Việt Nam hiện đại 1, 2; Văn học
thế giới).
157
VJE
Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 8/2018, tr 155-158
Việc xây dựng chương trình mang tính “mở” hướng
đến việc đánh giá năng lực và kĩ năng của học sinh chứ
không chú trọng kiểm tra kiến thức và khả năng ghi
nhớ. Vì thế cách đánh giá cũng phải thay đổi cho phù
hợp. Chủ yếu là tập trung đánh giá năng lực tư duy, kĩ
năng đọc viết của người học qua việc vận dụng kiến
thức chứ không chú ý đến việc trình bày nội dung kiến
thức thuần túy.
- Rà sốt lại nội dung chương trình mơn học, điều
chỉnh nội dung và phương pháp tiếp cận
Để phát triển năng lực của người học các học phần
trong chương trình đào tạo mơn Ngữ văn ở CĐSP cần
phải được rà sốt kĩ để khơng cịn có sự trùng lặp giữa
các khối kiến thức trong các học phần (cụ thể: phải rà
soát lại các kiến thức trùng lặp giữa các học phần Lí luận
văn học, Đọc hiểu văn bản văn học, Văn học và ngôn
ngữ). Cắt giảm những kiến thức qúa hàn lâm, chỉ tập
trung vào các đơn vị kiến thức cơ bản, đồng thời tăng
cường rèn nghề qua các hoạt động thảo luận, thực hành
nhằm vừa đảm bảo lượng kiến thức cần thiết, vừa có thời
gian thực hành các kĩ năng nghề nghiệp và phát huy năng
lực người học.
- Đề xuất tăng thêm một số học phần tự chọn chuyên
sâu cho SV ngành Ngữ văn. Việc xây dựng chương trình
mới hướng tới mục tiêu vừa chú trọng đi sâu khai thác
các giá trị thẩm mĩ vừa đi sâu khai thác các giá trị nhân
văn để vừa đáp ứng tốt yêu cầu giảng dạy môn Ngữ văn
ở trường phổ thông vừa đáp ứng các yêu cầu liên ngành
hoặc mở ra các cơ hội việc làm cho SV sau khi ra trường.
Các học phần tự chọn phải thực sự cần thiết đối với SV,
hướng đến chương trình phổ thơng và các hoạt động trải
nghiệm thực tế của người học như: Tiếp cận tác phẩm
văn học Việt Nam hiện đại ở trường phổ thông theo đặc
trưng thể loại, Dạy học từ Hán Việt ở trường phổ thông;
Thực hành viết các kiểu văn bản ở trường phổ thông;
Trải nghiệm sáng tạo trong dạy học Ngữ văn... Các học
phần tự chọn ngồi việc cung cấp tri thức mới cịn mở
rộng theo hướng tích hợp, liên mơn, chú trọng hướng dẫn
SV cách dạy học đọc - hiểu và thực hành soạn giảng
những tác phẩm cụ thể, tăng khả năng thực hành, ứng
dụng thực tế nghề nghiệp cho SV. Tất cả các học phần tự
chọn đều được xây dựng theo hướng: giảm nhiều giờ lí
thuyết, tăng cường giờ bài tập, thảo luận, thực hành lên
từ 30% đến 50%.
- Đề xuất tăng thêm tín chỉ cho học phần rèn luyện
nghiệp vụ sư phạm thời gian học trong 2 tuần rèn luyện
nghiệp vụ sư phạm cho SV
Yêu cầu vẫn tính đầu điểm và tổ chức thi nghiêm túc
đối với SV. Tuần NVSP này chủ yếu là thực hành và thảo
luận, rèn luyện kĩ năng phát triển năng lực cho người học.
Ngay cả các môn học thuộc khối kiến thức ngành cũng
đều chú ý tăng cường nội dung tích hợp giữa kiến thức
cơ bản và kĩ năng nghiệp vụ sư phạm cho SV, chú trọng
rèn nghề, hướng dẫn cho người học phương pháp dạy
học bộ mơn.
3. Kết luận
Để bắt nhịp với chương trình giáo dục phổ thông mới,
các trường sư phạm cần đi tắt đón đầu, đổi mới và đi
trước sự đổi mới ở trường phổ thơng. Việc thay đổi và
phát triển chương trình môn Ngữ văn trong trường CĐSP
nhằm đáp ứng sự thay đổi môn Ngữ văn ở trường phổ
thông mang ý nghĩa rất quan trọng bởi nó góp phần phát
triển đội ngũ nhà giáo, giải pháp then chốt bảo đảm sự
thành công của công cuộc đổi mới giáo dục.
Tài liệu tham khảo
[1] Bộ GD-ĐT (2015). Một số vấn đề chung về xây
dựng chương trình và giáo dục phổ thơng tổng thể
sau năm 2015. Kỉ yếu hội thảo khoa học quốc gia.
[2] Bộ GD-ĐT (2015). Phát triển chương trình đào tạo
giáo viên phổ thông ngành Ngữ văn. Tài liệu tập
huấn cán bộ, giảng viên các cơ sở đào tạo giáo viên.
[3] Bộ GD-ĐT (2015). Chuyên đề bồi dưỡng giáo viên
trung học phổ thông môn ngữ văn. NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội.
[4] Bùi Mạnh Hùng (2011). Để Ngữ văn trở thành môn
học phát triển năng lực tư duy. Nguồn:
, 19/05/2011.
[5] Đỗ Ngọc Thống (2012). Chương trình Ngữ văn
trong nhà trường phổ thơng Việt Nam và hướng
phát triển sau 2015. Nguồn: />tin-tuc-304/chuong-trinh-ngu-van-trong-nhatruong--pho-thong-viet-nam-va-huong-phat-triensau-2015.vhtm.
[6] Dự án Phát triển giáo viên trung học phổ thông và
trung cấp chuyên nghiệp (2010). Tài liệu hướng dẫn
tăng cường năng lực sư phạm cho cán bộ giảng dạy
của các cơ sở đào tạo giáo viên trung học phổ thông
và trung cấp chuyên nghiệp. PADECO CO., LTD&
SMEC International Ltd, Australia.
[7] Trần Đình Sử (2009). Trở về với văn bản văn học Con đường đổi mới căn bản phương pháp dạy học
Văn. Báo Văn nghệ, số 10/2009.
[8] Phạm Hồng Quang (2013). Phát triển chương trình
đào tạo giáo viên: Những vấn đề lí luận và thực tiễn.
NXB Đại học Thái Nguyên.
158