Tải bản đầy đủ (.docx) (86 trang)

(Luận văn thạc sĩ) trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử hình sự từ thực tiễn quận hoàng mai, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (311.85 KB, 86 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

QUÁCH MẠNH THÀNH

TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG TRONG GIAI ĐOẠN XÉT
XỬ SƠ THẨM HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN HOÀNG MAI,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, 2021


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

QUÁCH MẠNH THÀNH

TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG TRONG GIAI ĐOẠN XÉT
XỬ SƠ THẨM HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN HOÀNG MAI,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Ngành: Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8 38 01 04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. DƯƠNG TUYẾT MIÊN

HÀ NỘI, 2021




LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan, đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nghiên cứu nêu trong đề tài là trung thực và tôi xin chịu trách
nhiệm về tất cả những số liệu, kết quả nghiên cứu đó. Đề tài này chưa được ai
cơng bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.
Tác giả đề tài

Quách Mạnh Thành


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.......................................................................................................... 1
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA
BỔ SUNG TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ8
1.1. Khái niệm trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
hình sự............................................................................................................... 8
1.2. Đặc điểm trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
hình sự............................................................................................................. 16
1.3. Ý nghĩa trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm hình
sự.....................................................................................................................21
Chương 2. NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH
SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ TRẢ HỒ SƠ ĐIỀU TRA BỔ SUNG
TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM............................................... 24
2.1. Căn cứ trả hồ sơ điều tra bổ sung.............................................................24
2.2. Thẩm quyền ra quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung.............................. 28
2.3. Phạm vi, giới hạn trả hồ sơ điều tra bổ sung............................................29
2.4. Số lần trả hồ sơ điều tra bổ sung.............................................................. 34
2.5. Thời hạn trả hồ sơ điều tra bổ sung..........................................................35

2.6. Quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung...................................................... 36
2.7. Thủ tục ra quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung......................................36
Chương 3. THỰC TIỄN TRẢ HỒ SƠ ĐIỀU TRA BỔ SUNG TRONG
GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM HÌNH SỰ CỦA TĨA ÁN NHÂN DÂN
QUẬN HOÀNG MAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI VÀ GIẢI PHÁP NÂNG
CAO HIỆU QUẢ...........................................................................................44
3.1. Thực tiễn trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
hình sự của Tịa án nhân dân quận Hồng Mai, thành phố Hà Nội.................44
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn
xét xử sơ thẩm hình sự.................................................................................... 60
KẾT LUẬN.................................................................................................... 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................74


BLTTHS
BLHS
CQĐT
ĐTV
HĐXX
KSV
TTHS
THTT
TAND
TLTT
TANDTC
VKS
VKSND
VKSNDTC



DANH MỤC BẢNG, BIỂU
Bảng 3.1. Thống kê số liệu trả hồ sơ điều tra bổ sung của TAND
quận Hoàng Mai từ năm 2016 đến năm 2020 .................................
Bảng 3.2. Số vụ án hình sự sơ thẩm đã xét xử, số vụ trả hồ sơ hàng
năm của TAND quận Hoàng Mai từ năm 2016 đến năm 2020 .......
Bảng 3.3. Các căn cứ TAND quận Hoàng Mai thành phố Hà Nội trả
hồ sơ .............................................................................................
để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự từ năm
2016 .............................................................................................
đến năm 2020 ...............................................................................
Biểu đồ 3.1. Tỷ lệ % giữa các căn cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự của TAND quận Hồng Mai
từ năm 2016 đến năm 2020 ...........................................................


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cơng cuộc xây dựng và đổi mới đất nước do Đảng và Nhà nước ta khởi
xướng đã và đang tiến hành một cách toàn diện ở mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội từ cải cách kinh tế, cải cách hành chính, cải cách giáo dục, văn hóa,...
trong đó có vấn đề cải cách tư pháp. Việc cải cách tư pháp từ lâu đã được
Đảng và Nhà nước thật sự quan tâm, định hướng, chỉ đạo rõ ràng trong các
Nghị quyết của Đảng, đặc biệt phải nói đến Nghị quyết số 08 – NQ/TW ngày
2/1/2002 của Bộ Chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp
trong thời gian tới” hay cụ thể hơn là “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020” trong Nghị quyết số 49
– NQ/TW ngày 2/6/2005. Việc cải cách tư pháp khơng chỉ góp phần
làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh mà trên
hết nó có ý nghĩa tiên quyết trong cơng tác đấu tranh phịng, chống tội phạm,
một nhiệm vụ cốt lỗi mà bất cứ hình thức Nhà nước nào cũng phải thực hiện

để đảm bảo trật tự, an tồn cho xã hội.
Tuy nhiên, khơng phải bất cứ khi nào các cơ quan tiến hành tố tụng
cũng thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, bởi nhiều nguyên nhân khác nhau mà
kết quả điều tra, quyết định truy tố có thể bị sai, lệch làm dẫn đến việc xét xử
tội phạm khơng đầy đủ, có thể bỏ lọt tội phạm hoặc làm oan người vơ tội.
Chính vì vậy, BLTTHS đã đặt ra chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, để
những cơ quan, người tiến hành tố tụng được phép giao trả hồ sơ vụ án cho
các cơ quan trước đây yêu cầu điều tra lại một hoặc một số vấn đề để đảm bảo
tính khách quan, đầy đủ của vụ án hoặc nhằm khắc phục những vi phạm pháp
luật nghiêm trọng của giai đoạn trước, mà các cơ quan này khơng tự mình
khắc phục được.

1


. Quy định này cũng được quy định trong giai đoạn xét xử, khi Tịa án
nhân dân cũng có có thẩm quyền quyết định trả hồ sơ để Viện kiểm sát, Cơ
quan điều tra thực hiện điều tra bổ sung vụ án. Như vậy, Tịa án nhân dân là
mắt xích cuối cùng trong việc bảo đảm hồ sơ vụ án được đầy đủ, khách quan
trước khi đưa ra xét xử tại phiên tòa. Việc quy định thẩm quyền trong việc trả
hồ sơ để điều tra bổ sung đã tạo ra thêm trách nhiệm cho Tòa án nhân dân
trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn xét xử của mình, góp phần đảm bảo
mọi tội phạm, người phạm tội đều bị xử lý, không làm oan người vô tội. Mặc
dù qua từng thời kỳ, quy định về trả hồ sơ để điều tra bổ sung ln đã dược
hồn thiện hơn so với trước đây, nhưng trên thực tế ở một số địa phương việc
áp dụng quy định về trả hồ sơ để điều tra bổ sung vẫn còn tồn tại những hạn
chế nhất định.
Quận Hoàng Mai là một trong những quận đứng đầu của thành phố Hà
Nội cả về mặt kinh tế lẫn về mặt dân số, chính sự ảnh hưởng của phát triển
kinh tế mà tình hình tội phạm cũng từ đó mà ngày càng phức tạp, ở mức đáng

báo động đã tạo ra nhiều áp lực đối với các cơ quan có trách nhiệm thực hiện
cơng cuộc đấu tranh phịng, chống tội phạm nói chung và Tịa án nhân dân
quận Hồng Mai nói riêng. Để đáp ứng u cầu đặt ra, thời gian Tịa án nhân
dân quận Hồng Mai đã có nhiều giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt
động, góp phần giữ vững trật tự - xã hội trên địa bàn. Tuy nhiên, quy định của
BLTTHS năm 2015 về trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tịa án vẫn cịn nhiều
bất cập đã gây ra khơng ít khó khăn cho các Thẩm phán khi thực hiện nhiệm
vụ của mình. Mặt khác, trên thực tiễn, trong một số trường hợp, việc trả hồ sơ
để điều tra bổ sụng bị lạm dụng với mục đích coi đó là giải pháp kỹ thuật
pháp lý để kéo dài tố tụng, hoàn thành chỉ tiêu giải

2


quyết án khi kết thúc năm công tác… Trong khi đó, BLTTHS năm 2015 chưa
giải quyết được các vướng mắc này. Các cơng trình nghiên cứu trước đây
chưa đưa ra được giải pháp, kiến nghị khả thi để giải quyết khó khăn, vướng
mắc nêu trên.
Vì vậy, việc nghiên cứu, phân tích nâng cao nhận thức về trả hồ sơ để
điều tra bổ sung là vấn đề hết sức cần thiết, quan trọng đối với đơn vị Tòa án
nhân dân quận Hồng Mai nói riêng và của ngành Tịa án nói chung.
Từ những lý do nêu trên, tác giả chọn đề tài: “Trả hồ sơ để điều tra bổ
sung trong giai đoạn xét xử hình sự từ thực tiễn quận Hồng Mai, thành
phố Hà Nội” làm đề tài Luận văn Thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đề tài
Dưới góc độ khoa học, thời gian qua việc nghiên cứu về chế định trả hồ
sơ để điều tra bổ sung cũng được đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp


một số cơng trình nghiên cứu được cơng bố như :

Các luận án, luận văn luật học: 1) Hoàng Thùy Linh, Luận văn thạc sĩ

luật học: Trả hồ sơ điều ta bổ sung trong tố tụng hình sự Việt Nam,2016; 2)
Trần Xuân Huệ, Luận văn thạc sĩ luật học: Trả hồ sơ để điều tra bổ sung cấp
sơ thẩm của tòa án cấp sơ thẩm những vấn đề lý luận và thực tiễn, Khoa luật
Đại học Quốc Gia Hà Nội, 2009; 3) Nguyễn Thị Thương Huyền, Luận văn
Thạc sĩ Luật học: Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
theo Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hải Phòng,
Học viện Khoa học xã hội, 2016; 5) Nguyễn Đức Hạnh, Luận văn Thạc sĩ
Luật học: Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong tố tụng hình sự Việt Nam,
Trường Đại học Luật Hà Nội, 2009; 5) Nguyễn Thị Hải Châu, Luận văn thạc
sĩ Luật

3


học: Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong tố tụng hình sự Việt Nam,
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010;…
Một số sách chuyên khảo, giáo trình, bài viết: 1) Nguyễn Ngọc Anh,
Phan Trung Hồi (2018), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự 2015,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội; 2) Trường Đại học Luật Hà
Nội, Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Cơng an nhân dân, Hà
Nội, 2016; 3 Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội (2016), Giáo trình luật tố tụng
hình sự, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia -sự thật, Hà Nội; 4) Trần Vi Dân,
Một số giải pháp khắc phục việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung, điều tra lại,
Tạp chí Kiểm sát số 02, 2010; 5) Vũ Gia Lâm, Hồn thiện quy định của Bộ
luật Tố tụng hình sự về việc Tòa án cấp sơ thẩm trả hồ sơ để điều tra bổ sung,
Tạp chí Tịa án nhân dân, 2013; 6) Nguyễn Quý Lộc, Bàn về chế định “ trả hồ
sơ để điều tra bổ sung”, Tạp chí Tòa án nhân dân số 8, 2013; 7) Nguyễn Phúc
Lưu, Bàn về việc trả hồ sơ vụ án hình sự để điều tra bổ sung, Tạp chí Kiểm

sát, 2006;…
Tuy nhiên, qua nghiên cứu các cơng trình trên cho thấy một số cơng
trình có phạm vi nghiên cứu rộng, chưa có cơng trình nào trực tiếp đi từ thực
tiễn tại thành phố Hà Nội, một vài cơng trình nghiên cứu dựa trên những quy
định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003 nên đã khơng cịn phù hợp. Vì vậy việc
nghiên cứu đề tài Luận văn Thạc sĩ “Trả hồ sơ để
điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử hình sự từ thực tiễn quận Hoàng
Mai, thành phố Hà Nội” vẫn là một nội dung mang tính mới, đáp ứng địi hỏi
của thực tiễn cơng cuộc đấu tranh, phịng chống tội phạm trong giai đoạn hiện
nay.
3.

Mục đích và nhiệm vụ nguyên cứu

4


Mục đích của đề tài là nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận, quy
định của pháp luật về trả hồ sơ để điều tra bổ sung, làm rõ các vi phạm, các
vấn đề hạn chế còn tồn tại và đưa ra những giải pháp thích hợp nhằm nâng
cao cơng tác hoạt động của Tịa án nhân dân quận Hồng Mai, thành phố Hà
Nội nói riêng và của ngành Tịa án nói chung.
Để có thể đạt được mục đích trên, nhiệm vụ được đặt ra là:
-

Phân tích một số vấn đề lý luận về trả hồ sơ để điều tra bổ sung
-

Phân tích, làm rõ các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về


trả hồ sơ để điều tra bổ sung
- Nghiên cứu đánh giá, thực tiễn hoạt động áp dụng quy định trả hồ sơ
để điều tra bổ sung của Tịa án nhân dân quận Hồng Mai.
-

Đưa ra những giải pháp nâng cao hiệu quả việc trả hồ sơ để điều tra

bổ sung trong giai đoạn xét xử của Toà án nhân dân quận Hoàng Mai
4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Để có thể đạt được những mục đích trên, đề tài tập trung nghiên cứu
những đối tượng cụ thể :
+

Thực tiễn trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ

thẩm hình sự của Tịa án nhân dân quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội và giải
pháp nâng cao hiệu quả.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung phân tích các quy định của pháp luật về trả hồ sơ để
điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự. Đồng thời, phân tích
thực tiễn áp dụng quy định về trả hồ sơ để điều tra bổ sung

5


dựa trên cơng tác hoạt động của Tịa án nhân dân quận Hoàng Mai, thành phố

Hà Nội trong năm năm (từ năm 2015 đến năm 2020).
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở phương pháp luận
Đề tài được phân tích, nghiên cứu cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những chủ trương, đường lối,
chính sách hình sự, tố tụng hình sự của Đảng, Nhà nước ta về đấu tranh
phòng, chống tội phạm.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng một số phương pháp phổ biến, thường xuyên trong
nghiên cứu khoa học luật hình sự như: phương pháp phân tích và tổng hợp,
phương pháp thống kê, khảo sát thực tiễn, điều tra án điển hình...
để làm rõ và giải quyết các vấn đề đề đặt ra.
6. Ý nghĩa của đề tài
Về lý luận, đề tài được xây dựng những vấn đề lý luận về trả hồ sơ để
điều tra bổ sung. Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần hồn thiện và và
làm rõ những quy định của pháp luật hiện hành về trả hồ sơ để điều tra bổ
sung, căn cứ, phạm vi của trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Về thực tiễn, những giải pháp được đưa ra trong luận văn là một kênh
tham khảo hữu ích cho các đơn vị như Tịa án nhân dân các cấp nói chung và
đơn vị Tịa án nhân dân quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội nói riêng trong
thực tiễn áp dụng quy định về trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Ngoài ra, kết quả
của luận văn cũng có thể là tài liệu tham khảo cho các đối tượng nghiên cứu,
áp dụng pháp luật có liên quan đến vấn đề này.
7. Kết cấu của luận văn

6


Chương 1: Một số vấn đề lí luận về trả hồ sơ để điều tra bổ sung
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự

Chương 2: Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
hiện hành về trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm.
Chương 3: Thực tiễn trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét
xử sơ thẩm hình sự của Tịa án nhân dân quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội
và giải pháp nâng cao hiệu quả.

7


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG
TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử
sơ thẩm hình sự
1.1.1. Khái niệm trả hồ sơ để điều tra bổ sung
Theo từ điển tiếng Việt phổ thông thì hồ sơ có nghĩa là “tồn bộ tài liệu
có liên quan với nhau về một người, về một sự việc hay về một vấn đề nào
đó” [37].
cịn hồ sơ vụ án là “toàn bộ các giấy tờ, tài liệu, chứng cứ có liên quan đến
vụ án được sắp xếp một cách có trình tự, có hệ thống, tính trình tự và có hệ
thống của hồ sơ do cơ quan hoặc do người quản lý hồ sơ quy định” [4.tr. 310].
Hồ sơ vụ án hình sự là một loại hồ sơ quan trọng trong hệ thống hồ sơ
của Nhà nước ta, đây cũng chính là nguồn thơng tin phản ánh trực tiếp diễn
biến sự việc, quá trình điều tra, truy tố, xét xử, xác định tội phạm và người
thực hiện hành vi phạm tội, góp phần làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ
án, làm cơ sở cho việc truy tố của VKS và xét xử của Tòa án. Hồ sơ vụ án
hình sự phải có bảng thống kê tài liệu kèm theo. Bảng thống kê tài liệu cần
ghi rõ tên tài liệu, số bút lục và đặc điểm của tài liệu (nếu có). Tính trình tự
thể hiện ở việc cái gì quy định phải thu thập trước thì để trước, cái gì quy định
thu thập sau thì để sau. Tính hệ thống thể hiện ở chỗ văn bản, tài liệu thuộc

vấn đề gì thì được sắp xếp theo một hệ thống thống nhất về vấn đề đó, được
sắp xếp tập trung về các vấn đề đó. Ở mỗi giai đoạn tố tụng hình sự, hồ sơ vụ
án

8


hình sự ở giai đoạn nào thì cơ quan tiến hành tố tụng ở giai đoạn đó sẽ có
trách nhiệm bổ sung, hoàn thiện hồ sơ.
Sau khi VKS ra bản cáo trạng (hoặc quyết định truy tố theo thủ tục rút
gọn), đánh dấu cho việc kết thúc giai đoạn truy tố, trong thời hạn luật định kể
từ khi ra bản cáo trạng (hoặc quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn) thì VKS
phải chuyển hồ sơ vụ án kèm bản cáo trạng (hoặc quyết định truy tố theo thủ
tục rút gọn) đến Tòa án. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa được giao nghiên cứu
hồ sơ vụ án, tiến hành các hoạt động tố tụng để kiểm tra, đánh giá và quyết
định có đưa vụ án ra xét xử hay không. Trong trường hợp chưa đủ căn cứ để
đưa vụ án ra xét xử, Tòa án sẽ ra các quyết định tố tụng như tạm đình chỉ,
đình chỉ vụ án, trả hồ sơ để điều tra bổ sung, trong đó có quyết định trả hồ sơ
để điều tra bổ sung. Bên cạnh đó, tại phiên tịa, khi đang xét xử giải quyết vụ
án hình sự nếu có một trong các căn cứ để trả hồ sơ điều tra bổ sung theo luật
định thì Tịa án cũng tiến hành hoạt động này.
Theo từ điển tiếng Việt phổ thơng thì “trả” có nghĩa là “đưa lại cho
người khác cái đã lấy đi hoặc nhận được từ người ấy”[37], “bổ sung” có nghĩa
là “việc làm đầy đủ cái gì đó”[37]. Có thể hiểu theo cách thơng thường thì trả
hồ sơ để điều tra bổ sung là việc trao lại toàn bộ hồ sơ vụ án cho cơ quan, cá
nhân có thẩm quyền để làm đầy đủ, hoàn thiện hồ sơ. Hiện nay, trong hệ
thống khoa học pháp lý Việt Nam, về vấn đề trả hồ sơ để điều tra bổ sung
cũng chưa có một khái niệm cụ thể nào. Theo đó, để nghiên cứu về khái niệm
này, cần dựa trên mơ hình TTHS Việt Nam.
Là một quốc gia đi theo mơ hình TTHS pha trộn thiên về thẩm vấn,

TTHS Việt Nam phân chia quá trình giải quyết một vụ án hình sự thành các
giai đoạn tố tụng, bao gồm: khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử

9


và thi hành án. Quá trình giải quyết vụ án hình sự phải trả qua các giai đoạn tố
tụng và ở mỗi giai đoạn các cơ quan THTT có chức năng, nhiệm vụ tương
ứng khác nhau. Tuy nhiên, các cơ quan đều nhằm thực hiện mục đích chung
là phát hiện, xử lý nghiêm minh, kịp thời các hành
vi

phạm tội, người phạm tội hay pháp nhân thương mại phạm tội. Do

đó, việc giải quyết vụ án hình sự tất yếu phát sinh mối quan hệ chặt chẽ giữa
các cơ quan THTT nhằm đảm bảo việc chứng minh tội phạm, tìm ra diễn biến
sự việc phạm tội. Mối quan hệ giữa các cơ quan này là quan hệ pháp luật do
pháp luật TTHS quy định, tức là quan hệ xã hội được xác lập, tồn tại, phát
triển hoặc chấm dứt trên cơ sở quy định của pháp luật.
Thẩm quyền điều tra vụ án được Nhà nước giao cho CQĐT. CQĐT với
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, tiến hành thu thập, kiểm tra, đánh
giá chứng cứ chứng minh tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội, phục
vụ cho việc truy tố của VKS, việc xét xử của Tòa án. CQĐT được pháp luật
cho phép tiến hành các hoạt động tố tụng do BLTTHS quy định để thu thập tài
liệu, chứng cứ, xác định sự thật của vụ án, như khởi tố bị can, hỏi cung bị can,
triệu tập, lấy lời khai người làm chứng, bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân
sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án,… Chứng cứ trong một
vụ án hình sự là yếu tố quyết định để xác định có hay khơng có hành vi phạm
tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong
việc giải quyết vụ án. Việc chứng minh sự kiện phạm tội, người phạm tội

khơng có con đường nào khác ngoài việc dựa vào những chứng cứ đã thu thập
được. Trong quá trình điều tra, CQĐT phải thu thập cả chứng cứ buộc tội và
chứng cứ gỡ tội, làm rõ tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự của bị can, từ đó tìm ra

10


nguyên nhân, điều kiện phạm tội. Mục đích chủ đạo và xuyên suốt của hoạt
động điều tra là chứng minh tội phạm và người phạm tội. Nếu trong giai đoạn
điều tra vụ án có thiếu sót, chứng cứ chưa đầy đủ và cịn có nhiều mâu thuẫn,
phát sinh những chứng cứ mới có ý nghĩa đối với việc đánh giá tồn diện vụ
án, có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm hoặc làm oan người vơ tội, có biểu hiện vi
phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, hoặc một số lý do khác như có sự khác
nhau về quan điểm đánh giá chứng cứ vụ án giữa các cơ quan THTT, người
THTT, thì trong giai đoạn truy tố hoặc giai đoạn xét xử, các cơ quan THTT có
thể tự khắc phục được hoặc trả hồ sơ vụ án lại cho CQĐT để tiến hành điều
tra bổ sung. Nhiệm vụ điều tra bổ sung được đặt ra cho CQĐT, CQĐT phải
thực hiện theo đúng yêu cầu đã nêu trong Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ
sung của VKS hoặc của Tòa án.
Thẩm quyền trả hồ sơ điều tra bổ sung được pháp luật quy định cho
VKS và Tòa án. VKS bảo đảm hoạt động điều tra được tiến hành một cách
khách quan, toàn diện, đầy đủ, kịp thời phát hiện các vi phạm quá trình điều
tra và đề ra các biện pháp khắc phục, bảo đảm mọi hoạt động điều tra được
tiến hành theo đúng quy định của pháp luật. Sau khi nhận được hồ sơ vụ án
kèm theo bản kết luận điều tra đề nghị truy tố của CQĐT, cơ quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra chuyển đến, VKS tiến hành các
hoạt động xem xét quyết định truy tố và giai đoạn này kết thúc khi VKS ra
bản cáo trạng (hoặc quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn) chuyển Tòa án
hoặc ra quyết định đình chỉ vụ án. Đây được gọi là giai đoạn “truy tố” của

VKS. Trong giai đoạn này, VKS sử dụng các quyền năng luật định để bảo
đảm cơ sở cho việc định tội danh, ban hành cáo trạng (hay quyết định truy tố
theo thủ tục rút gọn) truy tố bị can ra trước Tòa án để xét xử.

11


Trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung của VKS trong giai đoạn truy tố là
hoạt động thực hiện chức năng thực hành quyền công tố của VKS. Trả hồ sơ
để yêu cầu CQĐT tiến hành điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố thể hiện ý
kiến đánh giá của VKS về công tác điều tra vụ án chưa đầy đủ, có dấu hiệu bỏ
lọt tội phạm hoặc vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng mà CQĐT đã tiến
hành trong giai đoạn khởi tố, điều tra trước đó. Hoạt động này được phân biệt
với các nhiệm vụ khi kiểm sát trong giai đoạn truy tố nhằm tạo cơ sở pháp lý
rõ ràng cho việc thực hiện hiệu quả chức năng của VKS.
. Quyền tư pháp theo nghĩa rộng bao hàm cả điều tra, truy tố, xét xử,
thi hành án được giao cho các cơ quan: CQĐT, VKS, Tòa án, thi hành án thực
hiện. Tòa án là cơ quan được Quốc hội phân công trực tiếp thực hiện quyền tư
pháp, có chức năng xét xử để bảo vệ pháp luật, bảo đảm lẽ phải và công bằng
xã hội. Tịa án có thẩm quyền xét xử và nhân danh Nhà nước đề ra bản án giải
quyết vụ án. Xét xử là giai đoạn của TTHS, tiếp theo giai đoạn truy tố, được
tiến hành sau khi nhận được quyết định truy tố của VKS kèm theo hồ sơ vụ án
và Tịa án thụ lý vụ án. Chỉ có Tịa án mới có quyền xét xử, với chức năng
“cầm cân, nảy mực” của mình, Tịa án sử dụng hết mức sự công tâm, bản
lĩnh, nghiêm minh, khách quan, lắng nghe, phân xử, phán xét cơng minh tại
phiên tịa. Hoạt động xét xử của Tịa án có vai trị hết sức to lớn trong việc
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Nhà nước, tập thể và nhân dân, tránh
những xâm hại của tội phạm. Vì vậy, địi hỏi Tịa án phải thật chính xác, cơng
minh, thể hiện được ý chí nguyện vọng của nhân dân trong việc xét xử của
mình. Tuy nhiên, khơng phải vụ án nào Tịa án cũng có thể xét xử phù hợp

với quy định của pháp luật nếu chỉ dựa trên hồ sơ vụ án, tài liệu, chứng cứ mà
CQĐT, VKS thu thập, cung cấp,

12


qua thẩm vấn cơng khai tại phiên tịa mà cịn rất nhiều trường hợp không thu
thập được đầy đủ tài liệu, chứng cứ để kết luận tội phạm, người phạm tội hoặc
trong q trình điều tra, truy tố có sự vi phạm quy định pháp luật TTHS hoặc
có căn cứ khởi tố bị can về một tội phạm khác, có người đồng phạm khác. Do
vậy, Tòa án với tư cách là cơ quan xét xử phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung
nhằm khắc phục những thiếu sót, những tồn tại trong các giai đoạn trước,
không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm, đảm bảo quyền con
người, quyền cơng dân.
. Điều 280 BLTTHS 2015 có quy định cụ thể về việc Tòa án trả hồ sơ để điều
tra bổ sung cho VKS, theo đó Tịa án có quyết định trả hồ sơ cho VKS mà
khơng trả trực tiếp cho CQĐT. Sở dĩ có quy định như vậy là vì VKS là cơ
quan truy tố bị can ra trước Tòa án, Tòa án nhận hồ sơ từ VKS chuyển đến
chứ khơng phải từ CQĐT. Bên cạnh đó, VKS là cơ quan có quyền quyết định
tự mình điều tra bổ sung hay chuyển hồ sơ cho CQĐT để điều tra bổ sung.
Từ những vấn đề đã trình bày ở trên, tác giả đưa ra định nghĩa trả hồ sơ
điều tra bổ sung như sau:
“Trả hồ sơ để điều tra bổ sung là một hoạt động tố tụng được quy định
trong Bộ luật Tố tụng hình sự do cơ quan có thẩm quyền (Viện kiểm sát, Tịa
án) thực hiện khi có căn cứ cho rằng bỏ lọt tội phạm, người phạm tội, thiếu
chứng cứ quan trọng hoặc chưa tuân thủ đúng quy trình tố tụng của vụ án mà
VKS khơng tự bổ sung được hoặc Tịa án khơng thể làm rõ được khi xét xử vụ
án, nhằm đảm bảo việc xử lý vụ án hình sự được đúng đắn và có căn cứ pháp
luật. Viện kiểm sát trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố hoặc
giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, Toà án thực hiện trong giai đoạn

chuẩn bị xét xử.”

13


Căn cứ vào đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu, tác giả chỉ đề
cập đến thẩm quyền trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự của Tịa án và thực tiễn áp dụng của Tòa án nhân dân
quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội.
1.1.2. Khái niệm giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự
Hiến pháp nước ta qua các thời kỳ đều quy định TANDTC, TAND địa
phương, Tòa Quân sự là các cơ quan xét xử của nước Cộng hịa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Xét xử chính là chức năng của Tịa án và khơng có cơ quan
nào khác ngồi Tịa án được thực hiện chức năng này. Tòa án xét xử độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật, Tịa án xét xử về hình sự, dân sự, kinh tế, lao động,
hành chính và các lĩnh vực khác do pháp luật quy định.

Xét dưới góc độ TTHS, xét xử là một giai đoạn trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự, do Tịa án có thẩm quyền tiến hành
. Theo quy định của pháp luật TTHS, có hai cấp xét xử là xét xử sơ
thẩm và xét xử phúc thẩm, theo đó mỗi cấp Tịa án sẽ có thẩm quyền xét xử
nhất định đối với các vụ án hình sự. Việc xét xử của Tịa án nói chung được
thực hiện theo chế độ hai cấp xét xử, đó là chế độ xét xử sơ thẩm và chế độ
xét xử phúc thẩm.
Qua nghiên cứu các cơng trình và tài liệu chuyên ngành TTHS đã công
bố cho thấy, khái niệm “xét xử sơ thẩm” trong TTHS được tiếp cận ở nhiều
góc độ khác nhau:
Góc độ tiếp cận thứ nhất, xét xử sơ thẩm là lần đầu tiên đưa vụ án ra
xét xử tại một Tịa án có thẩm quyền [4.tr. 869.]..
Như vậy, trong khoa học pháp lý hình sự về xét xử sơ thẩm vụ án hình

sự có nhiều góc độ tiếp cận khác nhau đối với khái niệm này.

14


. Do đó, xét xử sơ thẩm là thủ tục tố tụng vơ cùng quan trọng đối với
tồn bộ q trình tố tụng.
Giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng hình sự
tiếp theo giai đoạn truy tố được quy định trong BLTTHS mà trong đó Tịa án
là cơ quan được giao thẩm quyền thực hiện việc xét xử, bao gồm hai thủ tục
cơ bản: giai đoạn chuẩn bị xét xử và phiên tịa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự bắt đầu từ khi Tòa án cấp sơ thẩm
nhận được hồ sơ từ VKS và tiến hành thụ lý vụ án, kết thúc bằng một Bản án
có hiệu lực pháp luật của Tịa án cấp sơ thẩm mà khơng bị kháng cáo, kháng
nghị.
Về nội dung cụ thể của quyền tư pháp có nhiều ý kiến khác nhau, tuy
nhiên nhiều ý kiến đồng tình với quan điểm quyền tư pháp trước hết là quyền
xét xử. Khi thực hiện quyền tư pháp, Tòa án nhân danh Nhà nước để xét xử,
phán quyết về một vi phạm pháp luật hay một tranh chấp. Phán quyết của Tịa
án khơng phải là sự đánh giá hay phản ứng của HĐXX mà là sự bộc lộ quan
điểm giải quyết của Nhà nước đối với vụ án đó. Hoặc trong khi xét xử, nếu
phát hiện sai sót, HĐXX sẽ trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung. Trả HSVA
để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm đã được quy định trong
BLTTHS qua các thời kỳ. Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện tại, khái niệm trả
hồ sơ để điều tra bổ sung giai đoạn xét xử sơ thẩm vẫn chưa có văn bản quy
phạm pháp luật nào hướng dẫn. Trả hồ sơ để điều tra bổ sung được ghi nhận
là một hoạt động tố tụng bình thường, khơng phải là một hoạt động hành
chính tư pháp. Bởi lẽ, hoạt động này được BLTTHS quy định một cách chặt
chẽ, cụ thể và mục đích của hoạt động này cũng là mục đích của TTHS, chính
là xác định sự thật khách quan của vụ án, bảo đảm


15


tránh bỏ lọt tội phạm cũng như làm oan người vô tội. Qua việc trả hồ sơ điều
tra bổ sung, CQTHTT, người THTT đánh giá những vấn đề đã làm được, tìm
ra nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế. Một mặt, khắc phục, sửa chữa
những tồn tại, mặt khác tích lũy được kinh nghiệm phục vụ cho cơng tác điều
tra, truy tố, xét xử.
“Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự là một hoạt động tố tụng được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự
do Tịa án cấp sơ thẩm thực hiện khi thiếu chứng cứ dùng để chứng minh mà
khơng thể bổ sung tại phiên tịa được; có căn cứ cho rằng ngồi hành vi mà
Viện kiểm sát đã truy tố, bị can còn thực hiện hành vi khác mà Bộ luật hình
sự quy định là tội phạm; có căn cứ cho rằng cịn có đồng phạm khác hoặc có
người khác thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm liên
quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố vụ án, khởi tố bị can hoặc việc khởi
tố, điều tra, truy tố vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng Tịa án khơng thể
làm rõ được trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, nhằm đảm bảo việc xử lý vụ án
hình sự được đúng đắn và có căn cứ pháp luật.”
1.2. Đặc điểm trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm hình
Từ việc nghiên cứu về khái niệm trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm, tác giả rút ra một số đặc điểm cơ bản của chế định này
như sau:
Thứ nhất, về đối tượng bị tác động và phạm vi tố tụng.
Về đối tượng tác động: tại giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, đối
với trường hợp do Toà án trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì sẽ phải trả lại cho
Viện kiểm sát, mà khơng trả trực tiếp cho CQĐT vì VKS là cơ quan truy tố bị
can ra trước Tòa án và Tòa án nhận hồ sơ từ VKS


16


chuyển đến chứ không phải từ CQĐT. Như vậy, đối tượng tác động trong hoạt
động trả hồ sơ để điều tra bổ sung tại giai đoạn xét xử sơ thẩm gồm ba chủ
thể: Toà án, VKS và Cơ quan điều tra. Trong đó, khi nghiên cứu hồ sơ vụ án,
Tịa án thấy hồ sơ vụ án chưa bảo đảm đầy đủ các chứng cứ phục vụ cho việc
xét xử có kết quả hoặc có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, truy tố sai tội
danh, điều, khoản hoặc bỏ lọt tội phạm… thì Tịa án ra quyết định trả hồ sơ để
yêu cầu điều tra bổ sung cho VKS.
Toà án bị tác động bởi việc khi trả hồ sơ để điều tra bổ sung cho VKS,
việc giải quyết vụ án hình sự của Tồ án sẽ bị kéo dài, kết quả của việc trả hồ
sơ để điều tra bổ sung sẽ dẫn tới hoạt động xét xử sau đó bị ảnh hưởng, ví dụ:
thẩm quyền xét xử, thời hạn xét xử… . Viện kiểm sát cũng là đối tượng bị tác
động của hoạt động này vì khi nhận quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung
kèm theo hồ sơ của Tồ án, thì VKS phải là chủ thể trực tiếp xem xét quyết
định trả hồ sơ này. Nếu những yêu cầu điều tra bổ sung của Tòa án khơng q
phức tạp mà VKS có thể trực tiếp tiến hành được thì KSV đề xuất khơng phải
trả lại hồ sơ cho CQĐT mà tự mình xác minh bổ sung chứng cứ. Nếu những
yêu cầu điều tra bổ sung quá phức tạp thì KSV đề xuất lãnh đạo Viện trả hồ sơ
cho CQĐT để tiến hành điều tra bổ sung. Kết quả điều tra bổ sung của CQĐT,
VKS có thể dẫn tới các trường hợp như: thay đổi, bổ sung quyết định truy
tố… Vì vậy, VKS là chủ thể bị tác động chính trong hoạt động này. Đối với
CQĐT, sau khi nhận được quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của VKS,
CQĐT sẽ phải tiến hành các hoạt động điều tra trong thời hạn điều tra bổ
sung, để đưa ra kết luận điều tra bổ sung.

Về phạm vi tố tụng: Trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án trong


17


giai đoạn xét xử sơ thẩm là hoạt động tố tụng bắt đầu khi Tòa án chuyển lại
hồ sơ vụ án và ra quyết định trả hồ sơ cho VKS, yêu cầu điều tra bổ sung, kết
thúc khi: VKS ban hành văn bản trả lời Tòa án và giữ nguyên quan điểm truy
tố (trong trường hợp kết quả điều tra bổ sung không làm thay đổi nội dung
quyết định truy tố trước đây hoặc việc điều tra bổ sung không thể tiến hành
theo yêu cầu của Tòa án); VKS ban hành bản cáo trạng mới thay thế bản cáo
trạng trước đó (trong trường hợp kết quả điều tra bổ sung dẫn tới phải thay
đổi quyết định truy tố); VKS ra quyết định đình chỉ vụ án và thơng báo cho
Tịa án biết (trong trường hợp kết quả điều tra bổ sung dẫn tới việc đình chỉ
vụ án).
Thứ hai,
Chủ thể trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm là
Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án (trong giai đoạn chuẩn bị xét xử)
hoặc HĐXX (tại phiên tòa) của Tòa án cấp sơ thẩm.
Chủ thể trả hồ sơ để điều tra bổ sung và chủ thể nhận hồ sơ để điều tra
bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm khác với giai đoạn truy tố. Trong giai
đoạn truy tố, nếu TAND cấp sơ thẩm có quyền ra quyết định trả hồ sơ để VKS
điều tra bổ sung trong thời hạn chuẩn bị xét xử hay tại phiên tịa thì VKS là cơ
quan quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung cho CQĐT hay khơng. Theo đó,
Viện trưởng hay Phó Viện trưởng VKS được phân cơng có thẩm quyền xem
xét, quyết định. Chủ thể nhận lại hồ sơ để điều tra bổ sung: CQĐT có thẩm
quyền điều tra vụ án hình sự, gồm CQĐT và cơ quan được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra. Tuy nhiên, những vụ án mà các cơ quan này
tiến hành điều tra là những vụ án đơn giản, chứng cứ chứng minh hành vi
phạm tội, thông tin về bị can rõ ràng, không phát sinh những vấn đề cần trả hồ
sơ để yêu cầu điều tra bổ sung. Do đó, VKS khơng thực hiện trả hồ


18


sơ để yêu cầu điều tra bổ sung đối với các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra.
Thứ ba, hình thức trả hồ sơ để điều tra bổ sung
Việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tồ án phải đảm bảo tính có căn
cứ và tính hợp pháp theo quy định của pháp luật TTHS. Tính có căn cứ có
nghĩa là Tồ án chỉ được trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi phát hiện thấy nội
dung cần thiết cho vụ án, những vi phạm nghiêm trọng tố tụng làm ảnh hưởng
tới việc giải quyết vụ án, mà cơ quan tiến hành tố tụng trước đó chưa làm
hoặc chưa làm rõ, trong khi Tồ án khơng tự mình bổ sung được. Tính hợp
pháp thể hiện ở trình thự, tủ tục và thẩm quyền trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Vì vậy, để thể hiện triệt để hai thuộc tính này, việc trả hồ sơ để điều tra bổ
sung của Toà án cho VKS phải bằng văn bản dưới dạng quyết định trả hồ sơ
điều tra bổ sung. Nội dung của quyết định phải thể hiện rõ thẩm quyền, căn
cứ, số, ngày tháng năm, địa điểm ban hành và quan trọng nhất là phải ghi rõ
những vấn đề cần điều tra bổ sung đảm bảo đúng quy định của pháp luật
TTHS.
Thứ tư, đối tượng trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Căn cứ Toà án trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử là có
vi phạm nghiêm trọng tố tụng trong hồ sơ, hồ sơ vụ án thiếu chứng cứ, tài liệu
quan trọng trong hồ sơ để giải quyết vụ án. Vì vậy, khi trả hồ sơ để điều tra bổ
sung, Toà án phải trả lại hồ sơ cho VKS, để VKS khắc phục những thiếu xót,
vi phạm có trong hồ sơ. Như vậy, đối tượng trả hồ sơ để điều tra bổ sung
chính là hồ sơ vụ án hình sự.
Thứ năm, . Sau khi đã có kết quả điều tra bổ sung (do VKS hoặc CQĐT
thực hiện) thì KSV phải xem xét kỹ các tài liệu này, có đúng u cầu của Tịa
án khơng? Việc thu thập có đúng quy định của pháp


19


×