Tải bản đầy đủ (.docx) (96 trang)

Luận văn thạc sĩ nghiên cứu kỹ thuật nhân giống bằng phương pháp giâm hom loài thông caribê (pinus caribaea morelet)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (13.87 MB, 96 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan, đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai cơng bố trong
bất kỳ cơng trình nghiên cứu nào khác.
Nếu nội dung nghiên cứu của tôi trùng lặp với bất kỳ cơng trình nghiên
cứu nào đã cơng bố, tơi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm và tuân thủ kết luận
đánh giá luận văn của hội đồng khoa học.
Hà Nội, ngày
tháng năm
2017
Người cam đoan
(Tác giả ký và ghi rõ họ
tên)


LỜI CẢM ƠN
Luận văn được hoàn thành tại trường đại học Lâm nghiệp Việt Nam
theo chương trình đào tạo thạc sỹ từ năm 2015 đến 2017. Trong quá trình
thực hiện luận văn, tôi đã nhận được sự quan tâm giúp đỡ của Ban Lãnh Viện
Nghiên cứu giống và công nghệ sinh học lâm nghiệp – Trung tâm thực
nghiệm và chuyển giao giống cây rừng đã tận tình hướng dẫn tạo mọi điều
kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong suốt thời gian thực hiện và hồn thành luận
văn.
Tơi xin bày tỏ lịng cảm ơn chân thành, sâu sắc đến TS. Phí Đăng Sơn
– Bộ môn Đất Trường Đại học Lâm nghiệp Việt Nam, TS. Nguyễn Đức Kiên
Phó viện trưởng Viện nghiên cứu giống và công nghệ sinh học lâm nghiệp đã
giúp đỡ tơi trong suốt q trình làm luận văn.
Tơi xin chân thành cảm ơn tới ThS. Cấn Thị Lan – giám đốc trung tâm
thực nghiệm và chuyển giao giống cây rừng và tồn bộ cán bộ cơng nhân
viên của trung tâm thực nghiệm và chuyển giao giống cây rừng đã tạo mọi
điều kiện thuận lợi ủng hộ và giúp đỡ tơi về mọi mặt trong suốt q trình học


tập và nghiên cứu
Tôi xin gửi tới các thầy, cô và các cán bộ trường đại học Lâm nghiệp
Việt Nam lời cảm ơn chân thành và sâu sắc, những người đã giảng dạy kiến
thức, truyền đạt kinh nghiệm và dành những điều kiện thuận lợi cho tơi hồn
thành luận văn.
Cuối cùng, tơi muốn gửi đến những người thân yêu trong gia đình, bạn
bè một tình cảm sâu nặng và lịng biết ơn sâu sắc, những người luôn ở bên
tôi, chia sẻ động viên, ủng hộ và dành mọi điều kiện cho tôi học tập, nghiên
cứu.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng năm 2017
HỌC VIÊN

Nguyễn Thị Thu Dung


STT

Viết tắt

1

PCH

2

PCB

3


PCC

4

NAA

5

ABT

6

IBA

7

ĐC

8

CTTN

9

CT


DANH MỤC CÁC HÌNH ẢNH
STT


Tên hình
2.1

Vườn vật liệu thơng caribê

2.2

Hom thông caribê

2.3

Vườn giống thông caribê

2.4

Hom thông caribê từ cây trưởng thà

2.5

Sơ đồ bố trí thí nghiệm giâm hom

2.6

Chất điều hịa sinh trưởng dạng dun

2.7

Xử lý hom giâm và giâm hom Thơn

2.8


Bố trí thí nghiệm giâm hom loại giá

2.9

Giá thể trong giâm hom lồi thơng

2.10

Đếm số rễ và đo chiều dài rễ dài nh

3.1

Hom Thông caribê sử lý chất điều
nhau

3.2

Cây hom Thông caribê từ loại hom

3.3

Ảnh hưởng của giá thể đến chất lượ

3.4

Cây hom có cây mẹ là cây trưởng t


DANH MỤC CÁC BẢNG

STT

Tên bảng

1.1 Phân bố tự nhiên của Thơng caribê

1.2 Rừng trồng Thơng caribê ngồi vù
1.3 Xuất sứ Thơng caribê được cơng
3.1

3.2
3.3
3.4

3.5
3.6

3.7

3.8

Ảnh hưởng của chất điều hịa sinh
tỷ lệ ra rễ của hom Thông caribê

Chất lượng bộ rễ của Thông caribê
sinh trưởng.

Tỷ lệ sống, ra rễ của hom Thông c

Chất lượng bộ rễ ở các CTTN lại h


Ảnh hưởng của giá thể đến tỷ lệ số
caribê
Chất lượng bộ rễ ở các CTTN giá
Tuổi cây trưởng thành ảnh hưởng
Thông caribê

Chỉ tiêu ra rễ của hom thông carib
thành


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
STT

Tên biểu
3.1
3.2

3.3
3.4
3.5

3.6
3.7a
3.7b

3.8
3.9a
3.9b
3.9c


Tỷ lệ hom sống của chất điều hòa si

Tỷ lệ hom ra rễ của chất điều hòa si

Ảnh hưởng loại chất điều hòa sinh t
bộ rễ

Tỷ lệ hom sống, ra rễ của các loại th

Chất lượng bộ rễ của hom thông car
So sánh ảnh hưởng của giá thể đến
của hom thông caribê

Số rễ, chiều dài rễ dài nhất của hom

Chỉ số ra rễ của hom ở CTTN loại g

So sánh tỷ lệ hom sống và tỷ lệ hom
trưởng thành.
Số rễ TB / hom ở cây trưởng thành
Chiều dài rễ của hom ở cây trưởng

Chỉ số ra rễ ở độ tuổi khác nhau của


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Thơng caribê (Pinus caribaea Morelet) là lồi cây nguyên sản ở vùng

Trung Mỹ gồm các nước Bahamas, Cuba, Belize, Honduras, Guatemala và
Nicaragua. Đây là lồi cây có giá trị kinh tế cao, sinh trưởng nhanh trên nhiều
vùng sinh thái, thân thẳng đẹp, cành nhánh nhỏ, có khả năng chống chịu gió
bão tốt. Gỗ Thơng caribê có thớ thẳng mịn, độ bóng vừa phải, có thể sử dụng
làm gỗ xây dựng, gỗ trụ mỏ, ván dăm, ván ép, bột giấy sợi dài, gỗ đóng tàu
thuyền, gỗ bao bì, ván ốp trần, đồ nội thất… gỗ Thông đáp ứng được nhiều
mục tiêu vì thế Thơng caribê là lồi cây để trồng rừng công nghiệp, được rất
nhiều nước nhập giống gây trồng, chủ yếu là các nước thuộc vùng nhiệt đới
và á nhiệt đới. Việt Nam là một nước nhiệt đới có các điều kiện địa lý khá
tương đồng với sự phân bố tự nhiên của Thông caribê.
Thông caribê được đưa vào trồng khảo nghiệm ở nước ta từ năm 1963
trên nhiều địa điểm khắp cả nước. Các kết quả khảo nghiệm đã cho thấy đây
là loài cây sinh trưởng nhanh và hình dạng thân đẹp hơn rõ rệt so với các lồi
thơng đã được gây trồng ở nước ta như Thông ba lá, Thông nhưa, Thông đuôi
ngựa. Thông caribê đồng thời có phạm vi thích ứng rộng từ các vùng cao đến
vùng ven biển trên nhiều dạng khí hậu và đất đai khác nhau, cây vẫn có sinh
trưởng tương đối tốt trên các lập địa thối hóa, nghèo dinh dưỡng.
Chính vì những ưu điểm trên mà QĐ Số: 774/QĐ-BNN-TCLN, ngày
18 tháng 4 năm 2014 đã đưa cây Thông caribê vào trong danh mục cây trồng
rừng chủ yếu. Tuy nhiên Thông caribê chỉ có khả năng ra hạt hữu thụ ở một số
địa điểm nhất định ở Việt Nam vì vậy việc phát triển rộng rãi loài cây này
ở nước ta gặp nhiều hạn chế mặc dù đây là loài cây rất có tiềm năng cho trồng
rừng cung cấp gỗ lớn.
Để khắc phục hiện tượng bất thụ của Thông caribê và phát triển nhanh
giống Thơng caribê vào sản xuất thì nghiên cứu nhân giống sinh dưỡng (mô,


2

hom và phơi nhân tạo) là một việc làm có ý nghĩa rất quan trọng. Tuy nhiên,

nhân giống bằng phương pháp ni cấy mơ hoặc phơi nhân tạo địi hỏi công
nghệ cao, điều kiện cơ sở vật chất hiện đại, thời gian nghiên cứu dài. Vì vậy,
giải pháp nhân giống bằng hom có thể coi là thích hợp nhất, vừa nhanh chóng
đáp ứng được nhu cầu về giống trước mắt do có hệ số nhân giống khá cao,
nguồn đầu tư cho việc sản xuất cây con thấp, thời gian ngắn.
Chính vì những lý do trên việc triển khai thực hiện đề tài luận văn: “
Nghiên cứu kỹ thuật nhân giống bằng phương pháp giâm hom lồi Thơng
Caribê (Pinus Caribaea Morelet)”, là cần thiết.


3

CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
I. Tình hình nghiên cứu cải thiện giống Thơng caribê trên thế giới
1.1 Đặc điểm hình thái, phân bố, tiềm năng và tình hình gây trồng Thơng
caribê trên thế giới
Thơng caribê (Pinus caribaea Morelet) là lồi cây nhiệt đới, thuộc họ
thông (Pinaceae) và nằm trong bộ thơng (Coniferales) ngành hạt trần
(Gynospermae), là lồi cây gỗ lớn, ưa sáng và là một trong những loài cây lá
kim mọc nhanh trên thế giới. Thân thẳng, tán hình tháp, cành nghiêng sau xoè
rộng. Lá hình kim mọc cụm trên đầu cành ngắn, mỗi cụm 3 lá ít khi 4 hoặc 5
lá, sống lâu. Nón đực hình trụ, dài 1,3-3,2cm. Nón cái trên đầu cành non hình
viên chuỳ dài 5 – 10cm, đường kính 2,5 đến 3,8cm. Nón cái chín trong 2 năm,
lúc đầu màu tím hồng sau màu xanh, khi chín hố gỗ màu nâu. Nón có cuống
ngắn thường vẹo và quặp về phía cành. Hạt hình trứng dài 6mm, đường kính
3mm. Vỏ hạt màu nâu có nhiều lấm chấm trịn. Hạt có cánh mỏng dài 2 –
2,5cm, thường 1kg hạt chứa 50.000-60.000hạt (Lê Mộng Chân, Lê Thị
Huyên, 2000) [1].
Thông caribê phân bố tự nhiên từ 12 0 13’ đến 270 25’ vĩ độ Bắc và 700

41’ đến 890 25’ kinh độ Tây gồm các nước và đảo quanh vùng vịnh Caribê
như: Mêhicô, Honduras, Guatemala và Cuba. Ở lập địa thích hợp, cây Thơng
Caribê 15 tuổi tăng trưởng bình quân năm có thể đạt tới 1,5m chiều cao và
2,5cm đường kính (Lê Mộng Chân, Lê Thị Hun, 2000) [1].
Thơng caribê là lồi Thơng bản địa ở vùng Trung Mỹ. Dựa vào sự phân
bố tự nhiên của loài ở các vùng địa lý khác nhau, Thông caribê được chia
thành 3 biến chủng (Luckhof, 1964; Lamb, 1973) như sau:
- Pinus caribaea var hondurensis (PCH) phân bố dọc bờ biển
Đại
Tây Dương vùng Trung Mỹ, từ Belize tới bắc Nicaragua, từ 12° đến 18° vĩ độ


4

Bắc, từ 83°30 tới 89°25 kinh độ Tây. PCH mọc tự nhiên ở Belize, Guatemala,
Honduras và Nicaragua ở độ cao dưới 1000m so vói mặt nước biển. Cây
trưởng thành có thể cao tới 35 - 40m, sinh khối đạt khoảng 10 - 40m3/ha/năm.
-

Pinus caribaea var bahamensis (PCB) phân bố ở quần đảo Bahamas

và Caicos (24° - 27° vĩ độ Bắc, 71°40’ - 79° kinh độ Tây). Cây mọc ở độ cao
gần 12m so với mặt nước biển, cây trưởng thành cao khoảng 15 - 20m.
Pinus carỉbaea var caribaea (PCC) phân bố ở phía tây Cuba và
trên
đảo thơng (22° - 23° vĩ độ Bắc, 82°20’ - 84° 15’ kinh độ Tây). Cây mọc tự
nhiên ờ độ cao dưới 280m so với mặt nước biển.
Vùng phân bố tự nhiên của PCH từ bờ biển vào sâu trong lục địa nên sự
biến động của các yếu tố khí hậu là khá lớn. Ví dụ nhiệt độ mùa đơng ở nội
địa của Belize có thể xuống tới 5°c, trong khi mùa hè có thể nóng tới 37°c.

Tuy nhiên, nhiệt độ khơng bao giờ xuống tới mức đóng băng. Lượng mưa
phân bổ khơng đều giữa các vùng, biến động từ 1.500mm/năm ở núi Thông
(Belize) tới 3.900 mm/năm ở Bluefields (Nicaragua). Những lâm phần Thông
ở sâu trong lục địa có lượng mưa thấp hơn so với ven biển. Lượng mưa hàng
năm ở thung lũng sông Choluteca ở Hunduras có thể xuống tới 660mm với 6
tháng lượng mưa khơng vượt q 40mm/tháng. Vì phân bố ở vùng Trung Mỹ,
PCH thích họp với nhiều loại đất, từ đất cát xốp, thoát nước tốt, đất phù sa
đọc bờ biển Đại Tây Dương tới các loại đất trong lục địa được hình thành từ
các loại đá mẹ phiến thạch, granite, schist và đá cát với độ PH từ 4 đến 5, tầng
đất từ dày tới mỏng. Đất sét chặt bí, thốt nước khơng tốt khơng thích họp với
Thơng caribê [4].
Quần đảo Bahamas và Caicos, nơi PCB mọc tự nhiên có khí hậu ấm áp,
mùa đơng khơ và khơng có sương muối. Biến động về nhiệt độ không quá lớn
giữa các mùa trong năm. Nhiệt độ trung bình dao động từ khoảng 22°c ở
tháng lạnh nhất tới 28°c ở tháng nóng nhất. Lượng mưa trung bình năm là


5

1.185mm và tập trung chủ yếu ở các tháng 9 và 10. Lượng mưa biến động từ
khoảng 177mm ở tháng có lượng mưa nhiều nhất tới 32mm ở tháng khơ nhất.
Mùa khô từ tháng 11 tới tháng 4 năm sau. PCB nơi nguyên sản mọc tốt trên
đất phong hoá từ đá vơi san hơ, thốt nước tốt. Loại đất này khá nơng, nghèo
dinh dưỡng và chứa đựng nhiều ơxít sắt bị rửa trơi từ tầng đá vơi. Vì được
hình thành từ đá vơi nên có tính kiềm cao, độ PH = 8,4 hoặc có thể cao hơn.
Tuy nhiên, nấm cộng sinh ở rễ của PCB phát triển tốt ở đất có tính kiềm cao
và có thê sẽ là ngun nhân chủng này khơng được gây trồng nhiều=gồi nơi
phân bố tự nhiên của chúng.
PCC sinh trưởng ở điều kiện biến động lớn về nhiệt độ thì phát triển
kém. Nhiệt độ thấp nhất và cao nhất ở Cuba có thể là từ 12°c tới 34°c. Lượng

mưa biến động từ 1.060mm/năm ở bờ biển phía Nam tới 1.794mm/năm ở đảo
thơng. Vùng phân bố của PCC cũng có một mùa đơng khơ và lượng mưa tập
trung vào một số tháng mùa hè. PCC nơi nguyên sản thích họp với đất phát
triển trên đá mẹ phiến thạch hoặc đá cát, thoát nước tốt, độ PH < 5. PCC
không sinh trưởng trên đất đá vôi mặc dù dạng đất này có rất nhiều ở Cuba
Bảng 1.1: Phân bố tự nhiên của Thông Caribê
Chủng
Caribaea
Bahamensis
Hondurensis
Tổng hợp
Nguồn: Anoruo and Berlyn, 1993


6

Bảng 1.2: Rừng trồng Thơng caribê ngồi vùng phân bố tự nhiên
Tên nƣớc
Argentina
Australia
Brazil
Colombia
Congo
Dahomy & Togo
Fiji
French Guyana
Gambia
Ghana
Guyana
Hawaii Islands

India
Ivory Coast
Jamaica
Kenya
Madagascar
Malaysia
Malawi
St.Lucia & Domonica
Mozambique
Nigeria
Philippines
Puerto Rico
Sierra Leone
Solomon Islands
South Africa
Sri Lanka
Surinam
Tanzania
Trinidad & Tobago
Uganda
Venezuela
Zaire
Zambia
Zimbabwe
Nguồn: Anoruo and Berlyn, 1993


7

Thông caribê đã được dẫn nhập gây trồng ở trên 65 nước trên thế giới

(Baylis và Barnes, 1989) [16].
Giới hạn vĩ độ vùng trồng của Thông caribê được mở rộng đáng kể so
với nơi nguyên sản, từ vĩ độ 55° Nam ở Argentina tới 33° vĩ độ Bắc ở Ấn Độ.
Giới hạn kinh độ cũng được mở rộng từ 180° kinh độ Đông ở Fiji tới 158°
kinh độ Tây ở Hawaii. Độ cao vùng trồng biến động từ mặt nước biển tới
1200m ở Zaire, 1220m ở Nigeria, trên 1820m ở Uganda và 2400m ở Kenya.
Như vậy, Thông caribê đã được gây trồng trên tất cả các dạng khí hậu của các
nước nhiệt đới và cận nhiệt đới. Vùng trồng của loài này đã được mở rộng cả
về độ vĩ và độ kinh, cả từ vùng có khí hậu miền núi tới khí hậu cận miền núi
và vùng ven biển.
Do được gây trồng ở nhiều vị trí địa lý và khí hậu khác nhau, đất trồng
Thơng caribê ngồi nơi ngun sản của chúng cũng rất đa dạng. Nhìn chung,
Thơng caribê có thể sinh trưởng trên nhiều loại đất khác nhau. Các tính chất
vật lý của đất là độ sâu tầng đất, khả năng thốt nước, độ dốc, độ kết dính của
tầng đất mặt và kết cấu của đất sẽ quyết định sự thành cơng của rừng trồng
Thơng caribê ngồi nơi ngun sản của nó. Keat, 1981), Kok (1974) cũng xác
định rằng đất phù sa châu thổ, tầng dày, thoát nước tốt sẽ là điều kiện lý tưởng
cho rừng trồng Thông caribê. Ở Guyana thuộc Pháp một khảo nghiệm Thông
caribê ở 10 tuổi (1960 – 1970) cây có chiều cao bình qn 19m, cá biệt có cây
cao tới 25m (Nikles et al, 1978) [ 23 ]. Ở Côngô – Brazaville, sau 4 năm
trồng, các xuất xứ của Hondurensis đạt được chiều cao 5,97m (1,3m/năm) và
đường kính là 8,3cm (2,08cm/năm); biến chủng Bahamensis đạt 4,34m về
chiều cao (1,08m/năm) và 5,6cm về đường kính (1,4cm/năm) (Nikles et al,
1978) [23].


Malaysia, Thông caribê được trồng trên diện tích lớn và cho sinh

khối bình qn khoảng 17m3 /ha/năm. Ở đặc khu miền bắc Australia, các xuất



8

xứ tốt nhất của Hondurensis ở tuổi 10 cho sinh khối bình quân 22m3 /ha/năm.
Ở Bang Queensland (cũng thuộc Australia), ở 9,5 tuổi các xuất xứ của
biến
chủng caribeae đạt 16-18m3 /ha/năm và các xuất xứ của biến chủng
Bahamensis đạt 14,8m3 /ha/năm (Nikles et al, 1978) [ 23 ].
1.2 Tình hình nghiên cứu chọn giống Thông caribê trên thế giới
-

Vào năm 1958, tại Koraput, Ấn Độ cũng đã xây dựng một khảo

nghiệm xuất xứ Thông caribê gồm các xuất xứ của PCH là Guatemala,
Nicaragua, Honduras, Belize và Queensland (Australia) cũng xuất xứ Andros
của PCB và 1 xuất xứ Cuba của PCC. Khảo nghiệm được bố trí ở các điểm
khác nhau ở độ cao 700-1000 m. Kết quả cho thấy các xuất xứ thuộc PCH có
sinh trưởng tốt nhất trên các điểm khảo nghiệm. Sau 10 năm trồng xuất xứ có
sinh trưởng tốt nhất là Limone (Ht = 11,4 m; Dbh = 16 cm), Guanaja (Ht =
9,2 m; Dbh = 14,8 cm), Rico Coco (Ht = 10 m; Dbh = 13,8 cm), Alamicamba
(Ht = 9,8 m; Dbh = 13,7 cm) (Nikles et al.,1978) [23].
-

Từ năm 1970, Viện lâm nghiệp Oxford đã tiến hành thu hái hạt trên

những vùng rộng lớn đại diện cho tất cả các vùng phân bố của cả 3 biến chủng
(khoảng 50 xuất xứ) và đã xây dựng một hệ thống gồm hơn 180 khảo nghiệm
trên 53 nước. Tổng hợp các kết quả nghiên cứu cho thấy PCH có sinh
trưởng nhanh nhất, tiếp theo là PCB và PCC có sinh trưởng kém nhất trên hầu
khắp các khảo nghiệm (Dvorak et al., 1993[18].; Greaves, 1980)[19]. Sự sai

khác về sinh trưởng cũng như các tính trạng khác chỉ được ghi nhận ở PCH
mà khơng thể hiện ở hai biến chủng cịn lại mà ngun nhân được giải thích
có thể là do phạm vi phân bố hẹp của hai biến chủng này (Greaves, 1981)[20].
Với PCH, nhìn chung các xuất xứ từ vùng ven biển phía nam Nicaragua và
Honduras có sinh trưởng nhanh và khả năng chống chịu gió tốt hơn so với các
xuất xứ ở vùng cao hoặc vùng khô hạn sâu trong đất liền khi khảo nghiệm ở
vùng nhiệt đới ẩm gần xích đạo.


9

- Các xuất xứ từ vùng cao hoặc vùng khô trong đất liền của PCH
thường có sinh trưởng chậm, ra hoa sớm và hay bị bệnh khô ngọn (Greaves,
1981)[20]. Một số xuất xứ thuộc PCH có sinh trưởng nhanh trên nhiều khảo
nghiệm có thể kể đến là Karawala, Alamicamba, Poptun và Brus Lagoon, các
xuất xứ Byfield, Santa Clara và Culmi cũng là những xuất xứ có triển vọng
(Greaves, 1980)[19]. Theo chiều ngược lại bốn xuất xứ có sinh trưởng kém
trên nhiều lập địa có thể kể đến là Santos, Melinda, Kuakuil và Briones
(Greaves, 1980)[19]. Kết quả khảo nghiệm trên độ cao 1000 m cho thấy các
xuất xứ thuộc PCB có sinh trưởng tốt hơn các biến chủng khác. PCC có sinh
trưởng kém nhất nhưng có độ thẳng thân và dạng cành tốt nhất (Greaves,
1981)[20].
- Trên các khảo nghiệm thứ tự xếp hạng của các xuất xứ cũng có sự
biến động mạnh theo tuổi. Trên các khảo nghiệm xuất xứ tại Queensland, ở
giai đoạn 5,5 tuổi ghi nhận sự sai khác không đáng kể. Sự sai khác chỉ thể
hiện rõ hơn ở tuổi 8-10, đồng thời có sự thay đổi về thứ tự xếp hạng giữa tuổi
8
và 10, cụ thể ở tuổi 8 xuất xứ Byfield có sinh trưởng nhanh nhất
nhưng ở
tuổi 10 thì xuất xứ Guanaja có sinh trưởng tốt hơn mặc dù chất lượng thân cây

không bằng xuất xứ Byfield. Từ các kết quả đánh giá trên, Eismann et al.
(1983) kết luận rằng khơng thể có những đánh giá sớm trước tuổi 8-10 đối với
Thông caribê đồng thời “không có một xuất xứ nào có thể kết hợp được tất cả
các tính trạng có giá trị và để chọn lọc được xuất xứ tốt thì phải dựa trên nhiều
khảo nghiệm trên nhiều vùng sinh thái khác nhau.
Tóm lại, Thơng caribê đã được khảo nghiệm ở rất nhiều nước
trên thế
giới, tập trung chủ yếu ở vùng nhiệt đới và á nhiệt đới. Trong ba biến chủng
được đưa vào khảo nghiệm thì PCH có sinh trưởng tốt nhất trên tất cả các


khảo nghiệm. Trong điều kiện khí hậu nhiệt đới thì các xuất xứ vùng ven biển
thuộc Belize, Nicaragua, Guatemala có sinh trưởng vượt trội so với các xuất


10

xứ ở vùng lục địa. Các xuất xứ của PCC có sinh trưởng kém nhất nhưng có
dạng thân đẹp nhất trong khi các xuất xứ của PCB có sinh trưởng tốt trên
những lập địa đất khô cằn, tầng đất nông hoặc trên lập địa vùng cao. Việc
đánh giá các xuất xứ cần được tiến hành trên nhiều khảo nghiệm ở nhiều lập
địa khác nhau và cần có thời gian đủ dài để đánh giá khả năng sinh trưởng của
từng xuất xứ.
Moura và Dvorak (2001) đánh giá hệ số di truyền theo nghĩa của các tính
trạng sinh trưởng, hình dạng thân, kích thước cành, đi chồn trên 7 khảo
nghiệm của hệ thống CAMCORE ở Brazil, Columbia và Venezuela với 172
gia đình thuộc 8 xuất xứ từ Honduras và Guatemala ở giai đoạn 12 tuổi cho
thấy hệ số di truyền của các tính trạng sinh trưởng (0,28 – 0,34) > kích thước
cành (0,26) > độ thẳng thân (0 – 0,16). Hệ số di truyền theo gia đình (h 2f) cho
tính trạng đi chồn (fox tailing) là 0,63 và độ duy trì trục là 0,36. Hệ số di

truyền của thể tích thân cây có sự thay đổi rõ rệt giữa các địa điểm khảo
nghiệm từ 0,17 đến 0,40, địa điểm cây sinh trưởng chậm có hệ số di truyền
thấp hơn so với nơi cây sinh trưởng nhanh chứng tỏ sự phân hóa rõ rệt giữa
các gia đình thể hiện rõ hơn ở nơi có điều kiện đất đai tốt. Các tác giả cũng
nhận định rằng khơng có xuất xứ nào thực sự xuất sắc trên tất cả các lập địa.
Một phát hiện quan trọng nữa trong nghiên cứu này là “hơn 90% số cây PCH
có tối thiểu 1 trong số các vấn đề về đuôi chồn, cong thân, gãy ngọn”, các tác
giả cũng đề xuất rằng “tránh chọn lọc cường độ quá cao cho các tính trạng
chất lượng thân cây” nhằm đảm bảo tăng thu về thể tích thân cây.
Tóm lại, kết quả các khảo nghiệm hậu thế đã cho thấy các gia đình có sự
sai khác rõ rệt về sinh trưởng cũng như các chỉ tiêu khác. Hệ số di truyền của
các chỉ tiêu sinh trưởng ở mức trung bình khá và tăng dần theo tuổi. Các kết
quả này rất hữu ích cho các nhà chọn giống nhằm xây dựng chiến lược chọn
giống phù hợp cho Thông caribê.


11

* Nghiên cứu lai giống và sử dụng giống lai
Thông caribê thuộc nhóm (section) Trifoliae, nhóm phụ (sub-section)
Australes gồm một số loài P. elliotii, P. cubensis, P. occidentalis, P. oocarpa…
Điều này có thể giải thích khả năng lai giống và tạo ra hạt lai hữu thụ giữa các
loài này. Hiện nay nhiều chương trình cải thiện giống Thơng caribê trên thế
giới bao gồm cả lai giống giữa các loài cây này tạo ra giống lai có ưu thế lai
về sinh trưởng hoặc để mở rộng vùng trồng (Nikles, 1996; Dieter, 2000;
Cappa et al., 2012). Viện nghiên cứu lâm nghiệp Queensland trước đây đã
thành công trong việc tạo ra các giống lai ưu việt của Thơng caribê với Thơng
elliotii. Chương trình cải thiện giống chính thức đối với lồi này đã được bắt
đầu tại Queensland từ đầu những năm 40 và liên tục được triển khai trong
suốt hơn 60 năm qua. Trong giai đoạn 1960 – 1980, một loạt các hệ thống

vườn giống vơ tính Thơng caribê được xây dựng tại Byfield (miền Trung
Queensland) và Cardwell, đây cũng là xuất xứ được đưa vào khảo nghiệm tại
Việt Nam có sinh trưởng rất tốt trên nhiều vùng sinh thái.
Giống lai giữa PEE x PCH được tạo ra đầu tiên năm 1955, các dịng
Thơng lai ưu việt được khảo nghiệm và nhân giống hàng loạt bằng các công
nghệ nhân giống tiên tiến năm 1980. Các khảo nghiệm dịng Thơng lai được
xây dựng thành cơng năm 1995 trên các lập địa thốt nước kém và ngèo dinh
dưỡng tại miền Đông và Trung Queensland. Đến năm 2004, tổng diện tích
rừng trồng giống lai PEE x PCH là 44.000 ha, trong tương lai các lâm phần
rừng trồng PCH và PEE sẽ được thay thế bằng các dịng Thơng lai ưu việt,
giúp tăng năng suất rừng trồng Thông lên 25%. Từ năm 1990 trở lại đây, Viện
nghiên cứu lâm nghiệp Queensland đã tiếp tục lai tạo thành công giống lai
giữa Thông caribê (PCH) với Thông oocarpa (POW) và Thơng teccuniamii (P.
teccuniamii) có sinh trưởng nhanh vượt trội so với các giống đối chứng bố


12

mẹ trên nhiều địa điểm ở miền trung và đông nam Queensland (Brawner et
al., 2005).
1.3 Nhân giống sinh dưỡng và trồng rừng dịng vơ tính
- Nhân giống hom Thơng caribê đã được tiến hành rất sớm từ những
năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ 20 tại Queensland ở Australia. Hiện nay tại cơ
sở nhân giống hom ở Gympie hàng năm đã đến 3 triệu cây hom để gây trồng
rừng Thông caribê [23]
-

Theo Henrique và cộng sự (2006) trong công trình nghiên cứu cơng

bố của mình, sử dụng hom với độ dài 4- 6 cm ở nồng độ 4000mg/l IBA với

100mg/l paclobutrazon, sau 60 ngày giâm cho tỷ lệ ra rễ của hom cao nhất
(95,31%), các lồi thơng khác cũng đã được nhiều nhà khoa học quan tâm
nhân giống bằng hom từ sớm như: Stromquist và Hansen (1980) [27], Silva
(1985) [25], … đã công bố kết quả giâm hom trên lồi cây Thơng mình
nghiên cứu với hiệu quả cao. Tất cả các nghiên cứu về nhân giống Thông đã
tạo ra cơ sở quan trọng cho việc nhân giống Thông caribê với số lượng lớn,
chất lượng cao phục vụ trồng rừng sản xuất đang có nhu cầu rất lớn.
-

Thơng caribê có khả năng nhân giống sinh dưỡng bằng hom tương đối

dễ dàng tuy nhiên tỷ lệ ra rễ và khả năng sinh trưởng của cây hom phụ thuộc
rất lớn vào tuổi cây mẹ lấy hom và chế độ chăm sóc vườn vật liệu (Nikles,
1996)[23]. Các gia đình Thơng caribê và các tổ hợp lai có sinh trưởng tốt
được gieo ươm ở vườn vật liệu và nhân giống để phát triển vào sản xuất là kỹ
thuật đã được áp dụng để nhân giống các giống tốt vào sản xuất ở
Queensland. Hạt giống của các gia đình hoặc tổ hợp lai được gieo ươm và
trồng trong vườn vật liệu và được quản lý trong 3 năm để nhân giống với tỷ lệ
ra rễ đạt trên 90% với hơn 200 hom được tạo ra từ một cây mẹ mỗi năm hoặc
hơn 6 triệu hom/ha vườn vật liệu (Dieter et al., 2006).


13

-

Nghiên cứu ảnh hưởng của tuổi cây mẹ đến tỷ lệ ra rễ, chất lượng

hom ở PCH và giống lai PCH x PEE đã được công bố. Mitchell et al. (2004)
cho thấy cho dù được bón phân thường xuyên nhưng ở vườn vật liệu PCH x

PEE được cắt hom liên tục thì đến năm thứ 3 đã xuất hiện hiện tượng thiếu
dinh dưỡng làm giảm chất lượng chồi cũng như tỷ lệ ra rễ và chất lượng hom.
Tương tự, Haines và Nikles (1991) cũng cho thấy tỷ lệ ra rễ ở PCH x PEE
giảm rõ rệt ở vườn vật liệu được cắt hom sau tuổi 3. Dvorak (2000) cũng cho
rằng vườn vật liệu PCH chỉ nên duy trì đến 4 năm tuổi để đạt tỷ lệ ra rễ cao
(90%) và chất lượng hom tốt.
-

Bên cạnh đó, hạt giống các gia đình hoặc tổ hợp lai được lựa chọn cịn

có thể được nhân giống bằng phương pháp nuôi cấy mô hoặc phôi sinh
dưỡng, cây giống tạo ra bằng phương pháp này có sinh trưởng và dạng thân
đẹp hơn so với cây hom (Dieter personal communication).
-

Trong thời gian gần đây, nghiên cứu nhân giống bằng nuôi cấy mô từ

đỉnh sinh trưởng của cây mẹ Thông caribê và Thông lai PEE x PCH (Feria et
al., 2009; Li & Huang, 2012; Zong et al., 2011). Feria et al. (2009) sử dụng
môi trường Gelrite cho thấy hệ số nhân cao hơn so với môi trường Agar và sử
dụng 6-BAP cho hệ số nhân chồi và chiều dài chồi tốt nhất cho PCC. Nghiên
cứu nhân giống nuôi cấy mô từ đỉnh sinh trưởng lấy từ cây trội Thông lai PEE
x PCH cho thấy môi trường DCR bổ sung 2,5 mg/L 6-BA và 0,2 mg/L NAA
là phù hợp nhất Nhìn chung các nghiên cứu về ni cấy mô đỉnh sinh trưởng

Thông caribaea và Thông lai PEE xPCH cho hệ số nhân chồi cao
nhưng tỷ
lệ ra rễ chỉ đạt từ 45 đến 55%.
Qua các kết quả nghiên cứu về lồi Thơng nói chung và lồi Thơng
caribê nói riêng được đưa ra ở trên trong quá trình giâm hom thường sử dụng

IBA. Lồi Thơng caribê đã được quan tâm nghiên cứu ở nhiều nước từ rất
sớm và đến nay đã có thành cồng nhất định nhiều nước trên thế giới, hiện nay


14

các nhà khoa học đã và đang tiếp tục nghiên cứu đưa công nghệ tạo giống,
nhân nhanh giống áp dụng vào sản xuất.
II. Tình hình nghiên cứu cải thiện giống Thơng caribê ở Việt Nam
2.1. Tiềm năng và tình hình gây trồng Thông caribê ở Việt Nam


Việt Nam Thông caribê được dẫn nhập đầu tiên vào nước ta năm

1963 để trồng thử nghiệm tại Lang Hanh và Mang Linh thuộc tỉnh Lâm Đồng
(Lê Đình Khả, 1999) [11] và tiếp tục được khảo nghiệm khá hoàn chỉnh theo
dự án Sida ở Phú Thọ trong giai đoạn 1978 - 1984 (Stanhl P, 1984) .
Từ năm 1980 trở lại đây, Trung tâm nghiên cứu Giống cây rừng thuộc
Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam , Trung tâm nghiên cứu cây nguyên liệu
giấy Phù Ninh phối hợp với nhiều cơ quan đã trồng khảo nghiệm Thông caribê ở
nhiều vùng sinh thái trong cả nước như Đại Lải (Vĩnh Phúc ), Ba Vì (Hà Nộ i),
Yên Thế (Bắc Giang), Yên Lập (Quảng Ninh), Đại Huệ (Nghệ An),
Đông Hà (Quảng Trị), Tiền Giang (Thừa Thiên Huế), Sơng Mây (Đồng Nai),
Hàm Thuận Nam (Bình Thuận)... Các kết quả nghiên cứu bước đầu cho thấy
Thông caribê sinh trưởng khá tốt trên các vùng đất trống, đồi trọc nghèo dinh
dưỡng, một bộ phận đất đai rất lớn ở nước ta (Phí Quang Điện, 1981 - 1989) [3].

Mặc dù có sinh trưởng nhanh trên nhiều vùng sinh thái nhưng
Thông
caribê chỉ có khả năng ra hạt hữu thụ ở một số địa điểm nhất định ở Việt Nam.

Kết quả nghiên cứu cho thấy trong số các điểm khảo nghiệm chỉ có Đơng Hà
và Đại Lải là có hạt hữu thụ với tỷ lệ 28 hạt chắc/quả (Lê Đình Khả, 1999)[8].
Các điểm khác như Ba Vì ít hơn (11 hạt/quả) hoặc khơng có hạt như

Sơng Mây, Lang Hanh hay Pleiku. Nguyễn Đức Kiên và Almqvist
(2002)
so sánh điều kiện khí hậu ở các vùng có sản lượng hạt cao ở Australia và một
số nơi khác kết hợp với đánh giá thực tế nhận định rằng vùng kết hạt tốt nhất


của Thơng caribê là từ phía nam đèo Hải Vân đến Phú Yên và các rừng giống
và vườn giống nên xây dựng ở khu vực này.


15

Nhằm nghiên cứu mở rộng rừng trồng Thông Caribê trên một số dạng
lập địa vùng Đông Bắc, từ năm 2000 - 2004, Nguyễn Ngọc Đích và Lương
Thế Dũng đã xây dựng 25 ha mơ hình Thơng Caribê trên 5 tỉnh vùng Đông
Bắc, gồm Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Bắc Giang và Vĩnh Phúc và
đưa ra kết luận là rừng trồng ở cả 5 địa điểm trên 5 tỉnh khác nhau đều sinh
trưởng khá tốt ,
2.2. Tình hình nghiên cứu chọn giống Thông caribê ở Việt Nam
Kết quả khảo nghiệm lồi Thơng caribê tại Đà Lạt năm 1963, bước đầu
cho thấy biến chủng Hondurensis của Thơng caribê có sinh trưởng nhanh,
hình dáng thân đẹp, thân cao, thon đều, tán lá nhỏ, cành mọc ngang có tốc độ
sinh trưởng nhanh hơn Thơng ba lá. Ở tuổi 12, cây cao bình qn 14,3m và
đường kính ngang ngực bình qn đạt 16,3cm. Lượng tăng trưởng bình qn
về đường kính 1,35cm và chiều cao là 1,19m. Ở tuổi 16, đường kính ngang
ngực trung bình 27,9 cm, cây cao bình quân 19,9m. Tăng trưởng chiều cao

bình qn hàng năm là 1,24m và về đường kính là 1,65cm (Lê Đình Khả, Hồ
Viết Sắc,1990) [9].
Khảo nghiệm tại Mang Linh - Lâm Đồng cho thấy biến chủng
Hondurensis trồng ở chân đồi đến giữa sườn đồi , trên đất Feralit vàng đỏ phát
triển trên đá mẹ Granit có tầng đất sâu , ẩm có lớp mùn khá dày có sinh
trưởng nhanh hơn Thông ba lá. Ở tuổi 16, cây có chiều cao bình qn là 17m
và đường kính là 16,6cm, lượng tăng trưởng bình quân hàng năm về chiều cao
là 1,21 - 1,22m/năm và đường kính là 1,76 - 1,80cm/năm (Lê Đình Khả, Hồ
Viết Sắc, 1990) [9].
Trong giai đoạn 1981 - 1985 và 1988 - 1999, Phí Quang Điện tiếp tục
ghiên cứu và đánh giá các khảo nghiệm loài và xuất xứ Thông caribê khi đạt 9
tuổi trồng khảo nghiệm Thông caribê tại Đại Lải (Vĩnh Phúc), Đông Hà
(Quảng Trị), Sông Mây (Đồng Nai),… cho thấy tăng trưởng chiều cao bình


16

quân của các xuất xứ Thông Caribê từ 1,2 m - 1,6 m/năm, tăng trưởng về
đường kính từ 1,1 cm - 1,4 cm/năm. Đây là những kết quả bước đầu cho thấy
lồi cây có triển vọng về sinh trưởng nhanh, trong đó biến chủng P. caribaea
var hondurensis được đánh giá là biến chủng có sinh trưởng tốt hơn hai biến
chủng cịn lại. Trong các biến chủng của hondurensis thì xuất xứ Poptun 3,
Alamicamba, Guanaja và Cardwell tỏ ra có triển vọng về năng suất cao.
Từ những kết quả nghiên cứu và chọn giống của các nhà khoa học năm
2001 Bộ NN & PTNT đã ban hành QĐ số 3614/QĐ-BNN –KHCN ngày 8
tháng 8 năm 2001 về danh mục giống cây lâm nghiệp được công nhận cụ thể
bảng 1.3
Bảng 1.3: Xuất xứ Thơng caribê được cơng nhận giống
TT
1


2

Tên giống đƣợc
cơng nhận
Lồi: Thơng caribe
(P.caribaea var. ho
ndurensis) Xuất xứ:
Carwell
Lồi: Thơng caribe
(P.caribaea var. ho
ndurensis)Xuất
xứ: Byfield

3

Lồi: Thơng caribe
(P.caribaea var. ho
ndurensis)Xuất
xứ:Poptun2

4

Lồi: Thơng caribe
(P.caribaea var. ho
ndurensis)Xuất
xứ:Alamicamba

5


Lồi: Thơng caribe
(P.caribaea var. ho
ndurensis)Xuất


xứ:Poptun3


×