Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Báo cáo tt autorecovered

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.65 KB, 18 trang )

A.Mở đầu:
Lịch sử quốc gia dân tộc Việt Nam từ khi ra đời tới nay là lịch sử dựng
nước và giữ nước gắn bó với nhau. Dựng nước ln ln gắn chặt với giữ nước.
Phải xây dựng được đất nước hùng mạnh về mọi mặt mới có điều kiện, khả năng
chiến thắng các thế lực thù địch và phải giữ được nước mới có điều kiện để xây
dựng đất nước. Ban đầu các cuộc khởi nghĩa và các phong trào đó đều bị dìm
trong biển máu, song nhân dân ta, dân tộc ta quyết không chịu mất nước, nhất
định không chịu làm nô lệ. Truyền thống dựng nước và giữ nước không ngừng
được phát huy và tô thắm thêm, đã góp phần vào việc tìm ra con đường cách
mạng đúng đắn mà Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương.
Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội II của Đảng lao động Việt Nam (2-1951) Hồ
Chí Minh đã khẳng định: "Dân ta có một lịng nồng nàn yêu nước. Đó là một
truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì
tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó
lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ
cướp nước". Chính nhờ kế thừa và phát huy truyền thống yêu nước trên cơ sở
tiếp thu và vận dụng sáng tạo những tinh hoa của triết học và văn hóa phương
Đơng và phương Tây mà Nguyễn ái Quốc (Hồ Chí Minh) đã ra đi tìm đường
cứu nước (1911) và đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin (1920). Con đường cứu
nước đúng đắn đã được tìm thấy. Đó là con đường độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội. Con đường cứu nước bắt đúng xu thế của lịch sử, nhờ đó Hồ
Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã tập hợp được sức mạnh của dân tộc và
của thời đại. Trong quá trình hình thành và phát triển, truyền thống đó khơng thể
thiếu sự lãnh đạo của đảng có ảnh hưởng sâu sắc đến hệ tư tưởng và các thành
quả tinh thần và vật chất của nhân dân ta, Đảng xác định đúng nhiệm vụ là lãnh
đạo bằng đường lối, chủ chương, tuyên chuyền vân động thuyết phục, tổ chức
1


đoàn kết quần chúng, đưa ra phương pháp hoạt động cách mạng cho họ. Theo
Hồ Chí Minh viết: “cách mệnh trước hết phải có gì? Trước hết phải có Đảng


cách mệnh, để trong thì vân động và tổ chức dân chúng, ngồi thì liên lạc với
các dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp ở mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh
mới thành cơng, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy” (Đường
cách mệnh), như vậy Đảng Cộng sản Việt Nam quyết định thắng lợi của cách
mạng Việt Nam, thực tiễn của cách mạng Việt Nam đã chứng minh khơng một
tổ chứng chính trị nào có thể thay thế vai trò lãnh đạo của Đảng ta. Đảng Cộng
sản Việt Nam hình hành dựa trên nền tảng của chủ nghĩa Mac – Lênin, vị lãnh tụ
đã thấy rỏ vai trò to lớn của chủ nghĩa Mác – Lênin đối với cách mạng Việt
Nam. Giai cấp công nhân được trang bị lý luận, khẩu hiệu cách mạng đúng đắn,
lôi cuốn được các tầng lớp khác đấu tranh cách mạng,… Vậy Đảng có từ đâu, do
ai thành lập, thuộc về ai, do ai lãnh đạo và được xây dựng như thế nào?

2


B.Nội dung
1/Sơ lược về Đảng Cộng sản Việt Nam
1.1/Sự ra đời của Cộng sản Việt Nam
1930, Đảng ra đời là kết quả của sự kết hợp Chủ ngĩa Mác-Lênin và
phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Phong trào yêu nước là một
thành tố quan trọng trong việc ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vì:
1 Phong trào u nước có vị trí, vai trị cực kỳ to lớn trong quá trình phát
triển của dân tộc Việt Nam
2 Phong trào công nhân kết hợp được với phong trào u nước vì nó đều
có mục tiêu chung
3 Phong trào nông dân kết hợp với phong trào công nhân ngay từ đầu
4 Phong trào yêu nước của trí thức Việt Nam là nhân tố quan trọng thúc
đẩy sự kết hợp các yếu tố cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
1.2/Mục tiêu của Cộng sản Việt Nam
1.2.1/Mục tiêu ban đầu

Đảng ra đời để lãnh đạo Nhân dân Việt Nam giải phóng đất nước khỏi sự
cai trị của chế độ thuộc địa nửa Phong kiến, giải quyết mâu thuẫn giai cấp.
1.2.2/Mục tiêu hiện tại và tương lai
Đảng vẫn tiếp tục phát huy vai trò lãnh đạo để tiếp tục công cuộc xây
dựng và bảo vệ Đất nước.
Đảng đảm bảo quyền lợi của Đất nước ta về chủ quyền, cũng như nâng
cao tầm quan trọng của Việt Nam trên trường Quốc tế và khu vực.
Đảng luôn đảm bảo quyền lợi của Cơng dân Việt Nam trên tồn cầu, tạo
điều kiện để con người Việt Nam hội nhập tiếp thu tinh hoa thế giới.

3


2/Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam
2.1/Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng
Cộng sản Việt Nam
Đảng ta ra đời là sự kết hợp của chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào
công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Từ khi xuất hiện trên vũ đài
chính trị, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tỏ rõ là một đảng cách mạng chân chính
nhất, có sức hội tụ lớn nhất mọi sức mạnh của dân tộc, của giai cấp, sớm trở
thành đội tiên phong của giai cấp và của dân tộc trong cuộc đấu tranh chống đế
quốc, phong kiến. Có thể nói, sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam là
do thời đại, do giai cấp và dân tộc quy định.
Sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam được Chủ tịch Hồ Chí Minh
nêu rõ trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và
Lời kêu gọi của Đảng khi Đảng mới thành lập, đó là: Chủ trương làm tư sản
dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản;...
Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến;... Làm cho nước Việt
Nam được đợc lập;... Giải phóng cơng nhân và nơng dân thốt khỏi ách tư
bản; Mở mang công nghiệp và nông nghiệp;... Đem lại mọi quyền lợi tự do

cho nhân dân.
Sức mạnh to lớn của nhân dân chỉ phát huy khi được tập hợp, đoàn kết và
được lãnh đạo bởi một tổ chức chính trị là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hồ Chí
Minh khẳng định: “Lực lượng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
là rất to lớn, là vô cùng vô tận. Nhưng lực lượng ấy cần có Đảng lãnh đạo
mới chắc chắn thắng lợi”, giai cấp mà khơng có Đảng lãnh đạo thì khơng làm
cách mạng được. Trong sách Đường cách mệnh xuất bản năm 1927, Hồ Chí
Minh viết: “Cách mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có đảng cách
mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngồi thì liên lạc với dân tộc
bị áp bức và vơ sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công,
4


cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”
Như vậy, Hồ Chí Minh cho rằng: “Muốn khỏi đi lạc phương hướng,
quần chúng phải có Đảng lãnh đạo để nhận rõ tình hình, đường lối và định
phương châm cho đúng
Cách mạng là cuộc đấu tranh rất gian khổ. Lực lượng kẻ địch rất mạnh.
Muốn thắng lợi thì quần chúng phải tổ chức rất chặt chẽ; chí khí phải kiên quyết.
Vì vậy, phải có Đảng để tổ chức và giáo dục nhân dân thành một đội quân
thật mạnh, để đánh đổ kẻ địch, tranh lấy chính quyền.
Cách mạng thắng lợi rồi, quần chúng vẫn cần có Đảng lãnh đạo”
Sự ra đời, tồn tại và phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam phù hợp với
quy luật phát triển của xã hội, vì Đảng khơng có mục đích tự thân, ngồi lợi ích
của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, lợi ích của tồn dân tộc Việt
Nam, lợi ích của nhân dân tiến bộ trên thế giới, Đảng khơng có lợi ích nào khác.
Vai trò lãnh đạo của Đảng Cợng sản Việt Nam, tính quyết định hàng
đầu từ sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam đã được thực tế
lịch sử chứng minh, khơng có mợt tổ chức chính trị nào có thể thay thế
được. Mọi mưu toan nhằm hạ thấp hoặc nhằm xóa bỏ vai trị lãnh đạo của Đảng

Cộng sản Việt Nam đều xuyên tạc thực tế lịch sử cách mạng dân tộc ta, trái với
mặt lý luận lẫn thực tiễn, đều đi ngược lại xu thế phát triển của xã hội Việt Nam.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của của cách mạng.
Có Đảng lãnh đạo, lực lượng của quần chúng nhân dân sẽ trở thành sức
mạnh vô địch làm nên sự nghiệp vĩ đại của mình. Thắng lợi của Cách mạng
Tháng Tám, của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ,
cũng như những thành tựu giành được trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội trên phạm vi cả nước từ năm 1975 đến nay là như vậy.
Ngày nay, cách mạng Việt Nam đã chuyển sang một giai đoạn mới. Những
mục tiêu cơ bản của cách mạng Việt Nam do Đảng xác định từ những năm 30
của thế kỷ XX đến nay đang được thực hiện từng bước. Đất nước đã được độc
5


lập, nhân dân đã được tự do. Tuy nhiên, đời sống của nhân dân lao động vẫn cịn
nhiều khó khăn. Kinh tế đất nước vẫn chưa phát triển mạnh. Các nguy cơ đe dọa
đất nước, chế độ vẫn cịn rình rập. Vì vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn cần
kiên định sứ mệnh lịch sử của mình, lãnh đạo nhân dân Việt Nam thực hiện
thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh quốc tế, khu vực có nhiều biến động phức tạp,
đưa nước ta trở thành một nước giàu mạnh của khu vực và thế giới. Chỉ có như
vậy, nền độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam mới vững bền, sự nghiệp cách mạng của Đảng mới thành cơng trọn vẹn.
Giữ vững vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với giai cấp và
dân tộc là vấn đề chiến lược có tính ngun tắc, bởi vậy, cần kế thừa và phát
triển những bài học kinh nghiệm trong lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh giải
phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong q trình
lãnh đạo, Đảng cần tích cực tổng kết thực tiễn kết hợp với nghiên cứu lý luận để
nhận thức ngày càng sâu sắc hơn về vai trị lãnh đạo của Đảng, khơng ngừng bổ

sung, hồn thiện và nâng cao hiệu lực cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với cách
mạng Việt Nam trong thời kỳ mới.
2.2/Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng
Cộng sản Việt Nam soi sáng cho cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng
hiện nay
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, xây dựng Đảng mang tính quy luật và nhu cầu
tồn tại, phát triển của bản thân Đảng. Đổi mới Đảng nhằm làm cho Đảng thực sự
trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, làm cho đội ngũ cán bộ,
đảng viên không ngừng nâng cao phẩm chất và năng lực trước những yêu cầu,
đòi hỏi ngày càng cao, càng phức tạp của nhiệm vụ cách mạng. Đổi mới Đảng sẽ
làm cho toàn Đảng trở thành một khối thống nhất về nhận thức và tư tưởng, là
cơ sở cho sự thống nhất về hành động đủ sức lái con thuyền cách mạng Việt
Nam tiến về phía trước, vượt qua những khúc quanh đầy thử thách. Xây dựng,
chỉnh đốn đảng trong tình hình hiện nay có những nội cụ thể như sau:
6


Thứ nhất, Phải xác định nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của
Đảng, xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ
chức cán bộ, phương thức lãnh đạo là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng.
Thứ hai, cần ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị,
đạo đức lối sống của một bộ phận khơng nhỏ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ
lãnh đạo các cấp.
Ba là, xây dựng đội ngũ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp Trung ương,
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc
tế.
Bốn là, xác định và thực hiện đúng bổn phận của mình. Cụ thể là: suốt đời
đấu tranh cho dân tộc, cho tổ quốc; đặt lợi ích của cách mạng lên trên hết; Hết
sức giữ kỷ luật và giữ bí mật của Đảng; Kiên quyết thi hành những nghị quyết
của Đảng; Cố gắng làm kiểu mẫu cho quần chúng trong mọi việc; Học tập chính

trị, quân sự, văn hóa . Phải gần gũi quần chúng, học hỏi quần chúng, cũng như
phải lãnh đạo quần chúng. Phát huy tốt vai trò của nhân dân tham gia vào xây
dựng Đảng.
Năm là, mỗi cán bộ đảng viên cần phải nghiêm túc thực hiện cơng tác phê
bình và tự phê bình. Nghĩa là: Đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc lên trên hết;
Việc gì cũng phải điều tra rõ ràng, cẩn thận và phải làm đến nơi, đến chốn; Lý
luận và thực hành phải luôn đi đôi với nhau.
Bước vào thời kỳ cơng nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc
tế, để Đảng ln làm trịn xứ mệnh lịch sử là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã
hội. Mỗi đảng viên cần nâng cao hiệu quả trong cơng tác chiến đấu vì sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ cuộc sống bình yên và hạnh phúc của nhân
dân
Về vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định: Cách
mệnh trước hết “phải có Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân
chúng, ngồi thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng
có vững cách mệnh mới thành cơng, cũng như người cầm lái có vững thuyền
7


mới chạy”. Sự ra đời, tồn tại và phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam phù hợp
với quy luật phát triển của xã hội. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt
Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
3/Bản chất Đảng Cộng sản Việt Nam
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
bản chất giai cấp cơng nhân là bản chất chính của Đảng Cộng sản.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh nêu rõ quan hệ về việc Đảng là của ai, Bác
khẳng định:Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, mang bản
chất giai cấp cơng nhân. Vì thế chúng ta cần phải khẳng định rằng bản chất giai
cấp công nhân của Đảng ta là điều kiện tiên quyết
Theo Bác Đảng Cộng sản cịn có những bản chất khác như bản chất nhân

dân lao động, bản chất dân tộc, trong báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ II của Đảng (2/1951) Hồ Chí Minh nêu rõ: ‘‘Trong giai đoạn
này,quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là
một.Chính vì đảng lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động ,cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”.
Đảng Cộng Sản Việt Nam bắt nguồn từ mục tiêu gải phóng dân tộc khỏi
ách thống trị của thực dân, giải phóng giai cấp vơ sản khỏi sự áp bức, bóc lột vì
vậy Đảng là sản phẩm của sự kết hợp giữa ba yếu tố: chủ nghĩa Mác Lênin,
phong trào công nhân, phong trào yêu nước Việt Nam
3.1/ Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng
Bác cho đã đến các nước phát triển trên thế giới tìm kiếm, học hỏi tiếp thu
các hệ tư tưởng khác nhau và Người đã nhận ra rằng chỉ có Chủ nghĩa MácLênin mới thật sự mang lại sự tự do cho con người, là công cụ tốt nhất để chống
lại Chủ nghĩa Đế quốc của các nước thuộc địa, chống lại sự áp bứt bóc lột của
giai cấp tư sản lên giai cấp vô sản và Chủ nghĩa Mác-Lênin phù hợp tư tưởng
giải phóng Nhân dân, Đất nước của Người.
8


Bác đã nghiên cứu Chủ nghĩa Mác-Lênin và kết hợp với tư tưởng của
Người để phù hợp với tình hình chế độ Thực dân nửa Phong kiến của nước ta từ
đó Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết ra sách “Đường Cách mệnh” để truyền bá Chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng của Người để Nhân dân Việt Nam dựa vào đó
chơng lại sự lệch lạc tư tưởng.
Đến nay, Đảng ta vẫn dựa vào Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh làm tiền đề phát triển Đất nước tồn diện theo định hướng Chủ nghĩa Xã
hội.
3.2/ Phong trào Công nhân
Phong trào Cơng nhân bùng nổ trên tồn thế giới vào cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX, nhằm đòi quyền lợi cho Công nhân chống lại sự áp bứt boc lột của
giai cấp tư sản làm tiền đề hình thành Chủ nghĩa Mác-Lênin.

Giai cấp Cơng nhân Việt Nam được hình thành từ những người nông dân
mất ruộng đất vào tay địa chủ phong kiến hoặc do những nhà xưởng công
nghiệp hình thành lấn chiếm ruộng đất. Trong giai đoạn này giai cấp công nhân
Việt Nam ngày càng phát triển mạnh mẽ, đơng đảo và từ đó mâu th̃n quyền lợi
giữa họ và giai cấp tư sản càng lớn. Bước đầu hình thành những cuộc đấu tranh
như đình cơng, u cầu các quyền lợi sau đó bùng nổ thành các cuộc biểu tình
phản đối sự áp bứt, phá hủy nhà xưởng u cầu sự cơng bằng, vì thế tầng lớp tư
sản phải mạnh tay đàn áp làm cho mâu thuẫn lên đến đỉnh điểm, và đến khi có
sự lãnh đạo của Đảng, cung với đó tiếp thu được Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, giai cấp cơng nhân thành giai cấp lãnh đạo trong cơng cuộc
giải phóng Đất nước, giải phóng giai cấp vơ sản.
Trong tác phẩm “Thường thức chính trị” Bác đã nêu rõ vì sao giai cấp
cơng nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng Viêt Nam:"Tất cả những người khơng
có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động mà sống, là công nhân. Bất kỳ họ lao
động trong công nghệ hay là trong nông nghiệp, bất kỳ họ làm nghề gì, cũng đều
thuộc về giai cấp công nhân.

9


Chủ chốt của giai cấp ấy, là những công nhân ở các xí nghiệp như: Nhà
máy, hầm mỏ, xe lửa, ... Những công nhân thủ công nghệ, những người làm thuê
ở các cửa hàng, những cố nông,..., cũng thuộc về giai cấp công nhân. Nhưng chỉ
công nhân công nghệ là hồn tồn đại biểu cho cái đặc tính của giai cấp cơng
nhân.
Đặc tính cách mạng của giai cấp cơng nhân là: Kiên quyết, triệt để, tập
thể, có tổ chức, có kỷ luật. Lại vì là giai cấp tiền tiến nhất trong sức sản xuất,
gánh trách nhiệm đánh đổ chế độ tư bản và đế quốc, để xây dựng một xã hội
mới, giai cấp cơng nhân có thể thấm nhuần một tư tưởng cách mạng nhất, tức là
Chủ nghĩa Mác-Lênin. Đồng thời, tinh thần đấu tranh của họ ảnh hưởng và giáo

dục các tầng lớp khác. Vì vậy, về mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và hành động,
giai cấp công nhân đều giữ vai trị lãnh đạo.
Có người nói: Giai cấp cơng nhân Việt Nam số người cịn ít, khơng lãnh
đạo được cách mạng.
Nói vậy khơng đúng. Lãnh đạo được hay là khơng, là do đặc tính cách
mạng, chứ khơng phải do số người nhiều ít của giai cấp. Giai cấp cơng nhân có
Chủ nghĩa Mác-Lênin. Trên nền tảng đấu tranh, họ xây dựng nên Đảng theo Chủ
nghĩa Mác-Lênin là Đảng Lao động Việt Nam. Đảng đề ra chủ trương, đường
lối, khẩu hiệu cách mạng, lôi cuốn giai cấp nông dân và tiểu tư sản vào đấu
tranh, bồi dưỡng họ thành những phần tử tiên tiến. Lại có những phần tử trí thức
tham gia cách mạng và vơ sản hóa. Thành thử đội ngũ chính trị của giai cấp
cơng nhân ngày càng phát triển. Mai sau, công nghệ của ta ngày càng phát triển,
thì số cơng nhân ngày càng tăng thêm.
Tuy hiện nay ở nước ta giai cấp công nhân cịn nhỏ, song ở thế giới thì
giai cấp cơng nhân rất to lớn. Cho nên quyền lãnh đạo cách mạng chỉ do giai cấp
cơng nhân nắm”.

Giai cấp cơng nhân nói riêng và giai cấp vơ sản nói chung đồn kết lại trở
thành giai cấp lãnh đạo cách mạng, tiên phong trong việc giải phóng con người,
mang lại sự tự do, cơng bằng xã hội, chống lại áp bức bóc lột.
Đến hiện tại giai cấp Công nhân vẫn là bản chất chính của Đảng, là giai
cấp đưa đất nước phát triển hiện tại và trong tương lai.
3.3/ Phong trào yêu nước
Bác dựa vào lòng yêu nước nồng nàn của dân ta để tạo sự đoàn kết của tất
cả các giai cấp với mục tiêu quan trọng nhất là giải phóng Đất nước sau đó giải
10


quyết những mâu thuẫn nội bộ giữa các giai cấp, Người đã đặt ra được vấn đề
cấp thiết nhất để thực hiện lập tức.

Trước đó cũng có các phong trào yêu nước đứng lên đấu tranh như khởi
nghĩa Yên Thế, phong trào Cần vương,... để khôi phục chế độ Phong kiến hay
các phong trào của các cụ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh,... cải tổ Đất nước
tiếp thu văn hóa, kiến thức khoa học theo khuynh hướng bạo động và bất bạo
động của Chủ Nghĩa Tư bản nhưng không giải quyết được vấn đề mâu thuẫn
giai cấp, riêng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rút được kinh nghiệm của những người
đi trước để vừa giải quyết được tất cả các vấn đề Đất nước,Xã hội, giai cấp.
Đảng được ra đời để thực hiện những nhiệm vụ trên.
Đảng thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng những giai cấp vố
sản gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Hiện tại Đảng vẫn đang trong công cuộc xây dựng, bảo vệ, phát triển đất
nước theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa
Đảng không chỉ đấu tranh vì lợi ích của giai cấp cơng nhân mà còn đấu
tranh cho quyền lợi của tập thể, của cả dân tộc. Đảng đại diện cho lợi ích của
toàn dân tộc nên nhân dân Việt Nam
Như vậy mặc dù đảng ta mang bản chất của giai cấp công nhân xong đảng
ta nguyện phấn đấu suốt đời cho lợi ích khơng phải chỉ riêng giai cấp cơng nhân
mà cịn là toàn thể nhân dân lao động và cả dân tộc.
4. Liên hệ đến công tác xây dựng đảng trong sinh viên tại trường đại học
4.1/ Thực trạng vai trò của đảng trong các trường đại học
Ngày nay,chính sách của Đảng ,Nhà nước về đổi mới và tự chủ đại học là một
trong những vấn đề cấp bách,giúp đổi mới quản trị đại học,đổi mới phương thức
quản lý của nhà nước đối với giáo dục đại học.
Để hoàn thành nhiệm vụ,sứ mạng khi thực hiện tự chủ,các trường đại học cần rất
nhiều điều kiện,trong đó 3 vấn đề cốt lõi làm nên thành cơng đó là: nhân lực tài
11


chính và cơ chế quản lý.Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ
tư,trước yêu cầu của giáo dục tồn cầu,để các trường đại học có bước phát triển

đột phá thì chủ trương đổi mới và cơ chế quản trị đại học phù hợp,tạo nguồn
nhân lực cho các trường đại học phát triển là rất quan trọng,nó quyết định sự
phát triển và thành công của các trường đại học và nền giáo dục đại học Việt
Nam.
Đảng,Nhà nước đã có nhiều chủ trương,chính sách đầu tư cho giáo dục đại
học,đặc biệt đổi mới quản trị và thực hiện tự chủ
Ngay từ năm 1996, Đảng đã có Nghị quyết Trung ương 2, khóa VIII “Về định
hướng chiến lược phát triển giáo dục-đào tạo trong thời kỳ cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000” trong đó khẳng định “Thực hiện các
chính sách ưu tiên ưu đãi đối với giáo dục - đào tạo, đặc biệt là chính sách đầu
tư và chính sách tiền lương. Có các giải pháp mạnh mẽ để phát triển giáo dục”.
Năm 2003, Thủ tướng Chính phủ đã Ban hành Điều lệ trường đại học, trong đó
quy định “trường đại học được quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm theo quy
định của pháp luật về quy hoạch, kế hoạch phát triển nhà trường, tổ chức các
hoạt động đào tạo, khoa học, công nghệ, tài chính, quan hệ quốc tế, tổ chức và
nhân sự”
Luật Giáo dục (năm 2005) đã đề cập đến việc thực hiện phân công, phân cấp
quản lý giáo dục, tăng cường quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cơ sở giáo
dục.
Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP ngày 02/11/2005 của Chính phủ về đổi mới cơ
bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006 – 2020 cũng khẳng
định tầm quan trọng của việc hồn thiện chính sách phát triển giáo dục đại học
theo hướng bảo đảm quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của cơ sở giáo dục đại
học.
Nghị quyết số 29-NQ/TW (năm 2013) của Trung ương Đảng, khóa XI “Về đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo….”, vấn đề tự chủ đại học tiếp tục
được khẳng định.
Nghị quyết số 19-NQ/TW năm 2017 tiếp tục nhấn mạnh việc thực hiện chuyển
đổi hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập đủ điều kiện sang cơ chế tự
chủ, tự chịu trách nhiệm, hạch toán như doanh nghiệp…

Nghị quyết đại hội Đảng bộ thành phố Hà Nội lần thứ XVI nhiệm kỳ 2015-2020
khẳng định mục tiêu: Xây dựng Thủ đô thực sự là trung tâm lớn, tiêu biểu hàng
12


đầu của cả nước về giáo dục, đào tạo… tạo chuyển biến căn bản, toàn diện về
chất lượng và hiệu quả giáo dục, đào tạo; phấn đấu đến năm 2025 giáo dục Thủ
đơ đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.
Nghị quyết đại hội Đảng bộ Khối các trường đại học, cao đẳng Hà Nội nhiệm kỳ
2015-2020 khẳng định mục tiêu: Đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn
nhân lực, đáp ứng u cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Trải qua các kỳ đại hội IX, X, XI, XII của Đảng đều khẳng định chủ trương đổi
mới giáo dục trong đó có chú trọng cơ chế thực hiện tự chủ trong giáo dục đào
tạo. Năm 2018, Quốc hội ban hành Luật số 34/2018/QH14, Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Giáo dục đại học (GDĐH), tạo cơ sở pháp lý quan
trọng để tiếp tục thúc đẩy thực hiện tự chủ đại học, sử dụng hiệu quả các nguồn
lực để nâng cao chất lượng GDĐH, thực hiện hội nhập quốc tế và đáp ứng tốt
hơn nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao.
Chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đã tạo
điều kiện cho các cơ sở giáo dục đại học, chủ động trong đổi mới mơ hình,
phương thức hoạt động. Dù chưa có trường đại học nào thực sự nổi lên như một
điển hình về thành công khi thực hiện tự chủ, nhưng bước đầu đã đạt được
những kết quả quan trọng, mở ra hướng phát triển mới cho giáo dục đại học
trong tương lai.
Thực tiễn đã khẳng định, vai trò lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định thắng
lợi trong chủ trương đổi mới, phát triển giáo dục đại học Việt Nam, đã được thể
hiện đầy đủ, sâu sắc trong các văn bản chỉ đạo của Đảng, Nhà nước.
4.2/ Một số vấn đề rút ra từ hoạt động thực tiễn
- Chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước điều chỉnh hoạt
động của trường đại học đã và đang được triển khai, bên cạnh những yếu tố

thuận lợi, đổi mới, hội nhập thành cơng vẫn cịn một số bất cập: hệ thống pháp
luật chưa thống nhất và đồng bộ, đặc biệt là các luật chuyên ngành. Thực tiễn đã
khẳng định: Vai trò lãnh đạo của Đảng trong các trường đại học là quyết định,
Đảng giữ vai trị lãnh đạo tồn diện các hoạt động, đặc biệt là công tác tổ chức,
cán bộ. Sự đoàn kết, thống nhất trong lãnh đạo của Đảng, Hội đồng trường, Ban
Giám hiệu sẽ quyết định thành công và phát triển của trường đại học.
- Công tác quy hoạch, sắp xếp, bố trí cán bộ lãnh đạo của các trường đại học rất
quan trọng, quyết định sự phát triển và thành công của các trường. Hiện nay, chủ
trương nhất thể hóa chức danh Bí thư đảng ủy và Hiệu trưởng được triển khai và
thực hiện hiệu quả từ nhiều năm. Tuy nhiên, theo tinh thần Nghị quyết 19NQ/TW, định hướng Bí thư đảng ủy kiêm Chủ tịch Hội đồng trường và đặc biệt
Nghị định số 99/2019/NĐ- CP hướng dẫn thực hiện luật Giáo dục đại học sửa
đổi 2018 yêu cầu các trường thực hiện thống nhất từ tháng 8/2020. Hiện nay đã
có một số trường đủ điều kiện đáp ứng thực hiện mơ hình Chủ tịch HĐT kiêm
Bí thư nhưng phần lớn các trường chưa thực hiện được, bởi còn phụ thuộc vào
13


nguồn cán bộ và điều kiện thực tiễn từng trường; trong giai đoạn này, các trường
sẽ lựa chọn 1 trong 2 phương án kiêm nhiệm trên để đảm bảo đoàn kết và hoạt
động hiệu quả của đơn vị.
- Chủ trương của Đảng về tự chủ đại học đã được khẳng định rõ ràng, xuyên
suốt và đó là chủ trương đúng đắn, cần thiết trong đổi mới giáo dục đại học; Các
trường cũng đã nhận thức được thuận lợi và mong muốn thực hiện thành công
chủ trương quan trọng này, nhưng thực tiễn hiện nay các trường với nguồn lực
hạn chế, mới đang trong giai đoạn thí điểm, chưa xuất hiện trường điển hình về
sự thành cơng tồn diện trong tự chủ để các trường học tập, đối sánh. Một trong
những nguyên nhân là do chính sách chưa đồng bộ, chưa có hệ thống văn bản
hướng dẫn cụ thể hóa các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước. Do đó cơng cuộc đổi mới với mục tiêu thực hiện tự chủ đại học thời gian
qua diễn ra còn chậm.

4.3/ Biện pháp phát huy vai trò của Đảng trong các trường Đại học
Công tác phát triển đảng trong sinh viên là một trong những nội dung trọng tâm
luôn được Ban cán sự Đảng, lãnh đạo Bộ Giáo dục và Đào tạo quan tâm chỉ đạo
thực hiện thông qua công tác chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện đối với các địa
phương và các cơ sở đào tạo. Hướng dẫn các Sở Giáo dục và Đào tạo, các cơ sở
đào tạo tăng cường cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên. Coi đây là
một nội dung quan trọng nhằm góp phần định hướng nâng cao nhận thức về Chủ
nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng và
chính sách pháp luật của Nhà nước.
Trong thời gian qua, việc thực hiện Chỉ thị 34 của Bộ Chính trị về tăng cường
cơng tác chính trị tư tưởng, củng cố tổ chức đảng, đoàn thể quần chúng và công
tác phát triển đảng viên trong các trường đại học đã đạt được những kết quả rất
quan trọng, có ý nghĩa to lớn trong việc củng cố, xây dựng và phát triển tổ chức
đảng nói chung, cơ sở đảng trong ngành Giáo dục nói riêng.
Việc làm tốt cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng, lí tưởng cách mạng, đạo đức,
lối sống văn hóa, các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc sẽ góp phần quan
trọng ổn định xã hội, thấm nhuần đường lối độc lập dân tộc phải gắn liền với
chủ nghĩa xã hội, củng cố niềm tin tuyệt đối cho thế hệ trẻ kiên định đi theo con
14


đường đổi mới đất nước của Đảng. Công tác phát triển đảng viên trong trường
học là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong việc tìm ra những nhân tố
tích cực để “ươm mầm” bồi dưỡng, kết nạp, tăng cường sức trẻ, sức chiến đấu
cho Đảng, để xây dựng tổ chức cơ sở đảng nhà trường trong sạch, vững mạnh.
Việc đẩy mạnh công tác phát triển Đảng trong sinh viên, đồn viên hiện nay có ý
nghĩa rất quan trọng để xây dựng và củng cố lực lượng lãnh đạo trẻ tiên phong,
xung kích trong việc xây dựng, bảo vệ Đảng và Nhà nước.
Để thực hiện tốt điều đó, các cơ sở đào tạo, các trường đại học tập trung làm tốt
các nội dung sau:

Thứ nhất, các nhà trường xác định cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng, kết nạp
Đảng cho sinh viên là một nhiệm vụ rất quan trọng trong hoạt động của các
trường học đại học.
Thứ hai, cần đẩy mạnh cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng, hoạt động giáo dục
toàn diện, tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức chính trị, giác ngộ lý tưởng
cách mạng cho sinh viên. Nhân rộng các tấm gương đảng viên - sinh viên tiêu
biểu để lan tỏa.
Thứ ba, kiện toàn bộ máy theo dõi công tác phát hiện, bồi dưỡng, kết nạp Đảng
cho sinh viên: Đảng ủy Trường chỉ đạo, Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên, Phịng
Cơng tác chính trị - sinh viên, các chi bộ tham gia công tác phát hiện, bồi dưỡng
và kết nạp Đảng cho sinh viên.
Thứ tư, đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước trong sinh viên, đổi mới,
sáng tạo trong dạy và học; học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh; các hoạt động tình nguyện vì cộng đồng, hoạt động các câu lạc bộ
để sinh viên rèn luyện đạo đức, lối sống văn hóa. Qua đó phát hiện những sinh
viên xuất sắc, tiêu biểu để cử đi học cảm tình đảng và kết nạp đảng... Phát huy
vai trị của tổ chức Đoàn, Hội.
15


Thứ năm, xây dựng khung tiêu chí để kết nạp sinh viên trong các trường đại học.
Gắn tiêu chí này với quy định đánh giá kết quả rèn luyện sinh viên, kết quả học
tập, hài hòa, bảo đảm chất lượng nguồn kết nạp Đảng. Các nhà trường có kế
hoạch phân loại và bồi dưỡng sinh viên ngay từ năm thứ nhất (với sinh viên đại
học).
Thứ sáu, phối hợp Ban Tổ chức Trung ương để rà soát sửa đổi, hướng dẫn các
qui trình, thủ tục, sử dụng kết quả học cảm tình đảng, sinh hoạt đảng cho sinh
viên, nhất là sinh viên sau khi tốt nghiệp.
Vụ Giáo dục Chính trị và Công tác học sinh-sinh viên sẽ tham mưu Ban Cán sự
Đảng nghiên cứu ban hành văn bản gửi Đảng ủy các Sở Giáo dục và Đào tạo,

các trường đại học, Tỉnh ủy/ thành ủy các địa phương để tiếp tục triển khai Chỉ
thị 34 của Bộ Chính trị nhằm đẩy mạnh công tác phát triển đảng tốt hơn thời
gian tới...
Thứ bảy, tiếp tục phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương triển khai Đề án
“Đổi mới học tập lý luận chính trị trong hệ thống giáo dục quốc dân”, các Bộ
ngành để tiếp tục thực hiện Quyết định số 1501/QĐ-TTg ngày 28/8/2015 của
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Tăng cường giáo dục lý tưởng cách
mạng, đạo đức, lối sống cho thanh niên, thiếu niên và nhi đồng giai đoạn 20152020”.
Làm tốt công tác phát triển đảng trường học sẽ trực tiếp tạo động lực phấn đấu
cho sinh viên và ngược lại, tạo môi trường tốt sinh viên tham gia sẽ tạo nguồn
tốt cho công tác kết nạp Đảng, nhằm xây dựng tổ chức Đảng ngày càng vững
mạnh, phát triển;
Góp phần triển khai thành cơng sự nghiệp Giáo dục và Đào tạo, tạo nguồn nhân
lực chất lượng cao để bảo vệ, xây dựng đất nước…

16


C.Kết luận
Tư tưởng Hồ Chí Minh đối với Đảng và nhà nước có vai trị vơ cùng to
lớn. Bằng việc vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa của MAC_LENIN, kết
hợp chặt chẽ giữa lý luận và hoạt động thực tiễn, Bác đã xác lập được chuỗi hệ
thống các quan niệm , bản chất, vai trò, những vấn đề mang tính ngun tắc liên
quan đến cơng tác xây dựng và phát triển Đảng.
Đối với Bác, ngoài 2 yếu tố chính xây nên đảng thì cịn phải kể đến yếu tố
thứ 3 mà khơng đất nước nào có như nước mình : đó là các Phong trào u
nước. Điều này đã được chứng thực từ các di tích lịch sử như các bài viết, cuốn
sách từ thời vua Hùng ngự trị đến khi thực dân đô hộ nước ta và đã được Bác thể
hiện lúc viết bài trong dịp đặc biệt kỷ niệm 30 năm thành lập Đảng. Với cương
vị là người lãnh đạo, Bác khẳng định Đảng là của nhân dân lao động chứ không

thuộc về bất kỳ tầng lớp, thành phần tổ chức nào . Đảng là đại diện mang đến lợi
ích cho tồn dân tộc Việt - vì vậy việc coi trọng , đào tào , bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ , viên chức là công việc hàng đầu trong bộ máy nhà nước, luôn đảm bảo
cho Nhà nước thực sự sạch, vững mạnh và đúng với tiêu chí “ của dân , do dân
và vì dân “. Để đảm bảo có thể thực hiện được những điều này, Bác còn đề cập
sâu sắc đến chế độ kiểm tra đánh giá , phát huy vai trò tiên phong của đội ngũ
cán bộ Đảng.
Với tư tưởng nhân văn cao cả về mối quan hệ biện chứng giữa Đảng và
dân, HCM đã tìm ra những giải pháp hữu hiệu với mục đích thể hiện được
nguyên tắc dân là chủ, dân làm gốc. Và theo Người cách duy nhất để có thể duy
trì cơ chế đó là khi cán bộ, đảng viên là người “đầy tớ” trung thành của nhân
dân. Thế cịn về phía nhân dân? Khi Người và Đảng đang cố gắng từng ngày để
tìm lợi ích cho từng người dân thì chúng ta phải làm gì để có thể cùng với Đảng
xây dựng đất nước vững mạnh? Nối tiếp con đường các cha ông ta đã cố gắng
bao đời. Xin thưa để có thể nối tiếp con đường đang xây giang dở thì chúng ta
cần phải học hành nghiêm túc, tham gia tích cực các lớp học, các cuộc thi về
17


đảng về tư tưởng của Bác để có thể góp thêm công sức vào công cuộc xây dựng
đất nước.
D.Danh mục tài liệu tham khảo:
(1) Hồ Chí Minh. Tồn tập, t.10. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 8.
(2) Hồ Chí Minh. Sđd., t.10, tr. 201.
(3) Hồ Chí Minh. Sđd., t. 9, tr. 293.
(4) Hồ Chí Minh. Sđd., t. 6, tr. 175.
(5) V.I..Lênin. Toàn tập, t. 43. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, tr. 70.
(6) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1976, tr. 139.
(7) ngày truy cập 20/10/2010

(8) ngày
truy cập 20/10/2020
(9) ngày truy cập 20/10/2020

18



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×