PHÂN TÍCH NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHÍNH CƯƠNG ĐẢNG LAO
ĐỘNG VIỆT NAM (2-1951)
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU…………………………………………………………………….4
PHẦN NỘI DUNG………………………………………………………………….4
CHƯƠNG I: BỐI CẢNH RA ĐỜI CHÍNH CƯƠNG LAO ĐỘNG VIỆT
NAM..................................................................................................................4
1.1. Tình hình thế giới………………………...……………………….4
1.2. Tình hình trong nước…………………………………………….5
CHƯƠNG II: NỘI DUNG CHÍNH CỦA CHÍNH CƯƠNG ĐẢNG LAO
ĐỘNG VIỆT NAM THÁNG 2 NĂM 1951………………………………….8
2.1. Tính chất của Cách mạng Việt Nam……………………………..8
2.2. Đối tượng của Cách mạng Việt Nam……………………………..9
2.3. Nhiệm vụ của Cách mạng Việt Nam……………………………..9
2.4. Lực lượng của Cách mạng Việt Nam…………………………….9
2.5. Chính sách của Đảng………………………………………….....10
CHƯƠNG III: GIÁ TRỊ CỦA CHÍNH CƯƠNG ĐẢNG LAO ĐỘNG VIỆT
NAM (2-1951) TRONG SỰ NGHIỆP LÃNH ĐẠO CÁCH MẠNG CỦA
ĐẢNG TA………………………………………………………………11
KẾT LUẬN…………………………………………………………………………..12
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………...12
3
PHẦN MỞ ĐẦU
Từ ngày thành lập đến nay, Ðảng Cộng sản Việt Nam đã trải qua 13 kỷ đại hội.
Mỗi giai đoạn lịch sử, Đảng ta lại có một sứ mệnh với những chiến lược cách mạng
khác nhau. Tinh thần của Chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đã được vận
dụng sáng tạo và kết tinh qua các bản cương lĩnh, chính cương của Đảng. Mỗi văn
kiện đó đều chứa đựng những giá trị nội dung, ý nghĩa lớn lao riêng và có vai trị lịch
sử trọng đại đối với vận mệnh của quốc gia dân tộc.
Từ năm 1950, phong trào cách mạng trên thế giới phát triển mạnh mẽ. Hệ thống
xã hội chủ nghĩa đã được củng cố và tăng cường về mọi mặt. Phong trào giải phóng
dân tộc vẫn tiếp tục phát triển làm rung chuyển hậu phương của chủ nghĩa đế quốc.
Phong trào bảo vệ hồ bình thế giới trở thành phong trào quần chúng rộng rãi. Thắng
lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam, đã đưa nhân dân ta từ người mất
nước lên người làm chủ đất nước. Nhưng dã tâm xâm lược của thực dân Pháp không
dừng lại ở đó, một lần nữa nhân dân ta lại phải tiếp tục cầm súng đứng lên đánh giặc
để bảo vệ nền tự do, độc lập. Cuộc kháng chiến dần bước sang giai đoạn mới với
những yêu cầu mới, đòi hỏi Đảng ta phải giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn
cấp bách để đưa cách mạng tiến lên.
Bên cạnh đó, từ sau năm 1930, Đảng Cộng sản Đơng Dương đã ln làm trịn vai
trị và sứ mệnh lịch sử của mình với tu cách là Đảng duy nhất lãnh đạo cách mạng của
va nước Đơng Dương. Tuy nhiên, tình thế lịch sử đã có những bước phát triển riêng
biệt. Địi hỏi mỗi nước cần phải thành lập một chính đảng cách mạng theo Chủ nghĩa
Mác-Lênin, trực tiếp đảm nhiệm sứ mệnh lịch sử trước dân tộc mình và chủ động góp
phần vào sự nghiệp cách mạng chung của nhân dân ba dân tộc.
Đại hội đại biểu lần thứ II Đảng Cộng sản Đông Dương được triệu tập trong
khoảng thười gian từ từ ngày 11 đến ngày 19-2-1951 tại xã Vinh Quang, huyện Chiêm
Hóa, tỉnh Tuyên Quang. Để hiểu rõ hơn đường hướng phát triển của cách mạng Việt
Nam trong giai đoạn này, em xin chọn đề tài: “Phân tích nội dung chính cương Đảng
lao động Việt Nam tháng 2 năm 1951” từ đó thấy được những giá trị lý luận và thực
tiến của chính cương trong kho tàn lịch sử cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam.
CHƯƠNG I: BỐI CẢNH RA ĐỜI CHÍNH CƯƠNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM
1.1. Tình hình thế giới
Sau khi chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc, hệ thống các nước xã hội chủ
nghĩa ra đời, với trụ cột là Liên Xô. Đây là một nhân tố mới, làm thay đổi tương quan
lực lượng tồn cầu, có lợi cho phong trào cách mạng thế giới, trong đó có cách mạng
Việt Nam. Tuy nhiên, trong những năm mới hình thành, Liên Xơ và các nước xã hội
4
chủ nghĩa Đông Âu tập trung khắc phục hậu quả chiến tranh và tiến hành các nhiệm vụ
cách mạng của nước mình nên chưa quan tâm nhiều tới khu vực Đơng Nam Á nói
chung và Việt Nam nói riêng.
Đến năm 1950, tình hình kinh tế- xã hội của Liên Xơ và các nước xã hội chủ
nghĩa Đông Âu đã dần đi vào ổn định và phát triển. Liên Xô đã đi vào thực hiện kế
hoạch 5 năm 1946-1950 và chế tạo thành cơng vũ khí ngun tử (1949), phá thế độc
tơn của Mỹ về loại vũ khí này. Sự vững mạnh của Liên Xô là chỗ dựa vững chắc cho
hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, nguồn cổ vũ lớn lao cho các dân tộc đang bị áp
bức bóc lột của chủ nghĩa thực dân, đế quốc.
Bên cạnh đó, tháng 10-1949, cách mạng Trung Quốc thành công, nước Cộng hòa
Dân chủ Nhân dân Trung Hoa ra đời đã giáng một đòn mạnh vào chủ nghĩa đế quốc,
đánh đổ một bộ phận quan trọng trong hệ thống thuộc địa của chúng, góp phần cổ vũ
cho phong trào giải phóng dân tộc toàn thế giới và tăng cường sức mạnh của hệ thống
xã hội chủ nghĩa. Thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ ở Trung Quốc và sự ra đời
của nhà nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa theo đường lối xã hội chủ nghĩa đã làm
cho hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa được mở rộng từ Tây sang Đơng, một hậu
phương bao la ở phía Bắc đã mở ra đối với nước ta. Đó là điều kiện vô cùng thuận lợi
đối với cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam.
1.2. Tình hình trong nước
Sau 5 năm thực hiện đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ dựa
vào sức mình là chính, dưới sự lãnh đạo của Đảng sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc
của Nhân dân Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng.
Trên lĩnh vực quân sự, thắng lợi của cuộc phản cơng lớn ở Việt Bắc là thắng lợi
có ý nghĩa chiến lược quan trọng trong những năm đầu toàn quốc kháng chiến, làm
phá sản chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” của thực dân Pháp; giữ vững căn cứ địa
kháng chiến của cả nước; bảo toàn và phát triển lực lượng kháng chiến. Qua chiến
dịch phản công đầu tiên này, Đảng ta có thêm nhiều kinh nghiệm chỉ đạo chiến tranh.
Nhìn toàn cục, chiến thắng Việt Bắc tạo ra sự biến đổi đáng kể trong so sánh lực lượng
giữa ta và địch, tạo ra thế chiến lược mới có lợi cho ta. Thực dân Pháp buộc phải
chuyển hướng sang “đánh lâu dài” với âm mưu “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng
người Việt trị người Việt”.
Để đập tan âm mưu của địch và xuất phát từ yêu cầu phát triển lực lượng, mở
rộng chiến tranh nhân dân, xây dựng ba thứ qn làm nịng cốt cho tồn dân đánh giặc,
từ giữa năm 1948, Trung ương Đảng đã đề ra chủ trương phân tán hai phần ba bộ đội
chủ lực thành các đại đội độc lập, kết hợp tác chiến với vận động quần chúng đẩy
mạnh phong trào chiến tranh du kích phá tề, trừ gian; kết hợp chiến tranh du kích với
5
nổi dậy của quần chúng phá tề, xây dựng chính quyền cách mạng ở nông thôn, xây
dựng làng chiến đấu và các căn cứ du kích là một chủ trương quan trọng trong hai năm
1948-1949.
Thực hiện chủ trương của Đảng, hàng nghìn cán bộ, hàng trăm đại đội độc lập và
đội xung phong công tác, đội vũ trang tuyên truyền đã được tăng cường vào vùng tạm
bị chiếm. Phong trào chống thuế, chống bắt phu, bắt lính, trừ gian... nổi dậy đồng loạt
ở nhiều nơi vùng sau lưng địch phát triển thành phong trào tổng phá tề rầm rộ. Chính
quyền bù nhìn bị tan vỡ từng mảng.
Chính quyền cách mạng được lập lại ở nhiều nơi với những hình thức thích hợp.
Nhiều làng chiến đấu được thành lập và đương đầu có hiệu quả với các cuộc càn phá
ác liệt của địch. Để tăng cường xây dựng bộ đội chủ lực, tháng 11-1949, Chủ tịch Hồ
Chí Minh ra sắc lệnh về nghĩa vụ quân sự. Hàng vạn thanh niên náo nức tòng quân,
đưa quân số lên 23 vạn. Đầu năm 1950, hai đại đoàn chủ lực và nhiều trung đoàn chủ
lực của Bộ Tổng Tư lệnh và của các quân khu ra đời. Dân quân tự vệ phát triển lên tới
ba triệu người.
Trên mặt trận kinh tế, thực hiện nhiệm vụ xây dựng kinh tế kháng chiến và đấu
tranh kinh tế với địch, Đảng và Chính phủ kháng chiến chủ trương xây dựng nền kinh
tế dân chủ nhân dân, vừa tự cấp, tự túc, đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của cuộc
kháng chiến, đồng thời tích cực đấu tranh chống lại những hành động phá hoại của
địch. Về nông nghiệp, tháng 2 năm 1949, Chính phủ ra sắc lệnh tịch thu ruộng đất của
thực dân và Việt gian phản động, tạm chia cho dân cày. Thực hiện xóa nợ cũ, giảm tô,
giảm tức cho nông dân. Đẩy mạnh công tác thủy lợi, hướng dẫn nông dân đi vào làm
ăn tập thể với nhiều hình thức thích hợp, khuyến khích nhân dân khai hoang, phục hóa.
Đến đầu năm 1950, cả nước có 1.562 hợp tác xã và 25.491 tổ đổi công. Sản lượng
lương thực ngày càng tăng.
Năm 1950 từ Liên khu IV trở ra, sản lượng lúa đạt xấp xỉ 2,4 triệu tấn. Lương
thực cho cuộc kháng chiến đã được đáp ứng. Về sản xuất công nghiệp và tiểu thủ cơng
nghiệp có những bước phát triển mạnh mẽ. Ngành cơng nghiệp quốc phịng đến năm
1949 có 130 xưởng sản xuất vũ khí nhằm phục vụ cho quốc phịng và dân sinh. Nhà
máy cơ khí Trần Hưng Đạo và một số xưởng chế tạo đã sản xuất được các loại máy
như: máy in, máy khoan, máy tiện, máy cưa. Các mỏ than trong vùng tự do như Tân
Trào (Tuyên Quang), Quán Triều (Thái Nguyên) được phục hồi và khai thác phục vụ
sản xuất công nghiệp. Nghề làm giấy, dệt vải, làm muối, xà phòng, thuốc lá, đường,
phát triển mạnh tại nhiều nơi trong cả nước.
Trên mặt trận văn hóa, giáo dục, y tế nhân dân ta đã thu được những thắng lợi
quan trọng. Tháng 7 năm 1948, Đại hội Văn hóa toàn quốc lần thứ hai được triệu tập
6
tại Việt Bắc. Tại Đại hội, Tổng Bí thư Trường Chinh đã đọc báo cáo Chủ nghĩa Mác và
văn hóa Việt Nam, nêu rõ lập trường, tính chất, nhiệm vụ của văn hóa kháng chiến.
Hội Văn hóa Việt Nam được thành lập, các hoạt động văn hóa, văn nghệ trong vùng tự
do được đẩy mạnh. Đội ngũ văn nghệ sỹ hăng hái hịa nhập vào cuộc sống sơi động
của dân tộc. Đời sống văn hóa kháng chiến được nâng cao, phát triển.
Về giáo dục, phong trào xóa nạn mù chữ và phát triển các loại trường lớp được
đẩy mạnh. Năm 1948 có thêm bốn triệu người biết chữ. Hà Tĩnh là địa phương đầu
tiên xóa nạn mù chữ. Năm 1950, Bộ Giáo dục thực hiện chương trình cải cách giáo
dục. Từ Liên khu IV ra đến Việt Bắc đã có gần 1.000 trường tiểu học và trung học. Ở
Liên khu V, phần lớn các huyện có trường cấp II và tỉnh có trường cấp III. Ở Nam Bộ,
tình hình có khó khăn hơn. Các tỉnh mới lập được trường tiểu học, tồn miền mới có
hai trường trung học là trường Nguyễn Văn Tố và trường Thái Văn Lung. Đến năm
1949, chúng ta cũng đã có các trường đại học Y khoa, Sư phạm, Mỹ thuật tại Việt Bắc.
Về y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân đã có những thành công rất cơ bản. Phong
trào “ăn sạch, uống sạch, ở sạch” phát triển rộng rãi trong cả nước. Việc chữa bệnh đi
liền với phòng bệnh. Chúng ta đã xây dựng được một hệ thống cơ sở y tế từ Trung
ương đến liên khu, tỉnh, huyện và xã. Các trường đại học, viện nghiên cứu và các bệnh
viện đã sản xuất được một số loại thuốc cơ bản như Pênixilin, Steptômixin.
Trên mặt trận chính trị, cơng tác xây dựng chính quyền cũng đã thu được nhiều
thắng lợi quan trọng. Uy tín chính trị của Chính phủ kháng chiến ngày càng được
khẳng định. Bộ máy nhà nước từng bước được kiện toàn. Công tác xây dựng Đảng
được chú trọng. Hàng chục vạn cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang, công nhân, nơng
dân, trí thức ưu tú qua thử thách được kết nạp vào Đảng. Qua cuộc vận động xây dựng
“chi bộ tự động công tác”, tổ chức cơ sở đảng được tôi luyện, trưởng thành và thực sự
là hạt nhân lãnh đạo kháng chiến ở các địa phương.
Về đối ngoại, đầu năm 1950 cùng với việc Trung Quốc, Liên Xô, Triều Tiên và
các nước dân chủ nhân dân Đông Âu công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Chính
phủ ta, nhân dân nhiều nước châu Á, châu Phi đã dành cho nhân dân Việt Nam tình
cảm đặc biệt và sự ủng hộ tích cực. Phong trào phản chiến của nhân dân Pháp phát
triển rầm rộ. Mối quan hệ truyền thống, liên minh chiến đấu của ba nước Đông Dương
được tăng cường. Với sự giúp đỡ, phối hợp của quân và dân ta, các khu căn cứ kháng
chiến ở Trung Lào, Hạ Lào được thành lập; Uỷ ban Dân tộc giải phóng Khơme ra đời.
Thế liên minh chiến đấu ba nước Đông Dương càng thêm vững chắc.
Để tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đẩy mạnh kháng chiến đến thắng
lợi hoàn toàn là một nhiệm vụ hết sức quan trọng. Để đáp ứng yêu cầu bức thiết của
cuộc kháng chiến, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng đã được triệu tập.
7
Đại hội đã nghiên cứu và thơng qua Chính cương Ðảng Lao động Việt Nam do Chủ
tịch Hồ Chí Minh và Tổng Bí thư Trường Chinh chỉ đạo soạn thảo.
Qua đó đã hoạch định ra đường hướng phát triển của cách mạng Việt Nam trong
thời kỳ mới. Đại hội quyết định đưa Đảng ra hoạt động công khai lấy tên là Đảng Lao
động Việt Nam. Có thể nói, Đại hội lần thứ II của Đảng là một cột mốc quan trọng
đánh dấu sự trưởng thành của Đảng về mọi mặt và Chính cương Đảng lao động Việt
Nam đã trở thành một vũ khí lý luận sắc bén, quyết định cho sự thành công của cách
mạng Việt Nam giai đoạn sau này.
CHƯƠNG II: NỘI DUNG CHÍNH CỦA CHÍNH CƯƠNG ĐẢNG LAO ĐỘNG
VIỆT NAM THÁNG 2 NĂM 1951.
Chính cương Đảng lao động Việt Nam tháng 2 năm 1951 có bố cục gồm ba chương:
Chương I: Thế giới và Việt Nam;
Chương II: Xã hội Việt Nam và cách mạng Việt Nam;
Chương III: Chính sách của Đảng Lao động Việt Nam.
Nội dung chính của Chính cương được thể hiện trên các phương diện sau:
2.1. Tính chất của Cách mạng Việt Nam
Giai đoạn này, Cách mạng Việt Nam có ba tính chất:
Dân chủ, nhân dân và một phần thuộc địa nửa phong kiến. Ba tính chất đó đang
đấu tranh lẫn nhau, nhưng mâu thuẫn chủ yếu lúc này là mâu thuẫn giữa tính chất dân
chủ nhân dân và tính chất thuộc địa. Mâu thuẫn đó đang được giải quyết trong quá
trình kháng chiến của dân tộc Việt Nam chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ.
Đảng ta căn cứ vào 3 loại hình cách mạng của Lênin (cách mạng giải phóng dân
tộc, cách mạng tư sản kiểu mới và cách mạng vô sản) gọi cách mạng Việt Nam là cách
mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân. Đồng chí Trường Chinh giải thích:
Gọi là cách mạng dân tộc vì nó đánh đổ đế quốc giành độc lập cho dân tộc.
Gọi là cách mạng dân chủ vì nó đánh đổ giai cấp phong kiến giành lại ruộng đất
cho nơng dân.
Gọi là cách mạng nhân dân vì nó do nhân dân tiến hành cuộc cách mạng ấy.
Đồng thời, Chính cương cịn khẳng định: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
nhất định sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đây là một quá trình lâu dài và đại thể trải qua
ba giai đoạn:
•Giai đoạn thứ nhất, nhiệm vụ chủ yếu là hồn thành giải phóng dân tộc.
•Giai đoạn thứ hai, nhiệm vụ chủ yếu là xoá bỏ những di tích phong kiến và nửa
phong kiến, thực hiện triệt để người cày có ruộng, phát triển kỹ nghệ, hồn chỉnh chế
8
độ dân chủ nhân dân.
•Giai đoạn thứ ba, nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng cơ sở cho chủ nghĩa xã hội, tiến
lên thực hiện chủ nghĩa xã hội
Ba giai đoạn ấy không tách rời nhau, mà mật thiết liên hệ, xen kẽ với nhau. Và
đường lối, chính sách của Đảng sẽ được bổ sung, phát triển qua các hội nghị trung
ương tiếp theo dựa trên thực tiễn lịch sử cách mạng.
2.2 Đối tượng của Cách mạng Việt Nam
Đối tượng chính là chủ nghĩa đế quốc xâm lược cụ thể lúc này là đế quốc được
đánh dấu bằng sự ra đời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Tuy nhiên, chúng ta vẫn
phải đương đầu với kẻ thù chính thực dân đế quốc. Tiêu diệt được kẻ thù này chúng ta
mới có được độc lập dân tộc.
Trong nước, tàn dư của chế độ cũ vẫn còn, chúng biến tướng thành tay sai phản
động. Đó là bè lũ phong kiến tay sai sẵn sàng bắt tay với giặc ngoại xâm mà ra sức
chống phá cách mạng. Chính vì thế, chúng ta phải sáng suốt nhận định kẻ thù của cách
mạng để đưa ra được những sách lược phù hợp.
2.3 Nhiệm vụ của Cách mạng Việt Nam
Trên cơ sở nhận định kẻ thù và mục tiêu của cuộc cách mạng, Đảng ta xác định
rõ ba nhiệm vụ cụ thể như sau:
Thứ nhất: Đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, giành độc lập và thống nhất cho
quốc gia, dân tộc
Thứ hai: Xoá bỏ những tàn tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người
cày có ruộng
Thứ ba: Phát triển chế độ dân chủ nhân dân gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội.
Ba nhiệm vụ đó khăng khít với nhau. Song nhiệm vụ chính trước mắt là hồn
thành giải phóng dân tộc. Vì có giải phịng dân tộc thì mới chặt đứt được tay sai phong
kiến. Có độc lập dân tộc thì mới có thể đi lên xây dựng xã hội chủ nghĩa đẻ đem alij
cuộc sống ấm no cho nhân dân. Và hơn lúc nào hết, chúng ta phải tập trung lực lượng
vào cuộc kháng chiến để hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc.
2.4 Lực lượng của Cách mạng Việt Nam
Đó là tập hợp cách lực lượng bao gồm các giai – tầng yêu nước. Họ là những
người công nhân bị bóc lột trong xưởng máy, là người nơng dày bị cướp mất ruộng, là
tiểu tư sản, tư sản dân tộc u nước, sẵn sàng vì cuộc chiến tranh chính nghĩa. Ngồi
ra cịn phải quy tụ những thân sĩ (địa chủ) yêu nước và tiến bộ. Những giai cấp, tầng
lớp và phần tử đó họp lại thành nhân dân, mà nền tảng là cơng nơng, lao động trí óc.
Giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng. Điều này được Chính cương
9
nêu rất rõ: "Người lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân. Đảng lao động Việt Nam
là Đảng của giai cấp công nhân và của nhân dân lao động Việt Nam. Mục đích của
Đảng là phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam, để thực hiện tự do, hạnh phúc cho giai cấp công nhân, nhân dân lao động và tất
cả các dân tộc đa số, thiểu số ở Việt Nam”.
2.5 Chính sách của Đảng
Để cụ thể hóa Đảng đưa ra 15 chính sách nhằm đẩy phát triển chế độ dân chủ
nhân dân, gây mầm mống cho chủ nghĩa xã hội và đẩy mạnh kháng chiến đến thắng
lợi. 15 chính sách là sự tổng hợp các lĩnh vực khác nhau. Cụ thể bao gồm:
1. Kháng chiến
2. Chính quyền nhân dân
3. Mặt trận dân tộc thống nhất
4. Quân đội
5. Kinh tế tài chính
6. Cải cách ruộng đất
7. Vǎn hố giáo dục
8. Đối với tơn giáo
9. Chính sách dân tộc
10. Đối với vùng tạm bị chiếm
11. Ngoại giao
12. Đối với Miên, Lào
13. Đối với ngoại kiều
14. Đấu tranh cho hồ bình và dân chủ thế giới
15. Thi đua ái quốc
Như vây, Chính cương đã xác định đối tượng của cách mạng Việt Nam là chủ
nghĩa đế quốc xâm lược, cụ thể lúc này là đế quốc Pháp và bọn can thiệp Mỹ, bọn
phong kiến phản động. Kẻ thù chính là chủ nghĩa đế quốc xâm lược.
Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ là đánh đuổi đế quốc xâm
lược, giành độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc; xố bỏ những tàn tích phong
kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng; phát triển chế độ dân chủ nhân
dân, gây dựng cơ sở cho chủ nghĩa xã hội. Ba nhiệm vụ đó quan hệ khăng khít với
nhau, song nhiệm vụ chính trước mắt lúc đó là hồn thành giải phóng dân tộc.
Động lực của cách mạng là nhân dân, bao gồm: công nhân, nơng dân, tiểu tư sản
thành thị, trí thức, tư sản dân tộc và những thân sĩ (địa chủ) yêu nước và tiến bộ. Nền
tảng của nhân dân là công nhân, nơng dân và trí thức. Người lãnh đạo là giai cấp cơng
nhân. Đó là một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và tiến lên chủ nghĩa xã
10
hội; là một quá trình đấu tranh lâu dài, trải qua nhiều giai đoạn; các giai đoạn ấy không
tách rời nhau mà mật thiết liên hệ xen kẽ với nhau. Nhưng mỗi giai đoạn có một nhiệm
vụ trung tâm, phải tập trung lực lượng để thực hiện nhiệm vụ trung tâm đó.
Chính cương cũng đã đề ra các chính sách lớn để đẩy mạnh kháng chiến đến
thắng lợi và đặt cơ sở để kiến thiết quốc gia.
CHƯƠNG III: GIÁ TRỊ CỦA CHÍNH CƯƠNG ĐẢNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM
(2-1951) TRONG SỰ NGHIỆP LÃNH ĐẠO CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG TA
Chính cương Đảng Lao động Việt Nam với việc xác định đầy đủ và chi tiết
những vấn đề chiến lược của cách mạng Việt Nam. Với hai nhiệm vụ chính là: Đưa
kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn và xây dựng Đảng Lao động Việt Nam. Để hồn
thành nhiệm vụ đó, Chính cương đã đề ra những chính sách và biện pháp hệ trọng, cấp
thiết như: Đẩy mạnh xây dựng lực lượng vũ trang về mọi mặt; củng cố và phát triển
Mặt trận dân tộc thống nhất, phát huy tinh thần yêu nước và đẩy mạnh thi đua ái quốc;
triệt để giảm tô, giảm tức, tịch thu ruộng đất của thực dân và việt gian chia cho dân
cày nghèo.
Với chủ trương đúng đắn và sáng tạo, Chính cương đã phát huy mạnh mẽ truyền
thống yêu nước, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, khơi dậy khát vọng giành độc
lập, tự do và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Qua đó quyết tâm thực hiện Chính cương của
Đảng Lao động Việt Nam, xây dựng tổ chức Đảng Lao động Việt Nam vững mạnh.
Với khát vọng cháy bỏng về độc lập, tự do cho dân tộc: “Chúng ta thà hy sinh tất cả,
chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nơ lệ” chính cương
được coi là kim chỉ nam đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của
nhân dân ta đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Trên quan điểm kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa MarxLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam; Chính cương là thái
độ kiên định giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội; nắm chắc
quan điểm bảo đảm trên hết và trước hết lợi ích quốc gia-dân tộc, giữ vững độc lập, tự
chủ, mở rộng hợp tác quốc tế trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa.
Nhìn lại chặng đường 70 năm qua, chúng ta càng thấu hiểu và nhận thức rõ, đây
là những bài học vô cùng quý báu về sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt
Nam, càng có tầm quan trọng và ý nghĩa sâu sắc hơn đối với việc đẩy mạnh tồn diện,
đồng bộ cơng cuộc đổi mới hiện nay, nhất là việc đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh
đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện, đồng bộ, ngang tầm
nhiệm vụ, đáp ứng những yêu cầu mới của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đảng toàn quốc lần thứ II đặc biệt là Chính cương của đảng lao động Việt Nam
11
là mốc son đánh dấu bước phát triển nới trong quá trình lãnh đạo và trưởng thành của
Đảng ta, làm tăng thêm thông tin của quần chúng nhân dân đối với sự lãnh đạo của
Đảng. Qua đó, nhân dân thế giới hiểu thêm về cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam.
Từ đây, cách mạng Việt Nam nhận được sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của các nước
xã hội chu nghĩa, phong trào công nhân quốc tế. Tạo điều kiện thúc đấy cuộc kháng
chiến của nhân dân ta tiến lên, giành những thắng lợi mới.
KẾT LUẬN
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược trong suốt thế
kỷ XX ở Việt Nam là một điển hình về một dân tộc nhỏ bé có thể thắng một dân tộc
lớn, một quân đội trang bị vũ khí kém có thể thắng một đội qn xâm lược đơng có
trang bị tốt hơn. Đường lối chiến tranh nhân dân, nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh là ngọn đuốc rực sáng đã dẫn dắt nhân dân ta làm nên
những thắng lợi vẻ vang “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”
Có thể nói, Cách mạng là sự vận động có quy luật, đồng thời trong từng hồn
cảnh và điều kiện cụ thể thì lịch sử cách mạng đặt ra những yêu cầu khác nhau. Điều
đó địi hỏi lực lượng lãnh đạo cách mạng mà cụ thể ở đây là Đảng cộng sản Việt Nam
phải luôn sáng tạo không ngừng để đưa ra những chiến lược, sách lược linh hoạt qua
từng thời kỳ lịch sử.
Từ Cương lĩnh đầu tiên của Đảng năm 1930, cho đến Chính cương của đảng lao
động Việt Nam năm 1951 hay Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội năm 1991 sau này và những văn kiện khác của Đảng đều đã thể hiện
sức mạnh tập trung, sáng suốt, là tư tưởng nhất quán về cách mạng dân tộc dân chủ
Việt Nam tất yếu đến cách mạng xã hội chủ nghĩa, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa
xã hội; nhân dân là động lực cách mạng; Đảng Cộng sản lãnh đạo cách mạng; Nhà
nước, Chính phủ, quân đội của nhân dân; xây dựng nước Việt Nam hịa bình, thống
nhất dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Các Cương lĩnh đó
đều được xây dựng dựa trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm đường lối của Đảng, thực tiễn cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới.
12