Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự việt nam và điều kiện bảo đảm thực hiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (287.88 KB, 16 trang )

BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BÀI TẬP HỌC KỲ
MƠN:

LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ

ĐỀ BÀI: 05
Ngun tắc suy đốn vơ tội trong tố tụng hình sự Việt Nam
và điều kiện bảo đảm thực hiện

Hà Nội, 2020


DANH MỤC VIẾT TẮT
BLTTHS : Bộ luật Tố tụng Hình sự
TTHS: Tố tụng Hình sự
SĐVT : Suy đốn vơ tội


MỤC LỤC

MỤC LỤC.............................................................................................................3
LỜI MỞ ĐẦU.......................................................................................................4
NỘI DUNG...........................................................................................................5
1.NỘI DUNG NGUYÊN TẮC “SUY ĐỐN VƠ TỘI” TRONG TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM......................................................................................5
1.1 Khái niệm ngun tắc “Suy đốn vơ tội”...............................................5
1.2 Phân tích ngun tắc “Suy đốn vơ tội”................................................5
2.ĐIỀU KIỆN BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGUN TẮC “SUY ĐỐN VƠ


TỘI” VÀ THỰC TRẠNG THI........................................................................9
2.1 Điều kiện bảo đảm thực hiện nguyên tắc SĐVT...................................9
2.2 Thực trạng thi hành..............................................................................10
3. KIẾN NGHỊ ĐỀ XUẤT..............................................................................12
LỜI KẾT.............................................................................................................15
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................16


LỜI MỞ ĐẦU
Quá trình tố tụng hình sự được coi là một trong những q trình quan trọng
nhất vì nó ảnh hưởng trực tiếp tới nhân quyền hay thậm chí là vận mệnh của một
con người. Để đảm bảo cho những giá trị cốt lõi, tinh thần của pháp luật cũng
như bảo vệ tối đa quyền lợi của con người, q trình tố tụng hình sự phải tn
thủ vơ cùng nghiêm ngặt theo các nguyên tắc mà pháp luật đã đặt ra. Khi xảy ra
sự kiện một người bị buộc tội trước pháp luật, sự kiện này sẽ gây ra rất nhiều
định kiến đối với chính người bị buộc tội đó mặc dù có thể họ vơ tội. Chính vì để
bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho nhóm người này cũng như bảo đảm các nguyên
tắc của pháp luật hình sự được thực thi đúng đắn, một trong những nguyên tắc
nền móng của tố tụng hình sự, ngun tắc có tính bảo đảm cho quyền lợi của
người bị buộc tội nhất ra đời - ngun tắc “Suy đốn vơ tội”. Để làm rõ các vấn
đề pháp lý xoay quanh nguyên tắc này em xin được chọn đề số 5 để phân tích
cho bài tiểu luận này: Ngun tắc suy đốn vơ tội trong tố tụng hình sự Việt Nam
và điều kiện bảo đảm thực hiện.


NỘI DUNG
1.NỘI DUNG NGUN TẮC “SUY ĐỐN VƠ TỘI” TRONG TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1 Khái niệm nguyên tắc “Suy đốn vơ tội”
Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS) 2015 đưa ra khái niệm của ngun tắc

“Suy đốn vơ tội” gồm: “Người bị buộc tội được coi là khơng có tội cho đến khi
được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết
tội của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật./ Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ
căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ
quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội
khơng có tội.”
Theo như khái niệm mà BLTTHS đưa ra thì ngun tắc suy đốn vơ tội sẽ
gồm hai nội dung chính đó là (1)Trước khi có bản án kết tội của tòa người bị
buộc tội được coi là khơng có tội (2)Khi khơng có căn cứ để kết tội người bị
buộc tội theo quy định của luật cơ quan hay người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng phải tuyên người bị buộc tội vô tội.
Trong Hiến pháp 2013, nguyên tắc này cũng được đề cập rõ ở khoản 1 điều 31
như sau: “Người bị buộc tội được coi là khơng có tội cho đến khi được chứng
minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tịa án đã có hiệu lực pháp
luật”. Quy định này là tiền đề để phát triển nên nguyên tắc ở BLTTHS 2015, từ
đó ta thấy nguyên tắc SĐVT được đảm bảo về tính hợp hiến.
1.2 Phân tích ngun tắc “Suy đốn vơ tội”
1.2.1 Nội dung ngun tắc
Thứ nhất, Trước khi có bản án kết tội của tịa người bị buộc tội được coi là
khơng có tội.


Ngun tắc suy đốn vơ tội khẳng định trong tất cả các giai đoạn tố tụng
người bị tình nghi, bị can, bị cáo chưa phải là tội phạm. Bất kỳ người bị buộc tội
nào đều có quyền suy đốn là khơng phạm tội cho đến khi lỗi của người đó được
xác định theo một trình tự do pháp luật quy định bằng phiên tịa xét xử cơng khai
của Tịa án với sự bảo đảm đầy đủ khả năng bào chữa của người đó. Bị can, bị
cáo phải được coi là vô tội cho tới khi lỗi của bị can, bị cáo đó được chứng minh.
Nếu lỗi khơng được chứng minh, đồng nghĩa với “sự vô tội được chứng minh.
Thứ hai, Khi khơng có căn cứ để kết tội người bị buộc tội theo quy định của

luật cơ quan hay người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tuyên người bị
buộc tội vơ tội.
Ngun tắc này khẳng định chỉ có Tịa án mới có thẩm quyền phán quyết, xác
định một người có tội bằng bản án kết tội có hiệu lực pháp luật. Chừng nào chưa
có bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của Tịa án thì người bị buộc tội vẫn là
người vơ tội. Nói cách khác, thời gian suy đốn vơ tội của người bị buộc tội là từ
thời điểm Viện kiểm sát buộc tội đến thời điểm bản án kết tội của Tịa án có hiệu
lực pháp luật. Bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật có thể là bản án
sơ thẩm hoặc bản án phúc thẩm. Các cơ quan tố tụng một mặt phải đối xử với họ
như người khơng có tội, mặt khác, phải tạo mọi điều kiện để người bị buộc tội
thực hiện quyền bào chữa và các quyền tố tụng khác.
Trong pháp luật hình sự, thuật ngữ “người bị buộc tội” trong BLTTHS 2015
dùng để chỉ người đã thực hiện hành vi được Bộ luật hình sự quy định là tội
phạm, hành vi của người đó đã cấu thành tội phạm. Thuật ngữ “người bị buộc
tội” chỉ một thực tế khách quan là một người đã thực hiện tội phạm chứ không
phải tùy thuộc vào nhận định chủ quan của các cơ quan tiến hành tố tụng. Do
vậy, thuật ngữ “người bị buộc tội” khác với thuật ngữ người “bị coi là có tội”
trong BLTTHS 2003. Theo quy định nói trên thì một người dù có bị tạm giữ, bị


khởi tố bị can, bị tạm giam, đã bị xét xử sơ thẩm và bản án đó chưa có hiệu lực
pháp luật thì vẫn chưa phải là người có tội. Họ mới chỉ là người bị tình nghi,
người đã có hành vi phạm tội. Khái niệm có hành vi phạm tội và có tội là hai
khái niệm khác nhau. Thực tiễn cho thấy, nhận thức xã hội về điều này còn chưa
đúng. Thật đáng buồn hơn, ngay cả người tiến hành tố tụng vẫn cho rằng, đã bị
khởi tố bị can, đã bị tạm giam… là có tội, vì có tội nên mới bị cơ quan điều tra
tạm giam và đối xử với họ như những người có tội!
1.2.2 Tính chất nguyên tắc
- Tính hợp hiến, hợp pháp
Tinh thần của hiến pháp là bảo vệ quyền lợi bao gồm cả danh dự của con

người. Việc gây ra tội phạm, xâm phạm đến đến quy tắc của Bộ luật Hình sự Là
điều vơ cùng hệ trọng vì nó ảnh hưởng trực tiếp tới nhân quyền của một con
người, nó có thể tước đi quyền tự do, quyền sống còn, quyền được sống bình
đẳng như một cơng dân bình thường của một con người. Vì vậy để đảm bảo một
người được hưởng những quyền cơ bản đó cho tới hết mức cho phép, khi chưa
có bản án có hiệu lực của Tịa, tức có nghĩa rằng chưa xác định được chính xác
một người bị buộc tội có thực sự có tội hay khơng, người đó vẫn được giả định là
vơ tội, việc này bảo đảm được những quyền cốt yếu nhất của người đó và bao
gồm cả danh dự của họ, họ chỉ bị giới hạn một phần quyền của mình trong một
thời hạn nhất đinh để bảo đảm cho việc thực thi pháp luật được diễn ra nhanh
chóng, thuận lợi nhất. Điều này cho thấy nguyên tắc SĐVT đáp ứng được đầy đủ
yêu cầu về tính hợp hiến, bảo vệ lợi ích hợp pháp của người đang bị cáo buộc
phạm pháp nhưng vẫn không xâm phạm đến sự tôn nghiêm và sự bảo đảm thực
thi pháp luật.
- Tính mới của nguyên tắc


Hiện nay, người bị coi là có tội phải có đủ hai điều kiện: (1)Việc phạm tội của
người đó phải được chứng minh theo đúng trình tự của pháp luật; (2)Phải có bản
án kết tội của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật đối với người đó. Như vậy, thiếu
một trong hai điều kiện trên thì người bị buộc tội vẫn được “coi” là chưa có tội.
Với quy định này, pháp luật mở ra cơ hội cho người dù bị kết án oan vẫn có thể
được coi là người chưa có tội vì việc thực hiện hành vi phạm tội chưa được
chứng minh theo đúng trình tự luật định mà việc kết tội được thực hiện sai pháp
luật, trong đó có cả trường hợp mớm cung, ép cung, dùng nhục hình bị pháp luật
nghiêm cấm. Đây là một điểm mới trong luật khi nhận định về “Suy đốn vơ
tội”. Trước đó quy định về ngun tắc suy đốn vơ tội mới chỉ bao hàm một nội
dung (dấu hiệu), đó là khơng ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội đã có
hiệu lực pháp luật. Hay nói cách khác, người nào đó chỉ bị coi là có tội khi có
bản án kết tội có hiệu lực pháp luật. Như vậy, những trường hợp bị kết án oan,

phải chấp hành hình phạt, kể cả hình phạt tù thì cũng bị coi là có tội vì đã có bản
án kết tội có hiệu lực pháp luật. 1 Bên cạnh đó, Bộ luật TTHS năm 2015 cịn bổ
sung thêm quy định, khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội,
kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội khơng có tội. Đây vừa là
nội dung, vừa là cách thức thực hiện nguyên tắc suy đốn vơ tội.
1.2.3 Ý nghĩa ngun tắc
Thứ nhất, nguyên tắc SĐVT bảo đảm nhân quyền tối đa nhất của con người
trong mọi thời điểm trước khi Tòa kết án bất cứ ai và bản án có hiệu lực. Đây là
một cơ chế bảo vệ cho con người trước sự xâm phạm của công quyền tới quyền
con người, khi mà Nhà nước ln là bên có quyền lực mạnh mẽ hơn và có khả
năng áp đặt các mệnh lệnh lên các chủ thể cịn lại.
1 Hồng Hùng Hải, Suy đốn vơ tội và kiến nghị hồn thiện quy định của pháp luật về ngun tắc suy đốn vơ
tội, tạp chí Nghiên cứu lập pháp, đăng tải ngày 01/12/2018


Thứ hai, nguyên tắc SĐVT đề cao hơn trách nhiệm phải chứng minh tội phạm
do chính người bị buộc tội gây ra của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng. Mọi sai lầm trong chứng minh nhiều khi có thể phải trả giá bằng tính mạng
và sự tự do của con người. Do đó, nếu chỉ chứng minh theo hướng suy đốn có
tội thì rất dễ dẫn đến việc coi tố tụng hình sự chỉ đơn thuần là việc bắt người và
ra bản án kết tội kèm theo những hình phạt cụ thể. Việc định kiến người bị tình
nghi, bị can, bị cáo là người có tội kéo theo đó là việc áp dụng các biện pháp
cưỡng chế tố tụng tràn lan, thiếu căn cứ, chà đạp lên quyền con người mà nhiều
trường hợp khi vụ án được xem xét lại thì họ hồn tồn vơ tội. 2 Khi đó hình thức
bù đắp tối ta mà phía Nhà nước có thể thực hiện được đó là bồi thường oan sai
cũng khơng thể bù lại được những gì mà người bị hàm oan đã mất. Vì vậy có thể
nói nguyên tắc SĐVT là yếu tố quan trọng góp phần xây dựng tính nghiêm minh
trong trách nhiệm của phía cơ quan nhà nước.
Thứ ba, nguyên tắc này thể hiện sự tiến bộ trong nhận thức về pháp luật đi liền

với văn minh của nhân loại. Giữa Nhà nước và người dân có sự bình đẳng về
quyền lợi, quyền lực mà nhà nước được trao thực sự mang tính phục vụ và bảo
vệ cho chính phía trao quyền là người dân.
2.ĐIỀU KIỆN BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGUN TẮC “SUY ĐỐN
VƠ TỘI” VÀ THỰC TRẠNG THI HÀNH
2.1 Điều kiện bảo đảm thực hiện nguyên tắc SĐVT
- Áp dụng nguyên tắc SĐVT trong tồn bộ q trình giải quyết vụ án
Từ giai đoạn bạn khi khởi tố vụ án cho tới khi có có bản án của Tịa, ngun
tắc SĐVT đương nhiên được áp dụng xuyên suốt quá trình này. Ở phiên xử phúc
thẩm, lúc này bản án tuy đã được tuyên nhưng chưa có hiệu lực pháp luật vậy
2 Đồn Thị Ngọc Hải, Ngun tắc suy đốn vơ tội trong Luật tố tụng hình sự, sự thể chế hóa cho phù hợp với
Hiến pháp, cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp, đăng tải ngày 23/09/2015


nên giai đoạn này việc áp dụng nguyên tắc SĐVT cũng tương tự như ở giai đoạn
trước khi có bản án sơ thẩm.
Mặc dù bản án đã có hiệu lực pháp luật nhưng khi bị đưa ra xét xử lại theo
trình tự giám đốc thẩm hay tái thẩm thì nguyên tắc suy đốn vơ tội cũng khơng
mất đi hiệu lực mà nó lại tiếp tục có hiệu lực trong quá trình giải quyết vụ án.
Bởi lẽ, ngay cả khi bản án, quyết định của Tịa án tun vơ tội được đưa ra giải
quyết theo thủ tục giám đốc thẩm hay tái thẩm thì Hội đồng giám đốc thẩm, tái
thẩm khơng có quyền kết tội bị cáo mà chỉ có quyền ra quyết định sửa, hủy bản
án để điều tra và xét xử lại3. Và theo đó, ngun tắc suy đốn vô tội tiếp tục được
thực hiện.
2.2 Thực trạng thi hành
Nguyên tắc suy đốn vơ tội ở Việt Nam đã đảm bảo tính đồng bộ khi nó được
ghi nhận cùng với các nguyên tắc khác của TTHS để đảm bảo tính hệ thống của
các nguyên tắc cơ bản trong TTHS. Bởi lẽ Điều này đã được thể hiện trong
BLTTHS Việt Nam 2013 bằng việc bổ sung nguyên tắc tranh tụng và tiếp tục
hoàn thiện nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa. Bởi lẽ khi và chỉ khi coi người

bị buộc tội chưa phải là người có tội thi mới phát sinh vấn đề tranh tụng để đi tìm
sự thật của vụ án là một người có tội hay khơng. BLTTHS 2015 đã quy định các
điều kiện để đảm bảo quyền bào chữa và tranh tụng như: Quy định đầy đủ các
quyền và cơ chế đảm bảo các quyền của người bị buộc tội, nhất là quyền tự bào
chữa, nhờ luật sư hoặc nhờ người khác bào chữa; quy định đầy đủ các quyền và
cơ chế bảo đảm bảo đảm các quyền của người bào chữa, tạo sự bình đẳng và các
điều kiện thuận lợi cho người bào chữa, tham gia các hoạt động tố tụng hình sự;
quy định đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Viện kiểm sát, Kiểm sát
viên và các trình tự, thủ tục trong giai đoạn điều tra, truy tố để bảo đảm bảo việc
3 Điều 388, điều 402 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015


buộc tội, tranh tụng tại phiên tòa, quy định rõ trách nhiệm của Tòa án và các thủ
tục tố tụng tại phiên tòa để bảo đảm việc tranh tụng trong xét xử.
Ngun tắc suy đốn vơ tội cịn được đồng bộ với các quy định về hệ thống
quyền của người bị buộc tội. Quy định về quyền của người bị giữ trong trường
hợp khẩn cấp, người bị bắt, Hiến pháp năm 2013 quy định khơng ai bị bắt nếu
khơng có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện
kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người
phải đúng pháp luật. Để khắc phục quy định tại Điều 81 BLTTHS năm 2003 về
bắt người trong trường hợp khẩn cấp, đồng thời phù hợp với quy định của Hiến
pháp năm 2013, cũng như để tạo điều kiện cho người bị bắt có cơ sở bảo vệ
mình, BLTTHS năm 2015 bổ sung một số điều luật mới nhằm xác định tư cách
tham gia tố tụng của “người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp và người bị bắt”.
Thực tiễn thực hiện ngun tắc suy đốn vơ tội, ngun tắc suy đốn vơ tội
được quy định một cách đầy đủ, đồng bộ, toàn diện trong pháp luật TTHS Việt
Nam trong BLTTHS 2015 (có hiệu lực từ 1/1/2018) để đánh giá thực tiễn thực
hiện ngun tắc này chưa có cơng trình nào nghiên cứu dưới góc độ xã hội học ở
các phương diện nhân thức của người dân về nguyên tắc, thực tiễn tuân thủ
nguyên tắc này của các cơ quan THTT. Nhưng qua quan sát chúng tôi thấy rằng

tinh thàn, nội dung của ngun tắc suy đốn vơ tội thẩm thấu vào ý thức pháp
luật của từng người dân và xã hội đặc biệt là báo chí. Tần suất xuất hiện của cụm
từ “suy đốn vơ tội” ngày càng nhiều trên các phương tiện thông tin đại chúng và
đặc biệt báo chí cũng đã thận trong hơn khi phản ánh những vụ án đang trong
quá trình điều tra, truy tố và chưa có bản án kết tội có hiệu lực pháp luật.
Đối với hoạt động của cơ quan THTT để đánh giá việc thực hiện ngun tắc
suy đốn vơ tội dựa vào việc các cơ quan THTT thực hiện nghiêm chỉnh các quy
định của pháp luật TTHS như: đảm bảo quyền bào chữa cho người bị buộc tội,


đảm bảo tranh tụng trong quá trình giải quyết vụ án đặc biệt là tại phiên tòa đang
được thực hiện. Ở Việt nam thời gian qua đã có những phiên tòa thực sự đảm bảo
được tranh tụng, phán quyết của tòa án đã dựa vào kết quả tranh tụng tại phiên
tòa….Các thẩm phán đã mạnh dạn áp dụng tinh thần của ngun tắc suy đốn vơ
tội trong việc giải quyết cá vụ án. Họ áp dụng tinh thần của nguyên tắc suy đốn
vơ tội : Mọi nghi ngờ về chứng cứ phải giải thích có lợi cho người bị buộc tội.
Ngày 24/8/2015 TAND tỉnh Bình Phước đã xử sơ thẩm, tuyên bố ông Nguyễn
Văn Đồng không phạm tội giết người và trả tự do ngay tại tịa dù trước đó đại
diện VKS đề nghị mức án tù chung thân. Thẩm phán Nguyễn Văn Nhân (chủ tọa
phiên tòa) cho biết: “Do không đủ căn cứ kết tội nên sau ba ngày nghị án,
HĐXX đã tuyên ông Đồng không phạm tội giết người. HĐXX áp dụng tinh thần
của nguyên tắc suy đoán vô tội để xét xử. Nếu không đủ chứng cứ kết tội thì
HĐXX phải mạnh dạn tun bị cáo vơ tội. Việc tuyên án như vậy là lương tâm
và trách nhiệm của HĐXX. Ông Nhân khẳng định: “Trước khi xét xử phải coi bị
cáo như một người bình thường vơ tội. Muốn tun họ có tội thì phải chứng
minh bằng chứng cứ. Trong vụ án này chứng cứ thu thập khơng đầy đủ, vi phạm
tố tụng thì HĐXX phải mạnh dạn tun bị cáo vơ tội. Nếu cịn nghi ngờ, chứng
cứ cịn khơng rõ thì khơng thể tun bị cáo có tội được”.4
3. KIẾN NGHỊ ĐỀ XUẤT
- Tiếp tục hồn thiện mơ hình tố tụng hình sự ở Việt Nam theo hướng mở rộng

hơn nữa tranh tụng trong cả quá trình tố tụng. Tiếp cận tố tụng hình sự theo
hướng tiếp cận quyền con người thay vì tư duy trấn áp tội phạm; phân định rành
mạch các chức năng tố tụng trong đó trả Tịa án về đúng vị trí vai trị của nó là
chức năng xét xử. Theo đó, cần phân định rành mạch các chức năng tố tụng và
tương ứng với mỗi chắc năng có một cơ quan tư pháp đảm nhiệm. Theo đó, chức
4 Đinh Thế Hưng, Thực hiện ngun tắc suy đốn vơ tội trong tố tụng hình sự Việt Nam, tạp chí điện tử Tịa án
Nhân dân, đăng tải ngày 11/09/2019


năng buộc tội thuộc về Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, chức năng gỡ tội thuộc
về người bào chữa, người bị buộc tội, chức năng xét xử thuộc về Tồ án; đảm
bảo cho các bên gỡ tội được bình đẳng với bên buộc tội, thể hiện ở việc có các
quy định nhằm đảm bảo cho bên gỡ tội thực hiện chức năng này đó là hệ thống
quyền của họ cũng như cơ chế đảm bảo cho họ thực hiện quyền này
- Hoàn thiện nguyên tắc pháp chế theo hướng khơng chỉ nhấn mạnh tính hợp
pháp của các hoạt động tố tụng của bản án quyết định mà cần khẳng định hậu
quả pháp lý của việc vi phạm pháp chế bằng cách bổ sung nội dung: Mọi hoạt
động tố tụng, chứng cứ sẽ không được thừa nhận nếu không được thực hiện hiện
một cách hợp pháp. Với nội dung này, chẳng những đạt được mục đích bảo vệ
quyền con người trong tố tụng hình sự trong nhà nước pháp quyền nói chung mà
cịn đảm bảo cho tố tụng hình sự xác định được sự thật của vụ án, làm cơ sở cho
việc giải quyết các vấn đề khác của tố tụng hình sự.
- Bổ sung một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về chứng cứ và chứng
minh
Nghiên cứu xây dựng Luật về Chứng minh và chứng cứ

trong TTHS.

BLTTHS 2015 đã có sửa đổi, bổ sung quan trọng liên quan đến chế định về
chứng cứ và chứng minh như quy định đầy đủ khái niệm chứng cứ, bổ sung thêm

các nguồn chứng cứ, quy định chặt chẽ trình thủ tục, chủ thế thu thập đánh giá
chứng cứ trong TTHS… Tuy nhiên vẫn cần thiết phải có luật điều chỉnh riêng về
vấn đề chứng cứ và chứng minh trong tố tụng hình sự mới khắc phục được
những nhược điểm đã và đang gây cản trở trong thực tiễn cơng tác tố tụng hình
sự.
Luật về Chứng và chứng minh khơng phải là vấn đề mới trong tố tụng hình sự
nhiều quốc gia đặc biệt là các quốc gia áp dụng mơ hình tranh tụng. Ở Hoa Kỳ


đã ban hành Quy tắc Liên bang về chứng cứ. Trong mơ hình tranh tụng, quy tắc
về chứng cứ có ảnh hưởng lớn nhất vì nó kiểm sốt loại chứng cứ nào có thể
được đưa ra trước những người có thẩm quyền quyết định, hay nói cách khác, nó
quyết định chứng cứ có được chấp thuận hay khơng. Ngay cả Thẩm phán cũng
không được tự do lựa chọn chứng cứ mà họ thấy thích hợp nhất mà phải tuân
theo các quy tắc chứng cứ đã được quy định. Quy tắc chứng cứ được đặt ra nhằm
đảm bảo sự công bằng trong tranh tụng qua việc cấm sử dụng những nguồn
chứng cứ khơng đáng tin cậy, sai lệnh hoặc có thể dẫn đến định kiến cho những
người có thẩm quyền phán quyết. Nếu coi tố tụng tranh tụng là một cuộc đấu
tranh giữa hai bên có tranh chấp, thì nó địi hỏi các bên tham gia tố tụng, nhất là
cơ quan cảnh sát và công tố phải triệt để tuân thủ các quy tắc đã được luật quy
định và trao thẩm quyền cho tòa án là cơ quan phải đảm bảo u cầu đó trong
q trình xét xử.
Quy tắc về chứng cứ nhằm ngăn chặn việc sử dụng những chứng cứ khơng
đáng tin cậy có thể làm cho Tịa án đưa ra phán quyết trên cơ sở những thông tin
sai lệnh. Đồng thời quy tắc về chứng cứ cũng nghiêm cấm sử dụng chứng cứ có
thể gây ra những định kiến không công bằng cho một trong các bên tham gia tố
tụng.


LỜI KẾT

Suy đốn vơ tội là một ngun tắc tiến bộ. Nguyên tắc này bảo vệ chính sách
nhân đạo của pháp luật hình sự và lợi ích của người bị truy cứu trách nhiệm hình
sự là khi cơ quan tố tụng khơng chứng minh được hành vi phạm tội thì phải suy
đốn theo hướng ngược lại. Ngồi ra, ngun tắc suy đốn vơ tội cũng đặt ra u
cầu cao hơn cho những người tiến hành tố tụng trong việc chứng minh tội phạm.
Vì vậy, việc bảo đảm nguyên tắc suy đốn vơ tội trong pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam cần được coi là một trong những nguyên tắc trụ cột và là một nhu cầu
cấp thiết nhằm thực hiện đúng đắn, kịp thời chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước về cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng
Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Bài làm trên đây còn nhiều thiếu sót do kiến thức cịn hạn hẹp, em rất mong
nhận được sự đóng góp quý báu từ quý thầy cô, em xin chân thành cảm ơn.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Hiến pháp 2013
Bộ luật Hình sự 2015
Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015
Hồng Hùng Hải, Suy đốn vơ tội và kiến nghị hồn thiện quy định của pháp
luật về ngun tắc suy đốn vơ tội, tạp chí Nghiên cứu lập pháp, đăng tải ngày
01/12/2018
Đoàn Thị Ngọc Hải, Ngun tắc suy đốn vơ tội trong Luật tố tụng hình sự, sự
thể chế hóa cho phù hợp với Hiến pháp, cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp, đăng
tải ngày 23/09/2015
Đinh Thế Hưng, Thực hiện nguyên tắc suy đoán vơ tội trong tố tụng hình sự
Việt Nam, tạp chí điện tử Tòa án Nhân dân, đăng tải ngày 11/09/2019




×