Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐẮK LẮK (Luận văn thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 83 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM THỊ PHƯƠNG HOA

HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH
TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐẮK LẮK

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Đắk Lắk, năm 2021


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM THỊ PHƯƠNG HOA

HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH
TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐẮK LẮK
Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8.38.01.02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
Tiến sĩ Đặng Thị Phượng

Đắk Lắk, năm 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi.


Nội dung và các số liệu trình bày trong luận văn hồn tồn trung thực, có
nguồn rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả luận văn

Phạm Thị Phương Hoa


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
Chương 1 ............................................................................................................ 7
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG .................. 7
GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH .................................... 7
1.1 Khái niệm, đặc điểm, vai trò hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp
tỉnh ..................................................................................................................... 7
1.2.Thẩm quyền, đối tượng và nội dung hoạt động giám sát của Hội đồng nhân
dân cấp tỉnh ...................................................................................................... 14
1.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp
tỉnh ................................................................................................................... 20
1.4. Các yêu cầu đặt ra đối với hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp
tỉnh ................................................................................................................... 24
Tiểu kết chương 1 ............................................................................................. 28
Chương 2 .......................................................................................................... 29
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA ............................................. 29
HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK ...................................................... 29
2.1. Khái quát các yếu tố tác động đến hoạt động giám sát của Hội đồng nhân
dân tại tỉnh Đắk Lắk ......................................................................................... 29
2.2. Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Đắk Lắk .......................... 38
2.3. Đánh giá thực trạng hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Đắk Lắk
......................................................................................................................... 50
Tiểu kết chương 2 ............................................................................................. 59

Chương 3 .......................................................................................................... 60
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT
CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNHTỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐẮK LẮK
3.1. Quan điểm tăng cường hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
......................................................................................................................... 60
3.2. Các giải pháp tăng cường hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh


Đắk Lắk ............................................................................................................ 63
Tiểu kết chương 3 ............................................................................................. 73
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 74
DANH MỤC TÀI LIỆU KHAM KHẢO........................................................... 74


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
HĐND

Hội đồng nhân dân

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

QPPL

Quy phạm pháp luật

TAND

Tòa án nhân dân


UBND

Ủy ban nhân dân

THADS

Thi hành án dân sự


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Đối với nước ta, ở địa phương, cơ quan quyền lực nhà nước, đại diện cho ý
chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân đó là HĐND. Hiến pháp năm
2013, tại Điều 6 đã quy định: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân
chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, HĐND và thông qua các
cơ quan khác của Nhà nước”.
Là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, để thực hiện vai trị của mình,
thực hiện ngun tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân thì hoạt động
giám sát HĐND là một trong những nhiệm vụ, quyền hạn, hoạt động quan trọng
nhất của HĐND.
Hoạt động giám sát có vị trí, vai trị vơ cùng quan trọng, nhằm bảo đảm
HĐND thực sự là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân và quyền
làm chủ của Nhân dân; bảo đảm thực hiện đúng nguyên tắc quyền lực nhà nước
thuộc về Nnhân dân. Thực hiện tốt chức năng giám sát là một trong những yêu cầu
cơ bản để nâng cao hiệu quả hoạt động của HĐND.
Trong nhiệm kỳ 2016-2021, hoạt động giám sát của HĐND tỉnh Đắk Lắk đã
có nhiều đổi mới cả về nội dung và hình thức; hiệu quả cơng tác giám sát ngày càng
nâng lên. Nội dung giám sát thường tập trung vào các lĩnh vực kinh tế - xã hội và
ngân sách nhà nước, việc thi hành Hiến pháp, pháp luật và những vấn đề được dư

luận quan tâm, cử tri bức xúc. Hình thức, phương thức tổ chức giám sát theo hướng
dân chủ, nâng cao tính cơng khai, minh bạch, có sự tham gia, phối hợp giám sát
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp. Thông qua hoạt động giám sát đã có những
đề xuất, kiến nghị phù hợp để khắc phục những hạn chế trong quá trình thực thi
pháp luật; tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong các quy định, cơ chế, chính
sách, nâng cao hiệu quả quản lý hành chính Nhà nước; hoạt động giám sát đã được
dư luận và Nhân dân đồng tình, ủng hộ, đã góp phần nâng cao vai trị, uy tín, chất
lượng và hiệu quả hoạt động của HĐND.
Tuy vậy, hoạt động giám sát của HĐND tỉnh Đắk Lắk vẫn còn một số hạn

1


chế nhất định, đó là: Trong hoạt động giám sát chuyên đề, việc xây dựng chương
trình, kế hoạch, cách thức tổ chức giám sát đôi lúc chưa thật sự khoa học; nhiều
vấn đề tiêu cực, bức xúc, được dư luận xã hội quan tâm, phản ánh nhưng chưa được
giám sát, hoặc có giám sát nhưng hiệu quả đạt được chưa cao; hoạt động giám sát
đối với việc triển khai thực hiện các nghị quyết, vấn đề quan trọng của HĐND tỉnh
tại một số lĩnh vực vẫn còn hạn chế; năng lực, khả năng phát hiện vấn đề trong hoạt
động giám sát của đại biểu còn yếu, chưa thấu đáo; đặc biệt là, sau giám sát cịn
thiếu quyết liệt trong cơng tác đôn đốc, theo dõi các cơ quan chức năng trong việc
thực hiện các kết luận, kiến nghị của HĐND tỉnh; chưa có sự theo dõi, truy vụ việc
đến cùng...
Việc Quốc hội thông qua Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND
năm 2015, là hoàn toàn cần thiết nhằm cụ thể hóa các quy định về hoạt động giám
sát của HĐND trên cơ sở Hiến pháp năm 2013. Đồng thời đã đặt ra yêu cầu, đòi
hỏi trong giai đoạn hiện nay, hoạt động giám sát của HĐND ngày càng phải hiệu
lực, hiệu quả.
Vì vậy, việc nghiên cứu về hoạt động giám sát của HĐND nói chung, của
HĐND cấp tỉnh nói riêng là cấp thiết. Chính vì thế, tơi lựa chọn đề tài: “Hoạt động

giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk” làm luận văn
thạc sỹ chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính. Qua nghiên cứu giám
sát ở một địa phương, các kết quả nghiên cứu của luận văn hi vọng sẽ có ý nghĩa
cho việc nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh ở
các địa phương khác nói chung.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Các vấn đề có liên quan đến hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh ở nước
ta đã được đề cập nhiều trên sách, báo, tạp chí và đã có nhiều đề tài, cơng trình
khoa học nghiên cứu về vấn đề này, tiêu biểu như:
- Bùi Xuân Đức, (2003)Bàn về tính chất của HĐND trong điều kiện cải cách
bộ máy nhà nước hiện nay, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, 12/2003.
- Đào Trí Úc (2003), Quan niệm về giám sát việc thực hiện quyền lực nhà

2


nước và các cơ chế thực hiện giám sát, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật.
- Nguyễn Đăng Dung (2016) Chức năng giám sát của HĐND, Nxb. Tư pháp,
Hà Nội.
- Huyền Tôn Nữ Diễm Thúy (2019) Hoạt động giám sát của HĐND tỉnh
Thừa Thiên Huế, Luận văn Thạc sỹ luật học, Học viện Hành chính quốc gia.
- Trần Lan Anh (2018) Nâng cao hiệu lực giám sát của HĐND cấp tỉnh
trong điều kiện đổi mới ở Việt Nam hiện nay, Luận văn của Thạc sỹ Luật học, Đại
học Luật thành phố Hồ Chí Minh.
- Đề tài nghiên cứu khoa học của HĐND tỉnh Đắk Lắk (2014), Thực trạng
và những giải pháp nâng cao chất lượng giám sát của Thường trực HĐND các cấp
ở Đắk Lắk.
Bên cạnh đó, cịn có rất nhiều cơng trình nghiên cứu được đăng trên các tạp
chí chuyên ngành, báo cáo, tham luận tại các hội nghị, hội thảo đề cập đến hoạt
động giám sát của HĐND nói chung, HĐND cấp tỉnh nói riêng.

Nhìn chung các cơng trình nghiên cứu này chủ yếu tiếp cận HĐND từ góc
độ tổ chức và hoạt động một cách chung chung, còn về chức năng giám sát của
HĐND chỉ đề cập đến một trong những nội dung liên quan đến hoạt động giám sát
của HĐND như: đổi mới hoạt động giám sát tại kỳ họp, đổi mới phương thức giám
sát chuyên đề, về chất lượng, kỹ năng giám sát của đại biểu HĐND… Tuy vậy, các
kết quả nghiên cứu này là nguồn tư liệu có giá trị, bổ ích, có nhiều gợi ý cho tác
giả tham khảo, cho việc nghiên cứu hoạt động giám sát của HĐND tỉnh Đắk Lắk
với tính chất là một đề tài độc lập đi sâu nghiên cứu thực tiễn, nghiên cứu một cách
có hệ thống, tồn diện và đầy đủ về vấn đề này, để đánh giá những kết quả đạt
được, những tồn tại, hạn chế, qua đó đưa ra được những giải pháp phù hợp nhằm
tăng cường, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND tỉnh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên Nghiên cứu những vấn đề lý luận và pháp luật về hoạt
động giám sát của HĐND tỉnh; đánh giá tình hình thực hiện hoạt động giám sát qua

3


thực tiễn của HĐND tỉnh Đắk Lắk; từ đó, đề xuất quan điểm, giải pháp tăng cường
hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND tỉnh Đắk Lắk trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ
- Phân tích những vấn đề lý luận về hoạt động giám sát của HĐND đi từ việc
phân tích vị trí, vai trị, chức năng của HĐND; làm rõ khái niệm hoạt động giám
sát của HĐND; phân tích đặc điểm, nội dung và hình thức giám sát của HĐND cấp
tỉnh; các yếu tố tác động đến hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh.
- Làm sáng tỏ thực trạng hoạt động giám sát của HĐND tỉnh Đắk Lắk hiện
nay để tìm ra ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân của những ưu điểm, hạn chế; những
bất cập trong những quy định pháp luật.
- Trên cơ sở đó, đề xuất quan điểm, giải pháp tăng cường hiệu quả hoạt động

giám sát của HĐND nói chung, HĐND tỉnh Đắk Lắk nói riêng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động giám sát của HĐND tỉnh Đắk Lắk.
Quy định của các bản Hiến pháp; của Luật Tổ chức chính quyền địa phương
năm 2015, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật
Tổ chức chính quyền địa phương năm 2019; của Luật Hoạt động giám sát của Quốc
hội và HĐND năm 2015; Quy chế hoạt động của HĐND và các văn bản có liên
quan đến tổ chức và hoạt động của HĐND cấp tỉnh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động giám
sát của HĐND tỉnh Đắk Lắk.
- Phạm vi không gian: HĐND tỉnh Đắk Lắk.
- Phạm vi thời gian: Từ ngày 01/7/2016 (ngày bắt đầu HĐND tỉnh nhiệm kỳ
2016 - 2021 đi vào hoạt động) đến ngày 31/12/2020.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư

4


tưởng Hồ Chí Minh về HĐND và chức năng giám sát của HĐND nói chung và
HĐND cấp tỉnh nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên một số phương pháp nghiên cứu như:
phương pháp so sánh; phương pháp tổng hợp, phân tích; phương pháp thống kê...
Đồng thời, kế thừa và sử dụng thành quả của một số bài viết, cơng trình nghiên cứu,
báo cáo và các tài liệu liên quan khác đến luận văn.
- Phương pháp phân tích: nghiên cứu các văn bản pháp luật hiện hành có liên

quan đến hoạt động giám sát của HĐND; các đề tài khoa học, chương trình, dự án, bài
báo đăng trên các tạp chí khoa học chuyên ngành.
- Phương pháp tổng hợp: kế thừa, tổng hợp nội dung các báo cáo, nghiên cứu,
bài viết của các chuyên gia liên quan đến hoạt động giám sát của HĐND. Từ đó,
tiến hành phân tích, đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát
của HĐND cấp tỉnh.
- Phương pháp thống kê: tại chương 2 của luận văn, chủ yếu sử dụng phương
pháp này. Các số liệu thu thập được tổng hợp, phân tích làm cơ sở đánh giá thực trạng;
qua đó, đánh giá về kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân để đưa ra những phương
hướng, giải pháp giải quyết vấn đề một cách cụ thể.
Ngoài ra còn các phương pháp so sánh, khảo sát thực tế, xin ý kiến chuyên gia
cũng được sử dụng trong quá trình nghiên cứu luận văn này.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn đã tập hợp, hệ thống hóa những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của
đảng và những quy định của Nhà nước về hoạt động giám sát của HĐND trong
thực hiện quyền lực nhà nước, góp phần thực hiện, xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về Nhân dân.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề liên quan đến hoạt động giám sát của HĐND

5


tỉnh Đắk Lắk, luận văn sẽ giúp đội ngũ cán bộ, cơng chức nhìn nhận đúng đắn về
vị trí, vai trò và tầm quan trọng của HĐND và đối với hoạt động giám sát của
HĐND trong việc kiểm soát việc thực thi quyền lực nhà nước ở địa phương; góp
phần nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của HĐND tỉnh;, từ đó gián tiếp góp
phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần; giữ

vững ổn định, an ninh trật tự trên địa bàn tỉnh.
Luận văn có giá trị làm tài liệu tham khảo, vận dụng vào hoạt động thực tiễn
của HĐND các cấp, góp phần thực hiện có hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND
cấp huyện, cấp xã trên địa bàn tỉnh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, phần
nội dung của luận văn được bố cục thành 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về hoạt động giám sát của Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh.
Chương 2. Thực trạng hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk.
Chương 3. Quan điểm và giải pháp tăng cường hoạt động giám sát của Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG
GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò hoạt động giám sát của Hội đồng nhân
dân cấp tỉnh
1.1.1. Khái niệm hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
- Khái niệm hoạt động giám sát
Theo Từ điển Tiếng Việt, thì“giám sát là theo dõi, kiểm tra việc thực thi
nhiệm vụ”.
Trong Từ điển bách khoa Việt Nam thì: “Giám sát là một hình thức hoạt
động của cơ quan nhà nước hoặc tổ chức xã hội nhằm bảo đảm pháp chế hoặc
sự chấp hành những quy tắc chung nào đó”.
Theo Từ điển Luật học thì: “Giám sát là một hình thức hoạt động quan

trọng, đồng thời là quyền của cơ quan nhà nước thể hiện ở việc xem xét đối với
hoạt động của các đối tượng chịu sự giám sát trong việc tuân theo Hiến pháp và
pháp luật nhằm bảo đảm pháp chế hoặc sự chấp hành những quy tắc chung nào
đó”.
Trường hợp nghiên cứu từ góc độ thực thi quyền lực nhà nước thì “giám
sát” được hiểu là sự theo dõi, kiểm tra đối với việc thực thi quyền lực nhà nước của
các cá nhân, tổ chức có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Cụ thể, tại Khoản
1 Điều 2 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND, thì khái niệm“giám
sát” được hiểu như sau: “Giám sát là việc chủ thể giám sát theo dõi, xem xét, đánh
giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc tuân theo
Hiến pháp và pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, xử lý theo
thẩm quyền hoặc yêu cầu, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý” [27].
Thực tiễn cho thấy, hoạt động giám sát được áp dụng rất phổ biến, từ việc
giám sát trong hoạt động của bộ máy nhà nước; giám sát của nhân dân đối với cán
bộ, công chức và bộ máy nhà nước; giám sát xã hội của các tổ chức, cá nhân; giám
sát công trình, giám sát chất lượng; giám sát việc thực thi, tuân thủ pháp luật của

7


cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong q trình thực thi cơng vụ được
giao…
Như vậy, mặc dù cách diễn đạt và biểu hiện ý nghĩa của thuật ngữ giám sát
có khác nhau, nhưng các quan niệm trên đây đều có điểm chung về nội dung, xác
định cụ thể giám sát là việc theo dõi, xem xét và kiểm tra một chủ thể nào đó về
một việc làm đã thực hiện đúng hoặc chưa đúng theo quy định, để từ đó có biện
pháp điều chỉnh hoặc xử lý đối với việc làm chưa đúng, bảo đảm thực hiện đúng,
đầy đủ các quy định.
Với những quan niệm, cách hiểu như trên, có thể nhận thấy giám sátcó một
số các đặc trưng cơ bản như sau:

Một là, giám sát luôn gắn với một chủ thể có thẩm quyền nhất định, tức là
chủ thể có thẩm quyền thực hiện việc theo dõi, xem xét, kiểm tra và đưa ra những
đánh giá, nhận định về một việc làm nào đó của một đối tượng cụ thể bị giám sát
đã được thực hiện đúng hay sai so với các quy định, quyết định.
Hai là, giám sát là hoạt động có tính mục đích, đó là đưa ra được nhận định
chính xác của chủ thể có thẩm quyền giám sát đối với những hoạt động của đối tượng
chịu sự giám sát; qua đó có những đề xuất, kiến nghị các biện pháp để xử lý những
việc làm sai, trái với quy định của pháp luật nhằm bảo đảm quy định của pháp luật
được thực hiện nghiêm túc đúng, đầy đủ và có hiệu lực cao.
Ba là, giám sát phải được tiến hành trên những căn cứ do pháp luật quy định
và đã được xác định từ trước. Bởi vì nếu khơng có những quy định của pháp luật
làm căn cứ thì chủ thể giám sát khơng có cơ sở để thực hiện quyền giám sát và tiêu
chí để đưa ra những nhận định về hoạt động của đối tượng chịu sự giám sát.
Bốn là, giám sát phải thể hiện được quan hệ giữa các chủ thể tham gia vào
hoạt động giám sát. Nội dung của quan hệ này biểu hiện ở những quyền và nghĩa
vụ của chủ thể giám sát và đối tượng chịu giám sát.
Từ những phân tích nêu trên, có thể khái quát, hiểu một cách chung nhất về
thuật ngữ này như sau: “Giám sát là hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân có
thẩm quyền được tiến hành theo một trình tự, thủ tục nhất định để theo dõi, kiểm

8


tra, đánh giá và kiến nghị về hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác nhằm
bảo đảm các đối tượng này thực hiện đúng các nhiệm vụ, quyền hạn đã được quy
định”.
- Hoạt động giám sát của HĐND
Tại bản Hiến pháp đầu tiên – Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa đã giành hẳn 1 chương (Chương V) để đề cập đến HĐND. Theo
bản Hiến pháp này, “ở tỉnh, thành phố, thị xã và xã có HĐND do đầu phiếu phổ

thơng, trực tiếp bầu ra”, “HĐND quyết nghị về những vấn đề thuộc địa phương
mình. Những nghị quyết ấy khơng được trái với chỉ thị của các cấp trên” [20].
Sau đó, Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hịa thơng qua Luật Tổ
chức chính quyền địa phươngngày 28/4/1958, Luật này đã khẳng định rõ ràng
tính quyền lực của HĐND, cụ thể là “HĐND các cấp là cơ quan quyền lực nhà
nước ở địa phương, do nhân dân bầu ra” [25].
Từ đó, các bản Hiến pháp và các văn bản Luật sau này như: Luật Tổ chức
HĐND và UBND năm 1983, Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 1989… đều
nhấn mạnh đến vai trò của HĐND các cấpvà những quy định, những vấn đề liên
quan đến hoạt động giám sát của HĐND các cấp ngày càng được hoàn thiện, đầy
đủ hơn - là một bước tiến rõ rệt, tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, cụ thể để HĐND hoạt
động có thực quyền đúng như vị trí, quyền hạn của HĐND theo Luật định.
Đến nay, Hiến pháp hiện hành đã khẳng định rõ hơn về vị trí pháp lý của
HĐND các cấp nói chung và cấp tỉnh nói riêng. HĐND “là cơ quan quyền lực nhà
nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân
dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương
và cơ quan nhà nước cấp trên”[24]. Như vậy, HĐND các cấp là cơ quan quyền
lực nhà nước ở địa phương, do Nhân dân địa phương bầu ra, đại diện cho ý chí,
nguyện vọng và quyền làm chủ Nhân dân ở địa phương. HĐND có quyền quyết
định những vấn đề quan trọng của địa phương theo quy định pháp luật. Cụ thể,
HĐND các cấp có 3 chức năng chính, đó là: quyết định những vấn đề cơ bản, quan
trọng của địa phương; giám sát và đại diện cho nhân dân.

9


Đối với hoạt động giám sát, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm
2015, đặc biệt là Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND được thông qua
năm 2015 đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong q trình hồn thiện thể chế
pháp lý về hoạt động giám sát của HĐND, cũng như đưa hoạt động giám sát của

HĐND các cấp đi vào nền nếp, đạt chất lượng và hiệu quả cao hơn. Luật này đã
quy định khá cụ thể về chủ thể, thẩm quyền, đối tượng và phương thức giám sát
của HĐND các cấp, nhất là đối với cấp tỉnh.
Theo quy định của Luật, “Giám sát là việc chủ thể giám sát theo dõi, xem
xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong
việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của mình, xử lý theo thẩm quyền hoặc yêu cầu, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền
xử lý”[27].
Từ những luận giải trên, căn cứ đối tượng giám sát của HĐND, có thể hiểu
khái niệmhoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh là tổng thể các hoạt động của
HĐND, Thường trực HĐND, các Ban của HĐND và đại biểu HĐND nhằm xem
xét, theo dõi, kiểm tra, đánh giá việc chấp hành Hiến pháp, luật, pháp lệnh, các
văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, các Nghị quyết của HĐND trên các lĩnh
vực của địa phương đối với các đối tượng chịu sự giám sát của HĐND, từ đó đưa
ra các kết luận và phương án xử lý phù hợp để khắc phục những tồn tại, hạn chế,
phát huy mọi tiềm năng của địa phương.
1.1.2. Đặc điểm hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Từ những phân tích nêu trên, chúng ta nhận thấy hoạt động giám sát của
HĐND có các đặc điểm cơ bản như sau:
Thứ nhất, ở nước ta, quyền lực Nhà nước thuộc về nhân Nhân dân, do đó
hoạt động giám sát của HĐND mang tính quyền lực Nhà nước. “HĐND là cơ quan
quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm
chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân
dân địa phương và cơ quan Nhà nước cấp trên” [28].
Thứ hai, hoạt động giám sát của HĐND luôn gắn với một chủ thể nhất định,

10


có nghĩa là phải trả lời câu hỏi ai có quyền thực hiện việc xem xét, đánh giá, theo

dõi về một việc đã được thực hiện đúng hoặc sai so với những quy định? giám sát
vấn đề gì, và giám sát việc gì.
Thứ ba, hoạt động giám sát của HĐND theo một trình tự, thủ tục nhất định
là dân chủ, cơng khai, minh bạch và có tính chủ động. Trong hoạt động giám sát
của HĐND, công khai, minh bạch là việc người dân, các đại biểu HĐND được
thông tin kịp thời, đầy đủ, chính xác về các quy định của pháp luật và các thơng tin
có liên quan đến q trình thực hiện giám sát của HĐND.
Thứ tư, hoạt động giám sát cùng với hoạt động kiểm tra, thanh tra để kiểm
soát quyền lực nhà nước ở địa phương
Để kiểm soát đối với quyền lực nhà nước, ở nước ta có nhiều hình thức kiểm
sốt khác nhau, nhưng giám sát, kiểm tra, thanh tra là những hình thức cơ bản, được
sử dụng phổ biến và thường xuyên nhất. Tuy là các hình thức dùng để kiểm sốt
đối với quyền lực nhà nước, nhưng hoạt động giám sát của HĐND khác với hoạt
động kiểm tra, hoạt động thanh tra của cơ quan hành chính nhà nước. Cụ thể là:
Hoạt động kiểm tra là hoạt động thường xuyên của cơ quan, tổ chức cấp trên
với cơ quan, tổ chức cấp dưới nhằm xem xét, đánh giá các mặt hoạt động của cấp
dưới khi cần thiết, hoặc kiểm tra một vấn đề cụ thể - là hoạt động kiểm sốt quyền
lực mang tính chất nội bộ, trong khi đó, hoạt động giám sát của HĐND là cơ chế
kiểm soát quyền lực từ bên ngoài.
Hoạt động thanh tra là hoạt động của cơ quan, tổ chức có chức có chức
năng thanh tra, giữa chủ thể thanh tra và đối tượng thanh tra thường ko có quan
hệ trực thuộc.
Từ những nghiên cứu, phân tích trên đây đối với hoạt động giám sát, hoạt
động kiểm tra, thanh tra cho thấy điểm khác nhau căn bản, chủ yếu giữa hoạt động
giám sát với hoạt động kiểm tra, thanh tra của cơ quan hành chính là hiệu quả đối
với hoạt động giám sát của HĐND mang tính gián tiếp ở tầm vĩ mơ, mang tính chất
là một chủ trương, một chính sách, một sự chỉ đạo chung, chứ không nhằm vào
từng hành vi cụ thể, những hoạt động cụ thể của từng tổ chức, cá nhân.

11



Như vậy, có thể thấy rằng hoạt động giám sát, hoạt động kiểm tra, hoạt động
thanh tra là những hoạt động có nội dung tương đối gần nghĩa, dùng để chỉ những
hoạt động có phạm vi, tính chất gần nhau, thậm chí có biểu hiện khách quan khá
giống nhau nằm trong cơ chế kiểm soát đối với quyền lực nhà nước, nhưng giữa
chúng cũng có những sự khác nhau về quan hệ pháp lý, chủ thể, đối tượng, phạm
vi, phương pháp thực hiện và hậu quả pháp lý.
1.1.3. Vai trò hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Hoạt động giám sát của HĐND có vai trị hết sức quan trọng, là một nội dung
của hoạt động quản lý nhà nước, là hoạt động không thể thiếu của cơ quan quyền
lực đối với cơ quan chấp hành. Cụ thể, hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh có
những vai trò quan trọng như sau:
- Bảo đảm cho Hiến pháp, các quy định của pháp luật được tuân thủ, thực
hiện nghiêm túc, đồng bộ, thống nhất
Thông qua hoạt động giám sát, nhằm kịp thời phát hiện những tồn tại, hạn
chế, những vướng mắc trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan, tổ chức, chính
quyền ở địa phương… Từ đó, kịp thời chấn chỉnh, sửa chữa, khắc phục sai phạm,
bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân. Bên cạnh đó,
thơng qua hoạt động giám sát của HĐND tỉnh kịp thời phát hiện những văn bản
QPPL do chính quyền địa phương ban hành trái với Hiến pháp, pháp luật và nghị
quyết của HĐND tỉnh; phát hiện những mâu thuẫn, chồng chéo giữa các văn bản
pháp luật do các cơ quan nhà nước ở địa phương ban hành, để đình chỉ việc thực
hiện, sửa đổi, bãi bỏ, tạo ra sự thống nhất trong hệ thống các văn bản pháp luật do
chính quyền địa phương ban hành; đồng thời, thơng qua giám sát, có những kiến
nghị, đề xuất với Bộ, ngành Trung ương hoàn thiện hơn các quy định của pháp
luật; có cơ chế, chính sách phù hợp cho từng vùng, miền địa phương.
- Bảo đảm HĐND thực sự là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và
quyền làm chủ của Nnhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc vềNhân dân.
Từ Hiến pháp năm 1946 đến Hiến pháp năm 2013 đều khẳng định: Tất cả

quyền lực thuộc về Nnhân dân. Theo quy định, HĐND là cơ quan đại diện, cơ quan

12


quyền lực nhà nước ở địa phương, thay mặt Nhân dân thực hiện quyền lực nhà
nước bằng cách căn cứ vào Hiến pháp, luật, tình hình thực tế địa phương để quyết
định các biện pháp tổ chức thực hiện Hiến pháp, luật.Giám sát việc tuân theo Hiến
pháp, pháp luật của HĐND cấp tỉnh là một trong những hoạt động cần thiết, đóng
vai trị quan trọng và khơng thể thiếu trong việc đảm bảo quyền lực nhà nước thuộc
về Nhân dân.
- Góp phần tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho đối tượng chịu sự giám sát.
Thông qua hoạt động giám sát, HĐND tỉnh sẽ nắm bắt được thực tiễn thực
hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các nghị
quyết, chính sách do mình ban hành của các cơ quan nhà nước, các tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền ở địa phương và qua đó cũng thấy được những hạn chế, thiếu
sót trong các nghị quyết, văn bản, chính sách do mình ban hành, nắm được tình
hình thực tiễn của đời sống kinh tế - xã hội trên địa bàn để có sự nghiên cứu đổi
mới, nâng cao chất lượng hoạt động của HĐND tỉnh.
Qua hoạt động giám sát, HĐND tỉnh sẽ phát hiện kịp thời những yếu kém,
khuyết điểm trong hoạt động quản lý, quá trình thực thi cơng vụ của các cơ quan
nhà nước, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền... Từ đó có biện pháp chấn chỉnh, khắc
phục, nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động quản lý; thực thi công vụ
của các cơ quan nhà nước, chính quyền địa phương trên địa bàn.
- Góp phần làm trong sạch bộ máy nhà nước ở địa phương.
Qua giám sát, sẽ có các kiến nghị, đề xuất biện pháp, cách thức để các đối
tượng chịu sự giám sát thực hiện tốt hơn, đúng và đầy đủ, kịp thời chức năng, nhiệm
vụ của mình. Đồng thời, phát hiện những vấn đề chưa phù hợp, khơng cịn phù hợp
với thực tiễn để kiến nghị khắc phục nhằm đảm bảo các hoạt động của bộ máy nhà
nước ở địa phương hoạt động thông suốt, thống nhất, phù hợp với tình hình thực

tiễn.
Có thể khẳng định rằng, bên cạnh mục đích theo dõi, xem xét, đánh giá tính
hợp hiến, hợp pháp trong hoạt động của các đối tượng chịu sự giám sát; hoạt động
giám sát cịncó ý nghĩa quan trong trong việc hoàn thiện, xây dựng pháp luật, nâng

13


cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước.
- Góp phần tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động của HĐND; của bộ
máy nhà nước ở địa phương
Là cơ quan quyền lực nhà nước tại địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện
vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân trong tỉnh bầu ra, chịu trách
nhiệm trước Nhân dân và cơ quan nhà nước cấp trên. Như vậy, cùng với chịu trách
nhiệm trước Nhân dân thì HĐND cấp tỉnh phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội và
Chính phủ, Bộ, ngành Trung ương về việc bảo đảm thi hành Hiến pháp, pháp luật
và các văn bản của cấp trên; điều này sẽ bảo đảm cho sự tập trung thống nhất trong
hoạt động của bộ máy nhà nước trên phạm vi toàn quốc. Mặt khác, HĐND cấp tỉnh
là cấp bảo đảm các điều kiện để quyết định và thực hiện có hiệu quả các chủ trương,
biện pháp quan trọng để phát huy tiềm năng, lợi thế của địa phương, bảo đảm phát
huy quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc
phòng, an ninh và đời sống của nhân dân trên phạm vi toàn tỉnh. Xét ở cấp độ địa
phương, HĐND cấp tỉnh là cơ quan hoạch định, quyết định chủ trương, chính sách
phát triển kinh tế - xã hội của địa phương trên cơ sở cụ thể hóa chủ trương, chính
sách của Trung ương cho phù hợp với tình hình thực tế của địa phương mình.
1.2. Thẩm quyền, đối tượng và nội dung hoạt động giám sát của Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh
1.2.1. Thẩm quyền thực hiện giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Thẩm quyền giám sát của HĐND được quy định cụ thể tại Điều 5 của Luật
Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND; đồng thời tại Chương III của Luật cũng

đã quy định cụ thể các hoạt động giám sát của các chủ thể này. Cụ thể, như sau:
- “HĐND giám sát việc tuân theo Hiến pháp, pháp luật ở địa phương và việc
thực hiện nghị quyết của HĐND cùng cấp; giám sát hoạt động của Thường trực
HĐND, UBND, TAND, VKSND, cơ quan THADS cùng cấp và Ban của HĐND
cấp mình; giám sát quyết định của UBND cùng cấp và nghị quyết của HĐND cấp
dưới trực tiếp” [27];
- “Thường trực HĐND giám sát việc tuân theo Hiến pháp, pháp luật ở địa

14


phương và việc thực hiện nghị quyết của HĐND cùng cấp; giám sát hoạt động của
UBND, các cơ quan thuộc UBND, TAND, VKSND, cơ quan THADS cùng cấp và
HĐND cấp dưới; giám sát quyết định của UBND cùng cấp, nghị quyết của HĐND
cấp dưới trực tiếp; giúp HĐND thực hiện quyền giám sát theo sự phân công của
HĐND” [27];
- “Ban của HĐND giúp HĐND giám sát hoạt động của TAND, VKSND, cơ
quan THADS cùng cấp; giám sát hoạt động của UBND, các cơ quan thuộc UBND
cùng cấp thuộc lĩnh vực Ban phụ trách; giám sát văn bản QPPL thuộc lĩnh vực Ban
phụ trách” [27];
- “Tổ đại biểu HĐND giám sát việc tuân theo Hiến pháp, luật, văn bản quy
phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên ở địa phương và nghị quyết của
HĐND cùng cấp hoặc về vấn đề do HĐND, Thường trực HĐND phân công”[27];
- “Đại biểu HĐND chất vấn Chủ tịch UBND, thành viên khác của UBND,
Chánh án TAND, Viện trưởng VKSND, Thủ trưởng cơ quan thuộc UBND cùng
cấp; trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình giám sát việc tuân theo Hiến
pháp và pháp luật; giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công
dân ở địa phương” [27].
1.2.2. Đối tượng chịu sự giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Với vị trí, vai trị là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đối tượng

chịu sự giám sát của HĐND rất đa dạng, hoạt động hầu hết ở các ngành, lĩnh vực
ở địa phương. Qua nghiên cứu, có thể thấy rằng, đối tượng chịu sự giám sát của
HĐND cấp tỉnh gồm các nhóm sau:
Nhóm thứ nhất, đó là những đối tượng thuộc quyền giám sát trực tiếp và
toàn diện của HĐND cấp tỉnh. HĐND cấp tỉnh có quyền trực tiếp xử lý khi các đối
tượng này có vi phạm pháp luật và nghị quyết của HĐND cấp tỉnh.
Nhóm này bao gồm những cơ quan, tổ chức do HĐND cấp tỉnh trực tiếp bầu
ra, đó là Thường trực HĐND tỉnh; các Ban của HĐND tỉnh; UBND tỉnh. Những
cơ quan này do HĐND cấp tỉnh bầu ra, nên trong quá trình giám sát, HĐND tỉnh
có quyền trực tiếp xử lý khi các đối tượng này có hành vi vi phạm pháp luật, không

15


thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật, với các
hình thức xử lý, như: Yêu cầu UBND, Chủ tịch UBND cùng cấp ban hành văn bản
để thi hành Hiến pháp, pháp luật và nghị quyết của HĐND; Bãi bỏ một phần hoặc
toàn bộ văn bản của UBND, Chủ tịch UBND cùng cấp trái với Hiến pháp, văn bản
QPPL của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của HĐND; Miễn nhiệm, bãi
nhiệm các chức danh do HĐND cấp tỉnh bầu ra…
Trong nhóm đối tượng này, UBND cấp tỉnh là đối tượng HĐND cần tập
trung giám sát nhất. Sở dĩ như vậy là vì xuất phát từ vị trí UBND là cơ quan chấp
hành của HĐND, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương có chức năng, nhiệm
vụ thực hiện những nội dung mà HĐND đã quyết nghị.
Khác với các nhóm đối tượng chịu sự giám sát khác của HĐND, theo quy
định, UBND cấp tỉnh phải chịu trách nhiệm, chịu sự giám sát của HĐND cấp tỉnh,
phải trực tiếp báo cáo về hoạt động, cơng tác của mình tại kỳ họp HĐND cấp tỉnh,
Chủ tịch UBND cấp tỉnh phải trả lời chất vấn của đại biểu HĐND cấp tỉnh, HĐND
cấp tỉnh có quyền áp dụng các biện pháp pháp lý đối với UBND cấp tỉnh như: bãi
nhiệm từ Chủ tịch, Phó Chủ tịch đến các thành viên khác của UBND cấp tỉnh; hoặc

bãi bỏ các văn bản của UBND cấp tỉnh, của Chủ tịch UBND tỉnh trái pháp luật và
trái nghị quyết của HĐND cấp tỉnh.
Nhóm đối tượng thứ hai, gồm các cơ quan và những người không do HĐND
bầu mà do người đứng đầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền của cấp trên bổ
nhiệm, nhưng theo quy định của pháp luật thuộc quyền giám sát của HĐND cấp tỉnh,
cụ thể gồm: Thủ trưởng các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, TAND tỉnh,
Chánh án TAND tỉnh, VKSND tỉnh, Viện trưởng VKSND tỉnh, Cơ quan THADS
tỉnh.
Mặc dù, theo quy định hiện nay, HĐND cấp tỉnh khơng có quyền bầu các
chức danh của cơ quan TAND và Viện KSND, nhưng vẫn quy định HĐND có
quyền giám sát hoạt động của TAND, Viện KSND, Cơ quan THADS cùng cấp
thông qua việc xem xét báo cáo công tác 6 tháng và hàng năm của các cơ quan này;
cũng như thông qua việc chất vấn đối với Chánh án TAND tỉnh, Viện trưởng

16


VKSND tỉnh.
Đối với Thủ trưởng các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, khác
với TAND và VKSND tỉnh. Thủ trưởng các cơ quan chuyên môn thuộc UBND
tỉnh mặc dù từ trước đến nay đều do Chủ tịch UBND tỉnh bổ nhiệm, miễn nhiệm
và cách chức, không do HĐND tỉnh bầu, nhưng từ Luật Tổ chức HĐND và UBND
năm 2004 cũng như Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND đều quy
định Thủ trưởng các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh phải báo cáo công
tác trước HĐND tỉnh khi cần thiết, phải trả lời chất vấn của đại biểu HĐND tỉnh.
Như vậy, theo quy định thì TAND, VKSND, cơ quan THADS tỉnh có trách
nhiệm định kỳ báo cáo cơng tác của đơn vị mình trước HĐND tỉnh; Thủ trưởng các
cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh phải báo cáo công tác trước HĐND tỉnh khi
cần thiết; người đứng đầu các cơ quan này cịn có trách nhiệm trả lời chất vấn của
đại biểu HĐND tỉnh. Đối với nhóm đối tượng này, HĐND tỉnh tuy khơng có quyền

quyết định việc xử lý đối với các hành vi vi phạm của các cơ quan này, khơng có
quyền miễn nhiệm hoặc cách chức họ; nhưng HĐND tỉnh vẫn có quyền yêu cầu
hoặc kiến nghị người có thẩm quyền xem xét, xử lý đối với các vi phạm của các
đối tượng này.
Tuy vậy, riêng đối với hoạt động giám sát các cơ quan tư pháp (TAND,
VKSND…), tác giả thấy rằng trong chừng mực nào đó, hoạt động giám sát đối với
các đối tượng này cũng chưa thực sự hiệu quả, bởi vì tổ chức và hoạt động của các
cơ quan này đều theo cơ chế ngành dọc, khi thực hiện hoạt động giám sát, chủ thể
giám sát vẫn có phần nể nang, ngại va chạm; bên cạnh đó, mặc dù Luật quy định
HĐND giám sát các cơ quan tư pháp, trong khi đó hiện nay pháp luật hiện hành
chưa quy định biện pháp xử lý trong trường hợp các cơ quan này có những vi phạm,
sai sót trong hoạt động của mình, vì thực tế các cơ quan này khơng chịu trách nhiệm
về hoạt động của mình trước HĐND. Điều này đã làm hoạt động giám sát chưa
thực sự mang lại hiệu quả cao.
Nhóm đối tượng thứ ba là các cơ quan, tổ chức, cá nhân trên địa bàn tỉnh
trong việc thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương. Cụ thể, Luật Hoạt động

17


giám sát của Quốc hội và HĐND đã quy định “Khi xét thấy cần thiết, HĐND,
Thường trực HĐND, Ban của HĐND tiến hành giám sát hoạt động của cơ quan, tổ
chức, cá nhân khác ở địa phương” [27].
Khác với hai nhóm đối tượng trên, nhóm đối tượng này khơng thuộc quyền
giám sát trực tiếp của HĐND cấp tỉnh mà là đối tượng thuộc quyền kiểm tra và xử
lý trực tiếp của hai nhóm đối tượng trên phụ thuộc vào tính chất và mức độ vi phạm
pháp luật của các đối tượng này. Thông qua hoạt động giám sát việc thi hành Hiến
pháp và pháp luật của những đối tượng này, HĐND cấp tỉnh có cơ sở, căn cứ đánh
giá hoạt động của các đối tượng thuộc quyền giám sát trực tiếp của HĐND tỉnh.
Nhóm đối tượng thứ tư, đó là HĐND các huyện, thị xã, thành phố trên địa

bàn tỉnh. HĐND các huyện, thị xã, thành phố là những cơ quan đại diện quyền lực
nhà nước trên địa bàn huyện, thị xã, thành phố, do cử tri các huyện,thị xã, thành
phốtrực tiếp bầu ra. Trong q trình hoạt động, nhóm đối tượng này cũng chịu sự
giám sát trực tiếp của của HĐND tỉnh. HĐND tỉnh giám sát các đối tượng này trong
việc chấp hành Hiến pháp, pháp luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên,
trong đó có nghị quyết của HĐND tỉnh. Quá trình giám sát, pháp luật hiện hành
quy định cho HĐND cấp tỉnh có quyền trực tiếp xử lý các vi phạm vi phạm của cơ
quan này theo quy định, đó là“Bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản trái pháp luật
của HĐND cấp huyện; Giải tán HĐND cấp huyện trong trường hợp HĐND đó làm
thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của Nhân dân” [28].
Việc phân loại nhóm đối tượng chịu sự giám sát của HĐND cấp tỉnh như nêu
trên cũng chỉ mang tính chất tương đối. Tuy nhiên, các việc phân loại này sẽ là cơ
sở để HĐND cấp tỉnh lựa chọn, tập trung đối tượng, hình thức giám sát cho phù
hợp; tránh dàn trải, chung chung, dẫn đến hiệu quả không cao.
1.2.3. Nội dung hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Tại Điều 57 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND năm 2015 đã
quy định các hoạt động giám sát của HĐND. Những nội dung hoạt động này, thông
thường, HĐND tỉnh sẽ tiến hành giám sát trực tiếp tại kỳ họp thường lệ, giám sát
chuyên đề và giám sát thường xuyên. Cụ thể là:

18


- Một là, HĐND tỉnh tiến hành giám sát tại kỳ họp thường lệ đối với các
nội dung:
+ Xem xét báo cáo công tác của Thường trực HĐND, UBND, TAND,
VKSND, cơ quan THADS cùng cấp và các báo cáo khác của UBND tỉnh…Đây
là một hình thức giám sát trực tiếp quan trọng của HĐND. Việc xem xét, thảo
luận các báo cáo tại các kỳ họp được tiến hành theo một quy trình được luật quy
định chặt chẽ. Trên cơ sở xem xét các báo cáo, HĐND kiểm sốt tình hình thực

thi Hiến pháp, pháp luật và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên cũng như
nghị quyết của HĐND trong thực tiễn đời sống xã hội; nâng cao trách nhiệm cá
nhân của những người đứng đầu UBND và các Sở, ngành về công tác của họ trước
HĐND.
+ Xem xét việc trả lời chất vấn. Hoạt động này được Hiến pháp 2013 quy
định như sau: Đại biểu HĐND có quyền chất vấn Chủ tịch UBND, các thành viên
khác của UBND, Chánh án TAND, Viện trưởng VKSND và Thủ trưởng cơ quan
thuộc UBND. Người bị chất vấn phải trả lời trước HĐND. Người đứng đầu cơ
quan, tổ chức, đơn vị này có trách nhiệm tiếp đại biểu, xem xét, giải quyết kiến nghị
của đại biểu [24]. Trên cơ sở đó, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND,
tại Điều 60 đã cụ thể hóa các quy định này, tạo thuận lợi trong quá trình thực hiện
việc chất vấn và trả lời chất vấn.
+ Việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do
HĐND bầu, gồm: “Chủ tịch HĐND, Phó Chủ tịch HĐND, Trưởng Ban của HĐND;
Chánh Văn phòng HĐND đối với HĐND cấp tỉnh; Chủ tịch UBND Phó Chủ tịch
UBND, Ủy viên UBND” [27]. Hoạt động này, trước đây cũng được Luật Tổ chức
HĐND và UBND năm 2003 quy định, tuy nhiên, thời điểm đó chưa có các văn bản
hướng dẫn cụ thể nên hình thức giám sát này khơng được thực hiện hoặc thực hiện
nhưng hiệu quả chưa cao. Sau đó, Quốc hội ban hành Nghị quyết số 35/2012/QH13
ngày 21/11/2012 và hiện nay là Nghị quyết số 85/2014/QH13 ngày 27/11/2014 về
việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do
Quốc hội, HĐND bầu hoặc phê chuẩn đã tạo cơ sở pháp lý cụ thể, rõ ràng, góp phần

19


×