Tải bản đầy đủ (.docx) (88 trang)

Luận văn thạc sĩ bước đầu tiếp cận một số nguyên tắc trong quản lý hệ sinh thái rừng ngập mặn tại vườn quốc gia xuân thủy nam định​

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (534.46 KB, 88 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP



----------

----------

NGÔ VĂN NHƯƠNG

Chuyên ngành: Lâm học
Mã số

: 60.62.60

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

Người hướng dẫn khoa học
PGS. TS. HOÀNG KIM NGŨ

HÀ NỘI, 2011


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Nước ta là một trong số ít nước trên thế giới có hệ sinh thái rừng ngập mặn ven


biển rất độc đáo của vùng đất ngập nước. Vai trị và ý nghĩa kinh tế, xã hội, mơi
trường của rừng ngập mặn đã được khẳng định trong nghiên cứu và trong thực tiễn
khơng những ở nước ta mà cịn ở nhiều nước trên thế giới, đặc biệt nơi có rừng ngập
mặn.
Rừng ngập mặn là hệ sinh thái rất nhạy cảm với các yếu tố môi trường và
phương thức quản lý, kinh doanh.
Diễn biến (động thái) rừng ngập mặn trong một số năm qua thông qua việc phá
rừng, nuôi tôm tràn lan mà chủ yếu là sự phát triển vô tổ chức, khơng kiểm sốt
được, trong đó thiên về lợi ích kinh tế của nuôi trồng thuỷ sản.
Hậu quả của nó đã được trả giá (tơm chết, rừng mất, hiện tượng phèn hoá và
xâm nhập mặn xảy ra găy gắt), đến nay cũng chưa thể khắc phục được.
Do vậy, các vấn đề khoa học công nghệ được đặt ra và phải nghiên cứu giải
quyết tập trung vào các vấn đề tồn tại sau đây:
a) Quy hoạch và điều chế các lâm phần rừng ngập mặn sau khi trồng nhằm đảm
bảo sản lượng, chất lượng gỗ và phát huy vai trò phòng hộ ven biển.
b) Sử dụng rừng ngập mặn để ni tơm và các thuỷ sản khác gặp khó khăn do
chưa có kỹ thuật phù hợp để có thể điều hồ nhu cầu sinh học.
c) Về mơi trường: Hầu như ít có các nghiên cứu khoa học cơng nghệ cũng như
mơ hình thực tiễn nào nhằm tạo ra các mơ hình rừng ngập có khả năng bảo vệ bờ
biển, đê biển và tăng tốc độ bồi lắng phù sa hiệu quả nhất. Diễn biến môi trường đất
và nước, trước và sau khi xây dựng các đầm thủy sản ít được nghiên cứu.
d) Về kinh tế xã hội: Tuy đã có một số mơ hình nghiên cứu kỹ thuật về trồng
rừng ngập mặn nhưng chưa gắn liền với yếu tố kinh tế xã hội cho các vùng cụ thể.
Vì vậy khả năng áp dụng và hiệu quả kinh tế như thế nào còn chưa rõ.
Để khắc phục một trong những tồn tại trên, tôi chọn địa điểm nghiên cứu là
VQG Xuân Thủy- Nam Định. Đây là rừng ngập mặn ở Việt Nam được quốc tế công
nhận là RNM thứ 50 của Công ước Ramsar về các vùng đất ngập nước trên thế giới.


2


Đây là HST cửa sông ven biển rất quan trọng cả về mặt sinh thái và kinh tế- xã hội.
Khu Ramsar Xuân Thủy được các nhà khoa học đánh giá là nơi có sự đa dạng sinh
học phong phú.
Được thiên nhiên ban tặng nguồn lợi thủy sản trù phú nhưng Xn Thủy cũng
khơng tránh khỏi tình trạng bị người dân xâm nhập và khai thác quá mức. Việc khai
thác tài nguyên đang diễn ra rất gay gắt, làm mất đi cân bằng sinh thái vốn rất mong
manh ở khu Ramsar Xn Thủy.
Ngồi ra, do cơng việc quản lý và sử dụng chưa hợp lý nên diện tích và chất
lượng của hệ sinh thái RNM trong thời gian qua đã bị suy giảm trầm trọng.
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, đó là xu thế quản lý, bảo tồn và phát triển bền
vững các vùng đất ngập nước. Vì thế, tơi thực hiện đề tài luận văn cao học “Bước
đầu tiếp cận một số nguyên tắc trong quản lý hệ sinh thái rừng ngập mặn tại
Vườn quốc gia Xuân Thủy- Nam Định”


3

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Nghiên cứu về chức năng dịch vụ của HST RNM
1.1.1. Trên thế giới
Việc nghiên cứu chức năng du lịch và giá trị sinh thái để lượng giá trị kinh tế
cho RNM còn đang gây ra nhiều tranh cãi và còn là một chủ đề mới để nghiên cứu.
Tuy nhiên đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về đánh giá giá trị kinh tế HST đất
ngập nước như ở Anh, Mỹ, Malaysia, Philippin, Australia, Thụy Điển, Argentina.
Brawn (1980) và cộng sự, đã sử dụng cơng nghệ GIS dự tính lượng carbon
trung bình trong rừng nhiệt đới Châu Á là 144 tấn carbon/ha trong phần sinh khối và
148 tấn/ha trong lớp đất mặt với độ sâu 1m, tương đương với 42- 43 tỷ tấn carbon
trong toàn châu lục. Tuy nhiên lượng carbon biến động rất lớn giữa các vùng và các

kiểu thực bì khác nhau. Thông thường lượng Carbon trong sinh khối biến động từ
50 tấn/ha đến 360 tấn/ha, phần lớn ở các kiểu rừng là 100 đến 200 tấn/ha.
Christensen (1982), khi ước tính giá trị của bảo vệ và ổn định vùng bờ biển
RNM đã đưa ra con số khoảng 16 USD/ha.
Dựa trên những chi phí thiệt hại có thể tránh Ruitenbeok (1992), đã tìm ra giá trị
240 USD/ha cho 304.000 ha RNM ở vịnh Bintuni của Indonexia.
WWF (1994), đã tiến hành nghiên cứu vùng RNM tại Costa Rica. Nghiên cứu
đã sử dụng lượng giá kinh tế HST RNM làm công cụ xây dựng chính sách khơi
phục và bảo tồn HST RNM trước những ép ngày càng gia tăng từ phát triển kinh tế,
mà đặc biệt là xu hướng chuyển đổi mục đích sử dụng đất RNM sang nuôi tôm và
các loại thủy sản khác. Việc lượng giá kinh tế HST RNM đã dựa trên cách tiếp cận
tổng giá trị kinh tế (TEV). Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra giá trị sử dụng trực tiếp từ
việc đánh bắt các tài nguyên RNM.
Sathirathai và Babier (2001), khi lượng giá kinh tế RNM miền Nam Thái Lan
đã kết luận: Các giá trị có thể dao động từ 1.018 - 1.468 USD/ha nếu chỉ xét mối
liên hệ với nguồn lợi và giá trị của nguồn tài nguyên khác từ hệ. Nghiên cứu cũng
cho thấy nếu xem xét về giá trị bảo vệ đường bờ trong phân tích thì con số này sẽ


4

tăng lên 27.264 - 35.291 USD/ha.
1.1.2. Nghiên cứu ở Việt Nam
Hiện nay những giá trị trực tiếp của RNM đối với nền kinh tế Việt Nam chủ yếu
là củi và than, sau đó là gỗ. Tại miền Bắc Việt Nam, RNM sinh trưởng xấu hơn ở
miền Nam rõ rệt, cây ngập măn ở trong rừng thường không quá 10m nên giá trị trực
tiếp của RNM chủ yếu vẫn là củi, với năng suất không cao.
Mazda và cộng sự (1997), tiến hành nghiên cứu về tác dụng giảm sóng của
RNM thực hiện tại vùng RNM mới trồng của tỉnh Thái Bình, với các loài cây chủ
yếu là cây Trang (Kendelia candel). Kết quả cho thấy RNM góp phần làm giảm

đáng kể áp lực của sóng biển tác động vào đê biển.
Nghiên cứu RNM Cần Giờ ở thành phố Hồ Chí Minh đã áp dụng phương pháp
tổng giá trị kinh tế RNM được đánh giá dựa trên những số liệu thu thập được trên
thực địa. Kết quả cho thấy tổng giá trị kinh tế nguồn lợi RNM về lợi ích sử dụng
trực tiếp, các giá trị gián tiếp hầu như chưa lượng giá được.
Nguyễn Hồng Trí và cộng sự (2002), đã tiến hành xây dựng khung phân tích để lượng
giá tổng hợp giá trị kinh tế của HST RNM Cần Giờ Thành phố Hồ Chí Minh nhằm làm rõ
giá trị của khu dự trữ sinh quyển đối với lợi ích của cộng đồng địa phương.

RNM cịn có tác dụng làm giảm đáng kể tác hại của gió bão lớn và sóng thần.
Theo kết quả nghiên cứu của Viện Khoa Học Lâm Nghiệp. Năm 1981 khi diện tích
rừng ngập mặn cịn ít và rừng mới trồng, cây cịn nhỏ, ảnh hưởng của gió bão, sóng
thần đã tàn phá 70% nhà cửa của cư dân vùng ven biển Cần Giờ, ước tính thiệt hại
lên tới khoảng 10 tỷ đồng. Đến năm 1997 khi diện tích rừng trồng lên tới 28.000 ha
và rừng đã lớn thì mức độ thiệt hại về nhà cửa do các trận bão, gió mạnh và sóng
thần chỉ bằng 30% mức thiệt hại của năm 1981, mức thiệt hại chỉ còn 3 tỷ đồng.
Năm 2003, Bộ Tài Nguyên và Môi Trường- Cục Bảo vệ Môi trường đã cho xuất
bản cuốn sách Lượng giá kinh tế đất ngập nước nhằm hướng dẫn cho những nhà lập
kế hoạch và đề ra chính sách. Cuốn sách do ban thư ký Công ước Ramsar biên soạn,
đã đưa ra được những nội dung và phương pháp cơ bản của việc nghiên cứu lượng
giá kinh tế đất ngập nước. Cuốn sách này chứa nhiều thông tin hữu ích, nhiều kỹ


5

thuật lượng giá kinh tế có sẵn được dùng để lượng giá các vùng đất ngập nước. Sách
đã nêu lên tầm quan trọng của việc cân đối giữa lợi ích có được nhờ phát triển với
những thiệt hại mà quá trình phát triển có thể gây ra cho vùng đất ngập nước.
Lượng giá kinh tế một số vùng đất ngập nước điển hình ven biển Việt Nam kết
quả cho thấy vùng bãi triều Tây Nam Cà Mau đạt giá trị cao nhất với tổng giá trị

kinh tế là 4.593,91 USD/ha. Theo số liệu của khu Ramsar- VQG Xuân Thủy thì
tổng giá trị khai thác lồi ngao năm 2004 ước tính đạt từ 7- 10 triệu USD, điều đó
đã góp phần rất quan trọng vào sự phat triển của đời sống người dân vùng ven biển.
1.1.3. Khoa học đánh giá HST
Các loại RNM cung cấp nhiều loại dịch vụ đa dạng cho cộng đồng địa phương
vùng ven biển, trong số đó bao gồm cả các chức năng khác. Đánh giá HST thiên
niên kỷ The Millennium Ecosytem Assessement (2005), định nghĩa 4 loại dịch vụ
HST như sau:
+ Dịch vụ cung cấp: Sinh kế và nghề cá thương mại, nuôi trồng hải sản, mật
ong, củi đun, vật liệu xây dựng…
+ Dịch vụ điều hòa: Bảo vệ bãi triều và khu vực ven biển khỏi gió, bão, sóng
thần và ngập lụt. Giảm hiện tượng xói lở đất và bãi triều, ổn định đất bằng cách giữ
trầm tích. Điều hịa khí hậu, duy trì chất lượng nước.
+ Dịch vụ văn hóa: Ví dụ như du lịch giải trí, tín ngưỡng tinh thần.
+ Dịch vụ trợ giúp: Đảm bảo chu trình dinh dưỡng HST.
Mặc dù các giá trị định tính của hàng hóa và dịch vụ này đã được biết đến rộng
rãi nhưng giá trị định lượng và kinh tế lại ít được biết đến. Chúng ta đều nhận ra giá
trị của RNM xét về chức năng bảo vệ đường bờ của chúng, nhưng khi xét trên
phương diện giá trị kinh tế của chức năng này, tính tốn lượng giản thiểu trên hạn
chế mất mát hoặc thiệt hại đối với tài sản về mặt nguồn lợi do các hoạt động kinh tế
bị đình trệ do thiệt hại về con người, cơ hội sinh kế thì lại rất khó có thể ước lượng
giá trị tiền mặt.
Nhằm tránh việc đánh giá không đúng chức năng dịch vụ của HST RNM chúng
ta cần phải nhìn vào tổng giá trị của tất cả các lợi ích của nó. Do đó cần xem xét:


6

+ Giá trị trực tiếp: Bao gồm các nguyên liệu thô trên sản phẩm tự nhiên được sử
dụng trực tiếp để sản xuất và tiêu thụ.

+ Giá trị gián tiếp: Duy trì và bảo vệ các hệ tự nhiên và nhân tạo thông qua các
dịch vụ như bảo vệ đường bờ, hạn chế ngập lụt, cố định Nitơ.
+ Giá trị lựa chọn: Duy trì nguồn tài nguyên gen cho các hệ tương lai.
+ Giá trị tồn tại: Ví dụ như các giá trị văn hóa, thẩm mỹ.
1.2. Một số vấn đề về quản lý rừng
1.2.1. Khái quát về quản lý hệ sinh thái rừng
Quản lý chính là do cá nhân hay 1 tổ chức, thông qua tiến hành hoạt động qui
hoạch, tổ chức, chỉ huy, khống chế đối với một đối tượng trong 1 phạm vi nhất định
để đạt được mục đích nhất định.
Do vậy cần làm rõ:
-

Chủ thể quản lý: là cá nhân hay tổ chức

-

Đối tượng quản lý: Q trình hoạt động trong phạm vi nào đó.

-

Chức năng của quản lý : là kế hoạch công việc hay tổ chức, chỉ huy, điều tiết,
khống chế…Trong QLHST chủ yếu là điều tiết khống chế và thông qua phản
hồi lại để ưu hoá kết cấu và chức năng HST

-

HST là hệ thống phức tạp TN- KT-XH, vì thế đối với việc quản lý và điều
khống nó tat nhiên phải tuần theo nguyên lý sinh thái học, đồng thời phải
điều tiết và khống chế qui luật KT-XH.
Rất nhiều cá nhân và tổ chức đều đã đưa ra định nghĩa về quản lý hệ sinh thái.


Trong định nghĩa về quản lý hệ sinh thái, có 2 điểm giống nhau, "quản lý nên duy trì
nâng cao chức năng và kết cấu của hệ sinh thái, hệ sinh thái nên cung cấp phục vụ
và sản phẩm đối với con người hiện tại và sau này". Định nghĩa quản lý hệ sinh thái
có như sau:
"Quản lý hệ sinh thái là từng bước điều khống kết cấu và chức năng hệ sinh
thái, đầu ra, đầu vào, đồng thời đạt được những điều kiện mong đợi của xã hội
"(Agee et al., 1987).
Ở mức độ cảnh quan, chức năng và giá trị của rừng, "QLHST là hệ thống giá


7

trị có thể duy trì, bao gồm tất cả những gì có trong mức độ cảnh quan có nội dung
quan trọng" (Hội công tác Lâm Nghiệp Mỹ, 1993).
Đối với sách lược hay kế hoạch tương phản quản lý một loài vật hay sinh vật:
"quản lý hệ sinh thái là tất cả những kế hoạch hay sách lược của mối quan hệ tương
hỗ của các sinh vật trong quản lý hệ sinh thái" (Quản lý hệ sinh thái rừng, 1993).
“Quản lý hệ sinh thái là ở xã hội, sinh vật và kinh tế có thể chấp nhận phạm
vi nguy hiểm, duy trì hay nâng cao sức sản xuất và sức khoẻ của hệ sinh thái, đồng
thời là một loại quản lý sản xuất sản phẩm đem lại rất nhiều giá trị khác đáp ứng
kỳ
vọng và nhu cầu cuả loài người" (Hội nghị tài nguyên rừng, Mỹ, 1993).
“Quản lý hệ sinh thái là liên quan sinh thái của khoa học thực tế tổng hợp
đến phức tạp của chính trị, xã hội và trong khung giá trị, thực hiện mục tiêu quản lý
bảo vệ dài hạn có tính tổng thể của hệ sinh thái tự nhiên” (Grumbine, 1994).
"Quản lý Hệ sinh thái là một khái niệm lý luận, con đường dẫn đến mỹ học cho
xã hội và tự nhiên, trong duy trì sức khoẻ, duy trì một loại xã hội linh hoạt phù hợp,
quá trình động thái sinh thái" (Cernett, 1994).
"Quản lý hệ sinh thái là cơ sở để chúng ta duy trì chức năng và kết cấu hệ sinh

thái, mối liên quan sinh thái và quá trình nhận thức sâu sác, trên cơ sở nghiên cứu
và lĩnh hội, đưa ra một sách lược đúng để thực hiện mục tiêu đúng đắn"
(Christensen et al., 1996).
"QLHST là 1 loại phương pháp QLTNTN, nhằm duy trì và khơi phục tính bền
vững của HST, khiến cho HST có thể duy trì được năng lực ổn định (CBST) và
phương thức hiệp đồng với môi trờng cùng phát triển và tiến hoá. khiến cho người
đương thời và thế hệ mai sau luôn thu lợi" (Unger (1994)).
Theo TC QL đất đai ở Mỹ: "QLHST là 1 quá trình tham chiếu tồn diện nội tại
mơi trờng, nó u cầu phải vận dụng nguyên lý sinh thái học, nguyên lý xã hội học
và nguyên lý quản lý học để QLHST nhằm bảo tồn hoặc duy trì trạng thái, lợi dụng,
tăng sản phẩm, giá trị và dịch vụ lý tưởng trường kỳ và hồn chỉnh của HST"
(USDOIBLM, 1993).
Cục bảo vệ mơi trường Mỹ cho rằng: "Vào thời gian phát triển kinh tế và xã hội


8

theo hướng ổn định bền vững thì khơi phục và duy trì sức khoẻ, tính đa dạng sinh
vật và tính ổn định HST chính là QLHST" (Lackey, 1995).
Trong giới học thuật cho rằng: "QLHST liên quan với kết cấu và chức năng
trong nội bộ HST, tiến hành điều tiết khống chế đầu vào - đầu ra, từ đó đạt đến
trạng thái lý tưởng của xã hội" (Johnson và Agee,1988 ).
Từ những định nghĩa trên có thể thấy, quản lý hệ sinh thái là cơ sở tổ thành hệ
sinh thái, giải thích tối ưu về tổ thành, kết cấu và các q trình chức năng của
HST, ở thời gian khơng gian nhất định trong phạm vi tiêu chuẩn để giá trị con
người và điều kiện kinh tế xã hội tổng hợp lại với nhau, để hồi phục và duy trì tính
tổng thể hệ sinh thái và tính chất có thể duy trì. Quản lý hệ sinh thái là những yêu
cầu của xã hội với quá trình sinh thái, cân băng kinh tế, trong đó q trình sinh thái
bao gồm tính đa dạng sinh vật, thành phần tuần hoàn dinh dưỡng, tuần hồn nước,
diễn thế với qy nhiễu, biến hố đặc tính đất, động thực vật hoang giã, lục sản xuất

thủ sản. Yêu cầu xã hội bao gồm tinh thần, mỹ học, giáo dục, nhàn rỗi, chất lương
khơng khí và nước, du lịch, giảm bớt tác hại. Yêu câu kinh tế có Nghành du lịch,
chăn thả, sản xuất gỗ, săn bắt, khai thác khống sản, nơng nghiệp.
Ngun tắc quản lý hệ sinh thái
+ Nhóm ngun tắc mang tính chỉ đạo:

1. Xác định đối tượng và mục tiêu quản lý.
2. Xác định đơn vị và giới hạn quản lý.
3. Xác định kế hoạch quản lý và thực thi.
4. Xác nhận chính sách, pháp luật và pháp qui ảnh hưởng trực tiếp đến
hoạt động quản lý.
5. Lựa chọn và lợi dụng công cụ và kỹ thuật quản lý HST.
+ Nhóm ngun tắc mang tính thao tác:
6. Thu thập, phân tích và chỉnh lý nguồn tài liệu về kinh tế, xã hội, sinh
thái và thông tin.
7. Nhận thức rõ về tính hạn chế hay những thiếu khuyết về mặt STH.
8. Quản lý sử dụng “Tham và Thức”.


9

9. Xúc tiến quản lý tính thích ứng với sinh thái, xã hội, chính sách và
bảo vệ mơi trường kinh tế.
10. Quản lý HST là Quản lý 1 đơn nguyên đặc định, (mục tiêu, đối sách
và nguyên tắc cơ bản của cơ cấu quản lý khác nhau mà phát sinh biến đổi).
1.2.2. Phương pháp tiếp cận hệ sinh thái
Theo quan điểm của CBD, phương pháp tiếp cận hệ sinh thái được định nghĩa
là: “một chiến lược quản lý đất, nước và nguồn tài nguyên sinh vật nhằm thúc đẩy
việc bảo tồn và sử dụng những nguồn tài nguyên đó một cách bền vững, hợp lý”
Phương pháp này đặt con người và các phương thức sử dụng nguồn tài nguyên

là trọng tâm của khuôn khổ ra quyết định, gồm 4 điểm nổi bật như sau: (1) Được
xây dựng để cân đối ba mục tiêu là bảo tồn, sử dụng bền vững và chia sẻ lợi ích một
cách cơng bằng nguồn tài nguyên, (2) Đặt con người vào vị trí trọng tâm của vấn đề
quản lý, (3) Mở rộng quản lý vượt ra ngoài khu vực bảo vệ, (4) Đáp ứng được các
mối quan tâm của các ban, ngành ở phạm vi rộng nhất.
1.2.3. Khái quát những vấn đề về QLRBV trên thế giới
Đối với các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là ở các nước có nên cơng nghiệp và
kinh tế sớm phát triển (Anh, Đức, Pháp, Nhật Bản, Hà Lan…) vấn đề quản lý tài
nguyên rừng luôn được xem như nhân tố đóng vai trị quan trọng trong việc đảm
bảo an ninh về môi trường cho sự phát triển ổn định của mỗi quốc gia. Do vậy, các
chính sách liên quan đến sự phát triển của nguồn tài nguyên rừng thường gắn chặt
với lợi ích và nhu cầu của cộng đồng dân cư sống dựa vào rừng. Người dân luôn
được xem như là yếu tố trung tâm của quá trình phát triển tài nguyên rừng.
Trong những năm gần đây, tại một số quốc gia: Indônêxia, Philippin, Nepan,
Bangladesh, Zimbabwe, Panama, Canada…thường xuyên xảy ra các cuộc biểu tình
của cộng đồng dân cư và các tổ chức mơi trường địi Chính phủ cũng như các ngành
công nghiệp khác phải chấm dứt khai thác nguồn tài nguyên rừng của họ. Bảo vệ,
phát triển bền vững nguồn tài nguyên rừng chính là đảm bảo an tồn và duy trì cuộc
sống lâu dài, ổn định cho cộng đồng dân cư trên toàn thế giới.
Trên thế giới, lịch sử quản lý rừng được bắt đầu tại các quốc gia ở Châu Âu.


10

Đầu thế kỷ 18, các nhà lâm học Đức G.L. Hartig, Heyer đã đề xuất nguyên tắc lợi
dụng lâu bền đối với rừng thuần loại đồng tuổi. Cũng vào thời điểm đó các nhà lâm
nghiệp Pháp (Gournad, 1922) và Thụy Sĩ (H. Boioley) cũng đã đề ra phương pháp
kiểm tra điều chỉnh sản lượng đối với rừng khác tuổi khai thác chọn. Trong thời kỳ
này, hệ thống quản lý rừng phần lớn vẫn dựa trên các mơ hình quản lý quốc gia từ
trung ương (rừng được quản lý chủ yếu bởi các doanh nghiệp của nhà nước), quản

lý mang tính chất tập trung. Diện tích đất rừng do nhà nước quản lý chiếm từ 2575% tổng diện tích đất đai của nhiều quốc gia.
Từ giữa thế kỷ 20 trở lại đây, khi tài nguyên rừng ở nhiều quốc gia đã bị giảm
sút một cách nghiêm trọng ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường sinh thái và cuộc
sống của người dân miền núi thì phương thức quản lý rừng tập trung như trước đây
đã trở lên khơng thích hợp. Chính phủ ở một số quốc gia đã tìm mọi cách cứu vãn
tình trạng suy thối rừng thơng qua việc ban hành một số chính sách nhằm động
viên và thu hút người dân tham gia quản lý và sử dụng tài nguyên rừng. Phương
thức quản lý rừng cộng đồng (hay lâm nghiệp cộng đồng) xuất hiện đầu tiên ở Ấn
Độ và dần dần biến thái thành các hình thức quản lý khác nhau như: Nông lâm kết
hợp, trang trại, lâm nghiệp xã hội (Nepan, Thái Lan, Philippin,…). Hiện nay, ở các
nước đang phát triển, khi sản xuất nơng lâm nghiệp cịn chiếm vị trí quan trọng đối
với người dân nơng thơn miền núi, thì quản lý rừng theo phương thức phát triển lâm
nghiệp xã hội sẽ là một hình thức mang tính bền vững nhất cả về phương diện kinh
tế, xã hội lẫn môi trường sinh thái.
Năm 1967- 1969 tổ chức FAO đã quan tâm đến phát triển NLKH và đi đến
thống nhất: áp dụng biện pháp NLKH là phương thức tốt nhất để sử dụng đất rừng
nhiệt đới một cách hợp lý, tổng hợp và nhằm giải quyết vấn đề lương thực, thực
phẩm và sử dụng lao động dư thừa đồng thời thiết lập cân bằng sinh thái. Cũng theo
báo cáo của FAO, mỗi năm trung bình rừng nhiệt đới của thế giới mất đi khoảng 15
triệu ha thì chỉ hơn 100 năm nữa rừng nhiệt đới sẽ hoàn toàn bị biến mất, lồi người
sẽ phải chịu những thảm họa khơn lường về kinh tế, xã hội và môi trường [4].
Để ngăn chặn tình trạng mất rừng, bảo vệ và phát triển vốn rừng trên phạm vi


11

toàn thế giới, cộng đồng Quốc tế đã tổ chức nhiều hội nghị, thành lập nhiều tổ chức,
đề xuất và cam kết nhiều công ước bảo vệ và phát triển rừng như: Chiến lược bảo
tồn quốc tế (1980 và điều chỉnh năm 1991), Thành lập tổ chức gỗ nhiệt đới quốc tế
(ITTO năm 1983), xây dựng chương trình hành động rừng nhiệt đới (TFAP năm

1985) của tổ chức nông lương FAO, Hội nghị Quốc tế về môi trường và phát triển
(UNCED tại Rio de Janeiro năm 1992, Công ước về bn bán các lồi động thực
vật q hiếm (CITES), Cơng ước về đa dạng sinh học (CBD, 1992), Công ước về
thay đổi khí hậu tồn cầu (CGCC, 1994), Cơng ước về chống sa mạc hóa (CCD,
1996), Hiệp định quốc tế về gỗ nhiệt đới (ITTA, 1997). Những năm gần đây nhiều
hội nghị, hội thảo quốc tế và quốc gia về quản lý rừng bền vững đã liên tục được tổ
chức. Tại Hội nghị thượng đỉnh về môi trường năm 2007 họp ở đảo Bali
(Inđônexia), một lần nữa đã khẳng định bảo vệ môi trường và đặc biệt là bảo vệ,
duy trì nguồn tài nguyên rừng là trách nhiệm chung của mọi quốc gia trên thế giới.
Tổ chức gỗ Quốc tế ITTO là tổ chức đầu tiên đáp ứng vấn đề quản lý bền vững
rừng nhiệt đới, tổ chức này đã biên soạn “Hướng dẫn quản lý rừng tự nhiên nhiệt
đới” (ITTO, 1990), “Tiêu chí đánh giá quản lý bền vững rừng tự nhiên nhiệt đới”
(ITTO, 1992), “Hướng dẫn thiết lập hệ thống quản lý bền vững các khu rừng trồng
trong rừng nhiệt đới” (ITTO, 1993) và “Hướng dẫn bảo tồn đa dạng sinh học của
rừng sản xuất trong vùng nhiệt đới” (ITTO, 1993). Tổ chức này đã xây dựng chiến
lược quản lý bền vững rừng nhiệt đới buôn bán lâm sản nhiệt đới cho năm 2000.
Hai động lực thúc đẩy sự hình thành hệ thống quản lý rừng bền vững là xuất phát từ
các nước sản xuất sản phẩm gỗ nhiệt đới mong muốn tái lập một lâm phận sản xuất
ổn định và khách hàng tiêu thụ sản phẩm gỗ nhiệt đới, mong muốn điều tiết việc
khai thác rừng để đáp ứng các chức năng sinh thái toàn cầu. Vấn đề đặt ra là phải
xây dựng những tổ chức đánh giá QLRBV. Trên quy mô quốc tế, hội đồng quản trị
rừng đã được thành lập để xét công nhận các tổ chức chứng chỉ rừng, nhằm đảm bảo
giá trị của các chứng chỉ. Với sự phát triển của quản lý rừng bền vững, Canada đã
đề nghị đặt vấn đề quản lý rừng bền vững trong hệ thống quản lý môi trường theo
tiêu chuẩn ISO 14001 [29].


12

Hiện nay, trên thế giới đã có các bộ tiêu chuẩn quản lý rừng bền vững cấp quốc

gia (Cacada, Thụy Điển, Malayxia, Inddooneexxia v.v) và caapsb quốc tế của tiến
trình Helsinki, tiến trình Montreal. Hội đồng quản trị rừng (FSC) và tổ chức gỗ
nhiệt đới đã có bộ tiêu chuẩn “Những tiêu chí và chỉ báo quản lý rừng (P&C) đã
được công nhận và áp dụng ở nhiều nước trên thế giới và các tổ chức cấp chứng chỉ
rừng đều dùng bộ tiêu chí này để đánh giá quản lý và công nhận chứng chỉ rừng.
Các nước trong khu vực Đông Nam Á đã họp hội nghị lần 18 tại Hà Nội tháng
9/1998 thỏa thuận về đề nghị của Malayxia xây dựng bộ tiêu chí và chỉ số vùng
ASEAN về QLRBV (viết tắt là C&I ASEAN). Thực chất C&I của ASEAN cũng
giống với C&I của ITTO, bao gồm 7 tiêu chí và cũng chia làm 2 cấp quản lý là cấp
quốc gia và cấp đơn vị quản lý [5]. Tuy nhiên, việc áp dụng vào từng quốc gia trong
vùng và từng địa phương trong một quốc gia còn gặp nhiều khó khăn, bởi vì các
tiêu chuẩn khơng hồn tồn phù hợp với từng địa phương trong vùng.
1.2.4. Khái quát những vấn đề về QLRBV ở Việt Nam
Theo kết quả kiểm kê đất đai đến ngày 01 tháng 01 năm 2005 của Chính phủ,
diện tích rừng tồn quốc là 12,28 triệu ha (độ che phủ rừng 36,7%) trong đó khoảng
10 triệu ha rừng tự nhiên và 2,28 triệu ha rừng trồng; được phân chia theo 3 loại
rừng như sau:
- Rừng đặc dụng: 1,9 triệu ha, chiếm 15,7%
- Rừng phòng hộ: 5,9 triệu ha, chiếm 47,0%
- Rừng sản xuất: 4,5 triệu ha, chiếm 36,6%
Với vốn rừng như trên, chỉ tiêu bình quân hiện nay ở nước ta là 0,15 ha
3

rừng/người và 9,16 m /người, thuộc loại thấp so với chỉ tiêu tương ứng của thế giới
3

là 0,97 ha/người và 75m /người [2].
Trong khoảng 50 năm qua, ở Việt Nam đã có tới 5 triệu ha rừng tự nhiên bị mất ,
ngoài các nguyên nhân làm mất rừng do sự gia tăng dân số, thiếu thốn về lượng
thực, phá rừng lấy đất canh tác, khai thác lâm sản quá mức...như hầu hết các nước

đang phát triển, thì 2 cuộc chiến tranh kéo dài cũng là nguyên nhân quan trọng làm
tăng sự giảm sút tài nguyên rừng. Một nguyên nhân khác là do công tác quản lý


13

rừng kém hiệu quả kéo dài trong nhiều năm làm cho diện tích rừng ngày càng suy
giảm, đất trống, đồi núi trọc ngày càng nhiều, chất lượng rừng giảm sút, nhiều lồi
động, thực vật q hiếm có nguy cơ tuyệt chủng...Đây cũng chính là một trong
những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến tình trạng biến đổi khí hậu của nước ta trong
thời gian vừa qua.
Công tác quản lý, sử dụng rừng của nước ta mới chỉ được chú trọng trong
khoảng 10 năm gần đây cùng với Quyết định số 661/QĐ- TTg, ngày 29 tháng 7 năm
1998 của Thủ tướng Chính phủ về mục tiêu, nhiệm vụ, chính sách và tổ chức thực
hiện dự án trồng mới 5 triệu ha rừng nhằm khôi phục lại hiện trạng tài nguyên rừng,
nâng độ che phủ tương đương với năm 1943 (43%). Tuy nhiên, theo tiến trình lịch
sử phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam, có thể chia cơng tác tổ chức quản lý sử
dụng tài nguyên rừng thành 4 thời kỳ như sau:
Thời kỳ trước năm 1945
Đây là thời kỳ đất nước ta đang trong thời kỳ Pháp thuộc. Trong thời kỳ này,
diện tích rừng lên tới 14,3 triệu ha, tài nguyên rừng còn phong phú với chủ yếu là
rừng tự nhiên. Mức độ tác động của con người vào tài nguyên rừng thấp nên tài
nguyên rừng còn khong phú và đa dạng.
Thời kỳ từ năm 1945- 1975
Đây là thời kỳ Nhà nước Xã hội chủ nghĩa Việt Nam được hình thành, tuy nhiên
đây cũng chính là thời kỳ 30 năm chiến tranh gian khổ của nhân dân Việt Nam.
Công tác quản lý, sử dụng rừng trong giai đoạn này bước đầu đã được chú trọng và
đạt được một số thành quả nhất định:
- Về tổ chức quản lý: Cấp quản lý Nhà nước trung ương có tổng cục lâm nghiệp
sau này là Bộ Lâm nghiệp là cơ quan chuyên ngành của Chính phủ. Đến năm 1973

có thêm Cục kiểm lâm là cơ quan thực thi luật pháp bảo vệ rừng. Ở cấp tỉnh có các
Cơng ty Lâm nghiệp là tiền thân của các Sở Lâm nghiệp sau này, là cơ quan quản lý
lâm nghiệp của tỉnh kiểm cả việc quản lý các doanh nghiệp lâm nghiệp. Ở cấp
huyện có các Hạt Lâm nghiệp trực thuộc UBND huyện, đồng thời là cơ quan ngành
dọc của các Sở Lâm nghiệp. Phần lớn diện tích rừng và đất rừng ở Miền Bắc được


14

giao cho các Lâm trường quốc doanh quản lý.
- Về tổ chức sử dụng rừng: Rừng được chia thành 3 chức năng để quản lý sử
dụng đó là rừng sản xuất, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng. Ở mỗi tỉnh, rừng và đất
rừng được chia thành các tiểu khu có diện tích trung bình là 1.000ha và đánh số từ 1
đến số cuối cùng trong phạm vi của tỉnh.
Thời kỳ từ năm 1976- 1990
Trong thời kỳ này một phần lớn diện tích rừng tự nhiên được đưa vào khai thác
phục vụ xuất khẩu để phát triển kinh tế cùng với sự gia tăng nhanh chóng của dân số
là nguyên nhân cơ bản gây nên tình trạng suy thối tài ngun rừng nhanh chóng.
Đến năm 1990 rừng nước ta chỉ cịn 9,18 triệu ha, độ che phủ rừng 27,2% (thời kỳ
1980- 1990, bình quân mỗi năm hơn 100 nghìn ha rừng đã bị mất) [2].
Thời kỳ từ năm 1991 đến nay
Năm 1991 Luật Bảo vệ và Phát triển rừng được Nhà nước ban hành lần đầu tiên
trong lịch sử (sửa đổi bổ sung năm 2004) [28] là cái mốc đánh dấu sự phát triển
cũng như ghi nhận tầm quan trọng của ngành lâm nghiệp đối với nền kinh tế quốc
dân. Đây cũng đồng thời là căn cứ pháp lý quan trọng để hoạch định các chính sách,
định hướng phát triển nguồn tài nguyên rừng của nước ta.
Vấn đề đặt ra là quản lý rừng như thế nào? Để quản lý rừng bền vững cần phải
thoả mãn những điều kiện gì ? Trong các giải pháp quản lý, giải pháp nào sẽ tác
động tích cực đến quản lý tài nguyên rừng bền vững trên địa bàn nghiên cứu? Đây
chính là những câu hỏi nghiên cứu mà đề tài cần giải quyết, trên cơ sở nghiên cứu

hiện trạng quản lý hệ sinh thái rừng ngập mặn tại Vườn quốc gia Xuân Thủy- Nam
Định, để từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm quản lý HSTR bền vững.
1.3. Một số nghiên cứu khoa học liên quan đến đề tài
Từ năm 1928 Watson đã lập ra một bảng phân loại thủy văn liên quan đến sự
phân vùng của các loài cây ngập mặn ở phía Tây Malayxia, cho đến nay nhiều nhà
khoa học vẫn sử dụng để nghiên cứu sự phân bố các loài thuộc các khu vực khác
nhau trên thế giới (Snedaker và Lugo, 1973; Chapman, 1977; Santisuk, 1983;
Aksornkoae, 1986). Dựa trên một số kết quả thí nghiệm cũng như quan sát thực địa,


15

một số tác giả cho rằng rừng ngập mặn cũng cũng phát triển ở cả những vùng khơng
có nước triều (Stodart và cộng sự, 1973).
Ở Tây Bengal, chương trình các Ban Bảo vệ rừng thôn bản (VPC) đã thực
hiện thành cơng ở các khu vực có nhiều rừng Sal, tái sinh nhanh và sản xuất nhanh
các lâm sản ngoài gỗ hơn là những nơi mà sự thu hoạch sản phẩm phải tập trung
vào các rừng trồng. Ngoài ra việc quản lý nguồn tài nguyên có khả năng mang lại
hiệu quả cao hơn nếu tài nguyên gần với nhóm sử dụng và có thể được giám sát dễ
dàng. Một yếu tố khác nữa là hệ thống quản lý tài nguyên phải dễ dàng áp dụng bởi
các nhóm sử dụng (dẫn theo Hồng Hữu Cải, 2006).
Lê Thanh Bình (2003) đã nêu ra được sự đa dạng, phong phú của các loài động
thực vật vùng đất ngập mặn và nguy cơ suy giảm các loài động, thực vật này do các
hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư của người dân trong vùng từ đó đưa ra giải pháp
để phát triển bền vững hệ sinh thái đất ngập mặn có sự tham gia của cộng đồng dân
cư trong vùng [1].
Mazda và cộng sự (1997), tiến hành nghiên cứu về tác dụng giảm sóng của rừng
ngập mặn đã được thực hiện tại vùng RNM mới trồng của tỉnh Thái Bình, với các
lồi cây chủ yếu là cây trang (Kendelia candel). Kết quả cho thấy, RNM góp phần
làm giảm đáng kể áp lực của sóng biển trước khi tác động vào đê biển [33]…

Hiện nay, ở Việt Nam vấn đề QLR đã được chú ý từ lâu nhưng việc QLRBV và
Chứng chỉ rừng vẫn còn là những nội dung mới mẻ, chưa được nhiều người quan
tâm cũng như chưa được nghiên cứu chuyên sâu trên phạm vi lãnh thổ, chưa có một
giải pháp hiệu quả nào cho vấn đề quản lý, phát triển rừng bền vững. Một số đề tài,
cơng trình kho học liên quan đến quản lý rừng đã được triển khai, đó là:
- Cơng trình "Sử dụng đất tổng hợp bền vững" của Nguyễn Xn Qt năm
1996, cơng trình đã đưa ra các mơ hình về sử dụng đất bền vững, mơ hình về
khoanh nuôi, phục hồi rừng hiệu quả ở Việt Nam.
- Công trình "Đánh giá hiện trạng quản lý rừng và đất rừng làm cơ sở đề xuất sử
dụng tài nguyên rừng bền vững ở Đăk Lăk" của T.S Bảo Huy (1998), trên cơ sở
phân tích hiện trạng, đánh giá tiềm năng, giá trị tài nguyên rừng, tác giả đã đề xuất


16

giải pháp quản lý, sử dụng tài nguyên rừng, đất rừng theo hướng bền vững.
- Một số đề tài nghiên cứu đã bước đầu đề xuất các giải pháp cụ thể áp dụng
cho một số vùng như quản lý sử dụng tài nguyên rừng bền vững lưu vực sông Sê
San của Phạm Đức Lân và Lê Huy Cường [21]; quản lý bền vững rừng Khộp ở Ea
Súp- Đăk Lăk của Hồ Viết Sắc [25]; du canh với vấn đề quản lý rừng bền vững ở
Việt Nam của Đỗ Đình Sâm [26].
Theo Vũ Tiến Hinh, Phạm Văn Điển (2004), thực chất của khoanh nuôi phục
hồi rừng là phục hồi chức năng của hệ sinh thái rừng theo chiều hướng diễn thế đi
lên, mà trước mắt là phục hồi lại những thành phần cơ bản của lớp thảm thực vật
rừng như đã từng xuất hiện trước đây trong thiên nhiên. Bất kỳ một biện pháp kỹ
thuật tác động nào làm cho giá trị lâm sản của rừng tăng lên, cấu trúc rừng trở nên
tối ưu, tái sinh rừng được thúc đẩy, khả năng bảo vệ của rừng được nâng cao... đều
thuộc về phạm trù của phục hồi rừng. Theo hướng đi này đã có nhiều tác giả đi sâu
nghiên cứu xây dựng các mơ hình phục hồi rừng và đề xuất được các giải pháp quản
lý tài nguyên rừng bền vững, điển hình là các tác giả Phạm Xn Hồn (2002), Trần

Hữu Viên (2004), Vũ Tiến Hinh, Phạm Văn Điển (2004), Phùng Ngọc Lan (2004).
- Đề tài "Nghiên cứu các giải pháp phục hồi rừng bằng khoanh nuôi ở một số
tỉnh trung du, miền núi phía Bắc Việt Nam" của GS.TS. Vũ Tiến Hinh và cộng sự đã
đưa ra các giải pháp phục hồi, phát triển tài nguyên rừng một cách hiệu quả, bền
vững bằng con đường tự nhiên [6].
- Theo Nguyễn Xuân Quát, Phạm Ngọc Thường, Đặng Văn Thuyết (2004), quản
lý rừng cộng đồng là một trong những phương pháp quản lý rừng mang tính chất tổng
hợp và tồn diện trên cả phương diện bảo vệ gây trồng và chế biến, tiêu thụ sản phẩm
của rừng. Quan điểm này cũng chính là một giải pháp để quản lý rừng bền vững.
- Một số cơng trình khác của các tác giả: Phạm Xuân Hoàn (2002), Trần Hữu Viên
(2004), Phùng Ngọc Lan (2004), Lê Thị Diên (2002, 2003)...cũng đã đưa ra rất nhiều các
giải pháp phục hồi rừng và quản lý rừng dựa trên quan điểm quản lý rừng bền vững.

- Một số đề tài "Thạc sĩ khoa học Lâm nghiệp" của Trường Đại học Lâm nghiệp
trong những năm qua cũng dựa trên phân tích, đánh giá thực trạng cơng tác quản lý


17

rừng, các điều kiện, nguồn nhân lực sẵn có của địa phương để từ đó đề xuất các giải
pháp QLRBV. Các cơng trình này có tính thiết thực cao và đã mang lại những thành
công đáng kể cho công tác quản lý rừng bền vững ở nhiều địa phương.
Đến nay đã có những nghiên cứu bước đầu thử nghiệm nâng cao giá trị kinh tế và
phòng hộ của rừng bằng các giải pháp kỹ thuật khác nhau phù hợp với từng vùng sinh
thái- nhân văn ở Việt Nam. Đó là các nghiên cứu về "Mơ hình nhóm hộ sử dụng đất rẫy
cũ để trồng Quế" (Võ Hùng, 2004); "Mơ hình nhóm hộ sử dụng đất rừng nghèo được
giao để làm giàu rừng bằng trồng dặm cây gỗ lớn ở Tây Ngun" (Võ Hùng, 2004);
"Xây dựng mơ hình thử nghiệm phục hồi rừng đầu nguồn dựa vào cộng đồng tại xã
Phong Mỹ, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế" (Lê Thị Diên, 2005);...


Cơ sở lý luận chung về quản lý rừng bền vững cho đến hiện nay đã tương đối
đầy đủ và thống nhất. Tuy nhiên, về mặt thực tiễn, để áp dụng các giải pháp vào
từng địa phương, khu vực cụ thể cần phải có những điều chỉnh cũng như cần có
những nghiên cứu chuyên sâu để các giải pháp quản lý rừng bền vững thực sự đem
lại hiệu quả góp phần tích cực trong việc phát triển nguồn tài nguyên rừng cũng như
ổn định, phát triển kinh tế xã hội của mỗi địa phương.


18

CHƯƠNG 2
MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu chung của đề tài là góp phần nâng cao hiệu quả quản lý hệ sinh thái
rừng ngập mặn tại Vườn Quốc Gia Xuân Thủy- Nam Định.
Các mục tiêu cụ thể là:
- Đánh giá được hiện trạng QLHST tại VQG Xuân Thủy- Nam Định.
- Tiếp cận được các nguyên tắc QLHST cho Vườn Quốc Gia Xuân Thủy- Nam
Định.
- Đề xuất được một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả của việc QLHST
rừng ngập mặn.
2.2. Đối tượng và giới hạn nghiên cứu
2.2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hệ sinh thái rừng ngập mặn tại Vườn
Quốc Gia Xuân Thủy- Nam Định.
2.2.2. Giới hạn nghiên cứu
- Giới hạn về nội dung: Do thời gian có hạn nên tác giả chỉ giới hạn nghiên
cứu trong phạm vi sau:
Đối với điều tra mô tả kết cấu và chức năng phục vụ HST RNM tại XUÂN
THUỶ: Đề tài chủ yếu đánh giá về giá trị một số chức năng cơ bản mà HST RNM

đem lại (chưa đi sâu nghiên cứu về giá trị sinh thái), cùng với đó là mơ tả kết cấu
(chỉ xem xét về thành phần của HST, chủ yếu là thành phần hữu sinh) để có cái nhìn
khái qt về VQG Xuân Thủy.
- Giới hạn về không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu các phân khu trên
phương diện kế thừa tài liệu có bổ sung.
- Giới hạn về thời gian: Thời gian tiến hành trong 1 năm.
2.3. Nội dung nghiên cứu
Để đáp ứng mục tiêu đã đề ra, đề tài tập trung vào các nội dung sau đây:
* Mô tả kết cấu HST tại VQG XUÂN THUỶ


19

- Thành phần cơ bản trong HST RNM.
- Mô tả thành phần hữu sinh (thực vật, động vật...).
* Điều tra xác định chức năng phục vụ HST tại VQG XUÂN THUỶ
- Nghiên cứu đánh giá chức năng kinh tế của HST RNM.
- Đánh giá chức năng sinh thái của HST RNM.
- Đánh giá chức năng xã hội của HST RNM.
- Đánh giá giá trị phục vụ tổng hợp của HST RNM
* Hiện trạng QLHST tại VQG XUÂN THUỶ
- Điều tra hiện trạng QLHST RNM tại VQG XUÂN THUỶ
- Đánh giá tổng quát về công tác quản lý tại VQG Xuân Thủy
* Đề xuất một số giải pháp QLHST rừng ngập mặn tại XUÂN THUỶ
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Quan điểm, phương pháp luận nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu của đề tài dựa trên quan điểm Kinh tế- Sinh thái học,
coi nguồn tài nguyên rừng vừa là một bộ phận của hệ thống tự nhiên vừa là một bộ
phận của hệ thống kinh tế- xã hội và giữa chúng có mối quan hệ biện chứng chặt
chẽ, hay nói cách khác sự tồn tại và phát triển bền vững của nguồn tài nguyên rừng

không thể tách rời khỏi các yếu tố về điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội.
"Quản lý hệ sinh thái là từng bước điều khống kết cấu và chức năng hệ sinh
thái, đầu ra, đầu vào, đồng thời đạt được những điều kiện mong đợi của xã hội
"(Agee et al., 1987).
Quản lý hệ sinh thái là cơ sở để chúng ta duy trì chức năng và kết cấu hệ sinh thái, mối
liên quan sinh thái và quá trình nhận thức sâu sắc, trên cơ sở nghiên cứu và lĩnh hội, đưa ra
một sách lược đúng để thực hiện mục tiêu đúng đắn (Christensen et al., 1996).

Cơ sở để nghiên cứu hiện trạng quản lý HSTR, tôi chủ yếu dựa trên các nguyên
tắc (10 nguyên tắc) về quản lý HST (có vận dụng vào điều kiện thực tế) được đưa ra
dựa vào tài liệu Sinh thái học cao cấp của Điền Đại Luân chủ biên, 2006, NXB
Khoa học Trung Quốc.


20

Chính vì thế, nghiên cứu về quản lý HSTR là nghiên cứu về kết cấu, chức năng
và đánh giá mức độ quản lý HST, để từ đó đề xuất các giải pháp quản lý HSTR.

1. Mô tả kết cấu và xác định chức
năng dịch vụ HST RNM

Vận dụng 10
nguyên tắc quản lý
HST

2. Hiện trạng quản lý HST RNM
của VQG Xuân Thủy

3. Đề xuất một số giải pháp QLHST

cho VQG XUÂN THUỶ
Hình 2.1. Sơ đồ tổng quát tiến trình nghiên cứu


21

2.4.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
2.4.2.1. Phương pháp kế thừa
Kế thừa các tài liệu liên quan đến nội dung nghiên cứu của đề tài:
- Các văn bản chính sách pháp luật của nhà nước liên quan đến vấn đề nghiên cứu;

- Các tài liệu về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của khu vực;
- Các báo cáo hàng năm của huyện, tỉnh và Vườn Quốc Gia, chi cục kiểm lâm
về khu vực nghiên cứu, báo cáo về công tác trồng, quản lý, bảo vệ và phát triển
rừng nói riêng và quản lý hệ sinh thái Vườn Quốc Gia nói chung;
- Các tài liệu về vấn đề nghiên cứu, các dự án liên quan được thực hiện tại khu
nghiên cứu...
2.4.2.2. Phương pháp thu thập số liệu ngoài thực địa
Đi khảo sát sơ bộ VQG Xuân Thủy về môi trường tự nhiên, hệ sinh thái
rừng ngập mặn và quan sát dân sinh xung quanh để có cái nhìn tổng quát về điều
kiện tự nhiên- kinh tế- xã hội của VQG.
Làm việc với một số phòng ban chức năng của VQG Xuân Thủy để tìm hiểu
khái quát về sự biến đổi của các hệ sinh thái và cách thức quản lý ở VQG.
Sau khi khảo sát thực địa và lựa chọn được địa điểm, tiến hành các nội dung
nghiên cứu cụ thể.
2.4.2.3. Phương pháp điều tra xác định chức năng phục vụ HSTRNM tại VQG
XUÂN THUỶ
*

Nghiên cứu đánh giá chức năng phục vụ của HST RNM


Đánh giá giá trị sản phẩm:
Để lượng giá giá trị sản phẩm của HST RNM chủ yếu sử dụng phương pháp thu
thập thông tin, thừa kế số liệu có bổ sung.


22

Bảng 2.1. Chức năng phục vụ của HST RNM
Loại giá trị

Phương pháp lượng giá

1. Gỗ củi

Giá thị trường

2. Lâm sản ngồi gỗ

Giá thị trường

3. Du lịch

Chi phí du lịch

4. Đánh bắt và nuôi trồng

Nguồn số liệu và cách
tiếp cận
Số hiệu sinh khối tăng

trưởng khai thác
Số liệu khai thác
Thông tin về số lượng
và đặc trưng khác

Sản lượng thu được và giá

Số liệu thu thập

thủy sản

trị thị trường

5. Nguồn lợi tự nhiên

Giá thị trường

Số liệu thu thập

6. Chăn thả gia súc

Giá thị trường

Số liệu thu thập

- Giá trị trực tiếp: Là các giá trị có từ việc sử dụng trực tiếp các nguồn tài
nguyên của RNM (gỗ, củi, tôm, cua, cá, cây thuốc...),
- Giá trị gián tiếp: Được hiểu là các chức năng sinh thái, thủy văn, duy trì và bảo vệ
các quá trình, các hệ thống tự nhiên hay nhân tạo, chúng được tạo ra khơng có sự can
thiệp trực tiếp của con người trong hệ sinh thái RNM (như bảo vệ đê biển, nuôi trồng

thủy sản, nông nghiệp, bảo vệ các tài sản nhà cửa và cơ sở hạ tầng trong đất liền).

Để tính tốn các giá trị kinh tế gián tiếp này có rất nhiều phương pháp khác
nhau như chi phí thay thế, chi phí thiệt hại tránh được do có vùng RNM, chi phí
phịng ngừa, hay phương pháp thay đổi sản lượng. Giả sự lợi ich bảo tồn RNM có
thể được tính tốn thơng qua giá trị thiệt hại tăng thêm do khả năng phòng chống
thiên tai bị giảm sút trong trường hợp khơng có RNM, phần giá trị này cũng có thể
được xác định bằng cách so sánh vùng khác ít bị thiệt hại hơn do có RNM. Khi đất
đai, nhà cửa, đê biển, đường sá, bờ biển...bị xói lở, hư hỏng thì giá trị thiệt hại được
tính bằng chi phí để phục hồi chúng trở lại nguyên trạng ban đầu.
Chủ yếu kế thừa số liệu sẵn có của các nghiên cứu đã có và các tư liệu của VQG
lưu trữ.
2.4.2.4. Phương pháp đánh giá hiện trạng QLHSTRNM tại VQG XUÂN THUỶ


23

* Trên cơ sở các thông tin thu thập được từ các báo cáo thực hiện kế hoạch của
VQG Xuân Thủy trong giai đoạn 2004 đến 2020, tiến hành đánh giá có sự tham gia
của các bên liên quan, nhằm làm rõ các vấn đề:
Làm gì để bảo vệ: mục tiêu là thiết lập các phân khu chức năng, ranh giới và
quản lý phù hợp, thực hiện tổ chức bảo vệ giúp tăng cường năng lực tổ chức cho các
chức năng bảo vệ và thi hành luật pháp của VQG Xuân Thủy.
Xây dựng sự hỗ trợ cho bảo vệ : nhằm tuyên truyền nâng cao nhận thức về giá
trị ở các phân vùng và góp phần tạo nguồn thu nhập ngày càng cao cho cộng đồng.
Biện pháp bảo vệ: nhằm thiết lập và chuẩn bị các nguồn vật chất và nguồn lực
cho vùng được bảo vệ, các ảnh hưởng thách thức nhằm xác định các ảnh hưởng của
các chính sách và thách thức trong công tác quản lý HST tại VQG Xuân Thủy.
Để làm được điều này đề tài tập trung vào một số nội dung: Ranh giới hành
chính và diện tích, phân khu chức năng của Vườn quốc gia Xuân Thủy, du lịch sinh

thái và giáo dục môi trường, cơ cấu tổ chức và nguồn lực, hoạt động nghiên cứu
khoa học và đào tạo, hoạt động phục hồi sinh thái, Hoạt động tuyên truyền giáo dục.
2.4.2.5. Phương pháp đề xuất một số giải pháp QLHST rừng ngập mặn tại XUÂN
THUỶ Trên cơ sở nghiên cứu, tổng kết về kiến thức, kinh nghiệm từ việc nghiên
cứu tổng quan, đánh giá về những thuận lợi, khó khăn và thực trạng quản lý hệ sinh
thái tại khu vực nghiên cứu. Và vận dụng phương pháp tiếp cận một số nguyên tắc
trong QLHST (Ecosystem Management) để đề xuất được một số giải pháp góp phần
nâng cao hiệu quả của việc QLHST rừng ngập mặn.


24

CHƯƠNG 3
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN - KINH TẾ XÃ HỘI KHU VỰC NGHIÊN CỨU
3.1. Điều kiện tự nhiên khu vực nghiên cứu
3.1.1. Vị trí địa lý
VQG Xuân Thuỷ Thuỷ thuộc hữu ngạn sơng Hồng tại cửa Ba Lạt có tổng diện
tích tự nhiên là 7.100 ha, bao gồm Cồn Lu, Cồn Ngạn và Cồn Xanh, cách thành phố
Nam Định khoảng 40 km và cách Hà Nội 130km, có toạ độ địa lý:
0

0

Dài 5’ vĩ độ Bắc; từ 20 10’ B đến 20 15’B.
0

0

Rộng 12’ kinh độ đông; từ 106 20’Đ đến 106 32’Đ.
Phía Đơng Bắc giáp sơng Hồng.

Phía Tây Bắc giáp vùng dân cư 5 xã: Giao Thiện, Giao An, Giao Lạc, Giao
Xuân và xã Giao Hải, thuộc huyện Giao Thuỷ tỉnh Nam Định.
Phía Đơng Nam và Tây nam giáp biển Đơng.
3.1.2. Địa hình địa mạo
VQG Xn Thuỷ là bãi triều ngoài đê biển. Bãi triều bao gồm các cồn, lịng
sơng, lạch triều. Bãi triều được cấu tạo bởi trầm tích cửa sơng Hồng và biển Đơng
bao gồm cát, bùn và sét. Sự bồi đắp trầm tích phù sa theo không gian và thời gian
được quyết định bởi: lượng phù sa, động lực dịng chảy của sơng, động lực thuỷ
triều và tác động của con người (quai đê, trồng rừng, vng tơm...) đã tạo nên hình
thái địa mạo ngày nay. Nhìn chung địa hình thấp từ bắc xuống nam, từ đơng sang
tây. Độ cao trung bình từ 0,5 - 0,9m, đặc biệt cồn Lu có dải cát cao từ 1,2-1,5m.
Sự phân cắt bãi triều VQG bởi đê biển, sông Trà, lạch triều và hạ lưu sông
Vọp thành: Một phần Cồn Ngạn, Cồn Lu và Cồn Xanh.
- Cồn Ngạn: Do quai đê lấn biển đã phân chia một phần diện tích Cồn Ngạn
ngoài đê biển thuộc VQG Xuân Thuỷ. Cồn Ngạn thuộc VQG nằm giữa đê quai lấn
biển và sông Trà. Hầu hết diện tích phía bắc Cồn Ngạn đã được ngăn đắp thành
ô, thửa để nuôi bắt hải sản. Diện tích cịn lại tại bắc cửa sơng Trà là bãi lầy và đất
trồng. Từ bãi lầy đến cuối Cồn Ngạn là rừng ngập mặn sú và trang.
- Cồn Lu: Cồn Lu nằm giữa sông Trà và lạch triều chia cắt với Cồn Xanh.


×