Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Phát triển các khu công nghiệp ở tỉnh vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (876.63 KB, 99 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ
-------------------------

TRẦN MINH NGỌC

PHÁT TRIỂN CÁC KHU CƠNG NGHIỆP
Ở TỈNH VĨNH PHƯC

Chun ngành

: Kinh tế chính trị

Mã số

: 60 31 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. MAI THỊ THANH XUÂN

HÀ NỘI – 2010


MỤC LỤC
Trang
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng biểu
MỞ ĐẦU
Chƣơng 1


1
Những vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển khu công
nghiệp

1.1. Khái niệm và đặc điểm khu cơng nghiệp

8
8

1.2. Vai trị của khu cơng nghiệp đối với phát triển kinh tế - xã hội
và các nhân tố ảnh hƣởng đến sự phát triển khu công nghiệp.

14

1.3. Các chỉ tiêu đánh giá sự phát triển các khu công nghiệp

24

1.4. Kinh nghiệm phát triển khu công nghiệp của một số địa
phƣơng

27

Chƣơng 2

Thực trạng phát triển các khu công nghiệp trên địa bàn
tỉnh Vĩnh Phúc.

35


2.1. Tiềm năng phát triển khu công nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc

35

2.2. Thực trạng phát triển các khu công nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc
1998 – 2010

41

2.3. Những đóng góp chủ yếu của các khu cơng nghiệp vào sự phát
triển kinh tế - xã hội tỉnh Vĩnh Phúc.

59

2.4 Một số hạn chế và nguyên nhân trong quá trình phát triển khu
công nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc

67

Chƣơng 3

Định hƣớng và giải pháp phát triển các khu công nghiệp
tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2020.

73

3.1. Quan điểm, mục tiêu phát triển các khu công nghiệp tỉnh Vĩnh
Phúc.

73


3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các KCN
tỉnh Vĩnh Phúc.

76

KẾT LUẬN

93

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

94

2


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực tiễn phát triển của các nƣớc trên thế giới những năm qua đã chứng
tỏ việc thành lập các khu công nghiệp (KCN), khu chế xuất (KCX) là một trong
những giải pháp quan trọng đối với việc đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa (CNH, HĐH) và phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc. Vận dụng kinh
nghiệm thế giới vào điều kiện Việt Nam, từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VII (1991) Đảng và Nhà nƣớc đã chủ trƣơng thí điểm và triển khai việc xây
dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII (1996) định hƣớng chiến lƣợc xây dựng và phát triển các KCN đã đƣợc
triển khai trong cả nƣớc, và từng bƣớc đƣợc bổ sung, hoàn thiện tại các Đại hội
tiếp theo. Để phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất đúng hƣớng, Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ X (2006) của Đảng đã xác định: “Hoàn chỉnh quy

hoạch phát triển các khu, cụm, điểm cơng nghiệp trên cả nước; hình thành các
vùng cơng nghiệp trọng điểm; gắn việc phát triển sản xuất với bảo đảm nhà ở và
các điều kiện sinh hoạt cho người lao động. Chuyển các cơ sở công nghiệp
trong nội thành, nội thị, gần khu đông dân cư không bảo đảm tiêu chuẩn môi
trường vào các KCN tập trung hoặc các vùng ít dân cư” [24].
Thực hiện đƣờng lối đó, đến nay cả nƣớc đã có 250 KCN, KCX, KTT
đƣợc thành lập ở 57 tỉnh, thành phố trong cả nƣớc, trong đó 170 khu đã đi vào
hoạt động. Tính chung các KCN, KCX, KTT đã thu hút đƣợc 8.500 dự án đầu tƣ
trong và ngoài nƣớc, với tổng vốn đăng hơn 70 tỷ USD, trong đó vốn đầu tƣ trực
tiếp nƣớc ngồi là 52 tỷ USD (chiếm 71,4%), đóng góp trên 30% giá trị sản xuất
công nghiệp cả nƣớc, và tạo việc làm cho hơn 1,5 triệu ngƣời [50]. Các KCN,
KCX đã và đang trở thành điểm thu hút các nguồn đầu tƣ trong và ngồi nƣớc,
đón nhận các tiến bộ khoa học – công nghệ và tạo ra những nhân tố quan trọng
góp phần đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế - xã hội
của đất nƣớc.
Vĩnh Phúc là một tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, cách
thủ đơ Hà Nội hơn 50 km. Vĩnh Phúc cũng là tỉnh có nhiều tiềm năng, lợi thế để
3


hình thành và phát triển các KCN nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội nói
chung. Vì vậy, ngay khi có chủ trƣơng xây dựng các KCN của Đảng và Nhà
nƣớc, từ năm 1998, Vĩnh Phúc đã thành lập KCN đầu tiên và đến nay trên địa
bàn tỉnh Vĩnh Phúc đã thành lập và cấp giấy chứng nhận đầu tƣ cho 07 KCN,
trong đó có 5 KCN đã đi vào hoạt động với tổng diện tích là 1.462 ha, thu hút
đƣợc 513 dự án đầu tƣ trong và ngoài nƣớc, với tổng vốn 2.105 triệu USD; 02
KCN mới đang ở thời kỳ xây dựng cơ bản và 13 KCN đƣợc thủ tƣớng Chính
phủ chấp thuận chủ trƣơng đầu tƣ đến năm 2020 [10]. Thành cơng đó đã góp
phần đƣa Vĩnh Phúc trở thành một tỉnh có năng lực cạnh tranh cao thứ 3, của cả
nƣớc sau Đà Nẵng và Bình Dƣơng. Tuy nhiên, sự phát triển KCN tỉnh Vĩnh

Phúc còn nhiều vấn đề đặt ra cần giải quyết nhƣ: số dự án đầu tƣ từ các thị
trƣờng lớn nhƣ Mỹ và EU cịn hạn chế, mới chiếm có 1,5% tổng số vốn đầu tƣ
vào KCN trên địa bàn tỉnh; các dự án đầu tƣ cho phát triển cơ sở hạ tầng, phát
triển dịch vụ, các ngành công nghiệp phụ trợ và các ngành cơng nghệ cao cịn ít;
và vấn đề ô nhiễm môi trƣờng sinh thái, vấn đề việc làm cho ngƣời dân mất đất
do phải chuyển cho các KCN .v.v..
Những khó khăn, hạn chế đó đã và sẽ là những lực cản to lớn đối với sự
phát triển các KCN trên địa bàn, địi hỏi phải có những nghiên cứu, đánh giá để
tìm ra giải pháp hữu hiệu hơn thúc đẩy các KCN phát triển hiệu quả hơn. Để góp
phần giải quyết yêu cầu đó, tác giả chọn vấn đề: “Phát triển các khu công
nghiệp ở Vĩnh Phúc” làm đề tài luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Phát triển KCN khơng cịn là một vấn đề mới, song việc nghiên cứu nó thì
vẫn cịn rất cần thiết đối với nƣớc ta. Đã có nhiều hội thảo khoa học, nhiều luận
án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ, cũng nhƣ các bài nghiên cứu khác nghiên cứu về
vấn đề này. Trong đó, liên quan trực tiếp đến đề tài là những cơng trình đáng
chú ý sau:
“Kinh nghiệm thế giới về phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất và đặc
khu kinh tế” của Viện kinh tế học năm 1994. Trong cơng trình này, các tác giải
đã nghiên cứu kinh nghiệm của thế giới trong việc phát triển khu chế xuất, trong
4


đó đặc biệt nhấn mạnh tới các vấn đề: mối quan hệ giữa khu chế xuất và việc cải
cách chính sách; luật lao động và việc làm, cải cách thƣơng mại, thuế, vai trò
của ngân hàng thế giới đối với các khu công nghiệp, khu chế xuất và đặc khu
kinh tế. Các tác giả còn nghiên cứu cụ thể kinh nghiệm tại một số đặc khu kinh
tế và các thành phố ven biển ở Trung Quốc.
“Khu công nghiệp, khu chế xuất các tỉnh phía Nam” của Bộ Kế hoạch và
Đầu tƣ, xuất bản năm 2002, đã đánh giá khái quát về những thành công và hạn

chế của các khu công nghiệp, khu chế xuất tại các tỉnh này và đề xuất giải pháp
khắc phục
“Nghiên cứu mơ hình quản lý nhà nước về khu công nghiệp, khu chế xuất
ở Việt Nam”, đề tài cấp Bộ năm 2002. Nội dung đề tài giới thiệu kinh nghiệm
quản lý các khu công nghiệp, khu chế xuất của nƣớc ngoài, đánh giá những mặt
tốt và những hạn chế của mơ hình quản lý đang áp dụng tại Việt Nam, trên cơ
sở đó đề xuất ra một số mơ hình quản lý mới nhằm nâng cao hiệu quả quản lý
các khu công nghiệp, khu chế xuất trong thời gian tới.
“Một số vấn đề kinh tế - xã hội Việt Nam thời kỳ đổi mới” của Nguyễn
Văn Thƣờng, nhà xuất bản Chính trị quốc gia, năm 2004. Tác giả đƣa ra một cái
nhìn tổng quan về vấn đề phát triển nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
Trong đó có những phân tích sâu sắc về vấn đề phát triển khu công nghiệp, khu
chế xuất, khu kinh tế với vai trò đầu tàu trong chuyển dịch cơ cấu và phát triển
vùng kinh tế trọng điểm.
“Các giải pháp nhằm nâng cao vai trò và hiệu quả quản lý nhà nước, bảo
vệ môi trường ở các khu công nghiệp, khu chế xuất” của Trƣơng Thị Minh Sâm,
nhà xuất bản Khoa học xã hội, năm 2004. Trong tác phẩm này, tác giả đã đánh
giá khá chi tiết và tồn diện tình trạng ơ nhiễm mơi trƣờng ở các khu công
nghiệp, khu chế xuất vùng kinh tế trọng điểm phía nam, những thách thức đặt ra
đối với cơng tác quản lý nhà nƣớc về bảo vệ môi trƣờng, đề xuất một hệ thống
các giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực quản lý nhà nƣớc đối với vấn đề này ở các
KCN, KCX trên địa bàn này.
Riêng trong năm 2004, cả nƣớc có tới 6 cuộc hội thảo khoa học bàn về
5


phát triển KCN, KCX, trong đó Hội thảo với chủ đề “Phát triển KCN, KCX ở
các tỉnh phía Bắc - những vấn đề lý luận và thực tiễn” do Bộ kế hoạch và Đầu
tƣ phối hợp với Tạp chí Cộng sản và Uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hoá tổ chức
tại Thanh Hoá, với hơn 40 bài tham luận đƣợc gửi đến. Các bài viết đã tập trung

vào một số vấn đề cơ bản, nhƣ vị trí, vai trị của các KCN, KCX; quan điểm của
Đảng và Nhà nƣớc về phát triển KCN, KCX, một số vấn đề lý luận về KCN,
KCX; công tác quy hoạch phát triển các KCN, KCX; chính sách liên quan đến
phát triển KCN, KCX; những nguyên nhân dẫn đến tình trạng kém phát triển của
các KCN phía Bắc so với KCN phía Nam; tổ chức bộ máy quản lý nhà nƣớc đối
với các KCN, KCX và vấn đề tạo động lực cho các KCN, KCX.
Tháng 7 năm 2006, Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ đã tổ chức hội nghị - hội thảo
quốc gia với chủ đề “15 năm xây dựng và phát triển các KCN, KCX ở Việt
Nam” tại tỉnh Long An. Tại hội thảo đã có 100 bài viết và tham luận về vấn đề
này. Các bài tham luận tập trung nhìn nhận lại những thành tựu đạt đƣợc, những
hạn chế và kinh nghiệm xây dựng và phát triển KCN, KCX ở nƣớc ta, kiến nghị
phƣơng hƣớng và giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển, nâng cao chất lƣợng hoạt
động của các KCN, KCX.
Về vấn đề này cũng đã có một số luận án tiến sĩ và luận văn thạc sỹ
nghiên cứu nhƣ:
“Các giải pháp hoàn thiện và phát triển KCN ở Việt Nam”, luận án tiến
sỹ của tác giả Trần Ngọc Hƣng, trƣờng Đại học Thƣơng Mại, năm 2004. Trong
luận án, tác giả đã khái quát những lý luận cơ bản về KCN và phát triển KCN
trong quá trình CNH, HĐH. Đồng thời phân tích và đánh giá thực trạng phát
triển KCN ở Việt Nam. Từ đó chỉ những nguyên nhân, tồn tại và đƣa ra các vấn
đề cần giải quyết để hoàn thiện và phát triển KCN ở Việt Nam thời gian qua
“Một số giải pháp nhằm phát triển các KCN và cụm công nghiệp trên địa
bàn Hà Nội trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”, Luận án tiến sĩ kinh tế
của tác giả Nguyễn Quốc Bình, trƣờng đại học Ngoại Thƣơng. Tác giả đã nghiên
cứu sự hình thành và phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp ở Việt
Nam và trên thế giới. Đánh giá thực trạng hoạt động và đề xuất một số giải pháp
6


nhằm phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp trên địa bàn Hà Nội

“Phát triển KCN tỉnh Bắc Ninh theo hướng bền vững”, Luận văn thạc sỹ
Kinh tế của Đinh Hồng Dũng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm
2008 đã tập trung nghiên cứu việc phát triển các KCN ở tỉnh Bắc Ninh theo
hƣớng bền vững. Luận văn đã đề xuất những giải pháp nhằm đẩy nhanh tốc độ
tăng trƣởng giải quyết việc làm, các vấn đề xã hội, mơi trƣờng…Tuy nhiên,
cơng trình này mới chỉ đề cập đến mối quan hệ phát triển các KCN và phát triển
bền vững của địa phƣơng, chƣa đề cập sâu sắc đến sự phát triển nội tại KCN.
“Đảm bảo đời sống của người lao động trong các KCN ở Đồng Nai”,
Luận văn thạc sỹ Kinh tế của Nguyễn Thị Ngọc Hiệp, Đại học Quốc Gia Hà
Nội. Luận văn đã khảo sát, phân tích một cách tồn diện về thực trạng đời sống
cơng nhân KCN Đồng Nai. Qua đó, đề xuất những phƣơng hƣớng và giải pháp
chủ yếu nhằm đảm bảo đời sống ngƣời lao động KCN Đồng Nai hiện nay
Ngồi ra có nhiều bài nghiên cứu trên các tạp chí chuyên ngành về vấn đề
này, nhƣ:
“ Phát triển KCN, KCX đến năm 2020 - triển vọng và thách thức” của tác
giả Võ Thanh Thu đăng trên Tạp chí Cộng Sản, số 9, năm 2006. Bài viết đã đƣa ra
8 nhóm thành tựu cơ bản và chỉ ra những bất cập trong vấn đề phát triển KCN Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay, từ đó, đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát
triển hơn nữa các KCN đến năm 2020
“Thành tựu và định hướng phát triển các KCN Vĩnh Phúc đến năm 2010”
của tác giả Nguyễn Công Lộc đăng trên Tạp chí Kinh tế và Dự Báo, số 2, năm
2005. Tác giả đã phân tích khái quát những thành tựu về thu hút đầu tƣ và quy
hoạch các KCN trên địa bàn tỉnh. Đồng thời, tác giả cũng đƣa ra những định hƣớng
cụ thể cho việc phát triển các KCN đến năm 2010.
“Tác động của các KCN đối với tăng trưởng kinh tế ở Đồng Nai và những
bài học kinh nghiệm” của tác giả Nhƣ Hùng đăng trên Tạp chí Cộng Sản, số 15,
năm 2008 đã phân tích một cách hệ thống những tác động của KCN đối với sự phát
triển kinh tế của tỉnh và rút ra 7 bài học kinh nghiệm sau 15 năm phát triển KCN của
tỉnh Đồng Nai
7



Các cơng trình tên đã cung cấp cho tác giả cơ sở lý luận và nhiều tài liệu, số
liệu để kế thừa trong quá trình thực hiện luận văn của mình. Tuy vậy, các cơng
trình này mới chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề chung về KCN trên phạm vi
tổng thể cả nƣớc, hoặc trên một địa bàn - một vùng, một tỉnh khác. Về khu công
nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc, tuy đã có một vài nghiên cứu nhƣng chỉ là dƣới dạng bài
báo, nên về nội dung cũng chỉ dừng lại ở một mặt cụ thể nào đó. Vì vậy, có thể nói,
cho đến nay, vấn đề phát triển khu cơng nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc vẫn chƣa có cơng
trình khoa học nào nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện, nhất là với tƣ cách
một luận văn thạc sỹ chuyên ngành kinh tế chính trị
3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:

Mục đích nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở phân tích thực trạng phát triển các KCN ở tỉnh Vĩnh Phúc, luận
văn tìm ra những hạn chế và nguyên nhân của nó, đồng thời đề xuất phƣơng
hƣớng và giải pháp phát triển có hiệu quả các KCN trên địa bàn này.
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Để đạt đƣợc mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:

- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản và kinh nghiệm phát triển KCN.
- Đánh giá những thành tựu và hạn chế trong việc phát các KCN trên
địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc trong thời gian qua, chỉ ra những hạn chế và ngun
nhân của tình trạng đó.

- Đƣa ra định hƣớng và đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát
triển có hiệu quả các KCN tỉnh Vĩnh Phúc.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:

- Đối tượng nghiên cứu: là sự phát triển các KCN, bao gồm KCN, KCX
và cụm cơng nghiệp tên các khía cạnh số dự án, vốn đầu tƣ, tỷ lệ lấp đầy và tác
động của chúng đến việc làm, đời sống, môi trƣờng của tỉnh Vĩnh Phúc
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu là địa bàn tỉnh
Vĩnh Phúc. Tuy nhiên, luận văn cũng nghiên cứu một số địa phƣơng khác để rút
ra bài học kinh nghiệm.
8


+ Về thời gian: Luận văn nghiên cứu quá trình phát triển KCN tỉnh
Vĩnh Phúc từ khi ra đời đến nay, đặc biệt là từ 2005 đến nay
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu:
- Cơ sở lý luận: Dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng
Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển
kinh tế nói chung và các KCN nói riêng.
- Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện đề tài này, luận văn chủ yếu sử
dụng phƣơng pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và phƣơng pháp của Kinh
tế chính trị. Luận văn cũng sử dụng kết hợp các phƣơng pháp hệ thống, thống kê
- so sánh, phân tích - tổng hợp, lơgic - lịch sử, khảo sát thực tế, tổng kết thực
tiễn. Đồng thời đề tài có kế thừa chọn lọc những tƣ liệu trong một số cơng trình
nghiên cứu của các tác giả đi trƣớc.
6. Đóng góp mới của luận văn:

- Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển các KCN của tỉnh Vĩnh Phúc
từ 1998 đến nay.

- Tìm ra nguyên nhân dẫn đến các hạn chế của sự phát triển các KCN
Vĩnh Phúc thời gian qua.


- Đề xuất một số giải pháp cơ bản có tính khả thi nhằm phát triển KCN
ở Vĩnh Phúc thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn đƣợc kết cấu thành 3 chƣơng, 10 tiết

9


CHƢƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
PHÁT TRIỂN KHU CÔNG NGHIỆP

1.1.

KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM KHU CÔNG NGHIỆP

1.1.1. Khái niệm và phân loại khu công nghiệp
a) Khái niệm khu cơng nghiệp
Khu cơng nghiệp (KCN) đƣợc hình thành và phát triển ở các nƣớc tƣ bản
phát triển vào những năm cuối của thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Năm 1896, xuất
hiện KCN đầu tiên ở Traffort Park thành phố Manchester (Anh). Sau đó, KCN
lần lƣợt đƣợc thành lập ở các nƣớc khác nhƣ Mỹ (1899), Italia (1904); và kể từ
những năm 50 thế kỷ XX thì KCN thực sự bùng nổ, trở thành phổ biến ở các
nƣớc. Ngày nay, KCN xuất hiện ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Theo số
liệu của Hội đồng nghiên cứu phát triển Quốc tế (IDRC), đến năm 2005 đã có
12.600 KCN nằm rải rác ở 90 quốc gia. Trong đó: Hoa Kỳ là 8800, Canada:
1.200, Đức: 300, Anh 200 và Hà Lan 130, Malaixia có 166 KCN, Hàn Quốc
147, Indonesia 117 và Nhật Bản 95. [20]

Mặc dù KCN đã phát triển từ rất lâu, nhƣng cho tới nay, vẫn chƣa có một
định nghĩa thống nhất về KCN. Theo quan điểm của Tổ chức phát triển công
nghiệp Liên hợp quốc UNIDO (1990): KCN là khu vực tƣơng đối nhỏ, phân
cách về mặt địa lý trong một quốc gia nhằm mục tiêu thu hút đầu tƣ vào các
ngành công nghiệp hƣớng về xuất khẩu bằng cách cung cấp cho các ngành công
nghiệp này những điều kiện về đầu tƣ mậu dịch thuận lợi đặc biệt so với phần
lãnh thổ còn lại của nƣớc chủ nhà. [14, tr.48]
Ở Thái Lan và Philippin, KCN đƣợc quan niệm nhƣ một thành phố công
nghiệp và thực tế nó là một cộng đồng tự túc và độc lập. Ngoài việc cung cấp
kết cấu hạ tầng, các tiện nghi, tiện ích cơng cộng hồn chỉnh và xử lý chất thải,
KCN cũng bao gồm khu thƣơng mại, dịch vụ ngân hàng, trƣờng học, bệnh viện,
các khu vui chơi giải trí, khu nhà ở cho cơng nhân… Các KCN ở Thái Lan và
Philippin thƣờng tồn tại các hình thức: khu sản xuất hàng tiêu thụ nội địa, khu
sản xuất hàng xuất khẩu và khu thƣơng mại dịch vụ.
10


Tại Việt Nam, các KCN trƣớc đây thƣờng đƣợc hiểu là nơi tập trung
nhiều doanh nghiệp sản xuất công nghiệp. Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
VII (năm 1991), Đảng chủ trƣơng “Quy hoạch các vùng, trƣớc hết là các địa bàn
trọng điểm, các KCX, KKT đặc biệt, KCN tập trung”. Tiếp đó, Nghị quyết Đại
hội VIII của Đảng năm 1996 xác định rõ thêm: “Cần hình thành các KCN tập
trung (bao gồm cả KCN và KCNC) tạo địa bàn thuận lợi cho việc xây dựng các
cơ sở công nghiệp mới. Phát triển đẩy mạnh công nghiệp nông thôn và ven đô
thị. Ở các thành phố, thị xã nâng cấp, cải tạo các cơ sở cơng nghiệp hiện có, đƣa
các cơ sở khơng có khả năng xử lý ơ nhiễm ra ngoài thành phố, hạn chế việc xây
dựng các cơ sở công nghiệp mới xen lẫn với khu dân cƣ”. [24]
Cùng với quá trình đổi mới nền kinh tế cách hiểu về KCN cũng có những
sự thay đổi. Chẳng hạn theo Nghị định 36/NĐ – CP ngày 24/4/1997 của Chính phủ
ban hành quy chế KCN, KCX, KCNC, khái niệm KCN đƣợc nêu ra nhƣ sau: KCN

là khu tập trung các DN chuyên sản xuất hàng CN và thực hiện các DV cho sản
xuất CN, có ranh giới địa lý xác định, khơng có dân cƣ sinh sống; nhƣng tại Nghị
định số 29/2008/NĐ – CP ngày 14/3/2008 của Chính phủ đã không đề cập đến vấn
đề dân cƣ trong KCN. Cụ thể, Nghị đinh 29/2008/NĐ – CP quy định KCN là:
“Khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện dịch vụ cho sản xuất cơng
nghiệp, có ranh giới địa lý rõ ràng”.
Theo TS Nguyễn Đình Quản, KCN là một khu có ranh giới địa lý xác
định, có những điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng, về chính sách, cơ chế ƣu đãi
và chế độ quản lý riêng dành cho sự phát triển của các doanh nghiệp sản xuất,
kinh doanh công nghiệp và thực hiện các dịch vụ công nghiệp.
Theo Luật Đầu tƣ năm 2005, KCN là khu chuyên sản xuất hàng CN và
thực hiện các DV cho sản xuất CN, có ranh giới địa lý xác định. [37]
Các quan niệm trên tuy diễn đạt khác nhau, nhƣng đều thống nhất ở một
số điểm chủ yếu:
Thứ nhất, KCN là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các
dịch vụ cho sản xuất cơng nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, có hệ thống kết
cấu hạ tầng kỹ thuật – xã hội đồng bộ đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh
11


doanh và đời sống của ngƣời lao động, đƣợc thành lập theo quy định của Chính
phủ. Trong khu cơng nghiệp có thể có doanh nghiệp chế xuất và doanh nghiệp
cơng nghệ cao. Về thực chất, đây là khu hành chính kinh tế đặc biệt nhƣ KCN
Batam (Indonesia), công viên công nghiệp ở Đài Loan, Thái Lan và một số nƣớc
Tây Âu, khu kinh tế mở Chu Lai, Dung Quất ở Việt Nam.
Thứ hai, KCN là lãnh thổ có giới hạn nhất định, tập trung các doanh
nghiệp công nghiệp, doanh nghiệp dịch vụ sản xuất cơng nghiệp, khơng có dân
cƣ sinh sống. Mơ hình này đƣợc xây dựng ở một số nƣớc nhƣ Malaixia,
Indonesia, Thái Lan, Đài Loan, Trung Quốc và Việt Nam.
Từ đó, có thể khái quát lại: KCN là một lãnh thổ có ranh giới địa lý xác

định, có những điều hiện tƣơng ứng với phát triển công nghiệp về tự nhiên,
cơ sở hạ tầng, quản lý nhà nƣớc, tập trung các doanh nghiệp sản xuất công
nghiệp, các doanh nghiệp dịch vụ có liên quan đến hoạt động cơng nghiệp
b) Phân loại khu cơng nghiệp:
Tuỳ theo góc độ tiếp cận, KCN có thể phân loại theo nhiều cách khác nhau:
- Theo tính chất ngành nghề, KCN đƣợc chia thành các loại sau: KCN
chuyên ngành, KCN đa ngành, KCN sinh thái, KCN đô thị, KCN đô thị - công
nghệ cao.
KCN chun ngành: là KCN đƣợc hình thành từ các xí nghiệp cơng
nghiệp cùng một loại ngành hoặc một ít ngành CN khác nhau nhƣng cùng sản
xuất ra một số loại sản phẩm. Ví dụ nhƣ khu gang thép Thái Nguyên, Hóa chất
Việt Trì, Lọc dầu Dung Quất .v.v..
KCN đa ngành: là KCN bao gồm nhiều xí nghiệp thc nhiều ngành công
nghiệp khác nhau. KCN đa ngành cho phép thoả mãn đƣợc yêu cầu về lãnh thổ
cho sản xuất công nghiệp, tiết kiệm đầu tƣ hạ tầng, song rất dễ gây ra tác động
xấu giữa các xí nghiệp khác nhau.
KCN đơ thị (cơng viên cơng nghiệp): là mơ hình mang tính cộng sinh
giữa công nghiệp và đô thị. Các KCN phát triển hài hịa trong khơng gian đơ thị
với hệ thống dịch vụ hoàn chỉnh, hỗ trợ nhau cùng phát triển trong môi trƣờng
sạch và bền vững.
12


Khu đơ thị - cơng nghệ cao (cịn gọi là cơng viên khoa học): là mơ hình
mang tính chất cộng sinh giữa đô thị, các trung tâm nghiên cứu và đào tạo với
các dự án cơng nghệ cao. Đó là vƣờn ƣơm khoa học, ứng dụng triển khai các
công nghệ mới, nơi đào tạo nguồn nhân lức cao và các dịch liên quan trong môi
trƣờng đô thị sinh thái.
KCN sinh thái: là mơ hình mang tính cộng sinh cơng nghiệp. Các ngành
công nghiệp đƣợc lựa chọn sao cho các nhà máy có một liên hệ với nhau, hỗ trợ

và tƣơng tác với nhau tạo nên môi trƣờng sạch và bền vững. Với mơ hình này
thì phế liệu của nhà máy sẽ là nguyên liệu, vật tƣ của nhà máy kia.
- Dựa vào đặc điểm của KCN, ngƣời ta chia KCN thành:
KCN tập trung: Là một quần thể liên hoàn các xí nghiệp, có thể là đa
ngành, chun ngành; đƣợc xây dựng trên một vùng có thuận lợi về mặt địa lý,
điều kiện tự nhiên, điều kiện xã hội, có cơ sở hạ tầng tốt.
KCN chế xuất: là một dạng đặc biệt của KCN (cịn gọi là KCX). Tại đó,
chun sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất
khẩu và các loại hoạt động xuất khẩu. Trong KCX, doanh nghiệp đƣợc tạo điều
kiện thƣơng mại và hoạt động trong mơi trƣờng thơng thống.
KCX là một dạng đặc biệt của KCN, nhƣng giữa KCX và KCN có sự
khác nhau nhất định, xuất phát từ sự khác nhau về mục đích, đối tƣợng tham
gia hay mối liên kết của chúng đối với nền kinh tế. Đối với KCN thƣờng đƣợc
thành lập ở những vùng mà kinh tế chƣa phát triển, nguồn lao động dƣ thừa
nhƣng có một số yếu tố thuận lợi nhƣ tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý …
KCN đƣợc nhận một sự ƣu tiên nhất định từ phía chính phủ và chính quyền địa
phƣơng với một vai trò nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế vùng. KCN bao gồm
các doanh nghiệp trong nƣớc và doanh nghiệp nƣớc ngồi. Nhƣ vậy, so với
KCN thì KCX cũng đƣợc xác định là KCN nhƣng tập trung những doanh
nghiệp chuyên sản xuất chế biến các hàng xuất khẩu, đƣợc sự ƣu tiên đặc biệt
của Chính phủ. KCX có vai trị then chốt trong việc chuyển từ nền kinh tế khép
kín sang nền kinh tế mở.
Khu cơng nghệ cao: là KCN trong đó tập trung các doanh nghiệp có cơng
13


nghệ kỹ thuật cao và các đơn vị hoạt động phục vụ cho phát triển công nghệ cao bao
gồm nghiên cứu, triển khai khoa học, công nghệ, đào tạo và các dịch vụ liên quan.
Cụm công nghiệp: là tên gọi chung cho các cụm công nghiệp – tiểu thủ
công nghiệp, thực chất là KCN tập trung nhƣng có quy mơ nhỏ, do Chủ tịch

UBND cấp tỉnh quyết định thành lập (hoặc phân cấp quyết định thành lập) theo
quy hoạch phát triển cơng nghiệp trên địa bàn để bố trí các cơ sở sản xuất công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và ngành nghề truyền thống trong diện di dời khỏi
nội thành, nội thị hoặc các khu dân cƣ tập trung, và thu hút các dự án đầu tƣ với
quy mô vừa và nhỏ.
- Theo đặc điểm và cấp quản lý: KCN gồm 3 loại: (1) KCN do chính phủ
quyết định thành lập: đó là các khu cơng nghiệp, khu chế xuất và khu công nghệ
cao; (2) KCN do UBND tỉnh, thành phố quyết định thành lập: đó là các cụm
cơng nghiệp - tiểu thủ công nghiệp; (3) KCN do UBND huyện, thị quyết định
thành lập.
1.1.2. Đặc điểm khu công nghiệp
Thứ nhất, KCN là nơi tập trung nhiều nhà máy, xí nghiệp sản xuất ra các
sản phẩm công nghiệp khác nhau, đồng thời cũng sử dụng lƣợng lớn nguyên,
nhiên liệu, năng lƣợng và thải ra lƣợng chất thải khổng lồ. Do tính tập trung sản
xuất CN ở mật độ cao nhƣ vậy nên các vấn đề kinh tế - kỹ thuật của KCN trở nên
rất khác biệt. Thể hiện:
 Việc bố trí các doanh nghiệp trong KCN đòi hỏi vừa phải đảm bảo tính
hiệu quả trong sử dụng đất đai và cơ sở hạ tầng, vừa không ảnh hƣởng xấu đến
nhau. Để làm đƣợc nhƣ vậy, quy hoạch trong các KCN phải đƣợc tính tốn và
giải quyết bằng các giải pháp kỹ thuật tối ƣu.
 KCN địi hỏi phải có đủ các điều kiện kinh tế - kỹ thuật nhƣ cơ sở hạ
tầng ngoài hàng rào KCN, nguồn cung cấp điện, nƣớc… thì KCN mới vận hành
có hiệu quả . Hơn nữa do nhu cầu về các nguồn lực này khá lớn nên KCN đòi
hỏi phải đƣợc cam kết cung cấp ƣu tiên.
 KCN địi hỏi phải có hệ thống xử lý chất thải phù hợp. Bởi nếu không
đề cao yêu cầu xử lý chất thải trƣớc khi thải ra môi trƣờng, thì với khối lƣợng
chất thải lớn, các KCN có thể huỷ diệt môi trƣờng xung quanh.
14



Thứ hai, các KCN cịn địi hỏi phải có diện tích đất khá lớn, tập trung tại
một địa điểm, địa hình tƣơng đối bằng phẳng, thích hợp cho xây dựng các cơng
trình cơng nghiệp, gần nguồn nƣớc, có cơ sở hạ tầng thích hợp. Đây cũng là lý
do của tình trạng quỹ đất xây dựng KCN thƣờng lấn chiếm quỹ đất nông nghiệp
và đất đô thị. Khi các KCN đƣợc xây dựng nhiều sẽ gây sức ép, thậm chí xung
đột với nhu cầu đất của dân cƣ. Điều đó địi hỏi việc xây dựng các KCN phải
theo quy hoạch cân đối, hài hoà hợp lý các khu đất giành cho sinh hoạt, cho
nông, lâm nghiệp, thuỷ sản và cho các KCN tập trung.
Thứ ba, KCN thƣờng đƣợc xây dựng ở những nơi có vị trí địa lý thuận lợi
nhƣ gần các đƣờng giao thông, thuận tiện trong giao lƣu với các trung tâm kinh
tế lớn, gần cảng biển, sân bay…, bởi tại đó có nhiều ƣu thế trong thu hút đầu tƣ
vào các KCN.
Thứ tư, KCN sử dụng lƣợng lao động lớn do đây là nơi tập trung các
doanh nghiệp sản xuất công nghiệp và cung cấp các dịch vụ sản xuất cơng
nghiệp, với nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau, ở nhiều lĩnh vực khác nhau.
Nhƣng cũng chính vì thu hút lực lƣợng lao động lớn nên kéo theo nhiều hậu quả
xã hội. Dễ thấy nhất là vấn đề ngƣời lao động ngụ cƣ. Những ngƣời này vừa
khơng có nhà ở, khơng có sự hỗ trợ của gia đình, khơng ổn định nên rất khó
quản lý. Hơn nữa, sự biến động đột biến của lƣợng lao động ngụ cƣ có thể gây
sức ép lên hệ thống giáo dục, y tế và nhà ở địa phƣơng. Khi xây dựng các KCN,
địa phƣơng cần lƣờng trƣớc các yếu tố phát sinh này.
Hơn nữa, trong quá trình vận hành các KCN thƣờng xuất hiện các xung
đột giữa ngƣời sử dụng lao động và ngƣời lao động, dễ gây thành các cuộc đình
cơng, bãi cơng lớn do tính chất lây truyền và do các doanh nghiệp ở gần nhau.
Nếu các tổ chức chính trị, xã hội không khéo léo giải quyết các xung đột này có
thể gây bất ổn cho cả vùng.
Ngồi ra, KCN cũng đòi hỏi cơ quan quản lý và điều hành chung các vấn
đề trong khu. Nếu cơ quan này khơng đƣợc quản lý và vận hành tốt thì hiệu quả
hoạt động của KCN sẽ bị ảnh hƣởng nghiêm trọng.
Tóm lại, một mặt KCN là một thực thể độc lập, cả về lãnh thổ lẫn các

15


điều kiện sản xuất kinh doanh gắn với cơ bản của nó là sản xuất cơng nghiệp tập
trung ở mật độ cao. Mặt khác, KCN không tồn tại độc lập mà có mối quan hệ
chặt chẽ về mọi mặt với các lãnh thổ khác về đầu vào, đầu ra và ảnh hƣởng
ngoại sinh. Vấn đề làm sao đề cả trong, ngoài KCN các quá trinh kinh tế, xã hội,
tự nhiên đều diễn ra tốt đẹp. Giải quyết yêu cầu đó là nhiệm vụ của doanh
nghiệp kinh doanh KCN và cơ quan quản lý nhà nƣớc.
1.2. VAI TRÕ CỦA KHU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN
KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN SỰ PHÁT
TRIỂN KCN
1.2.1. Vai trị của khu cơng nghiệp
1.2.1.1. Thu hút vốn đầu tư, tăng tổng thu nhập quốc dân và kim
ngạch xuất khẩu
Hầu hết các nƣớc đang phát triển trên thế giới đang phải đối đầu với
những khó khăn về thiếu hụt vốn, cơ sở hạ tầng kinh tế thấp kém, kỹ thuật –
cơng nghệ lạc hậu, trình độ quản lý, tay nghề chƣa cao, mơi trƣờng, thể chế đầu
tƣ chƣa hồn thiện… Tuy nhiên, xu thế tồn cầu hố kinh tế hiện nay đang tạo
ra những cơ hội to lớn để việc khắc phục những yếu kém đó.
Việc các nƣớc thực hiện quy hoạch, phát triển KCN là phƣơng thức phù
hợp tạo điều kiện để tập trung đầu tƣ có trọng điểm. Do có kết cấu hạ tầng hiện
đại hơn và cơ chế quản lý thơng thống hơn so với bên ngồi, nên KCN đã trở
thành một địa điểm để thu hút vốn đầu tƣ, đặc biệt là vốn đầu tƣ nƣớc ngoài, tập
trung các doanh nghiệp sản xuất và chế biến cơng nghiệp. Nói cách khác, KCN
sẽ tạo cơ hội đƣa nhanh kỹ thuật mới vào sản xuất, thúc đẩy tiến bộ khoa học và
công nghệ; xây dựng các ngành công nghiệp mũi nhọn, nâng cao vị trí chủ đạo
của cơng nghiệp trong nền kinh tế, bảo đảm tốc độ tăng trƣởng kinh tế nhanh và
bền vững.
Theo WB, đến 1999 trên phạm vi tồn thế giới đã có khoảng 43% số dự

án đầu tƣ vào các KCN là do doanh nghiệp trong nƣớc; 24% do liên doanh với
nƣớc ngoài và 33% do các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài thực hiện. Thậm chí, tại Đài
Loan và Malaixia, KCN đã thu hút đƣợc 60% vốn FDI. Hơn nữa, các doanh
16


nghiệp hoạt động trong KCN phần lớn là các đơn vị tiềm năng, hoạt động có
hiệu quả, do đó đã thực hiện tốt các mục tiêu phát triển kinh tế của đất nƣớc,
trong đó, đáng kể nhất là thúc đẩy xuất khẩu, thay thế hàng nhập khẩu. Ở một số
nƣớc KCN đã góp phần đáng kể cho việc đẩy mạnh xuất khẩu. Ví dụ nhƣ
Malaixia hiện nay giá trị xuất khẩu của các KCN chiếm 30% trong tổng giá trị
xuất khẩu các sản phẩm chế biến, ở Mêhicô là 50%.[15]
Thực tế ở nƣớc ta cho thấy, KCN có vai trị tích cực vào việc thu hút vốn
đầu tƣ đặc biệt là vốn FDI. Số dự án đầu tƣ cả trong và ngoài nƣớc vào các KCN
chiếm một tỷ trọng khá lớn. Sự gia tăng vốn đầu tƣ vào các KCN góp phần quan
trọng vào việc tăng tổng vốn đầu tƣ của tồn xã hội, đóng góp trực tiếp vào việc
tăng trƣởng và chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế. Hơn nữa, sự phát triển của
các KCN cịn có tác động kích thích tăng đầu tƣ mới ở các doanh nghiệp ngồi
KCN. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ, tính đến cuối năm 2009, các KCN đã thu
hút đƣợc trên 3.600 dự án đầu tƣ nƣớc ngoài với tổng vốn đầu tƣ đăng ký đạt
46,9 tỷ USD (chiếm 30% về số dự án và 25% về vốn đầu tƣ so với cả nƣớc) và
3.200 dự án đầu tƣ trong nƣớc với tổng vốn đầu tƣ đăng ký 254.000 tỷ đồng,
trong đó, riêng năm 2008, các KCN trên cả nƣớc đã thu hút đƣợc gần 9,4 tỷ
USD vốn đầu tƣ nƣớc ngồi, trong đó có 271 dự án mới với tổng số vốn đầu tƣ
đăng ký đạt gần 7,5 tỷ USD và 236 lƣợt dự án tăng vốn với số vốn tăng thêm đạt
trên 1,6 tỷ USD. [48]
Diện tích đất cơng nghiệp các KCN đã vận hành đạt tỷ lệ lấp đầy khoảng
48%, nhờ đó đã góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển. Tính riêng trong năm
2009, các doanh nghiệp KCN đã tạo ra 12,2 tỷ USD và 67,9 nghìn tỷ đồng
doanh thu; xuất khẩu đạt 12,3 tỷ USD và 2,6 nghìn tỷ đồng; nộp ngân sách đạt

689 triệu USD và 4,0 nghìn tỷ đồng.
1.2.1.2. Tạo việc làm và thu nhập cho người lao động
KCN là nơi tập trung các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp và cung cấp
các dịch vụ sản xuất cơng nghiệp, với nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau, ở
nhiều lĩnh vực khác nhau. KCN là nơi thu hút đƣợc nhiều lao động bao gồm lao
động làm việc trong các doanh nghiệp tại KCN và các doanh nghiệp xây dựng
17


và cung cấp dịch vụ cho KCN, nó góp phần đa dạng hoá ngành nghề trong xã
hội tạo ra nhiều cơ hội việc làm hơn cho nhiều đồi tƣợng trong xã hội, từ ngƣời
nơng dân có nhu cầu làm việc khi nông nhàn, sinh viên bán thời gian, công nhân
cho đến cả lao động có trình độ cao nhƣ kỹ sƣ, nhà quản lý, điều hành… Mặt
khác, số lao động này đƣợc tiếp xúc với công nghệ sản xuất hiện đại, phƣơng
thức quản lý tiên tiến, nên đây là điều kiện quan trọng để xây dựng đội ngũ lao
động có kỷ luật, có kỹ năng và có năng suất lao động cao đáp ứng nhu cầu của
công cuộc CNH, HĐH đất nƣớc.
Hơn nữa, để đáp ứng nhu cầu tuyển dụng của nhiều doanh nghiệp, nhiều
KCN, KCX đã mở các cơ sở đào tạo nghề. Việc thành lập các trung tâm dạy
nghề và đào tạo trong các KCN, KCX đã góp phần nâng cao chất lƣợng nguồn
nhân lực cho các doanh nghiệp trong KCN nói riêng, cho sự nghiệp CNH, HĐH
đất nƣớc nói chung. Ở các địa phƣơng có KCN, tỷ lệ thất nghiệp giảm rõ rệt.
Điều đó có tác động tích cực đến việc xố đói, giảm nghèo, đồng thời góp phần
giảm các tệ nạn xã hội do thất nghiệp gây ra. Theo thống kê của Bộ Kế hoạch và
Đầu tƣ cho thấy mỗi KCN với diện tích khoảng 100 – 150 ha, khi đã lấp đầy
tồn bộ diện tích sẽ cần số lƣợng lao động lên đến 15 triệu – 18 triệu lao động.
Tính đến tháng 12 năm 2008, các KCN trên phạm vi cả nƣớc đã thu hút đƣợc
1,5 triệu lao động trực tiếp và hơn 2 triệu lao động gián tiếp.
Thực tế mấy năm qua cho thấy, hầu hết các KCN phía Nam và phía Bắc
phải tuyển rất nhiều lao động từ các tỉnh miền trung mới đáp ứng nhu cầu việc

làm trong KCN. Nhƣ vậy, KCN không những giải quyết việc làm cho lao động
địa phƣơng mà còn tạo việc làm cho địa phƣơng khác, trong q trình hình
thành và phát triển của mình góp phần giải quyết bài toán lớn cho nền kinh tế
Việt nam hiện nay đó là bài tốn việc làm và nâng cao trình độ lao động. Bởi vì,
lao động làm việc trong KCN tập trung đƣợc làm quen với tác phong cơng
nghiệp, ngƣời lao động có tính cạnh tranh trong cơng việc do đó, khơng ngừng
nâng cao trình độ tay nghề để tồn tại.
Việc mở mang các KCN, KCX không chỉ góp phần tạo việc làm, nâng
cao chất lƣợng nguồn nhân lực, mà cịn góp phần đáng kể vào việc tăng thu
18


nhập, xóa đói giảm nghèo. Theo số liệu điều tra, có khoảng 40% số lao động
làm việc trong các KCN là những ngƣời có thu nhập thấp đến từ nhiều địa
phƣơng. Ngồi ra, KCN cịn tạo ra nguồn thu nhập tăng thêm cho những lao
động không trực tiếp tham gia sản xuất trong KCN, thông qua việc cung cấp
dịch vụ cho khu cơng nghiệp.
1.2.1.3. Góp phần nâng cao trình độ công nghệ và quản lý kinh doanh
Cùng với việc thu hút vốn đầu tƣ nƣớc ngoài, các KCN đều đặt ra mục
tiêu tiếp cận các công nghệ hiện đại và các phƣơng pháp quản lý tiên tiến của
các nhà đầu tƣ. Theo một nhà kinh tế phƣơng Tây nhận định: Việc thành lập các
KCN cịn có ý nghĩa hơn là một sự thay đổi chính sách, bởi sự thay đổi chính
sách là từ bóp nghẹt sang cởi mở thơng thống,chỉ có ý nghĩa tối đa khi chuyển
từ nền kinh tế chỉ huy sang nền kinh tế thị trƣờng. Còn thực sự khi nền kinh tế
đã hạn chế bớt đi các trói buộc phong kiến hành chính thì đều có ý nghĩa hơn lại
là một chính sách kỹ thuật và cơng nghệ khả thi đủ hấp dẫn để thu hút đƣợc kỹ
thuật và cơng nghệ mới của nƣớc ngồi vào sự tái thiết nền kinh tế nội địa.
KCN đƣợc quy hoạch theo mơ hình tập hợp các doanh nghiệp cùng
ngành, do vậy, chùm doanh nghiệp sẽ có điều kiện hợp tác liên kết với nhau
trong việc nhập khẩu, tiếp nhận những công nghệ tiên tiến và hiện đại trên thế

giới; tận dụng những lợi thế của nƣớc đi sau, rút ngắn khoảng cách về khoa học
kỹ thuật với các nƣớc đi trƣớc; đồng thời cũng sẽ tiết kiệm đƣợc chi phí trong
lĩnh vực nghiên cứu và phát triển và quyền sở hữu trí tuệ.
Mặc dù trong giai đoạn đầu các KCN đi vào hoạt động, đầu tƣ nƣớc
ngoài chủ yếu tập trung vào các ngành nhƣ dệt may, giày da, lắp ráp điện tử,
nhƣng càng về sau thì việc đầu tƣ vào các lĩnh vực cơng nghệ hiện đại nhƣ đúc
chính xác, sản xuất cơ khí, sản xuất cáp điện, linh kiện điện tử... ngày càng tăng
và chiếm tỷ trọng lớn cả về sản phẩm và kim ngạch xuất khẩu. Cùng với dòng
vốn đầu tƣ trong các dự án sản xuất kinh doanh, các nhà đầu tƣ còn đƣa vào Việt
Nam những dây chuyền sản xuất công nghệ tiên tiến, hiện đại trong đó có cả
những dự án cơng nghiệp kỹ thuật cao (phần lớn của Nhật Bản), nhƣ sản xuất
ôtô, xe máy (Honda Motor, Toyota Motor, Piago), các linh kiện máy tính. Một
19


số cơng nghệ tiên tiến hiện đại, cùng trình độ quản lý cao của đội ngũ cán bộ
doanh nghiệp, trình độ tay nghề của công nhân theo các chuẩn mực quốc tế đã
đƣợc áp dụng tại Việt Nam. Các doanh nghiệp trong KCN, đặc biệt là các doanh
nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngồi đã góp sức đào tạo đƣợc đội ngũ lao động công
nghiệp sử dụng và vận hành thành thạo các trang thiết bị phục vụ quản lý và sản
xuất, nắm vững cơng nghệ, có tác động lan toả và nâng cao trình độ tay nghề của
đội ngũ lao động Việt Nam lên một bƣớc. Trong các KCN, một lƣợng đáng kể
ngƣời lao động Việt Nam đang dần đƣợc đảm nhận các vị trí quản lý doanh
nghiệp, đƣợc tiếp xúc với phƣơng thức quản trị kinh doanh tiên tiến, hiện đại, kỹ
năng maketing, quản lý tài chính, tổ chức nhân sự… Việc trực tiếp làm việc
trong môi trƣờng có kỷ luật cao, yêu cầu tay nghề cao, đã rèn luyện đƣợc những
kỹ năng và bản lĩnh giúp ngƣời lao động Việt Nam thích ứng với một nền cơng
nghệ tiên tiến, hiện đại.[15]
1.2.1.4. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, hình
thành và phát triển các khu đô thị mới

KCN với đặc trƣng là khu vực chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực
hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, một mặt đã chuyển những vùng đất
sản xuất nông nghiệp kém hiệu quả sang sản xuất công nghiệp mang lại hiểu quả
kinh tế cao hơn; mặt khác, sự phát triển của KCN kéo theo sự phát triển của các
ngành dịch vụ nhƣ thông tin liên lạc, ngân hàng, bảo hiểm… từ đó cải thiện tỷ
trọng đóng góp các ngành nghề trong GDP theo hƣớng gia tăng tỷ trọng giá trị
ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng giá trị ngành nông nghiệp.
Chính từ sự chuyển dịch cơ cấu ngành nghề tại khu vực hình thanh KCN
đã góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động của địa phƣơng theo hƣớng giảm tỷ
trọng lao động trong lĩnh vực nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động trong lĩnh vực
công nghiệp và dịch vụ. Kết quả của q trình này sẽ góp phần thúc đẩy tăng
trƣởng, phát triển của kinh tế địa phƣơng, là cơ sở để cải thiện nâng cao đời
sống vật chất tinh thần của nhân dân địa phƣơng. Tuy vậy, cũng cần nhận thức
rằng trên thực tế nếu việc chuyển đổi đất nơng nghiệp và xây dựng phát triển
KCN có độ trễ lớn có thể gây ra những khó khăn cho lao động địa phƣơng vì
20


mất đất canh tác nông nghiệp trong khi các nhà máy, xí nghiệp trong KCN lại
chƣa xây dựng kịp thời dẫn đên thiều việc làm và tác động tiêu cực tới các vấn
đề xã hội khác.
Bên cạnh đó, tại nhiều nƣớc sự phát triển của các KCN còn là hạt nhân để
xây dựng và phát triển các khu đô thị mới, văn minh, góp phần cải thiện đời sống
kinh tế, văn hố, xã hội. Ở các đơ thị gắn liền với KCN thì bộ phận chủ yếu của
dân cƣ đơ thị là những ngƣời lao động và quản lý trong các KCN. Họ có nhu cầu
đi lại, ăn ở, nghỉ ngơi, giải trí sao cho phù hợp với yêu cầu làm việc trong KCN.
Ở các nƣớc đang phát triển, với mục tiêu xây dựng các đô thị theo hƣớng
hiện đại, văn minh và bảo vệ môi trƣờng nên phải thực hiện di dời nhà máy xí
nghiệp sản xuất trong các đô thị ra các vùng ngoại thành. KCN là nơi tiếp nhận
các nhà máy xí nghiệp đó tạo nên một địa bàn sản xuất đồng bộ tập trung. Chính

vì vậy, vấn đề quy hoạch phát triển KCN không thể tách rời quy hoạch phát triển
đô thị, phát triển kinh tế. Kinh nghiệm phát triển KCN trong thời gian qua cho
thấy, việc hình thành các khu đơ thị mới chỉ trở thành hiện thực khi có sự phát
triển đồng bộ giữa cơng nghiệp, khu dân cƣ, các cơng trình hạ tầng kỹ thuật và
xã hội trong và ngoài hàng rào.
1.2.1.5. Thúc đẩy q trình hiện đại hố hệ thống cơ sở hạ tầng
Do đòi hỏi của các doanh nghiệp khi đầu tƣ vào các KCN là cơ sở hạ tầng
phải hoàn thiện, đồng bộ và hiện đại, vì vậy, để thu hút đƣợc nhiều dự án đầu tƣ,
nhất là các dự án đầu tƣ nƣớc ngoài, các quốc gia, các địa phƣơng ngồi việc
đƣa ra hàng loạt chính sách ƣu đãi về thuế, tài chính, cịn tiến hành đầu tƣ cơ sở
hạ tầng, cố gắng hiện đại hóa hệ thống cơ sở hạ tầng. Kết quả là hệ thống đƣờng
xá; hệ thống cung ứng điện, nƣớc; hệ thống thông tin liên lạc; cơng trình phúc
lợi phát triển, hiện đại đạt tiêu chuẩn khu vực và quốc tế.
Sự phát triển cơ sở hạ tầng các KCN cịn có có tác dụng kích thích sự phát
triển kinh tế địa phƣơng, góp phần rút ngắn sự chênh lệch phát triển giữa nông
thôn và thành thị, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Cùng với
quá trình phát triển KCN, các điều kiện về kỹ thuật hạ tầng trong khu vực đã
đƣợc cải thiện đáng kể, nhu cầu về các dịch vụ gia tăng, góp phần thúc đẩy hoạt
động kinh doanh cho các cơ sở dịch vụ trong vùng.
21


1.2.1.6. KCN tạo điều kiện thuận lợi cho việc xử lý ô nhiễm môi trường,
bảo vệ môi trường sinh thái cho phát triển bền vững.
Việc tập trung nhiều doanh nghiệp trên cùng một địa bàn nhƣ KCN sẽ cho
phép xây dựng các trung tâm xử lý chất thải đồng bộ hơn nhƣng với chi phí ít
tốn kém hơn, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc quản lý môi trƣờng của cơ
quan chức năng. KCN tập trung sẽ giảm thiểu các tác động bất lợi của sản xuất
công nghiệp (nhƣ tiếng ồn, khói bụi, bức xạ...). Hơn nữa, tại các đô thị việc tập
trung các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp vào một địa điểm xác định, Ban

quản lý các KCN có thể kiểm sốt tốt hơn mức độ ơ nhiễm của các doanh
nghiệp. Đồng thời, các doanh nghiệp công nghiệp cũng có điều kiện phịng
chống ơ nhiễm mơi trƣờng với chi phí ít nhất do sử dụng lại phế thải của nhau.
Do có sự liên kết xử lý ơ nhiễm và sự hỗ trợ tập trung của nhà nƣớc nên
việc bảo vệ mơi trƣờng trong tồn khu vực KCN đƣợc thực hiện tốt hơn so với
tại các cơ sở công nghiệp nằm rải rác ở nhiều khu vực khác nhau. Mặt khác,
KCN là địa điểm tốt để di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trƣờng từ nội
thành, từ các vùng dân cƣ, phục vụ tốt cho mục tiêu phát triển bền vững. Với vai
trò này, việc xây dựng các KCN tập trung đƣợc coi là một giải pháp quan trọng
để bảo vệ môi trƣờng và phát triển KT- XH theo hƣớng bền vững.
1.2.2. Những nhân tố ảnh hƣởng đến sự hình thành và phát triển
các KCN
1.2.2.1. Vị trí địa lý
Vị trí địa lý có vai trị rất to lớn đối với sự thành cơng của một KCN. Vị
trí địa lý xây dựng KCN khơng đơn giản chỉ là địa điểm mà còn bao gồm cả điều
kiện đất đai, thủy văn thuận lợi hay không thuận lợi; độ lớn của diện tích đất làm
KCN. Tất cả đều là những yếu tố quan trọng để đảm bảo khả năng mở rộng
KCN khi có điều kiện. Vị trí nằm gần các đầu mối giao thông, các cảng biển, sân
bay, gần nguồn cung ứng điện, nƣớc, gần vùng nguyên liệu, thì sẽ góp phần làm
giảm chi phí vận hành, vận chuyển nguồn vật liệu cũng nhƣ sản phẩm của các
doanh nghiệp. Vì vậy, nếu xây dựng KCN tại đó sẽ hấp dẫn các nhà đầu tƣ hơn.
Mặt khác, nếu các KCN đƣợc xây dựng thuộc các khu vực có mức độ phát triển
22


kinh tế cao, đặc biệt là sự phát triển của các ngành cơng nghiệp phụ trợ thì yếu tố
này rất quan trọng đối với các nhà đầu tƣ và vì vậy sẽ nhanh chóng thu hút đầu tƣ
vào KCN.
Do vậy, khi xây dựng KCN cần phải xem xét kỹ về vị trí địa lý, kèm theo
đó là các điều kiện về kinh tế - xã hội. Sự lựa chọn vị trí xây dựng KCN thích

hợp sẽ làm giảm các chi phí liên quan đến việc tạo mặt bằng, xây dựng kết cấu
hạ tầng đồng thời làm tăng thu nhập cho công ty phát triển hạ tầng.
Điều kiện xã hội khu vực chọn xây dựng KCN đƣợc thể hiện ở trình độ
học vấn và nền tảng văn hóa chung của ngƣời dân, các loại hình kinh tế đang tồn
tại và hoạt động trong khu vực. Nếu KCN đặt tại một địa bàn có trình độ học
vấn của ngƣời dân cao, có khả năng tiếp cận với kỹ thuật công nghệ hiện đại,
chắc chắn sẽ thu hút các dự án đầu tƣ nhiều hơn. Đó là vì, các nhà đầu tƣ sẽ
giảm đƣợc chi phí đào tạo nhân lực phục vụ trực tiếp và gián tiếp làm dịch vụ
cho các doanh nghiệp trong KCN. Ngƣợc lại, các điều kiện đó nếu khơng thuận
lợi thì chi phí cho KCN tất yếu phải cao hơn, hiệu quả đầu tƣ thấp hơn.
1.2.2.2. Quy hoạch và chính sách của nhà nước
Quy hoạch phát triển khu cơng nghiệp đƣợc coi là nhân tố quan trọng nhất
và quyết định nhất đối với sự hình thành và phát triển một khu công nghiệp cũng
nhƣ hệ thống khu công nghiệp . Đây đƣợc xem là cơng đoạn xây dựng hình thái
kiến trúc cho khu công nghiệp. Nếu công tác quy hoạch khoa học, hệ thống, có
tầm chiến lƣợc và tƣơng thích với quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH và quy
hoạch về sử dụng đất của địa phƣơng, của vùng cũng nhƣ quốc gia sẽ cho phép
khai thác có hiệu quả các nguồn lực. Cụ thể, nếu có một tầm nhìn dài hạn trong
quy hoạch thì sẽ giảm thiểu ảnh hƣởng tiêu cực của quy hoạch đối với đời sống
của ngƣời dân, trƣớc hết là tình trạng chuyển đổi mục đích sử dụng đất, tránh
đầu tƣ dàn trải, tràn lan gây ra tình trạng mất cân bằng cung cầu và lãng phí
nguồn lực. Hơn nữa, quy hoạch theo lãnh thổ tốt sẽ cho phép đáp ứng đƣợc các
yêu cầu phát triển lâu dài đồng bộ, đồng thời góp phần phân bổ hợp lý nguồn lực
sản xuất theo lãnh thổ. Bên cạnh đó, quy hoạch các KCN đồng bộ, xây dựng các
KCN gắn liền với quy hoạch xây dựng các công trình hạ tầng kỹ thuật cũng nhƣ
23


hạ tầng xã hội, phát triển các khu đô thị sẽ đảm bảo ổn định cho ngƣời lao động
làm việc trong các KCN, đồng thời tạo đƣợc hiệu quả kinh tế - xã hội cao.

Bên cạnh quy hoạch, hệ thống chính sách của nhà nƣớc cũng có ảnh hƣởng
lớn đến sự hình thành và phát triển của các KCN, vì nó quyết định khả năng thu
hút các nhà đầu tƣ đến với KCN. Chính sách, pháp luật rõ ràng, minh bạch, ổn
định và công bằng tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả cao và là
động lực thu hút các nhà đầu tƣ đầu tƣ vào KCN. Cụ thể, các chính sách ƣu đãi về
đất đai, chính sách miễn giảm thuế xuất nhập khẩu, thuế thu nhập doanh nghiệp
đối với các nhà đầu tƣ sẽ làm tăng lợi nhuận của họ, vì vậy sẽ thúc đẩy các nhà
đầu tƣ chuyển vốn vào những địa bàn có ƣu đãi. Hay chính sách khơng hạn chế
việc chuyển vốn và lợi nhuận ra nƣớc ngoài của các nhà đầu tƣ tạo thuận lợi cho
chủ đầu tƣ đƣợc lựa chọn các phƣơng án sử dụng phần lợi nhuận ấy có lợi nhất:
họ có thể sử dụng chúng để tái đầu tƣ tại chỗ, hay chuyển về nƣớc, hay chuyển về
nƣớc thứ 3 để có lợi nhuận cao hơn.
Ngồi ra, chính sách về đảm bảo việc làm và thu nhập cho ngƣời dân có đất
bị thu hồi khi xây dựng KCN cũng có ảnh hƣởng khơng nhỏ đến sự thu hút vào
KCN. Nếu chính sách này hợp lý, phản ánh và bảo vệ tích cực lợi ích chính đáng
của nguời dân thì khơng chỉ có tác dụng đẩy nhanh tiến độ triển khai xây dựng
KCN mà còn tạo sự hƣởng ứng, phấn khởi để nguời dân di dời nơi ở, nhanh
chóng bắt tay vào cuộc sống mới.
1.2.2.3. Hệ thống kết cấu hạ tầng
Kết cấu hạ tầng đƣợc coi là phần cứng, xƣơng cốt, cơ bắp của KCN,
KCX, nó đƣợc coi là nhân tố quyết định hình thành mơi trƣờng đầu tƣ hấp dẫn
Nếu một KCN đƣợc đặt tại một địa bàn có nền kinh tế phát triển, có hệ
thống cơ sở hạ tầng đồng bộ và hiện đại sẽ có điều kiện tốt nhất để sản xuất và
tiêu thụ hàng hóa. Điều này có thể dễ dàng nhận thấy ở những vùng có KCN
phát triển mạnh nhƣ Biên Hồ, Nhơn Trạch (Đồng Nai), Thuận An (Bình
Dƣơng), Tiên Sơn (Bắc Ninh)… Đó là những vùng có các điều kiện về kỹ thuật
hạ tầng phát triển hơn các địa phƣơng khác, từ hệ thống đƣờng sá, cho đến hệ
thống cung cấp các dịch vụ điện, nƣớc, viễn thông … Hệ thống hạ tầng kỹ thuật
24



trong KCN càng thuận lợi thì càng thu hút thêm nhiều dự án đầu tƣ mới, đồng
thời, còn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng quy mô để tăng cƣờng
năng lực sản xuất và cạnh tranh, hoặc di chuyển ra khỏi các khu đông dân cƣ, tạo
điều kiện để các địa phƣơng giải quyết các vấn đề ô nhiễm, bảo vệ mơi trƣờng đơ
thị, tái tạo và hình thành quỹ đất mới phục vụ các mục đích khác của cộng đồng
trong khu vực nhƣ KCN Tân Tạo (TP Hồ Chí Minh), Việt Hƣơng (Bình Dƣơng)…
Đặc biệt , hệ thống kết cấu hạ tầng trong và ngoài hàng rào KCN cịn đảm
bảo sự liên thơng giữa các vùng, định hƣớng cho phát triển các khu dân cƣ mới,
các khu đơ thị vệ tinh, hình thành các ngành cơng nghiệp phụ trợ, dịch vụ… các
cơng trình hạ tầng xã hội phục vụ đời sống ngƣời lao động và cƣ dân trong khu
vực nhƣ: nhà ở, trƣờng học, bệnh viện, khu giải trí…. Những vấn đề này đến
lƣợt nó lại tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đón bắt và thu hút đầu tƣ các
ngành nhƣ điện, giao thông vận tải, hệ thống thông tin liên lạc, cảng biển, các
hoạt động dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, xúc tiến đầu tƣ, phát triển thị
trƣờng địa ốc… đáp ứng nhu cầu hoạt động và phát triển của các KCN.
1.2.2.4. Trình độ nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực luôn là nhân tố quan trọng nhất trong mọi hoạt động,
trong đó có sự hình thành và phát triển các KCN, KCX. Do đặc điểm sản xuất của
các doanh nghiệp trong KCN, đặc biệt là trong thời đại khoa học kỹ thuật phát triển
nhƣ vũ bão hiện nay, yêu cầu một nguồn có chất lƣợng cao là địi hỏi cấp bách. Vì
vậy, nếu tại một địa phƣơng (hay một quốc gia) có nguồn nhân lực trình độ cao, tác
phong cơng nghiệp, ý thức kỷ luật tốt thì sẽ là điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tƣ
đặc biệt là nhà đầu tƣ nƣớc ngồi, những dự án cơng nghệ cao, vì nó giúp các nhà
đầu tƣ giảm chi phí đào tạo lại, từ đó làm giá thành sản phẩm giảm và tính cạnh
tranh cao. Và ngƣợc lại nếu trình độ nguồn nhân lực tại địa phƣơng xây dựng KCN
thấp thì khả năng thu hút đầu tƣ sẽ giảm đi, các dự án đầu tƣ vào đây chủ yếu là
các dự án công nghệ thấp, cần nhiều lao động phổ thông.
1.2.2.5. Bộ máy quản lý nhà nước đối với khu công nghiệp
Bộ máy quản lý nhà nƣớc đối với các KCN, trực tiếp là UBND tỉnh, thành

phố, Sở Kế hoạch và Đầu tƣ tỉnh, Ban quản lý các KCN tỉnh là các cơ quan ban
25


×