Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Biện pháp ngăn chặn áp dụng đối với người chưa thành niên trong tố tụng hình sự việt nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh hà nam)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 101 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

BI LONG HNG

BIệN PHáP NGĂN CHặN áP DụNG ĐốI VớI NGƯờI
CHƯA THàNH NIÊN TRONG Tố TụNG HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Nam)

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2015


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

BI LONG HNG

BIệN PHáP NGĂN CHặN áP DụNG ĐốI VớI NGƯờI
CHƯA THàNH NIÊN TRONG Tố TụNG HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Nam)

Chuyờn ngnh: Lut Hỡnh s v T tng hỡnh s
Mó s: 60 38 01 04

LUN VN THC S LUT HC

Ngi hng dn khoa hc: PGS.TS NGUYN NGC CH

H NI - 2015




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Trong quá trình nghiên cứu, học viên đã tham khảo nhiều công trình nghiên
cứu khác, có kế thừa, phân tích, bình luận và phát triển. Các kết quả nêu trong
Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví
dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Học viên đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa
vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Tác giả luận văn

Bùi Long Hưng


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục chữ viết tắt trong luận văn
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP NGĂN
CHẶN ÁP DỤNG ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ................................... 6
1.1.


Khái niệm biện pháp ngăn chặn áp dụng đối với người chưa
thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam.................................... 6

1.1.1.

Khái quát biện pháp ngăn chặn trong pháp luật TTHS Việt Nam........ 6

1.1.2.

Người chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam................... 11

1.2.

Những đặc điểm của biện pháp ngăn chặn đối với người
chưa thành niên trong Tố tụng hình sự Việt Nam ....................... 18

1.2.1.

Phải căn cứ vào qui định chung về biện pháp ngăn chặn của Luật
tố tụng hình sự Việt Nam .................................................................. 18

1.2.2.

Những đặc điểm riêng khi áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với
người chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam ................... 19

1.3.

Các qui định của pháp luật quốc tế về biện pháp ngăn chặn đối
với người chưa thành niên phạm tội trong tố tụng hình sự ........... 29


Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TTHS VIỆT NAM VÀ
THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN .................................... 36
2.1.

Quy định của pháp luật TTHS Việt Nam về việc áp dụng
biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên .................. 36


2.1.1.

Quy định của pháp luật TTHS trước 2003 - lịch sử hình thành và
phát triển............................................................................................ 36

2.1.2.

Quy định của pháp luật về biện pháp ngăn chặn áp dụng đối với
người chưa thành niên theo Bộ luật TTHS Việt Nam năm 2003 ..... 38

2.2.

Thực tiễn biện pháp ngăn chặn áp dụng với người chưa
thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam trên địa bàn tỉnh
Hà Nam của lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự
xã hội................................................................................................. 48

2.2.1.

Tình hình áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người đối với người

chưa thành niên ................................................................................. 48

2.2.2.

Tình hình áp dụng biện pháp tạm giữ ............................................... 54

2.2.3.

Tình hình áp dụng biện pháp tạm giam ............................................ 57

2.2.4.

Tình hình áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú ........................ 60

2.2.5.

Tình hình áp dụng biện pháp bảo lĩnh .............................................. 64

2.2.6.

Tình hình áp dụng biện pháp đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm ........ 66

2.3.

Nhận xét về việc biện pháp ngăn chặn áp dụng đối với người
chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam tại địa bàn
tỉnh Hà Nam..................................................................................... 69

2.3.1.


Những ưu điểm.................................................................................. 69

2.3.2.

Những mặt hạn chế ........................................................................... 71

Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ GIẢI PHÁP NÂNG
CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN .................................... 75
3.1.

Cơ sở và những yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật .............. 75

3.1.1.

Cơ sở dự báo ..................................................................................... 75

3.1.2.

Hoàn thiện hệ thống những quy định của pháp luật liên quan đến
việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn người chưa thành niên ......... 76


3.2.

Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp ngăn
chặn đối với người chưa thành niên trong Tố tụng hình sự
Việt Nam........................................................................................... 86

3.2.1.


Nâng cao nhận thức của lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về
trật tự xã hội trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối
với người chưa thành niên................................................................. 86

3.2.2.

Làm tốt công tác thanh tra, kiểm tra việc áp dụng các biện pháp
ngăn chặn trong tố tụng hình sự nhằm đảm bảo các quyền cơ
bản của công dân ............................................................................... 88

3.2.3.

Tuyên truyền giáo dục pháp luật cho quần chúng nhân dân nâng
cao ý thức chấp hành pháp luật là điều kiện để đảm bảo việc áp
dụng các biện pháp ngăn chặn .......................................................... 88

KẾT LUẬN .................................................................................................... 90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 92


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
BLHS:

Bộ luật Hình sự

BLTTHS:

Bộ luật Tố tụng hình sự


CQĐT:

Cơ quan điều tra

PLHS:

Pháp luật hình sự

PLTTHS:

Pháp luật Tố tụng hình sự

TA:

Tòa án

THTT:

Tiến hành tố tụng

TTHS:

Tố tụng hình sự

VKS:

Viện Kiểm sát


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Tỉnh Hà Nam chính thức được tái thành lập năm 1997, có địa giới
hành chính nhỏ hẹp, dân cư không đông nhưng ngày càng phát triển nhanh,
vững chắc, khá toàn diện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - chính trị - an ninh
- quốc phòng... Tuy nhiên, tội phạm do người chưa thành niên có chiều
hướng gia tăng, với tính chất, mức độ nguy hiểm ngày càng nghiêm trọng
đòi hỏi các cấp, các ngành, các lực lượng chức năng phải cùng "vào cuộc"
để ngăn chặn, kiềm chế, từng bước làm giảm loại tội phạm này.
Trên thực tế, việc quy định và áp dụng đúng đắn các biện pháp ngăn
chặn, phòng ngừa trong Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam được coi là sự đảm
bảo cao nhất cho quá trình phát hiện tội phạm để người phạm tội không thể
tiếp tục thực hiện các hành vi phạm tội cũng như trốn tránh, cản trở việc điều
tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Ở đây, lại có một vấn đề đặt ra là việc thực
hiện các biện pháp ngăn chặn, phòng ngừa mang yếu tố nhạy cảm khá cao vì
liên quan đến quyền, lợi ích của công dân, quyền bất khả xâm phạm về thân
thể, chỗ ở, bí mật đời tư... nên vẫn còn bộc lộ một số hạn chế nhất định, hậu
quả dẫn đến việc bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, vi phạm những
nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, xâm phạm đến các quyền cơ bản của
công dân... Vì vậy việc nắm vững những quy định trong Chương V và
Chương XXXII "về thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên" của Bộ
luật Tố tụng hình sự năm 2003 là nhân tố quan trọng, cần thiết và có giá trị để
các Điều tra viên vận dụng tốt vào thực tiễn hoạt động nghiệp vụ, tránh được
những sai sót đáng tiếc xảy ra và góp phần nâng cao hiệu quả phòng ngừa,
ngăn chặn tội phạm do người chưa thành niên thực hiện.
Trong những năm vừa qua, lý luận về áp dụng các biện pháp ngăn chặn

1


trong điều tra các vụ án hình sự do người chưa thành niên gây ra chưa được

quan tâm nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Hà Nam, việc nghiên cứu các quy định
của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về áp dụng các biện pháp ngăn chăn
đối với người chưa thành niên phạm tội và thực tiễn áp dụng để làm sáng tỏ về
mặt khoa học và đưa ra những giải pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu quả của việc
áp dụng những quy định đó có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và pháp lý quan trọng.
Do vậy, việc chọn đề tài "Biện pháp ngăn chặn áp dụng đối với người chưa
thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam" (Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa
bàn tỉnh Hà Nam) của lực lượng Cảnh sát điều tra về TTXH tỉnh Hà Nam làm
luận văn thạc sĩ, tôi mong muốn sẽ đáp ứng được các yêu cầu cả về phương
diện lý luận cũng như thực tiễn của vấn đề.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những năm gần đây, vấn đề áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với
người chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam đã được nhiều nhà
khoa học nghiên cứu, tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau, trong đó có sự
đóng góp đáng kể của một số đề tài khoa học và sách chuyên khảo như:
"Những điều cần biết về bắt người, tạm giữ, tạm giam..." đúng pháp luật của
tác giả Phạm Thanh Bình - Nguyễn Vạn Nguyên, nhà xuất bản pháp lý năm
1990, cuốn "Các biện pháp ngăn chặn trong luật Tố tụng hình sự Việt Nam"
của tác giả Nguyễn Mai Bộ, nhà xuất bản Công an nhân dân năm 1997.
Ngoài ra còn có các bài viết đăng trên tạp chí Công an nhân dân, tạp chí
Kiểm sát cũng tập trung phân tích, đề cập đến những khó khăn, vướng mắc, những
giải pháp về việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm
tội trên từng địa bàn cụ thể với những đặc trưng riêng biệt của từng địa phương.
Trước tình hình trên cho thấy, việc nghiên cứu đề tài "Biện pháp ngăn
chặn áp dụng đối với người chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam"
(Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Nam) trong giai đoạn hiện nay là

2



rất cần thiết, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn, góp phần đảm bảo thực
hiện đúng pháp luật trong lĩnh vực này trên địa bàn tỉnh Hà Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Từ việc nghiên cứu lý luận và thực trạng áp dụng các biện pháp ngăn
chặn đối với người chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam của lực
lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội Công an tỉnh Hà Nam trong
giai đoạn từ năm 2010 đến tháng 6 năm 2015, đề tài chỉ ra những mặt tích
cực, hạn chế, nguyên nhân tồn tại, đề xuất một số giải pháp chủ yếu để hoàn
thiện lý luận và góp phần nâng cao hiệu quả, chất lượng trong việc áp dụng
các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên trong tố tụng hình sự
Việt Nam trên địa bàn tỉnh.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, trong quá trình nghiên cứu tác giả tập trung
giải quyết các nhiệm vụ cụ thể sau:
- Làm rõ khái niệm và đặc điểm về các biện pháp ngăn chặn áp dụng đối
với người chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam của lực lượng Cảnh
sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội.
- Đánh giá việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa
thành niên được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự trên cơ sở đó rút ra
những tồn tại, thiếu sót, vướng mắc trong quá trình áp dụng luật trên cơ sở
thực tiễn tỉnh Hà Nam.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn
đối với người chưa thành niên của lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật
tự xã hội Công an tỉnh Hà Nam từ năm 2010 đến tháng 6 năm 2015.
- Đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả việc áp dụng các biện
pháp ngăn chặn trong thời gian tới đối với người chưa thành niên.

3



4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn dưới
góc độ khoa học pháp lý nhằm hoàn thiện việc áp dụng các biện pháp ngăn
chặn với người chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam trên phạm vi
địa bàn tỉnh Hà Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với
người chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam trên địa bàn tỉnh Hà
Nam trong giai đoạn từ năm 2010 đến tháng 6 năm 2015, các số liệu vụ án
được nghiên cứu thuộc lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội
Công an tỉnh Hà Nam.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan
điểm của Đảng và Nhà nước ta trong công tác đấu tranh phòng chống tội
phạm do người chưa thành niên thực hiện cùng với những chính sách hình sự
của Nhà nước đối với họ.
Để thực hiện các nội dung nghiên cứu, tác giả sử dụng các phương
pháp: phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, trực tiếp khảo sát, tổng kết kinh
nghiệm, lấy ý kiến của các chuyên gia...
6. Những đóng góp của đề tài
- Làm rõ lý luận các biện pháp ngăn chặn trong Luật tố tụng hình sự
Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó tìm ra những ưu điểm, tồn tại trong quá
trình áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên trong tố
tụng hình sự Việt Nam trên địa bàn tỉnh Hà Nam.
- Tìm ra những giải pháp để nâng cao hiệu quả việc áp dụng các biện

4



pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên và các vấn đề nghiệp vụ để
đảm bảo các biện pháp đó.
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật tố tụng hình sự về việc áp dụng các
biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt
Nam. Kết quả nghiên cứu của đề tài còn có thể dùng làm tài liệu tham khảo
nghiên cứu và cho cán bộ làm công tác điều tra, đấu tranh phòng chống loại
tội phạm này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về các biện pháp ngăn chặn áp dụng
đối với người chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam.
Chương 2: Quy định của pháp luật và thực trạng áp dụng biện pháp
ngăn chặn đối với người chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu quả áp
dụng biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên trong tố tụng hình
sự Việt Nam.

5


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
ÁP DỤNG ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm biện pháp ngăn chặn áp dụng đối với người chưa
thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam
1.1.1. Khái quát biện pháp ngăn chặn trong pháp luật TTHS Việt Nam

1.1.1.1. Biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự là những biện pháp
cưỡng chế được quy định trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, do người
có thẩm quyền áp dụng đối với bị can, bị cáo hoặc người chưa bị khởi tố khi
có căn cứ do pháp luật quy định nhằm ngăn chặn những hành vi nguy hiểm
cho xã hội của họ tiếp tục xảy ra, ngăn chặn họ trốn tránh, bảo đảm cho việc
tiến hành tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng.
Những biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự được quy định tại
Điều 79 BLTTHS Việt Nam bao gồm: Bắt; Tạm giữ; Tạm giam; Cấm đi khỏi
nơi cư trú; Bảo lĩnh; Đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để đảm bảo.
- Bắt người là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự, được áp dụng
đối với bị can, bị cáo, người đang bị truy nã, người thực hiện hành vi phạm tội
quả tang và trong trường hợp khẩn cấp nhằm kịp thời ngăn chặn hành vi phạm
tội, ngăn chặn việc trốn tránh của họ và để tạo điều kiện cho việc tiến hành tố
tụng, xác định sự thật khách quan của vụ án.
- Tạm giữ là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do người có
thẩm quyền quyết định tước tự do thân thể trong thời hạn nhất định áp dụng
đối với những người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang,
người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy
nã nhằm đảm bảo cho CQĐT có thời gian tiến hành các hoạt động điều tra

6


ban đầu để có cơ sở quyết định khởi tố bị cạn, tạm giam hoặc trả tự do cho
người bị bắt.
- Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do người có
thẩm quyền áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng,
phạm tội rất nghiêm trọng; Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít
nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn
cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử

hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
- Cấm đi khỏi nơi cư trú là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự,
được áp dụng đối với bị can, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng nhằm bảo đảm sự có
mặt của họ theo giấy triệu tập của các cơ quan tiến hành tố tụng.
- Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự thay thế cho
biện pháp tạm giam được các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng đối với bị
can, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, có người bảo lãnh không để bị can, bị cáo
phạm tội hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử và nhằm bảo đảm sự có mặt của
họ theo giấy triệu tập của các cơ quan tiến hành tố tụng.
- Đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để đảm bảo là biện pháp ngăn chặn
trong tố tụng hình sự để thay thế biện pháp tạm giam do CQĐT, VKS, Tòa án
áp dụng đối với bị can, bị cáo để bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập
của các cơ quan tiến hành tố tụng và ngăn ngừa họ có hoạt động cản trở việc
giải quyết vụ án.
Những biện pháp ngăn chặn nêu trên phải được áp dụng bởi những
người có thẩm quyền như: Chánh án, Phó Chánh án Toà án các cấp; Thẩm
phán giữ chức vụ Chánh toà, Phó Chánh toà Tòa phúc thẩm Toà án nhân dân
tối cao; Hội đồng xét xử; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát các
cấp; Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, trong trường hợp này,
lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành;

7


Người chỉ huy quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương, người chỉ
huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới, người chỉ huy tàu bay, tàu biển
hoặc chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển. Riêng việc bắt người trong trường
hợp phạm tội quả tang, bắt người đang bị truy nã thì mọi công dân đều có
quyền bắt.
Khi đưa ra khái niệm biện pháp ngăn chặn, khoa học pháp lý ở nước ta

tương đối có sự thống nhất, Giáo trình luật TTHS của Khoa Luật ĐHQGHN
định nghĩa như sau:
Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế được quy định
trong pháp luật TTHS Việt Nam, do người có thẩm quyền ở các cơ
quan THTT hoặc các cơ quan khác được giao một số hoạt động tố
tụng áp dụng đối với bị can, bị cáo, người phạm tội quả tang, người
có lệnh truy nã hoặc người bị nghi là phạm tội, nhằm ngăn chặn kịp
thời hành vi phạm tội, không để họ cản trở việc điều tra, truy tố, xét
xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội cũng như nhằm đảm bảo cho việc thi
hành án [13, tr.248-249].
1.1.1.2. Căn cứ áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong pháp luật tố
tụng hình sự
Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với những người bị nghi ngờ
thực hiện hành vi phạm tội hay bị truy cứu trách nhiệm hình sự sẽ bảo đảm
cho các hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng được thuận lợi, góp phần
nâng cao hiệu quả vào việc đấu tranh phòng chống tội phạm vì người thực
hiện tội phạm thường có ý thức che dấu tội phạm, trốn tránh để tránh bị xử lý.
Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn tác động trực tiếp đến các quyền cơ
bản của công dân như quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do cư
trú và đi lại… do vậy phải đảm bảo sự công bằng, dân chủ và tôn trọng các
quyền công dân được Hiến pháp và pháp luật quy định. Vì vậy không được

8


tùy tiện áp dụng các biện pháp ngăn chặn mà phải áp dụng dựa trên các căn
cứ pháp luật đã quy định để đảm bảo việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn,
thực hiện các biện pháp ngăn chặn đúng pháp luật.
Căn cứ áp dụng các biện pháp ngăn chặn được quy định tại Điều 79 Bộ
luật tố tụng hình sự bao gồm: Để kịp thời ngăn chặn tội phạm; Khi có căn cứ

chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử; Sẽ
tiếp tục phạm tội; Cần bảo đảm thi hành án. Theo đó thì:
Thứ nhất, để kịp thời ngăn chặn tội phạm
Kịp thời ngăn chặn tội phạm, để tội phạm không xảy ra, không tiếp tục
xảy ra, không hoàn thành để gây ra nguy hiểm cho xã hội là một việc làm cần
thiết. Do đó BLTTHS quy định để kịp thời ngăn chặn tội phạm là một căn cứ
áp dụng biện pháp ngăn chặn.
Để kịp thời ngăn chặn tội phạm thường được sử dụng để bắt người
trong trường hợp khẩn cấp (Khi có căn cứ cho rằng người nào đó đang chuẩn
bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng) hoặc bắt người
phạm tội quả tang (Khi thấy một người đang thực hiện tội phạm).
Thứ hai, khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc
điều tra, truy tố, xét xử
Những người bị tình nghi thực hiện tội phạm hay đã bị truy cứu trách
nhiệm hình sự nếu không bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn phần lớn sẽ gây
nhiều khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng nên việc áp dụng các biện
pháp ngăn chặn là cần thiết. Khi họ có các hành vi gây khó khăn thì việc giải
quyết vụ án của các cơ quan tiến hành tố tụng gặp nhiều khó khăn và việc tìm
ra sự thật khách quan của vụ án gặp nhiều cản trở thậm chí không thực hiện
được. Việc gây khó khăn của họ thể hiện ở việc trốn tránh triệu tập của các cơ
quan tiến hành tố tụng, làm sai lệch hoặc thủ tiêu chứng cứ, bàn bạc, câu kết
với những người tham gia tố tụng khác khai báo gian dối, tạo chứng cứ giả…

9


Do vậy khi có căn cứ nêu trên các cơ quan tiến hành tố tụng phải áp
dụng các biện pháp ngăn chặn hoặc thay đổi các biện pháp ngăn chặn đối với
bị can, bị cáo, người đã thực hiện hành vi phạm tội để đáp ứng được nhiệm vụ
giải quyết vụ án hình sự, xác định được sự thật khách quan của vụ án.

Thứ ba, khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội
Trường hợp người bị tình nghi thực hiện hành vi phạm tội, bị can, bị
cáo có khả năng tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội thì việc áp dụng biện
pháp ngăn chặn để hạn chế hoặc cách ly họ với xã hội để họ không có điều
kiện thực hiện tội phạm là cần thiết. Tuy nhiên, khi xem xét căn cứ này phải
xem xét trên mọi phương diện để tránh việc áp dụng tùy tiện, xâm phạm đến
các quyền con người, quyền công dân của họ.
Các căn cứ này có thể được xác định thông qua nhân thân của người bị
tình nghi thực hiện hành vi phạm tội, bị can, bị cáo, các hành vi khách quan của
họ. Họ là những người có nhân thân xấu như: có tiền án, tiền sự, sử dụng trái
phép các chất ma túy... chứng tỏ họ đã được giáo dục và xử lý bởi pháp luật
nhưng vẫn tiếp tục vi phạm pháp luật. Họ có các biểu hiện như đe dọa trả thù
người bị hại, người làm chứng… và có khả năng thực hiện được sự đe dọa.
Thứ tư, để bảo đảm thi hành án
Việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật liên
quan trực tiếp đến bị can, bị cáo hay người bị kết án. Trong trường hợp bị can, bị
cáo bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng
và đặc biệt nghiêm trọng hoặc họ có nhân thân xấu thuộc trường hợp bị áp dụng
hình phạt tù thì việc áp dụng biện pháp ngăn chặn là cần thiết.
Việc áp dụng căn cứ này được áp dụng tại phiên tòa bởi Hội đồng xét
xử trong các trường hợp:
- Bị cáo đã bị áp dụng biện phán ngăn chặn tạm giam, bị xử phạt bằng
hình phạt tù và thời hạn phạt tù lớn hơn thời hạn tạm giam thì Hội đồng xét xử
sẽ ra quyết định tạm giam để tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

10


- Bị cáo không bị áp dụng biện pháp tạm giam nhưng bị xử phạt bằng
hình phạt tù và có căn cứ cho rằng họ gây khó khăn cho việc thi hành bản án

hoặc sẽ tiếp tục phạm tội thì Hội đồng xét xử sẽ ra quyết định bắt tạm giam để
tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.
1.1.2. Người chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam
1.1.2.1. Người chưa thành niên
Người chưa thành niên là thuật ngữ phổ biến được sử dụng trong đời
sống cũng như trong các ngành khoa học nghiên cứu. Dưới nhiều góc độ
nghiên cứu cũng như mục đích nghiên cứu khác nhau mà ở mỗi ngành khoa
học lại có cách hiểu riêng về thuật ngữ này. Theo Từ điển Tiếng Việt: “Vị
thành niên là người chưa đến tuổi được pháp luật công nhận là công dân với
đầy đủ các quyền và nghĩa vụ hay nói cách khác là người chưa đủ 18 tuổi”.
Định nghĩa này phù hợp với tinh thần của Công ước của Liên Hợp Quốc về
quyền trẻ em thông qua ngày 20/11/1989: “Trong phạm vi của Công ước này,
trẻ em có nghĩa là những người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp
dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn” [15, Điều 1]. Theo
cách hiểu thông thường, từ “trẻ em” nghĩa là người chưa thành niên, hay vị
thành niên. Thế nhưng trong Công ước này trẻ em lại bao gồm tất cả những
người chưa phải người lớn. Công ước nhấn mạnh rằng tất cả những ai dưới 18
tuổi thì được hưởng mọi quyền lợi đã được ghi nhận trong Công ước.
Tuy nhiên những quy định khác nhau về khái niệm người chưa thành
niên lại nằm trong các văn bản pháp luật truyền thống của các quốc gia trên
thế giới. Sở dĩ có sự quy định khác nhau như vậy là do xuất phát từ truyền
thống lịch sử văn hóa cũng như các quan niệm về đạo đức, phong tục tập quán
của các quốc gia khác nhau. Mặt khác, còn do điều kiện kinh tế - xã hội, sự
phát triển về sinh học của con người, đặc biệt là chính sách pháp luật và yêu
cầu của thực tiễn công tác đấu tranh phòng chống tội phạm của mỗi quốc gia
cũng có sự khác nhau.

11



Trong phạm vi một quốc gia, thì tùy vào từng ngành khoa học mà
người ta cũng có khái niệm khác nhau về người chưa thành niên. Ở Việt
Nam, Điều 1 Luật giáo dục, chăm sóc và bảo vệ trẻ em Việt Nam quy định
rõ: “Trẻ em quy định trong luật này là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi.”
Bộ luật lao động sửa đổi, bổ sung năm 2002 quy định: “Người chưa thành
niên là người dưới 18 tuổi” [22, Điều 119]. Bộ luật dân sự năm 2005 cũng
có quy định tương tự: “Người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên”
[25, Điều 18]. Như vậy, theo nghĩa chung nhất thì người chưa thành niên
là người chưa đủ 18 tuổi.
Ở độ tuổi này, người chưa thành niên có những đặc điểm tâm sinh lý
đặc trưng và chính vì thế mà bất cứ ngành luật nào cũng dành những quy định
đặc biệt để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho họ.
Bất kể một công dân nào sinh ra cũng có sẵn một cơ sở vật chất giống
nhau đó là bộ não. Đây là điều kiện cần, nhưng chưa đủ. Trong qua trình lớn
lên, trưởng thành, bộ não của con người tiếp nhận, chọn lọc những kỹ năng
sống, tri thức để phát triển qua gia đình, nhà trường, xã hội xung quanh. Đúng
như F.Ăngghen đã từng nói: “Ý thức từ ban đầu đã là sản phẩm của xã hội và
vẫn là sản phẩm của xã hội chừng nào xã hội còn tồn tại” và “chỉ trong tự ý
thức con người mới tách mình độc lập với thế giới xung quanh, xác định vị trí
của mình trong những quan hệ tự nhiên và xã hội” [1, tr.325]. Đây là điều
kiện đủ để một người đạt đến ngưỡng gọi là “trưởng thành” hay “đã thành
niên”. Dưới ngưỡng này đồng nghĩa với việc chưa phát triển đầy đủ, khả năng
thích ứng với xã hội còn kém và rất dễ bị tổn thương tâm lý, nếu không khéo
léo “chạy chữa” thì người đó sẽ không thể trở thành một người trưởng thành
thật sự. Người chưa thành niên chính là những người đang ở vị thế như vậy.
1.1.2.2. Người chưa thành niên phạm tội
Như đã phân tích ở trên, năng lực trách nhiệm hình sự chỉ hình thành

12



khi con người đạt đến một độ tuổi nhất định và năng lực đó sẽ được hoàn
thiện ở một độ tuổi tiếp theo. Người chưa thành niên, hay vị thành niên hoặc
có nơi coi là trẻ em về thể chất và tâm sinh lý đã có sự phát triển đáng kể, có
khả năng hiểu biết nhất định để có những xử sự phù hợp với quy định của
pháp luật. Theo nguyên tắc công bằng của pháp luật, họ phải chịu trách nhiệm
về hành vi do chính mình thực hiện.
“Người chưa thành niên phạm tội” là thuật ngữ sử dụng trong khoa học
PLHS, PLTTHS và các khoa học gần gũi khác. Mặc dù BLTTHS và BLHS
đều có dành một chương riêng để quy định về người chưa thành niên phạm
tội, nhưng lại đều không có khái niệm lập pháp chính thức thế nào là người
chưa thành niên phạm tội. BLHS 1985 cũng như BLHS 1999 khi nói tới
người chưa thành niên phạm tội chỉ đưa ra một khái niệm gián tiếp thông qua
việc quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
Điều 12 BLHS năm 1999 thì người từ đủ 16 tuổi trở lên mới phải chịu
trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, còn người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16
tuổi thì chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố
ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. BLHS năm 1999 cũng quy định:
“Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phải chịu trách nhiệm
hình sự theo những quy định của chương này [21, Điều 68].
Với quy định trong các điều khoản trên có thể hiểu người chưa thành
niên phạm tội bao gồm những người từ đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi.
Nhưng cũng cần phải lưu ý rằng: Người chưa thành niên trong PLHS Việt
Nam phải được nhìn nhận chính xác từ hai góc độ không nên đồng nhất thuật
ngữ “người chưa thành niên” trong PLHS với thuật ngữ “người chưa thành
niên phạm tội”. Ở góc độ thứ nhất, người chưa thành niên là người bị hại,
người xúi giục, “người chưa thành niên” sẽ bao gồm tất cả những người ở độ
tuổi dưới 18 tuổi. Nhìn từ góc độ thứ hai, người chưa thành niên bằng năng

13



lực nhận thức của mình thực hiện hành vi bị pháp luật cấm, tức là người chưa
thành niên phạm tội. Tại thời điểm họ thực hiện hành vi phạm tội pháp luật
quy định họ phải đang ở độ tuổi 14 tuổi đến dưới 18 tuổi mà không ở trong
tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự (tình trạng bị mất khả năng
nhận thức hoặc khả năng điều khiển hoạt động của mình do bị mắc bệnh tâm
thần hoặc các bệnh khác).
Một câu hỏi mà bất cứ một người nào mới tiếp xúc với pháp luật hình
sự cũng sẽ đặt ra trong trường hợp này là: tại sao pháp luật hình sự lại quy
định độ tuổi chịu trách nhiệm là 14 tuổi? Ở một số quốc gia trên thế giới quy
định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự rất khác nhau. Ví dụ: Singapore: 7 tuổi;
Anh: 10 tuổi; Canada: 12 tuổi; Nhật Bản, Nga: 14 tuổi; Thuỵ Điển: 15 tuổi;
Cuba: 16 tuổi;… Sở dĩ, pháp luật hình sự của các nước quy định khác nhau
như vậy là do phụ thuộc vào điều kiện phát triển của từng nước.
Ở nước ta, pháp luật hình sự quy định 14 tuổi trở lên phải chịu trách
nhiệm hình sự là phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội. Trong độ
tuổi này, người chưa thành niên đã bắt đầu phát triển nhanh về tâm sinh lý.
Họ đã tự ý thức được những hành vi của mình, tự ý thức được đâu là đúng,
đâu là sai, ý thức được phần nào những việc gì là đúng pháp luật, việc gì là sai
trái, bị pháp luật cấm. Vì lẽ đó, họ cũng đã có sự cân nhắc, dù cẩn thận hay
không trước khi thực hiện hành vi của mình. Từ đó, họ có nghĩa vụ phải chịu
trách nhiệm về chính hành vi do mình thực hiện ấy.
Như vậy, khái niệm về người chưa thành niên phạm tội do BLHS quy
định có ý nghĩa pháp lý sâu sắc. Đó là cơ sở xác định tính chất tội phạm đối
với những hành vi do người chưa thành niên thực hiện và tạo điều kiện cho
việc áp dụng hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội
của hành vi trên cơ sở những đặc điểm tâm sinh lý vào thời điểm họ phạm tội.
Không những thế, khái niệm trên còn mang ý nghĩa chính trị xã hội bởi nó


14


phù hợp với nội dung điều ước quốc tế tiến bộ của nhân loại mà chúng ta đã
gia nhập vừa phù hợp với đặc điểm kinh tế xã hội, sự phát triển về thể chất,
tinh thần con người Việt Nam và kinh nghiệm đấu tranh phòng chống tội
phạm ở nước ta.
Thuật ngữ “người chưa thành niên phạm tội” vốn đã phức tạp lại càng
phức tạp thêm vì vấn đề này không chỉ có ý nghĩa về phương diện đạo đức pháp lý mà còn có ý nghĩa về phương diện thực tế hoặc thống kê. Trong thực
tế, còn tồn tại nhiều vướng mắc gây tranh cãi khi xác định một cá nhân có phải
là người chưa thành niên phạm tội hay không. Trước hết phải kể đến khó khăn
vướng mắc trong việc xác định độ tuổi của một người khi thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội trong những trường hợp không rõ ràng về ngày, tháng,
năm sinh. Thứ hai là khó khăn trong việc xác định hành vi nguy hiểm cho xã
hội mà người chưa thành niên thực hiện có phải là tội phạm hay không phải tội
phạm vì rất khó phân biệt tội phạm với các loại vi phạm khác. Chẳng hạn, hành
vi trộm cắp một chiếc xe đạp của người khác chỉ trở thành tội phạm khi xác
định chính xác giá trị của chiếc xe từ hai triệu đồng trở lên, nếu không, hành vi
đó chỉ là một vi phạm hành chính. Cuối cùng là khó khăn, vướng mắc trong
việc xác định một cách chính xác, phù hợp với thực tế tổng số vụ và người
chưa thành niên phạm tội hàng năm. Con số người chưa thành niên phạm tội
phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trước hết là mức độ kiểm soát tội phạm; hiệu quả
của công tác phát hiện, xử lý tội phạm. Các tội phạm do người chưa thành niên
thực hiện được phát hiện chỉ là một phần mà chúng ta biết được trong số rất
nhiều vụ phạm pháp hình sự đã và đang xảy ra. Mặt khác, các vụ phạm tội
được ghi nhận vào sổ thống kê lại chưa bằng một nửa số vụ người chưa thành
niên phạm tội bị phát hiện. Mặc dù các con số thống kê hình sự về số lượng các
vụ án và số lượng người chưa thành niên chỉ là phần tội phạm rõ trong tổng thể
các tội phạm do người chưa thành niên thực hiện. Tuy vậy, chúng ta vẫn có thể


15


sử dụng con số này làm cơ sở cho việc nghiên cứu, đánh giá, phân tích tình
hình tội phạm do người chưa thành niên thực hiện.
Dựa vào những phân tích nêu trên, có thể hiểu: Người chưa thành niên
phạm tội là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi có năng lực trách nhiệm
hình sự chưa đầy đủ do sự hạn chế bởi các đặc điểm về tâm sinh lý và đã có
lỗi (cố ý hoặc vô ý) trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà
BLHS quy định là tội phạm.
1.1.2.3. Người chưa thành niên trong tố tụng hình sự
“Người chưa thành niên phạm tội” là khái niệm của luật hình sự và
không đồng nghĩa với khái niệm “người chưa thành niên trong Tố tụng hình
sự”, tuy nhiên hai khái niệm này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nếu như
khái niệm “người chưa thành niên phạm tội” để chỉ người chưa thành niên đã
bị tòa án kết tội bằng bản án có hiệu lực pháp luật thì khái niệm “người chưa
thành niên trong TTHS” chỉ người chưa thành niên, mà hành vi của họ có dấu
hiệu tội phạm đang trong quá trình giải quyết vụ án ở những giai đoạn TTHS
khác nhau, đó là người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Đây là khái niệm đặc
trưng của pháp luật tố tụng hình sự và do đó, luật TTHS qui định thủ tục giải
quyết vụ án đối với người chưa thành niên, chứ không phải là thủ tục giải
quyết vụ án đối với người chưa thành niên phạm tội. Theo qui định của Luật
TTHS Việt Nam thì thủ tục giải quyết vụ án đối với người chưa thành niên
được áp dụng cho các đối tượng sau: (a) Người bị bắt bao gồm người bị bắt
trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người bị bắt theo quyết định
truy nã…; (b) Người bị tạm giữ là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp,
phạm tội quả tang, người bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội
tự thú, đầu thú và đối với họ có quyết định tạm giữ; (c) Bị can là người đó bị
khởi tố về hình sự; (d) Bị cáo là người bị toà án quyết định đưa ra xét xử [24].
Người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành


16


niên thỏa mãn những quy định pháp lý về người bị bắt, người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo nhưng họ đang ở độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi. Vì
vậy, những thủ tục đối với người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là
người chưa thành niên phải được tiến hành theo thủ tục đặc biệt được quy
định tại chương XXXII BLTTHS Việt Nam năm 2003. Từ những phân tích
trên có thể hiểu: Người chưa thành niên trong tố tụng hình sự là người bị
bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đang trong độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến
dưới 18 tuổi ở thời điểm các cơ quan có thẩm quyền tiến hành các hoạt
động tố tụng hình sự đối với họ.
Như vậy, khái niệm người chưa thành niên phạm tội và khái niệm
người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên có
những điểm khác nhau xuất phát từ thời điểm phát sinh quan hệ pháp luật mà
trong đó người chưa thành niên là chủ thể. Quy định đối với người chưa thành
niên phạm tội trong BLHS chỉ áp dụng đối với đối tượng là người chưa thành
niên ở thời điểm họ thực hiện hành vi phạm tội. Còn người bị bắt, người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên bị coi là những người bị tình
nghi trong quá trình tố tụng giải quyết vụ án. Những quy định áp dụng đối với
họ chỉ được thực hiện vào thời điểm họ bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị khởi
tố, truy tố, xét xử và phải vào thời điểm mà họ là người chưa thành niên.
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm biện pháp ngăn chặn
áp dụng đối với người chưa thành niên trong TTHS Việt Nam như sau: “Biện
pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên là biện pháp cưỡng chế TTHS
được quy định trong pháp luật TTHS, do người có thẩm quyền ở các cơ quan
THTT hoặc các cơ quan khác được giao một số hoạt động tố tụng áp dụng
đối với bị can, bị cáo, người phạm tội quả tang, người có lệnh truy nã hoặc
người bị nghi phạm tội trong độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi tại thời

điểm các cơ quan có thẩm quyền tiến hành các hoạt động tố tụng hình sự đối

17


với họ nhằm ngăn chặn kịp thời hành vi phạm tội, không để họ cản trở việc
điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội cũng như nhằm đảm bảo cho
việc thi hành án”.
1.2. Những đặc điểm của biện pháp ngăn chặn đối với người chưa
thành niên trong Tố tụng hình sự Việt Nam
Luật tố tụng hình sự các quốc gia đều qui định các biện pháp ngăn chặn
áp dụng đối với người chưa thành niên là bị người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
trong quá trình giải quyết vụ án. Tuy nhiên, các biện pháp ngăn chặn áp dụng
với đối tượng này ngoài những đặc điểm chung còn có những đặc điểm riêng
tạo thành một tổng thể thống nhất, đó là những đặc điểm sau đây:
1.2.1. Phải căn cứ vào qui định chung về biện pháp ngăn chặn của
Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Biện pháp ngăn chặn áp dụng đối với người chưa thành niên có đầy đủ
các đặc điểm như các biện pháp ngăn chặn áp dụng trong các trường hợp
chung đó là những qui định về căn cứ, thẩm quyền, trình tự thủ tục áp dụng
các biện pháp ngăn chặn. Các biện pháp có mục đích kịp thời ngăn chặn tội
phạm, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, cũng như không cho họ có những hành
động làm cản trở hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án; khi áp
dụng biện pháp ngăn chặn cần phải tuân thủ theo những trình tự, thủ tục rất
chặt chẽ do BLTTHS quy định bởi lẽ đây là các biện pháp hạn chế một phần
quyền con người, quyền công dân. Đặc điểm này cho thấy tính thống nhất của
biện pháp ngăn chặn nói chung, theo đó biện pháp ngăn chặn với người chưa
thành niên phạm tội là một tổng thể trong các biện pháp ngăn chặn nói chung
được quy định trong BLTTHS, bao gồm sáu biện pháp ngăn chặn được quy
định tại Điều 79 BLTTHS Việt Nam gồm bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi

nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm.

18


×