Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

SKKN 20122013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.68 KB, 13 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>GIÚP HỌC SINH LỚP 8, 9 HỌC TỐT CÁC VĂN BẢN THƠ HIỆN ĐẠI VIỆT NAM I.. ĐẶT VẤN ĐỀ Thơ chính là vẻ đẹp của cuộc sống được biểu hiện một cách tập trung khái quát nhất. Thơ có một giá trị rất lớn trong việc nuôi dưỡng tâm hồn con người. Học môn Ngữ văn không thể không tiếp cận và khám phá các tác phẩm thơ. Dạy thơ cho học sinh là giúp các em có kĩ năng cảm thụ một tác phẩm biểu cảm có giá trị nghệ thuật cao, bồi bổ cho các em những tình cảm tư tưởng đẹp thấm nhuần giá trị nhân văn, hướng các em đến lối sống đẹp, sống tốt biết yêu cái đẹp, ghét cái xấu xa độc ác, căm thù kẻ phản nhân nghĩa…Có thể nói, dạy văn nói chung, dạy thơ nói riêng, là bồi dưỡng về tâm hồn cho các em, hướng các em đến với chân - thiện - mĩ. Thơ ca hiện đại là một bộ phận quan trọng của nền văn học nước nhà. Nó đã chiếm một vị trí quan trọng trong chương trình giảng dạy bộ môn ngữ văn từ xưa đến nay trong nhà trường phổ thông. Bên cạnh các tác phẩm văn xuôi, thơ ca hiện đại đã góp phần hoàn chỉnh diện mạo nền văn học hiện đại của dân tộc. Về nội dung, thơ ca hiện đại đã phản ánh nguyện vọng, tâm tư, tình cảm cũng như cuộc sống phong phú nhiều mặt của dân tộc ta trong các chặng đường lịch sử quan trọng của đất nước từ đầu thế kỉ XX trở lại đây. Về hình thức, các tác phẩm thơ hiện đại đã có những cách diễn đạt rất mới, rất hiện đại, các biện pháp tu từ về câu về từ đã được vận dụng thành công và phát huy tối đa hiệu quả của chúng. Nhưng có một điều rất thú vị là các nhà thơ hiện đại vẫn học tập và vận dụng vốn văn học dân gian vào thơ rất tài tình, uyển chuyển đến tuyệt vời… Với những lí do đó, dạy thơ hiện đại không chỉ dạy cho các em cảm được cái hay cái đẹp của thơ mà còn bồi bổ cho các em về phần tâm hồn rất lớn, đồng thời qua dạy thơ ta còn tạo điều kiện tốt cho các em rèn luyện ngôn ngữ trong giao tiếp, nhất là ngôn ngữ viết. Phải làm sao để bộ môn văn học nói chung, dạy thơ hiện đại nói riêng trở thành “công cụ” giúp các em rèn nhân cách, bồi bổ tâm hồn tình cảm, rèn kỹ năng nói viết tốt nhất chính là nội dung nghiên cứu của đề tài: Giúp học sinh lớp 8, 9 học tốt các văn bản thơ hiện đại Việt Nam. Giới hạn đề tài: Đề tài có thể vận dụng cho tất cả các khối lớp 6,7,8,9. Tuy nhiên, do điều kiện nghiên cứu và vận dụng, đề tài chỉ giới hạn cho đối tượng học sinh lớp 8, 9 và ở các tác phẩm thơ hiện đại Việt Nam. II. CƠ SỞ LÍ LUẬN Đề tài nghiên cứu được xuất phát từ cơ sở lí luận là kĩ năng cảm thụ thơ của học sinh còn yếu. Do đó cần nghiên cứu và thực hiện đề tài này trong quá trình dạy các văn bản thơ trong chương trình sao cho phù hợp để giúp cho các em: - Có kĩ năng cảm thụ tốt giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật các văn bản thơ hiện đại Việt Nam được học trong chương trình..

<span class='text_page_counter'>(2)</span> - Biết trình bày cảm hiểu của mình về nội dung và nghệ thuật của văn bản thơ đã học một cách trôi chảy, mạch lạc, khoa học. - Rèn cho học sinh kĩ năng tư duy vừa khoa học vừa hình tượng thẩm mỹ - Giúp học sinh thấy được cái hay và sức cảm hóa mãnh liệt của thơ đối với tâm hồn, tình cảm của con người “rèn cho ta những tình cảm ta không có và luyện cho ta những tình cảm ta sẵn có”. Từ đó giúp các em có được lòng yêu thương, sự nhạy cảm tinh tế trong cuộc sống. - Rèn cho học sinh học tập các thể loại thơ biết cách thể hiện tư tưởng cảm xúc của mình bằng văn xuôi và bằng thơ. III. CƠ SỞ THỰC TIỄN Vị trí vai trò của việc học các văn bản thơ quan trọng là thế nhưng trong thực tế còn rất nhiều học sinh chưa yêu thích tiết học thơ, chưa có kĩ năng tiếp cận để hiểu một tác phẩm thơ theo đúng yêu cầu tiết học, có khoảng trên 70% học sinh không thích học bộ môn văn nói chung và thơ nói riêng. Do không thích học văn nên các em càng không để ý đến các tác phẩm thơ. Càng không để ý các em càng không có phương pháp học tốt. Khi yêu cầu trình bày cảm nhận của em về tác phẩm thơ, nhiều em chỉ đọc thuộc lòng văn mẫu đã tham khảo, đọc thuộc lời giảng hoặc lời cô giáo cho ghi chép mà thực chất không hiểu gì về tác phẩm. Cách học đó càng ngày càng làm mất khả năng tư duy và khả năng giao tiếp của các em. Trong khi yêu cầu cuộc sống luôn luôn đòi hỏi con người phải năng động sáng tạo trong mọi tình huống và mỗi người phải có khả năng tự diễn đạt những nhận xét suy nghĩ quan điểm của mình trước một vấn đề mới lạ nảy sinh từ cuộc sống mà không hề có trong sách vở. Từ thực trạng này nhiều giáo viên trong đó có bản thân tôi phải cố gắng tìm tòi những cách thức tích cực để giúp các em tiếp cận một tác phẩm thơ là việc rất cần thiết trong quá trình giảng dạy bộ môn ngữ văn trong nhà trường. Nếu thành công trong công việc này thì chắc chắn chất lượng học văn sẽ cao hơn. Và lúc đó mới có thể nói đến mục đích chân chính của học văn là học làm người hoặc học văn là để bồi bổ tâm hồn và tình cảm đẹp cho con người, hướng con người đến với chân - thiện - mỹ. IV. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 1. Một số đặc điểm nổi bật của văn bản thơ - Thơ là một tổ chức ngôn ngữ hết sức đặc biệt, buộc người đọc phải nhớ, phải cảm xúc phải suy nghĩ. Nó là một cảm xúc được khái niệm hóa chứ không phải cảm xúc trực tiếp. - Thơ bao giờ cũng mang tính hình thức giúp người ta nhận diện được ngay đó là thơ để đọc, để bình để cảm nhận. - Thơ tuy nói ít nhưng tác dụng nhiều. Cách tổ chức thơ gọn hơn văn xuôi bởi tính chắp khúc, nhưng lại là một kiến trúc hoàn hảo giúp cho cảm giác nội cảm hóa được dễ dàng và nhớ được thơ. Ngữ nghĩa của một bài thơ ngoài nội dung thông báo còn có những ngữ nghĩa khác. Nghĩa thông báo của thơ mang tính chất phi không gian và phi thời gian. Thơ không phải là tiếng nói của công việc mà là tiếng nói của thân phận con người..

<span class='text_page_counter'>(3)</span> 2. Nội dung thực hiện a. Đối với học sinh - Trước khi học một văn bản thơ trên lớp yêu cầu học sinh phải thâm nhập kĩ tác phẩm, có nghĩa là phải chuẩn bị bài mới thật tốt ở nhà. Trước khi trả lời câu hỏi chuẩn bị bài ở sách giáo khoa, các em cần tìm hiểu bối cảnh được nói đến trong bài thơ (bối cảnh xã hội, hoàn cảnh lịch sử liên quan đến nội dung bài thơ), hiểu được hoàn cảnh ra đời, nắm được những thông tin cần thiết về tác giả. Tất cả những yêu cầu này là cơ sở đầu tiên giúp các em cảm hiểu văn bản tốt hơn. Ví dụ khi học bài “Ông đồ” của Vũ Đình Liên học sinh phải tìm hiểu để biết được bối cảnh trong bài thơ là: thời cuộc đổi thay, người thuê ông đồ viết câu đối tết ngày một vắng bóng hẳn, ông bị người đời quên lãng và chỉ còn là “di tích tiều tụy của một thời tàn”. Vấn đề này liên quan đến hoàn cảnh lịch sử Việt Nam đầu thế kỉ 20 đang dần thoát khỏi sự ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa Trung Hoa sau năm mươi năm làm nô lệ cho Thực dân Pháp và dần chịu sự ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, của phong trào Tây hóa, do đó các nét văn hóa truyền thống của người Việt Nam cũng bị thay đổi theo, người ta không ưa chuộng tục chơi câu đối trong ngày Tết nữa cho nên mới có cảnh “Ông đồ vẫn ngồi đấy, Qua đường không ai hay, Lá vàng rơi trên giấy, Ngoài giời mưa bị bay”. Và đương nhiên các em cũng cần tìm hiểu để biết đôi điều cơ bản về hồn thơ của Vũ Đình Liên là “mang nặng lòng thương người và nỗi niềm hoài cổ”. Thực hiện tìm hiểu trước các điều này các em sẽ cảm hiểu tác phẩm đầy đủ và chính xác hơn. Hơn nữa thời gian học văn bản quá ít, nếu GV phải dành thời gian để giảng những điều này thì sẽ không có nhiều thời gian để tìm hiểu về nội dung và nghệ thuật bài thơ. Hoặc một ví dụ khác là khi học bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải các em phải tìm hiểu để biết bối cảnh đất nướcViệt Nam ta những năm 1980 đang phát triển và đi lên như thế nào sau năm năm thống nhất đất nước, điều đó đã khơi nguồn cảm hứng cho nhà thơ Thanh Hải rất lớn. Các em cũng cần phải tìm hiểu để biết bối cảnh ra đời của bài thơ là khi tác giả đang nằm trên giường bệnh, đang phải giành giật sự sống với tử thần từng phút giây. Có hiểu được điều này các em mới hiểu hết được tâm nguyện được hòa nhập được dâng hiến thiết tha chân thành cảm động của nhà thơ đã thể hiện trong bài. Đối với tất cả các bài thơ khác cũng tương tự như thế. - Một việc không kém phần quan trọng là học sinh phải đọc kĩ chú thích về các từ khó có trong bài thơ. Đó thường là những từ các em chưa hiểu do chưa gặp hoặc chưa dùng đến. Vì nếu không hiểu từ thì không thể hiểu thơ được. Chẳng hạn khi học bài “Ông đồ” bắt buộc các em phải hiểu nghĩa của từ “ông đồ” “mực tàu” “giấy đỏ” “phượng múa rồng bay”….là gì…v.v… - Cũng trong việc chuẩn bị ở nhà, giáo viên yêu cầu học sinh đọc thuộc lòng tác phẩm thơ trước khi tìm hiểu, phân tích. Đây là một việc rất cần thiết và rất quan trọng bởi vì cần đọc thuộc thơ để nhớ hình thức diễn đạt, có nhớ hình thức diễn đạt thì mới có thể xúc cảm và suy nghĩ tốt. Có thể nói đọc thuộc thơ là bước đầu các em đã cảm và hiểu được phần nào văn bản thơ ấy. b. Đối với giáo viên.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> - Phải thâm nhập kĩ và sâu vào văn bản trước khi dạy để bình giảng kĩ nhằm tạo hứng thú cho học sinh học tác phẩm thơ. Quá trình thâm nhập một tác phẩm thơ gắn liền với quá trình soạn thảo một giáo án lên lớp. Hai quá trình này không phải là một nhưng vẫn có điểm tương đồng. Quá trình soạn bài giảng thơ phải dựa vào qui trình thâm nhập một bài thơ để tổ chức các công đoạn. Ngược lại quá trình soạn bài giảng thơ cũng mở rộng đào sâu thêm quá trình thâm nhập bài thơ. Nắm vững quá trình thâm nhập một bài thơ người giáo viên sẽ soạn bài dễ dàng hơn, đồng thời cũng biết cách thức hướng dẫn học sinh tiếp cận được bài thơ một cách có ý thức và hiệu quả. Có như thế học sinh mới có thể hứng thú tìm hiểu văn bản. Khi thâm nhập văn bản phải tìm hiểu tất cả các vấn đề liên quan đến việc dạy văn bản gồm: tiểu sử tác giả, bối cảnh xã hội hoặc bối cảnh lịch sử ra đời của tác phẩm, giá trị nội dung - nghệ thuật và ý nghĩa của tác phẩm .... Đương nhiên không phải tìm hiểu để cung cấp tất cả những hiểu biết này cho học sinh mà chỉ là để giáo viên có một vốn nhất định khi giảng dạy, nếu học sinh có thắc mắc giáo viên dễ dàng xử lí tình huống, đồng thời lúc giảng bài tiết dạy sẽ có chiều sâu hơn, học sinh dễ cảm thụ và nắm kiến thức vững hơn. Ví dụ khi dạy các bài thơ thuộc phong trào Thơ Mới, nhất thiết giáo viên phải tìm hiểu xem thi pháp thơ mới khác với thi pháp thơ trung đại như thế nào, phải tìm hiểu về quá trình hiện đại hóa văn học trong những năm đầu thế kỉ XX, tìm hiểu đặc điểm của phong trào Thơ Mới và tìm hiểu kĩ vai trò vị trí quan trọng của các tác giả tác phẩm các em đang học trong chương trình đối với phong trào Thơ Mới như thế nào .... 2. Sử dụng kết hợp nhiều phương pháp dạy học một cách hợp lí để thu hút học sinh hứng thú tham gia các hoạt động học tập tích cực hiệu quả - Chú ý đến phương pháp đọc diễn cảm Con đường đi vào tác phẩm nhất thiết phải từ đọc, gắn liền với việc đọc. Đọc sẽ làm âm vang lên những tín hiệu của cuộc sống mà nhà thơ định gởi gắm trong tác phẩm. Âm vang của lời đọc kích thích quá trình tri giác, tưởng tượng và tái hiện hình ảnh của học sinh. Cảm xúc bắt đầu từ đọc và được tư duy, phát triển trong quá trình đọc. Do hiểu đúng tác phẩm mà đọc đúng, nhưng mặt khác cũng nhờ đọc đúng mà hiểu đúng tác phẩm hơn. Giáo viên sẽ thất bại trong giờ giảng thơ nếu không biết phát huy vai trò của việc đọc diễn cảm. Đọc diễn cảm gắn bó trong suốt quá trình giảng làm cho tiếng nói nhà thơ luôn luôn gần gũi với học sinh, giờ giảng văn trở thành một công việc tâm tình, một cuộc trao đổi thật sự cho cuộc sống, không còn là một giờ giáo dục luân lí khô khan. Gắn việc đọc diễn cảm với các phương pháp khác sẽ tạo cho giờ giảng thơ không khí tươi mát, những ấn tượng ban đầu, những rung cảm và xúc động thẩm mỹ của học sinh luôn làm nền cho công việc phân tích. Bằng sức mạnh riêng của việc đọc diễn cảm, giáo viên sẽ dẫn dắt học sinh đi vào thế giới tác phẩm một cách dễ dàng. Cần lưu ý rằng đọc diễn cảm phải là hoạt động phối hợp chặt chẽ với các phương pháp khác để giúp học sinh hiểu và cảm thụ tác phẩm một cách vừa say sưa vừa đúng đắn. Và tùy yêu cầu, giáo viên có thể đọc dưới những hình thức và với những mức độ khác nhau. Đọc cả bài, đọc từng đoạn, đọc để gây không khí, đọc để sáng tỏ lời bình, đọc để minh chứng cho lời giảng, đọc.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> đầu giờ và đọc ở phần kết thúc bài giảng ...Nếu tách rời đọc diễn cảm với những phương pháp khác thì chưa thể giúp học sinh nắm bắt được tác phẩm một cách sâu sắc và toàn diện. Do đó đọc diễn cảm phải là hoạt động phối hợp chặt chẽ với các phương pháp khác trong tiết dạy giảng văn. - Cần có thao tác so sánh đối chiếu So sánh đối chiếu khi phân tích thơ là đưa ra một số tác phẩm có đặc điểm nào đó gần gũi hoặc khác biệt, cùng thời điểm hoặc khác thời điểm sáng tác, .... đây là một phương pháp quen thuộc và hữu hiệu trong phân tích thơ. Nó làm cho tiết dạy vừa có tính khoa học nghiêm ngặt vừa có tính nghệ thuật đậm đà. Có so sánh đối chiếu với các chi tiết, các ý thơ, ý văn tương tự thì mới kích thích sự hứng thú tìm hiểu văn bản cho học sinh vì các em sẽ được biết nhiều hơn, sâu hơn so với những gì các em đã tìm hiểu được trong quá trình chuẩn bị bài ở nhà.Và nhờ thế giáo viên có thể khắc sâu hay mở rộng kiến thức cho các em tốt hơn. Chẳng hạn ở chương trình lớp 9, khi bình giảng một số chi tiết trong Sang thu của Hữu Thỉnh ta có thể so sánh tín hiệu mùa thu của Hữu Thỉnh là hương ổi phả trong làn gió se chứ không phải là “lá ngô đồng rơi”(Ngô đồng nhất diệp lạc, Thiên hạ cộng chi thu), “hoa cúc vàng” hay sắc “trời xanh biếc” (Trời thu xanh ngắt mấy tấng cao) như trong một số bài thơ thu ta thường gặp để từ đó cho các em nhận ra phong cách thơ giản dị hồn hậu mà đặc biệt của Hữu Thỉnh, mặt khác các em được biết thêm những câu thơ thu đặc sắc. Hoặc khi phân tích hình ảnh đám mây mùa hạ, vắt nửa mình sang thu ta có thể so sánh với một số câu thơ tả mây trời của các nhà thơ khác: không phải là “lớp lớp mây cao đùn núi bạc” hoặc “mây biếc về đâu bay gấp gấp” (Huy Cận) mà là mây duyên dáng thảnh thơi “vắt” ngang trên bầu trời đang còn là nửa mùa hạ và một nửa đã nhuốm màu thu. Đó là sự cảm nhận tinh tế tuyệt vời của Hữu Thỉnh trước thiên nhiên trong phút giao mùa... Trong Viếng lăng Bác khi phân tích hình ảnh ẩn dụ “mặt trời trong lăng” đương nhiên giáo viên nên đối chiếu với các câu thơ đã từng dùng hình ảnh mặt trời để so sánh với Bác (như thơ Tố Hữu) nhằm thấy cách ngợi ca Bác của Viễn Phương vừa mới lạ, sâu sắc vừa thành kính như thế nào... Ở chương trình lớp 8, khi phân tích Quê hương của Tế Hanh, để học sinh cảm nhận cụ thể được rằng phải có tình cảm gắn bó yêu làng quê tha thiết sâu nặng như thế nào nhà thơ mới cảm nhận con thuyền như một thành viên của làng biển quê mình qua việc miêu tả con thuyền lúc về bến (nhân hóa con thuyền, xem con thuyền như một thành viên của làng biển), ta có thể so sánh đối chiếu với cách nhân hóa thể hiên sự gần gũi thân thương, gắn bó mến yêu của người nông dân đối với con trâu, trò chuyện thân tình với con trâu qua câu ca dao: “Trâu ơi ta bảo trâu này...” Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng : so sánh không phải là mục đích mà là phương tiện, là con đường để đi vào tác phẩm. Do đó khi so sánh giáo viên cần chú ý đến những nguyên tắc sau: Khi so sánh không được làm đứt mối với đường dây chủ đề của tác phẩm. Ví dụ khi dạy Tức cảnh Pác bó (Hồ Chí Minh) không nên so sánh với quan niệm bần đạo, lạc đạo, an đạo...hoặc so sánh thơ Bác với thơ Nguyễn Công Trứ (về thú lâm tuyền) mà chỉ cần đối chiếu so sánh với bài thơ Bác sáng tác cùng thời kì là Cảnh rừng Việt bắc để hiểu sâu ý trong câu thơ Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng; Một nguyên tắc.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> khác là khi so sánh cần tôn trọng tính chỉnh thể của bài văn đừng lấy một chi tiết nhỏ một hình ảnh nhỏ ra khỏi chỉnh thể để so sánh với chi tiết ít nhiều có liên quan với tác phẩm rồi bình luận theo chủ quan của mình làm xa rời chủ đề của tác phẩm. 3. Cần chú ý tích hợp kiến thức về tiếng Việt đã học để giúp các em phân tích bình giảng thơ có hiệu quả, đặc biệt là các biện pháp tu từ thông dụng được các tác giả dùng trong thơ như so sánh, nhân hóa, ẩn dụ, hoán dụ, chơi chữ. Tuy nhiên không phải chỉ dừng lại ở khâu phát hiện biện pháp tu từ mà phải phân tích được tác dụng của biện pháp tu từ đã được các tác giả dùng trong câu thơ. Ví dụ khi phân tích câu thơ: “Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng, Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”, GV không chỉ yêu cầu học sinh phát hiện ra phép tu từ ẩn dụ tác giả đã sử dụng mà phải phân tích được tác dụng của phép ẩn dụ trong câu thơ là nhằm ngợi ca Bác vĩ đại, cuộc đời Bác rực rỡ như vầng mặt trời, đã soi đường dẫn lối cho dân tộc ta thoát khỏi đêm trường nô lệ. 4. Khi giảng thơ, giáo viên cần tạo tính trực quan bằng cách chép bài thơ lên bảng để hướng dẫn HS phân tích tìm hiểu. Khi chép bài thơ lên bảng HS dễ dàng tìm mạch cảm xúc và bố cục của bài thơ, giáo viên dễ dàng gạch chân để bình các hình ảnh chi tiết hoặc từ hay từ đắt có trong bài. Nếu có đủ điều kiện, cũng nên kết hợp sử dụng công nghệ thông tin để giới thiệu một số hình ảnh về tác giả, tác phẩm hoặc một số hình ảnh minh họa cho nội dung bài thơ 5. Kết hợp nhuần nhuyễn giữa giảng và bình bằng lời lẽ truyền cảm cũng là một cách tạo hứng thú cho học sinh trong tiết giảng thơ. Giảng và bình thơ là những việc làm khá quen thuộc đối với nhiều giáo viên văn học và hình như đã trở thành bí quyết trong giảng văn. Ai biết bình và bình truyền cảm giờ giảng sẽ hứng thú, mang màu sắc cảm xúc rõ rệt. Không một giờ dạy thơ nào thành công mà lại thiếu lời bình truyền cảm của giáo viên. Thế nhưng hiện nay có nhiều giáo viên chỉ chú trọng đến việc cung cấp kiến thức kĩ năng để học sinh làm được những đề kiểm tra hiện hành, ít chú ý đến bình giảng để giờ học được truyền cảm. Trong khi đó phần đông học sinh lại rất quan tâm đến việc thầy dạy “hay” hay dạy “chán”. Mà “hay” và ‘chán” lại đồng nghĩa với bình giảng truyền cảm hay không truyền cảm. Muốn bình giảng tốt giáo viên phải có sự hiểu biết sâu sắc nhuần nhuyễn về tác phẩm đến độ biến thành rung động cảm xúc tình cảm chủ quan của mình thì mới có thể gây cảm và truyền cảm đến cho học sinh (nội dung này liên quan đến nội dung VI.1 đã nêu). Tuy nhiên khi bình nên lựa chọn các điểm đáng bình, không biến cảm nhận chủ quan của mình thành ý của nhà văn nhà thơ. Ví dụ khi dạy bài Sang thu của Hữu Thỉnh, để học sinh thấy được cảm nhận tinh tế của tác giả trước vẻ đẹp của thiên nhiên trong phút giao mùa giáo viên cần bình chi tiết “đám mây mùa hạ vắt nửa mình sang thu”. Cách liên tưởng và cách dùng từ của nhà thơ thật khéo léo thật tài tình biết bao, khiến người đọc cảm nhận đám mây thật duyên dáng mềm mại, như tấm khăn voan ai vắt ngang qua bầu trời đang còn một nửa là mùa hạ, và nửa kia đã nhuốm.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> màu thu.Thì ra trong phút giao mùa đám mây cũng trở nên khác lạ và đặc biệt vô cùng ! V. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Qua việc nghiên cứu và thực hiện đề tài vào thực tế giảng dạy tôi thấy có những kết quả tương đối khả quan. Trong một số giờ giảng thơ học sinh đã có hứng thú học tập rõ rệt hơn. Biểu hiện cụ thể là các em đã chịu khó đọc và tiếp xúc, tìm hiểu văn bản trước khi học; trong giờ học các em phát biểu xây dựng bài tương đối sôi nổi, chú ý tập trung vào các hoạt động trên lớp một cách tự giác tích cực. Khả năng cảm thụ một bài thơ tốt hơn. Đặc biệt các em đã biết cách diễn đạt những cảm thụ của mình bằng ngôn ngữ nói khá tốt. Để minh họa xin giới thiệu kết quả một lần kiểm tra về kiến thức và kĩ năng văn học qua bài làm định kì ở các lớp 8/4 và 9/2 Lớp/ sĩ số 8/4 (42) 9/4 (33). Giỏi. Khá. 10 15. 16 10. Trung bình 15 6. Yếu. Kém. 1 2. 0 0. Trên TB 41 31. Khá& Giỏi 26 25. VI. KẾT LUẬN: Nhìn chung, qua thời gian tìm hiểu và vận dụng đề tài vào giảng dạy các tiết thơ hiện đại, bản thân tôi thấy rằng để học sinh có hứng thú trong tiết học giảng thơ nói chung thơ hiện đại Việt Nam nói riêng giáo viên phải biết kết hợp nhiều thao tác và nhiều phương pháp giảng dạy. Và phải thấy rõ rằng công việc chủ yếu của giáo viên là biết tổ chức hướng dẫn sắp xếp một cách công phu, khéo léo, đầy nghệ thuật để các em từng bước tiếp cận dần với cái hay của văn chương và yêu thích tác phẩm văn chương. Như vậy giờ văn mới thực sự là giờ văn vì: “ Nói, không phải là dạy học; nói ít hơn, chú ý nhiều đến việc tổ chức hoạt động của học sinh”. Khi vận dụng kết hợp các nội dung đã nghiên cứu trong đề tài, qua nhiều tiết dạy tôi thấy học sinh đã có biểu hiện hứng thú đối với tiết học thơ hiện đại hơn. Cụ thể là các em đã tích cực tham gia các hoạt động; chú ý nghe giảng, hăng hái phát biểu xây dựng bài, kết quả các lần kiểm tra tương đối cao... - Thuận lợi: Nội dung đề tài nghiên cứu gần gũi với thực tế giảng dạy học tập, dễ vận dụng vào thực tiễn. Nội dung các bài học, tiết học thơ hiện đại rất đa dạng phong phú nên giáo viên có thể vận dụng một cách linh hoạt, uyển chuyển không cần theo công thức hay khuôn mẫu khô khan. - Khó khăn: Một khó khăn rất lớn khiến việc thực hiện đề tài giảm đi tính khả thi là hiện nay đa số học sinh và các bậc phụ huynh rất thực dụng, không quan tâm đúng mức hoặc không tạo điều kiện cho việc học văn của con em mình (vì họ quan niệm sai lầm rằng học văn “không kiếm được tiền” bằng các môn Toán, Lí, Hóa, Ngoại ngữ....) Một số khó khăn khác là kết quả của đề tài nghiên cứu này rất khó minh họa bằng một tài liệu hay con số cụ thể vì sự hứng thú hay say mê.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> không thể định lượng chính xác được cho nên các ví dụ và số liệu kèm theo để minh họa chỉ có tính chất tương đối mà thôi. Mặt khác do tài liệu tham khảo cho giáo viên và học sinh không được phong phú nên việc vận dụng chưa được sâu sắc và toàn diện.Vẫn còn một số văn bản trong chương trình, nhất là các văn bản thuộc phần Văn học nước ngoài và văn học địa phương tài liệu tham khảo hầu như không có, chủ yếu giáo viên phải tự tìm hiểu mày mò nghiên cứu trong quá trình lên lớp nên khá khó khăn. Dựa vào kết quả bài kiểm tra để đánh giá mức độ ham thích tiết học văn của học sinh thì tính thuyết phục cho đề tài chưa cao lắm. Tuy nhiên, tôi hi vọng rằng nếu kiên trì vận dụng đề tài vào từng bài giảng và mở rộng trong nhiều khối lớp (khối 7,8,9) và vận dụng nhiều năm liền thì chắc chắn kết quả sẽ khả quan hơn. VII. ĐỀ NGHỊ - Nên bổ sung tài liệu liên quan đến tiết dạy văn học địa phương - Đề tài được tiếp tục bảo lưu thực hiện và nhân rộng ra các khối lớp. - Mong có sự phối kết hợp giúp đỡ của nhiều tổ chức như nhà trường, xã hội trong việc góp phần thay đổi cách tư duy sai lầm của phụ huynh hiện nay. - Để đề tài được xét công nhận, mong có sự góp ý giúp đỡ của đồng nghiệp, tổ chuyên môn và Hội đồng xét duyệt của nhà trường để đề tài được tốt hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Nam Phước, ngày 10 tháng 04 năm 2012 Người viết. Lê Thị Mỹ Hạnh.

<span class='text_page_counter'>(9)</span> VIII. TÀI LIỆU THAM KHẢO TT Tên tác giả 1 Đỗ Kim Hồi 2 Nguyễn Khắc Phi 3 Nguyễn Khắc Phi 4 Phan Trọng Luận 5 Đỗ Ngọc Thống 6 Nguyễn Trí 7 Đỗ Ngọc Thống 8 Tài liệu của trường ĐHSP. Tên TLTK Nghĩ từ công việc dạy văn Sách giáo viên Ngữ văn 9 tập một, tập hai. Sách giáo viên Ngữ văn 8 tập một, tập hai. Phương pháp giảng dạy văn học Tư liệu Ngữ văn 8 Sổ tay kiến thức Ngữ văn 8 Tư liệu Ngữ văn 8 Ngôn ngữ thơ. Nhà xuất bản Giáo dục Giáo dục. Năm xuất bản 1998 2005. Giáo dục. 2005. Bộ giáo dục và đào tạo Giáo dục Giáo dục Giáo dục ĐHSP. 2001 2005 2005 2005 2000.

<span class='text_page_counter'>(10)</span> CHUYÊN ĐỀ: GIÚP HỌC SINH LỚP 8,9 HỌC TỐT CÁC VĂN BẢN THƠ HIỆN ĐẠI VIỆT NAM I/ Sự cần thiết của chuyên đề: Thơ chính là vẻ đẹp của cuộc sống được biểu hiện một cách tập trung khái quát nhất nên học ngữ văn không thể không học thơ. Các văn bản thơ là một phần quan trọng trong chương trình văn ở các lớp THCS, thơ chiếm một số lượng khá lớn trong tổng số các văn bản được học trong toàn bộ chương trình. Dạy thơ cho HS là giúp các em có kĩ năng cảm thụ một tác phẩm biểu cảm có giá trị nghệ thuật cao, bồi bổ cho các em những tình cảm tư tưởng đẹp thấm nhuần giá trị nhân văn, hướng các em đến lối sống đẹp, sống tốt biết yêu cái đẹp, ghét cái xấu xa độc ác, căm thù kẻ phản nhân nghĩa…Có thể nói vắn tắt, dạy văn nói chung, dạy thơ nói riêng, là bồi dưỡng về tâm hồn cho các em, hướng các em đến với chân - thiện – mĩ. Do đó việc giúp các em tiếp cận, hiểu đúng một tác phẩm thơ là việc rất cần thiết trong quá trình giảng dạy bộ môn ngữ văn trong nhà trường. Tuy nhiên, do điều kiện vận dụng và nghiên cứu, chuyên đề chỉ giới hạn và vận dụng cho đối tượng học sinh lớp 8, 9 ở các tác phẩm thơ hiện đại Việt Nam. II/ Mục đích của chuyên đề: Nghiên cứu và thực hiện chuyên đề này trong quá trình dạy các văn bản thơ trong chương trình là nhằm giúp cho các em: - Có kĩ năng cảm thụ tốt giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật các văn bản thơ hiện đại VN được học trong chương trình. - Biết trình bày cảm hiểu của mình về nội dung và nghệ thuật của văn bản thơ đã học một cách trôi chảy, mạch lạc, khoa học. - Rèn cho học sinh kĩ năng tư duy vừa khoa học vừa hình tượng thẩm mỹ - Giúp học sinh thấy được cái hay và sức cảm hóa mãnh liệt của thơ đối với tâm hồn, tình cảm của con người, giúp các em có được lòng yêu thương, sự nhạy cảm tinh tế trong cuộc sống. - Rèn cho học sinh học tập các thể loại thơ biết cách thể hiện tư tưởng cảm xúc của mình bằng thơ Đạt được các mục đích trên là phần nào ta đã hướng các em đến với chân thiện – mĩ trong cuộc sống, và từ đó kết quả học tập cũng sẽ đạt kết quả như mong muốn của giáo viên đứng lớp. III/ Nội dung thực hiện: 1/ Trước khi học một văn bản thơ hiện đại trên lớp yêu cầu học sinh phải thâm nhập kĩ tác phẩm, có nghĩa là phải chuẩn bị bài mới thật tốt ở nhà. Trước hết cần tìm hiểu bối cảnh được nói đến trong bài thơ (bối cảnh xã hội, lịch sử liên quan đến nội dung bài thơ), hiểu được hoàn cảnh ra đời, nắm được.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> những thông tin cần thiết về tác giả. Tất cả những yêu cầu này là cơ sở đầu tiên giúp các em cảm hiểu văn bản tốt hơn. Ví dụ khi học bài “Ông đồ” của Vũ Đình Liên học sinh phải tìm hiểu để biết được bối cảnh trong bài thơ là: người thuê ông đồ viết câu đối tết ngày một vắng bóng hẳn, ông bị người đời quên lãng, ông chỉ còn là “di tích tiều tụy của một thời tàn”. Vấn đề này liên quan đến bối cảnh xã hội Việt Nam đầu thế kỉ 20 là đang thoát khỏi sự ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa Trung Hoa sau 50 năm làm nô lệ cho TD Pháp và dần chịu sự ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, của phong trào Tây hóa, do đó các nét văn hóa truyền thống của người VN cũng bị thay đổi theo, người ta không thích tục chơi câu đối Tết nữa cho nên mới có cảnh “Ông đồ vẫn ngồi đấy, Qua đường không ai hay, Lá vàng rơi trên giấy, Ngoài giời mưa bị bay”. Và đương nhiên các em cũng cần tìm hiểu để biết đôi điều cơ bản về chủ đề sáng tác của Vũ Đình Liên là “mang nặng lòng thương người và nỗi niềm hoài cổ”. Thực hiện tìm hiểu trước các điều này các em sẽ cảm hiểu tác phẩm đầy đủ và chính xác hơn. Hơn nữa thời gian học văn bản quá ít, nếu GV phải dành nhiều thời gian để giảng những điều này thì sẽ không có nhiều thời gian để tìm hiểu về nội dung và nghệ thuật bài thơ. Hoặc khi học bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải cũng vậy. Các em phải tìm hiểu để biết bối cảnh đất nướcVN ta những năm 1980 đang phát triển đi lên như thế nào, điều đó đã khơi nguồn cảm hứng cho nhà thơ Thanh Hải rất lớn. Các em cũng cần phải tìm hiểu để biết bối cảnh ra đời của bài thơ là khi tác giả đang nằm trên giường bệnh, đang phải giành giật sự sống với tử thần từng phút giây. Có hiểu được điều này các em mới hiểu hết được tâm nguyện được hòa nhập được dâng hiến thiết tha chân thành của nhà thơ đã thể hiện trong bài. Đối với tất cả các bài thơ khác cũng tương tự như thế. 2/ Trong khâu chuẩn bị ở nhà, GV cần yêu cầu học sinh đọc thuộc lòng và diễn cảm tác phẩm thơ trước khi tìm hiểu, phân tích. Đọc thơ thuộc và đọc thơ hay là bước đầu các em đã cảm và hiểu được phần nào văn bản thơ ấy. 3/ Một việc không kém phần quan trọng là học sinh phải đọc kĩ chú thích có trong bài thơ. Phần chú thích SGK thường giảng nghĩa một số từ khó, và đó là những từ các em không hiểu, nếu không hiểu từ thì không thể hiểu thơ. 4/ Cần chú ý tích hợp kiến thức về tiếng Việt đã học để giúp các em phân tích bình giảng thơ có hiệu quả, đặc biệt là các biện pháp tu từ thông dụng được các tác giả dùng trong thơ như so sánh, nhân hóa, ẩn dụ, hoán dụ, chơi chữ. Tuy nhiên không phải chỉ dừng lại ở khâu phát hiện biện pháp tu từ mà phải phân tích được tác dụng của biện pháp tu từ đã được các tác giả dùng trong câu thơ. Ví dụ khi phân tích câu thơ: “Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng, Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”, GV không chỉ yêu cầu học sinh phát hiện ra phép tu từ ẩn dụ tác giả đã sử dụng mà phải phân tích được tác dụng của phép ẩn dụ trong câu thơ là nhằm ngợi ca Bác vĩ đại rực rỡ như vầng mặt trời đã soi đường dẫn lối cho dân tộc ta thoát khỏi đêm trường nô lệ. 5/ Rèn cho học sinh thao tác đối chiếu so sánh khi phân tích. So sánh đối chiếu vừa nhằm khắc sâu vừa nhằm mở rộng kiến thức. Ví dụ khi phân tích câu thơ “Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm, Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ” các em phải cảm hiểu được tình cảm nồng hậu của nhà thơ đối với quê hương qua cái nhìn đối với con thuyền, đó không phải là vật thể vô.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> tri, dưới cái nhìn của nhà thơ nó là thành viên quan trọng của làng chài quê mình. Để bình giảng mở rộng chỗ này gv có thể so sánh đối chiếu với cách người nông dân đối với con trâu của mình, họ cũng xem con trâu là thành viên quan trọng, họ trò chuyện tâm tình với trâu như với người “Trâu ơi ta bảo trâu này ….”. Hoặc khi dạy bài thơ “Ông đồ” khi giảng đến khổ cuối, gv cần có thao tác so sánh đối chiếu với câu thơ của Thôi Hộ “Nhân diện bất tri hà xứ khứ, Đào hoa y cựu tiếu đông phong” để thấy VĐL đã chịu ảnh hưởng Thôi Hộ sâu sắc như thế nào … 6/ Khi giảng thơ, GV cần tạo tính trực quan bằng cách chép bài thơ lên bảng để hướng dẫn HS phân tích tìm hiểu. Khi chép bài thơ lên bảng HS dễ dàng tìm mạch cảm xúc và bố cục của bài thơ, GV dễ dàng gạch chân để bình các hình ảnh chi tiết hoặc từ hay từ đắt có trong bài. Nếu có đủ điều kiện, cũng nên kết hợp sử dụng công nghệ thông tin để giới thiệu một số hình ảnh về tác giả, tác phẩm hoặc một số hình ảnh minh họa cho nội dung bài thơ IV/ Kết quả đạt được a/ Kết quả cụ thể: Việc vận dụng các kinh nghiệm trên đã đạt được những kết quả tương đối rõ như các em đã có kĩ năng cảm thụ nội dung và nghệ thuật của văn bản thơ được học trong chương trình. Đã biết trình bày cảm hiểu của mình về nội dung và nghệ thuật của văn bản thơ đã học một cách trôi chảy, mạch lạc. Các em đã thấy được cái hay và sức cảm hóa mãnh liệt của thơ đối với tâm hồn, tình cảm của con người nên các em thích giờ học thơ hơn các giờ khác . Kết quả bài làm về cảm thụ thơ tương đối cao, phần lớn HS hiểu được, cảm được giá trị của một đoạn thơ hoặc bài thơ và trình bày trôi chảy cảm hiểu của mình về đoạn thơ bài thơ đó. b/ Bài học kinh nghiệm: Khi thực hiện các hoạt động này GV không thể thực hiện đồng bộ tất cả các thao trong một tiết dạy mà chỉ có thể thực hiện một số thao tác nào phù hợp với bài giảng mà thôi. c/ Những thống nhất chung cần vận dụng vào giảng dạy: (Đã thống nhất và ghi ở biên bản tổ) Phó hiệu trưởng chuyên đề. Tổ trưởng CM. Người viết. Nguyễn Quang Bàn Mỹ Hạnh. Bạch Thị Yên. Lê Thị.

<span class='text_page_counter'>(13)</span>

<span class='text_page_counter'>(14)</span>

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×