Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

bài tập lớn môn Triết học Mác Lênin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98.07 KB, 13 trang )

MỤC LỤC:
Trang
LỜI MỞ ĐẦU…………………………………………………………………2
NỘI
DUNG……………………………………………………………….........2
CHƯƠNG I. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN VỀ
NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
………………………………………………………………………………….2
1. Những

khái

niệm

……………………………………………......2
1.1. Tổng
quan
về
1.2.



bản



luận

…………………………………………….2
Tổng
quan


về
thực

tiễn

…………………………………………..3
2. Mối quan hệ biện chứng giữa lý luận với thực tiễn
…………………….3
2.1. Thực tiễn đối với lý luận …………………………………………
4
2.2. Lý luận đối với thực tiễn. ……..………………………………...5
3. Ý nghĩa phương pháp luận ……………………………………………..6
CHƯƠNG II.

VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT

GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ĐỂ LÝ GIẢI VỀ SỰ LỰA CHỌN
CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
…………………6
1. Thực tiễn nước nhà khi lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ……
6
2. Cơ sở lý luận của sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta………………………………………………………………………………..9
3. Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn vào con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta………………………………………………
10
PHẦN KẾT LUẬN ………………………………………………………….


LỜI MỞ ĐẦU

Triết học ra đời cách đây gần 3000 năm ( từ khoảng thế kỷ VIII đến VI
TCN ) nhưng cho đến nay Triết học vẫn chiếm một vị trí hết sức quan trọng, là
khoa học của mọi khoa học. Đặc biệt sự ra đời của Triết học Mác- Lênin vào
những năm 40 của thế kỉ XIX với phép biện chứng duy vật đã đưa Triết học trở
thành một bộ phận khăng khít và khơng thể tách rời với sự phát triển của đời
sống xã hội. Những vấn đề triết học về phương pháp biện chứng ( với những
nguyên lý và các cặp phạm trù), hay về lí luận nhận thức … luôn là cơ sở, nền
tảng định hướng, là tôn chỉ cho hoạt động thực tiễn, xây dựng và phát triển xã
hội. Một trong những nguyên tắc tôn chỉ, quan trọng bậc nhất của Triết học
Mác-Lênin chính là nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.

CHƯƠNG I: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN
VỀ NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN.
1. Những khái niệm cơ bản
1.1 Tổng quan về lý luận
a. Khái niệm
Lý luận là kinh nghiệm đã được khái quát trong ý thức của con người, là toàn
bộ tri thức về thế giới khách quan, là hệ thống tương đối độc lập của các tri
thức. Nói cách khác lý luận là hệ thống những tri thức được khái quát từ kinh
nghiệm thực tiễn, phản ánh mối liên hệ bản chất, tất nhiên, mang tính quy luật
của các sự vật, hiện tượng được biểu đạt bằng hệ thống nguyên lý, quy luật,
phạm trù.
b. Đặc trưng
Lý luận có tính hệ thống, tính khái qt cao, có tính logic chặt chẽ.
Cơ sở của lý luận là những tri thức kinh nghiệm thực tiễn, khơng có kinh
nghiệm thực tiễn thì khơng có cơ sở để khái qt lý luận.
c. Các cấp độ lý luận
2
2



Triết học Mác- Lênin khẳng định lý luận là kết quả của quá trình nhận thức.
Quá trình nhận thức đi từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính, từ trực
quan sinh động đến tư duy trừu tượng. Nhận thức cảm tính ( trực quan sinh
động ) là giai đoạn đầu, trình độ thấp của quá trình nhận thức, nó phản ánh trực
tiếp, cụ thể, sinh động hiện thực khách quan vào các giác quan của con người
bao gồm 3 hình thức cơ bản: cảm giác, tri giác và biểu tượng. Nhận thức lý
tính ( tư duy trừu tượng )là giai đoạn cao, trình độ cao của quá trình nhận thức,
nó được hình thành từ những tài liệu do nhận thức cảm tính đem lại, bao gồm 3
hình thức cơ bản: khái niệm, phán đốn và suy luận. Chính vì thế lý luận là kết
quả của quá trình phát triển cao của nhận thức, là trình độ cao của nhận thức.
1.2 Tổng quan về thực tiễn
a. Khái niệm
Thực tiễn là phạm trù cơ bản trong lí luận nhận thức mác-xít. V.I. Lê-nin cho
rằng “ Quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất và cơ
bản nhất của lý luận nhận thức”.Triết học Mác khẳng định:
Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch
sử- xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.
b. Đặc trưng
Thực tiễn chỉ là những hoạt động vật chất cảm tính của con người.
Thực tiễn là hoạt động chỉ diễn ra trong xã hội.
Là hoạt động có tính mục đích nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội để phục vụ con
người.
c. Hình thức hoạt động của thực tiễn
Có 3 hình thức cơ bản:
- Hoạt động sản xuất vật chất - là hoạt động cơ bản, đầu tiên của thực tiễn. Là
hoạt động mà con người sử dụng những phương tiện thích hợp tác động vào tự
nhiên để tạo ra của cải, vật chất nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của con
người và xã hội.

- Hoạt động chính trị xã hội - là hoạt động của các tổ chức cộng đồng người
khác nhau nhằm cải biến các mối quan hệ xã hội để thúc đẩy xã hội phát triển.
- Thực nghiệm khoa học - là một hình thức đặc biệt của thực tiễn. Là hoạt động
được tiến hành trong điều kiện do con người tạo ra gần giống, giống hoặc lặp
lại những trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm xác định các quy luật vận
động của đối tượng nghiên cứu.
3
3


2. Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn ( Nguyên tắc thống nhất giữa
lý luận và thực tiễn
Thực tiễn và lý luận luôn thống nhất biện chứng với nhau, địi hỏi có nhau,
nương tựa vào nhau, tác động qua lại với nhau, trong đó thực tiễn giữ vai trị
quyết đinh. Hồ Chí Minh khẳng định “ Thực tiễn khơng có lý luận hướng dẫn
thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận
sng”.
2.1. Thực tiễn đối với lý luận
• Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc của nhận thức
Trong quá trình hoạt động thực tiễn ln ln nảy sinh các vấn đề địi hỏi con
người phải giải đáp, do đó nhận thức được hình thành. Thơng qua hoạt động
thực tiễn mà con người tự hoàn thiện và phát triển thế giới quan ( tạo điều kiện
cho nhận thức cao hơn), cũng từ đó mà não bộ con người cũng ngày càng phát
triển hơn, các giác quan ngày càng hoàn thiện. Thực tiễn là nguồn tri thức
nhưng cũng đồng thời là đối tượng của nhận thức. Chính hoạt động thực tiễn
đã đặt ra các nhu cầu cho nhận thức, tạo ra các phương tiện hiện đại giúp con
người đi sâu tìm hiểu tự nhiên.
• Thực tiễn là động lực của nhận thức
Ngay từ đầu, nhận thức đã bắt nguồn từ thực tiễn, do thực tiễn quy định. Mỗi
bước phát triển của thực tiễn lại luôn luôn đặt ra những vấn đề mới cho nhận

thức. Thực tiễn trang bị những phương tiện mới, vận động và đề ra những nhu
cầu, nhiệm vụ cấp bách, rà sốt nhận thức địi hỏi các nhà lý luận phải không
ngừng giải quyết, thúc đẩy nhận thức, lý luận phát triển.
• Thực tiễn là mục đích của nhận thức
Hoạt động nhận thức, lý luận khơng có mục đích tự thân mà phải nhằm trở lại
phục vụ thực tiễn. Lý luận chỉ có ý nghĩa đích thực khi chúng được vận dụng
vào thực tiễn, phục vụ thực tiễn, làm biến đổi thực tiễn. Nhận thức chỉ trở về
hoàn thành chức năng của mình khi nó chỉ đạo hoạt động thực tiễn, giúp hoạt
động thực tiễn đạt hiệu quả hơn và cũng chỉ có thơng qua hoạt động thực tiễn
thì tri thức con người mới thể hiện sức mạnh vủa mình. Do vậy, thực tiễn chính
là thước đo đánh giá giá trị của lý luận.
• Thực tiễn là tiêu chuẩn của nhận thức

4
4


Lý luận có thể phản ánh đúng hoặc khơng đúng hiện thực khách quan. Để đánh
giá lý luận đó đúng hay sai phải được kiểm nghiệm thông qua thực tiễn. Thơng
qua thực tiễn con người mới vật chất hố được tri thức, hiện thực hoá được tư
tưởng, mới biết được nhận thức, lý luận của mình là đúng hay sai, và cũng từ
đó thì những lý luận đúng, phù hợp sẽ được bổ sung vào kho tàng tri thức nhân
loại, những kết luận chưa phù hợp với thực tiễn thì tiếp tục điều chỉnh , bổ
sung hoặc nhận thức lại.
• Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý khi thực tiễn đạt đến tính tồn vẹn của nó.
Tính tồn vẹn của thực tiễn là thực tiễn là thực tiễn đã trải qua quá trình tồn tại,
vận động, phát triển, chuyển hố. Đó là chu kỳ tất yếu của thực tiễn. Thực tiễn
có nhiều giai đoạn phát triển khác nhau. Nếu lý luận chỉ khái quát một giai
đoạn nào đó, một bộ phận nào đó của thực tiễn thì lý luận có thể xa rời thực

tiễn. Chính vì thế chỉ khi nào lý luận phản ánh được tính tồn vẹn của thực tiễn
thì mới đạt đến chân lý.
Đánh giá vai trò của thực tiễn đối với lý luận, V.I.Lênin viết “ Thực tiễn cao
hơn nhận thức, lý luận. Vì nó có ưu điểm khơng những của tính phổ biến mà
cịn của tính hiện thực trực tiếp”.
2.2. Lý luận đối với thực tiễn
• Lý luận có thể thúc đẩy tiến trình phát triển của thực tiễn nếu đó là lý
luận khoa học và ngược lại nó có thể kìm hãm sự phát triển của thực tiễn
nếu đó là lý luận phản khoa học, phản động, lạc hậu.
• Lý luận khoa học sẽ trở thành kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn. Nó
hướng dẫn, chỉ đạo, soi sáng cho thực tiễn, vạch ra phương pháp giúp
hoạt động thực tiễn đi đến thành cơng. Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng “
Khơng có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”. Lý luận đem lại
cho thực tiễn những tri thức đúng đắn về những quy luật vận động và
phát triển của thế giới khách quan, giúp con người xác định đúng mục
tiêu để hành động có hiệu quả, tránh được những sai lầm, vấp váp.
• Lý luận khoa học thâm nhập vào hoạt động của quần chúng tạo nên sức
mạnh vật chất, điều chỉnh hoạt động thực tiễn, giúp cho hoạt động của
con người trở nên tự giác, chủ động, tiết kiệm được thời gian, cơng sức,
hạn chế những mị mẫm, tự phát. Lý luận còn giáo dục, thuyết phục,
động viên và tập hợp quần chúng.
5
5


• Lý luận khoa học dự kiến sự vận động và phát triển của sự vật, hiện
tượng trong tương lai, từ đó chỉ ra phương hướng mới cho sự phát triển.
Lý luận cách mạng có vai trị to lớn đối với thực tiễn cách mạng, V.I.Lênin cho
rằng “Khơng có lý luận cách mạng thì khơng có phong trào cách mạng”, Mác
thì nhấn mạnh “ Lý luận khi thâm nhập vào quần chúng thì nó biến thành lực

lượng vật chất”.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
Việc quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn có ý nghĩa rất
quan trọng, giúp chúng ta tránh được bệnh kinh nghiệm cũng như bệnh giáo
điều, từ đó rút ra những quan điểm đúng đắn trong nhận thức cũng như rong
cuộc sống.
Trước hết, cần phải quán triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu
việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, sâu sát thực
tiễn, tổ chức hoạt động thực tiễn để triển khai lý luận, phải coi công tác tổng
kết thực tiễn để bổ sung phát triển lý luận. Việc nghiên cứu lý luận phải liên hệ
với thực tiễn, học đi đôi với hành, tránh tình trạng quan liêu, bàn giũa sách vở,
xa rời thực tiễn.
Đồng thời cần phải phát huy vai trò của lý luận đối với thực tiễn. Phát huy
vai trò của lý luận yêu cầu phải nâng cao trình độ tư duy lý luận, đổi mới
phương pháp tư duy, chuyển từ tư duy kinh nghiệm sang tư duy lý luận, từ tư
duy siêu hình, sang tư duy biện chứng duy vật, đổi mới công tác lý luận, hướng
công tác lý luận vào những vấn đề do cuộc sống đặt ra, làm rõ những căn cứ
khách quan.

CHƯƠNG II: VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT
GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ĐỂ LÝ GIẢI VỀ SỰ LỰA
CHỌN CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT
NAM.
Sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là hoàn toàn phù
hợp với quy luật chung của các nước đi lên chủ nghĩa xã hội, phù hợp với điều
kiện lịch sử của cách mạng Việt Nam, của thực tiễn quốc gia. Đồng thời đó
cũng là một tất yếu khách quan của lịch sử, được thể hiện trên cả hai phương
diện lý luận và thực tiễn.
6
6



1. Thực tiễn nước nhà khi lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
Sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quy luật tất
yếu, nó hồn tồn phù hợp với thực tiễn nước nhà, là sự lựa chọn có chọn lọc,
tìm hiểu, đưa ra quyết định thành lập và kiên định theo chủ nghĩa xã hội.
Thực tiễn nước ta vào những năm giữa thế kỷ XIX, đã bị các nước đế quốc
phương Tây lăm le, xâm lược (Thực dân Pháp 1858), chế độ phong kiến mục
ruỗng, trên đà suy thoái, các cuộc khởi nghĩa, phong trào yêu nước của các sĩ
phu (như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh,…) nổ ra song đều lâm vào bế tắc
và thất bại. Nguyên do là vì con đường cứu nước mà họ lựa chọn không phù
hợp với điều kiện kinh tế, xã hội, lịch sử nước nhà lúc bấy giờ. Giữa tình hình
đó thì ngày 5/6/1911, Nguyễn Tất Thành (sau này Chủ tịch nước đầu tiên của
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam) đã ra đi tìm đường cứu nước, sau
nhiều năm bơn ba ở nước ngồi thì đến tháng 7/1920; Người đã bắt gặp Luận
cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin, tìm ra con đường chân lý để
giải phóng dân tộc, Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc
khơng có con đường nào khác ngồi con đường cách mạng vơ sản”, từ đó
Người đã đi theo chủ nghĩa cộng sản, bắt đầu hình thành tư tưởng về chủ nghĩa
xã hội, trên cơ sở đó Người quyết định lựa chọn con đường phát triển của cách
mạng Việt Nam là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến triển lên cách
mạng chủ nghĩa xã hội, tích cực truyền bá tư tưởng Mác-Lênin về nước. Tình
hình trong nước lúc đó đang phát triển theo hai khuynh hướng đấu tranh: tư
sản và vô sản. Song với sự thất bại của Khởi nghĩa Yên Bái (2/1929) đã chấm
dứt ngọn cờ yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản. Cơng cuộc giải
phóng đất nước lúc bấy giờ chỉ còn duy nhất một khuynh hướng phù hợp với
quy luật khách quan, với thời đại và cách mạng Việt Nam, đó chính là khuynh
hướng vơ sản. Do vậy, vào tháng 2/1930, Nguyễn Ái Quốc đã đứng ra thành
lập nên Đảng Cộng sản Việt Nam – chính đảng của giai cấp công nhân lãnh
đạo cách mạng nước nhà đi đến thắng lợi. Cũng trong thời điểm thành lập

Đảng, Người đã khẳng định tính chất cách mạng Đơng Dương là cách mạng tư
sản dân quyền, sau đó chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa trong
Chính cương vắn tắt do Người soạn thảo năm 1930. Từ đó cho đến khi cách
mạng Tháng Tám thành công rực rỡ, Người đã vận dụng thống nhất giữa lý
luận của chủ nghĩa xã hội khoa học, Việt Nam hoá, phù hợp với thực tiễn nước
nhà.
7
7


Với việc xác định và lựa chọn con đường đúng đắn, nên tháng Tám năm
1945 nước ta đã giành được độc lập từ tay đế quốc Nhật, giải phóng con người
khỏi cảnh nô lệ lầm than, đưa nhân dân “rũ bùn đứng dậy sáng loà”. Thế
nhưng xuất phát điểm của nước ta ở giai đoạn ấy là rất thấp, từ một nước vốn
là nước thuộc địa nửa phong kiến, một xã hội tiền tư bản chủ nghĩa (có những
yếu tố của giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản với nền sản xuất nhỏ lẻ là chủ
yếu), kinh tế thì lạc hậu, trì trệ, nhỏ giọt; chính trị thì chưa ổn định (chính
quyền lâm thời non trẻ, thế lực thù địch và phản động trong ngồi lăm le), dân
trí thấp kém (hơn 90% dân số không biết chữ),…Với những đặc điểm và tình
hình đất nước như vậy đã quy định cả nội dung lẫn hình thức xây dựng, con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Do vậy, khi nói về con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Bác Hồ từng nhấn mạnh: “Đặc điểm to nhất của
nước ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên
chủ nghĩa xã hội mà không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa”. Với đặc điểm bao trùm này đã quy định loại hình phát triển của nước ta
khi tiến lên chủ nghĩa xã hội là loại hình “phát triển rút ngắn” theo phương
thức quá độ gián tiếp. Thực tiễn cho thấy, việc Việt Nam lựa chọn con đường
phát triển bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa là một tất yếu. Bởi lẽ
trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, chúng ta đã thấy rõ bản chất của
chế độ tư bản chủ nghĩa là một chế độ áp bức, bóc lột và nơ dịch con người.

Mặc dù tiến bộ hơn chế độ phong kiến, có nhiều điều chỉnh về mặt lợi ích, giải
quyết có hiệu quả về phát triển kinh tế cũng như một số vấn đề xã hội song với
chế độ tư hữu sản xuất, con người vẫn chịu cảnh áp bức, vẫn có cảnh giai cấp
thống trị chèn ép con người, chênh lệch giàu nghèo là rất lớn, phân biệt màu
da, chủng tộc vẫn chưa được khắc phục,…Do vậy, chủ nghĩa tư bản không
phải là một xã hội mà Việt Nam muốn hướng tới, trong khi đó chủ nghĩa xã hội
mới triệt để giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con người khỏi
ách áp bức bóc lột, xố bỏ triệt để chế độ chiếm hữu tư nhân, xác lập chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất, đem lại cuộc sống ấm no,tự do, hạnh phúc, đem
lại vị trí làm chủ chân chính cho người lao động. Song khơng phải không qua
chủ nghĩa tư bản là vứt bỏ, là phủ định sạch trơn mọi thành tựu của văn hoá và
văn minh nhân loại, mọi tiến bộ khoa học – kỹ thuật mà loài người đã đạt được
trong chế độ tư bản chủ nghĩa. Chưa kể đến, nước ta vốn ở điểm xuất phát
thấp, từ xã hội thuộc địa nửa phong kiến đi lên nên càng phải chú trọng khai
8
8


thác, vận dụng, phát huy những giá trị, những tri thức, những thành tựu của tư
bản chủ nghĩa, từ đó áp dụng vào thực tiễn xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa ở
nước ta. Thứ hai,“tiến thẳng” lên chủ nghĩa xã hội ở đây mang nghĩa chỉ là bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa, song để tiến tới chủ nghĩa xã hội thì chúng ta nhất
định phải “kinh qua” một thời kỳ phát triển đó là chế độ dân chủ nhân dân; mặt
khác với hoàn cảnh, điều kiện và trình độ của nước ta thì “tiến thẳng” lên chủ
nghĩa xã hội đòi hỏi phải tiến dần, từ từ, từng bước một, cố gắng đi nhanh và
hoàn thành kịp chỉ tiêu để bắt kịp thế giới, nhưng phải đúng với quy luật,
khơng thể chủ quan, duy ý chí, cũng không thể đốt cháy giai đoạn làm bừa,
làm ẩu. Đi lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình lâu dài cả về thời gian lẫn quy
cách, không phải muốn tiến lên là tiến lên được. Thứ ba, điều kiện không thể
thiếu cho phép nước ta lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, đó chính là

sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam – trải qua 2 cuộc kháng chiến, vị trí,
vai trị của Đảng đã được khẳng định và trở thành nhân tố hàng đầu cho quá
trình đi lên xã hội chủ nghĩa ở nước ta, Nhà nước chun chính cách mạng của
giai cấp cơng nhân, nông dân đã được thiết lập và được củng cố qua công cuộc
cứu quốc và kiến quốc. Như vậy, việc nước ta lựa chọn đi lên chủ nghĩa xã hội
là hồn tồn hồn tồn có cơ sở khoa học, phù hợp với thực tiễn nước nhà, với
lý luận của chủ nghĩa cộng sản, là sự lựa chọn của chính lịch sử Việt Nam.
2. Cơ sở lý luận của sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta
Trên cơ sở điều kiện thực tiễn của Việt Nam, ta thấy rõ việc nước ta đi lên chủ
nghĩa xã hội là một tất yếu, song không phải lựa chọn đi lên mà khơng có căn
cứ. Ngược lại, nước ta đã áp dụng thành công lý luận Mác-Lênin, trên cơ sở đó
Việt hố để phù hợp với tình hình nước nhà. Trước đây, khi nghiên cứu tình
hình nước Nga, C.Mác đã cho rằng sự tồn tại đồng thời của nền kinh tế tư bản
đã cho phép nước Nga áp dụng những thành tựu mà chế độ đó đạt được mà
không phải đi qua chủ nghĩa tư bản. Bổ sung cho ý kiến của Mác, Ph.Ăngghen
đã đề cập đến điều kiện tiên quyết cho khả năng tiến lên xã hội chủ nghĩa mà
khơng kinh qua tư bản, đó chính là sự thắng lợi của giai cấp vô sản ở các nước
phương Tây. Đặc biệt với sự thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga 1917
đã chứng minh chế độ không tưởng - xã hội chủ nghĩa là có thật chứ khơng cịn
là lý thuyết sng, cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng của các nước thuộc
địa trên thế giới, V.I.Lênin cũng đã khẳng định tính tất yếu của việc tiến thẳng
9
9


lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn tư bản, ơng nói: “Với sự giúp đỡ của giai
cấp vơ sản các nước tiên tiến, lạc hậu có thể tiến tới chế độ Xô Viết và qua
những giai đoạn phát triển nhất định, tiến tới chủ nghĩa cộng sản mà không
phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”. Trên cơ sở lý luận và quan

điểm đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu bản chất, mục tiêu của chủ nghĩa
xã hội một cách sâu sắc và sáng tạo. Trong tư tưởng của Người, chủ nghĩa xã
hội là “ một xã hội khơng có chế độ người bóc lột người, một xã hội bình đẳng,
ai cũng phải lao động và có quyền lao động, ai làm nhiều hưởng nhiều, ai làm
ít hưởng ít, một xã hội phát triển ở trình độ cao về văn hố, đạo đức, một xã
hội công bằng,…Là một xã hội do nhân dân lao động làm chủ”. Địa vị cao
nhất là dân, vì dân là chủ. Như vậy, với việc tiếp cận lý luận đúng đắn, lý
tưởng chân chính, Người đã tìm ra con đường giải phóng dân tộc phù hợp với
lịch sử nước nhà, với quy luật khách quan. Từ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh và
Đảng ta đã vận dụng sáng suốt lý luận Mác-Lênin vào thực tiễn Việt Nam, tạo
tiền đề vững mạnh cho sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa ở đất nước hình
chữ S.
3. Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn vào con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Thực tiễn Việt Nam trong hơn một thế kỷ qua đã cho thấy con đường kết hợp
độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu khách quan của dân
tộc, là chân lý, là động lực xuyên suốt tồn bộ tiến trình cách mạng nước nhà.
Sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn của lịch sử dân
tộc, của Đảng ta, của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, của tồn thể nhân dân.
Minh
chứng cho nó là sự ra đời của đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 2/1930), tiếp đó
là thắng lợi của Cách Mạng Tháng Tám 1945, của hai cuộc kháng chiến chống
Thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ, là thành tựu bước đầu của công cuộc đổi mới.
Như vậy nhờ vận dụng đúng đắn nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã phần nào được hoàn thiện,
vị thế quốc gia trên trường quốc tế được khẳng định,…76 năm trôi qua kể từ
khi nước ta quyết định lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, đất nước
đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử cả về kinh tế, chính trị,
xã hội, văn hố,…, khơng ngừng cải thiện đời sống, mức sống và chất lượng
cuộc sống của nhân dân. Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung

10
10


ương khoá XII của Đảng ta đã nhấn mạnh: “Đất nước ta chưa bao giờ có được
cơ đồ và vị thế như ngày hơm nay”. Điều đó càng chứng tỏ sự lựa chọn đi lên
xã hội chủ nghĩa của nước ta là một sự lựa chọn đúng đắn, một bước ngoặt vĩ
đại của lịch sử dân tộc.
Chính vì thế trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã tìm tịi, sáng
tạo, nghiên cứu kĩ lưỡng, đổi mới tư duy trong nhận thức, vận dụng sáng suốt
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là nguyên tắc thống
nhất giữa lí luận và thực tiễn để tiếp tục tiến hành sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Nên nhớ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp lâu dài và vơ
cùng khó khăn, gian khổ, nhất là với một nước có xuất phát điểm thấp như
nước ta, mặc dù hiện nay hoà bình đã lập lại trên bầu trời Việt Nam song các
thế lực thù địch, bọn phản động vẫn không ngừng chống phá nước ta,… Đây
cũng chính là q trình vừa học, vừa làm, vừa tổng kết, vừa đúc rút kinh
nghiệm, khái quát lý luận trên cơ sở lấy thực tiễn làm chân lý, là thử thách để
Đảng và Nhà nước ta rèn dũa, trưởng thành hơn trong nhận thức, khắc phục
những quan điểm giáo điều, những sai lầm chủ quan.
Hiện thực hoá những nội dung cơ bản của chủ nghĩa xã hội là một quá trình
cách mạng sâu sắc, triệt để. Đó là cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, giữa
cái lạc hậu với cái tiến bộ,… nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả lĩnh
vực của đời sống xã hội, làm cho các nội dung của chủ nghĩa xã hội hiện hình
vững chắc và phát triển ngày càng hồn thiện. Muốn hiện thực hố điều đó thì
trong sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải kiên định với con
đường đã chọn, phải khắc phục, vượt qua những nguy cơ tụt hậu về kinh tế,
tránh tình trạng suy thối tư tưởng chính trị, đạo đức, tư tưởng, văn hố, phịng
ngừa những tư tưởng giáo điều, lạc hậu, xa rời mục tiêu chủ nghĩa xã hội.

Ngăn ngừa âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hồ bình”, “bạo loạn lật đổ”, … của
các thế lực thù địch và bọn phản dộng trong và ngồi nước,…
Đơng thời phải lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng tư tưởng và là kim chỉ nam xuyên suốt hoạt động thực tiễn xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. Mở rộng giao lưu và tiếp thu có chọn lọc những thành
tựu tiên tiến của văn minh nhân loại để thúc đẩy nhanh hơn tiến trình xây dựng
xã hội chủ nghĩa ở nước nhà. Đẩy mạnh nghiên cứu, đặt ra những vấn đề mới
cần được lý giải để phát triển lý luận, tư tưởng. Cách mạng xã hội chủ nghĩa
11
11


diễn ra trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, liên quan đến tri thức của
tất cả các ngành khoa học, vì thế Đảng ta cần phải tiếp thu những tri thức tinh
hoa để làm
Căn cứ, cơ sở nền tảng cho việc xác lập đường lối, chủ trương xây dựng
XHCN. Bên cạnh đó, cần khắc phục và ngăn ngừa những tư tưởng giáo điều,
bệnh kinh nghiệm. Không ngừng nâng cao trình độ lý luận, hiểu biết của các
cán bộ, đảng viên, nâng cao dân trí, nhận thức tồn Đảng, tồn dân, khơng
ngừng đổi mới, học tập kinh nghiệm các quốc gia trên thế giới, đổi mới công
tác lý luận dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tưu tưởng Hồ Chí Minh.
Chúng ta đã lựa chọn con đường xây dựng đất nước đúng đắn – đi lên XHCN,
thì chúng ta càng phải cố gắng biến con đường đó thành hiện thực, xây dựng
XHCN là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân ta, của cả một đất nước.
KẾT LUẬN
Như vậy thông qua Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, chúng ta
đã chứng minh được con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là hoàn toàn
phù hợp với thực tiễn quốc gia, với lý luận cộng sản. Nhờ áp dụng đúng đắn
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mà nước ta đã hồn tồn giải
phóng, đưa nhân dân “rũ bùn đứng dậy chói lồ”, thốt cảnh nơ lệ, trở thành

người làm chủ, nắm trong tay vận mệnh dân tộc. Sau 76 năm kiên định con
đường đã chọn, giờ đây đất nước ta đã có những tiến bộ vượt bậc về kinh tế,
chính trị, văn hoá, xã hội, phát triển vững mạnh, đời sống nhân dân ấm no, chất
lượng cuộc sống cải thiện rõ rệt, uy tín trên trường quốc tế ngày càng tăng cao.
Đây là những động lực đáng kể để Đảng và Nhà nước ta tiếp tục đẩy mạnh và
hoàn thiện công cuộc xây dựng CNXH ở Việt Nam. Tuy nhiên trên con đường
xây dựng XHCN không thể tránh khỏi những sai lầm, bước đi sai lệch, vì thế
việc tiếp tục đi sâu nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, vận dụng nguyên tắc
thống nhất giữa lý luận với thực tiễn đóng vai trị vơ cùng to lớn đối với sự
nghiệp xây dựng XHCN ở nước ta.
Trên đây là một số tổng hợp, đánh giá của em về vấn đề: “Vận dụng
nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn để lý giải về sự lựa chọn
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta”. Vì lượng kiến thức hiểu biết
cịn có hạn nên bài làm của em khơng tránh khỏi những sai lầm, thiếu sót. Em

12
12


rất mong nhận được sự góp ý và hướng dẫn từ thầy cơ để bài làm của em được
hồn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

13
13



×