Tải bản đầy đủ (.doc) (183 trang)

BÁO CÁO ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP BỘ CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG DIỄN BIẾN HÒA BÌNH Ở TÂY NGUYÊN THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (922.82 KB, 183 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ- HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

BÁO CÁO TỔNG HỢP KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP BỘ NĂM 2008

CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG DIỄN BIẾN HÒA BÌNH
Ở TÂY NGUYÊN- THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Mã số: B.08- 29

Chủ nhiệm đề tài: TS. Nguyễn Thị Hoài Phương
Thư ký đề tài: Th.S Nguyễn Thị Lệ Thủy
Cơ quan chủ trì: Học viện Chính trị - Hành chính khu vực III

HÀ NỘI - 2009

1


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

Trang

1. Tính cấp thiết của đề tài.

1

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

4



3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

9

3.1. Mục tiêu

9

3.2. Nhiệm vụ của đề tài

9

4. Phương pháp nghiên cứu

9

5. Những đóng góp của đề tài

9

6. Kết cấu của đề tài

9

CHƯƠNG I: TÂY NGUN TRONG CHIẾN LƯỢC “DIỄN BIẾN
HỊA BÌNH” CỦA CHỦ NGHĨA ĐẾ QUỐC

11


1.1.Vị trí Tây Nguyên trong chiến lược “diễn biến hồ bình” của
chủ nghĩa đế quốc

11

1.1.1. Vài nét về tầm quan trọng chiến lược của khu vực Tây Nguyên
trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

11

1.1.2. Các nhân tố mà các thế lực thù địch lợi dụng để thực hiện chiến
lược “diễn biến hồ bình” ở Tây Ngun

12

1.1.2.1. Tây ngun – đặc điểm tự nhiên, địa lý

12

1.1.2.2. Đặc điểm kinh tế-xã hội, văn hóa

18

1.2. Âm mưu và hoạt đợng “diễn biến hòa bình” ở Tây nguyên thời
gian qua

28

1.2.1. Khái quát về âm mưu “diễn biến hòa bình” đối với nước ta của
chủ nghĩa đế quốc hiện nay.


28

1.2.2. Hoạt động “diến biến hòa bình” ở Tây Nguyên thời gian qua.

32

1.2.2.1. Hoạt động “diến biến hịa bình” trên lĩnh vực chính trị- tư tưởng

32

1.2.2.2. Lợi dụng những sơ hở, thiếu sót của chúng ta trong thực hiện
chính sách dân tộc ở Tây Nguyên của các lực lượng thù địch để thực hiện
“diễn biến hồ bình”

35

1.2.2.3. Những thủ đoạn hoạt động diễn biến hồ bình của các thế lực
thù địch thơng qua lợi dụng vấn đề Fulrô

37

1.2.2.4. Việc lợi dụng vấn đề tôn giáo để truyền đạo Tin Lành trái phép
- một trong những thủ doạn diễn biến hồ bình ở Tây Ngun

45

2



1.2.2.5.Những biểu hiện của “Diễn biến hồ bình” trên lĩnh vực văn
hoá - xã hội.

49

1.2.2.6. Lợi dụng những yếu kém, và hạn chế trong kinh tế ở Tây
Nguyên để hoạt động “diễn biến hồ bình” của các thế lực thù địch

51

CHƯƠNG II: ĐẤU TRANH CHỐNG DIỄN BIẾN HỊA BÌNH Ở
TÂY NGUYÊN THỜI GIAN QUA – KẾT QUẢ VÀ NHỮNG VẤN
ĐỀ DẶT RA

59

2.1.Kết quả của cuộc đấu tranh chống “diễn biến hịa bình”ở Tây
Ngun thời gian qua

59

2.1.1.Sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và cấp uỷ địa phương trong cuộc
đấu tranh chống “diễn biến hồ bình” ở Tây Ngun.

59

2.1.1.1.Nhận diện âm mưu “diễn biến hồ bình” của các thế lực thù
địch ở Tây Nguyên

59


2.1.1.2. Đề ra và thực hiện nhiều chủ trương, nghị quyết, chính sách
đúng đắn về phát triển kinh tế - xã hội, chống âm mưu diễn biến hòa bình
ở các tỉnh Tây Nguyên.

61

2.1.2. Kết quả đạt được trong cuộc đấu tranh chống âm mưu “diễn biến hòa
bình” ở Tây Nguyên; những hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra

71

2.1.2.1. Kết quả đạt được

71

2.1.2.2. Những hạn chế, nguyên nhân hạn chế trong cuộc đấu tranh
chống âm mưu ‘diễn biến hồ bình” ở Tây Ngun

87

2.1.2.3.Những vấn đề đặt ra trong cuộc đấu tranh chống âm mưu “diễn
biến hoà bình” ở Tây Nguyên hiện nay

91

2.2. Một số kinh nghiệm từ cuộc đấu tranh chống “diễn biến hồ
bình” ở Tây Nguyên

94


CHƯƠNG III: NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM CHỐNG
“DIỄN BIẾN HỒ BÌNH” CỦA CHỦ NGHĨA ĐẾ QUỐC TRÊN ĐỊA
BÀN CÁC TỈNH TÂY NGUYÊN

101

3.1. Những dự báo tình hình và tình huống có thể xảy ra trong cuộc
đấu tranh chống “diễn biến hịa bình” ở Tây ngun thời gian tới.

101

3.1.1. Dự báo tình hình trong thời gian tới

101

3.1.2. Dự báo các tình huống có thể xảy ra trong cuộc đấu tranh chống
“diễn biến hòa bình” ở Tây Nguyên thời gian tới
3.2. Những giải pháp cơ bản góp phần đánh thắng chiến lược “diễn
biến hồ bình” trên địa bàn Tây Ngun thời gian tới.
3

113
114


3.2.1. Coi trọng cơng tác tun truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng

115


3.2.2. Xây dựng, củng cố hệ thống chính trị vững mạnh từ tỉnh đến cơ
sở, đủ sức thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị và chủ động giải quyết các vấn
đề phát sinh từ cơ sở

121

3.2.3. Bảo đảm an ninh, chính trị, đấu tranh bóc gỡ tận gốc các tổ chức
Fulro hoạt động ngầm, kích động biểu tình bạo loạn

126

3.2.4. Đẩy mạnh phát triển kinh tế- xã hội, nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần cho nhân dân, giải quyết nhanh và có hiệu quả những vấn đề
xã hội bức xúc trong nhân dân

130

3.2.5. Một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường công tác dân tộc, tôn
giáo trên điạ bàn Tây Nguyên trong thời gian tới

136

3.2.6. Đẩy mạnh cơng tác dân vận

143

3.2.7. Nâng cao trình độ, năng lực cho đội ngũ cán bộ cơ sở, nhất là cán
bộ người dân tộc thiểu số

148


3.2.8. Thực hiện hiệu quả chính sách đổi mới, mở cửa của Đảng, tranh
thủ thu hút đầu tư phát triển, có biện pháp quản lý tốt các đoàn lâm thời du
lịch nước ngoài đúng chính sách, pháp luật bảo đảm an ninh trật tự

149

3.3. Một số kiến nghị liên quan đến cuộc đấu tranh chống “diễn
biến hịa bình” ở các tỉnh Tây Ngun hiện nay

150

3.3.1. Kiến nghị đối với Đảng và Nhà nước

151

3.3.2. Kiến nghị với Đảng, chính quyền các tỉnh Tây Nguyên

152

KẾT LUẬN

162

Tài liệu tham khảo

173

4



DANH SÁCH CỘNG TÁC VIÊN THAM GIA
NGHIÊN CỨU ĐÈ TÀI
1.TS Nguyễn Thị Hồi Phương: Phó trưởng khoa tư tưởng Hồ Chí Minh-Học viện CT-HC
khu vực III (chủ nhiệm đề tài)
2. Th.s Nguyễn Thị Lệ Thủy : Giảng viên khoa chính trị học, Học viện CT-HC khu vực III
(Thư ký đề tài)
3.PGS.TS Nguyễn Hồng Sơn: Giám đốc Học viện CT-HC khu vực III
4. PGS.TS Trương Minh Dục: Phó Giám đốc Học viện CT-HC khu vực III
5. PGS.TS Hồ Tấn Sáng: Trưởng khoa chính trị học, HV CT-HC KV III
5. PGS.TS Phạm Hảo: Nguyên Giám đốc HVCT-HC KV III
6.PGS.TS Nguyễn Văn Nam: Trưởng khoa CNXHKH, HV CT-HC KV III
7. TS. Trần Quốc Long: Trưởng khoa tư tưởng Hồ Chí Minh, HVCT-HC KV III
8. PGS.TS Phạm Thanh Khiết: Nguyên trưởng khoa kinh tế phát triển, HV CT-HC KV III
9. Th.s Nguyễn Mậu Linh: Giảng viên khoa tư tưởng Hồ Chí Minh, HV CT-HC KV III
10.Trần Kỳ Rơi: Phó giám đốc Cơng an tỉnh Đắc Lắc
11. Nguyễn Thị Minh Vẻ: Trưởng Ban công tác nữ, Công an tỉnh Đắc Lắc
12. Nguyễn Văn Thái: Trưởng phòng điều tra, Công an tỉnh Kon Tum
13. Nguyễn Ngọc Dỗn; Cơng an tỉnh Kon Tum
14. Nguyễn Văn Uấn: Cơng an tỉnh Gia Lai
15. Nay Đơ: Phó giám đốc Cơng an tỉnh Đắc Nông
16. Lê Văn Phục: Giảng viên khoa CNXHKH, HV CT-HC KV III
17. Hoàng Thị Diệu Linh: Đại học Đà Lạt
18. Nguyễn Thị Minh Sơn: Chuyên viên huyện Ủy Chư Sê- Gia Lai.

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Tây Nguyên bao gồm 5 tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk, Lâm Đồng và
Đăk Nơng. Có diện tích tự nhiên 5447,4 nghìn ha, chiếm 17,5% diện tích cả
nước, lớn gấp 1,4 lần diện tích các tỉnh đồng bằng sơng Cửu Long. Tây Ngun

là khu vực rộng lớn có vị trí quan trọng về kinh tế và an ninh quốc phòng đối với
Việt Nam. Trong hàng chục năm nay, sự di cư ồ ạt của nhiều người, nhiều cộng
đồng dân tộc từ nhiều vùng miền khác nhau đến Tây Nguyên lập nghiệp đã làm
cho dân số và thành phần dân tộc của vùng thay đổi nhanh chóng. Theo thống kê
5


mới nhất, trên mảnh đất Tây Nguyên đang có 43 dân tộc anh em cùng chung
sống, trong đó người Kinh chiếm 65,8%, tiếp đến là các dân tộc thiểu số khác
như Ba Na, Ê Đê, Mnông, Gia Jai, Xơ Đăng, Giẻ Triêng, Brâu... Vì thế, có thể
nói Tây Ngun là vùng đa màu sắc văn hoá tộc người, khá phong phú, phức tạp
về phương diện tín ngưỡng- tơn giáo và nhiều màu sắc nhất ở Việt Nam.
Trong lịch sử, Tây Nguyên là vùng đất hào hùng, giàu truyền thống cách
mạng, đặc biệt là trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ trước
đây. Sống trên mảnh đất hùng vĩ bao đời, đồng bào các dân tộc ở đây đã chung
sức, đồng lòng tạo dựng nên một nền văn hóa hết sức phong phú và đậm đà bản
sắc dân tộc, với những di sản văn hóa vật thể, phi vật thể nổi tiếng và kho tàng
văn học dân gian hết sức đặc sắc. Đồng bào các dân tộc Tây Nguyên có tinh
thần đồn kết, cần cù, chịu khó và tương thân tương ái, yêu thương con người,
thiên nhiên, đất nước, chuộng hòa bình nhưng anh dũng bất khuất trong đấu
tranh chống giặc ngoại xâm.
Tây Ngun khơng chỉ là vùng có tiềm năng to lớn cho sự phát triển kinh
tế, nơi ẩn chứa nhiều nhân tố nội sinh cho sự phát triển văn hố tinh thần, phát
triển xã hội nói chung mà đây cũng là vùng trọng điểm trong chiến lược quốc
phòng, an ninh quốc gia. Với trên 580 km đường biên giới với Lào và
Campuchia, Tây Nguyên là địa bàn được Đảng và Nhà nước quan tâm đầu tư,
xây dựng để cùng hồ nhập với tiến trình phát triển chung của đất nước, mặt
khác, cũng vì lẽ đó Tây Ngun trở thành vùng trọng yếu, nhạy cảm mà các thế
lực đế quốc, phản động nhòm ngó, rắp tâm thực hiện cài cắm xây dựng lực
lượng, tạo dựng các "phong trào" nhằm chống phá công cuộc phát triển kinh tế,

xã hội, chống phá chế độ...
Từ sau ngày miền Nam được giải phóng, cả nước thống nhất, Đảng và
Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách để đầu tư, xây dựng, phát triển
kinh tế, xã hội Tây Nguyên. Trên cơ sở đó, các cấp bộ đảng, chính quyền địa
phương đã phát huy sức mạnh của hệ thống chính trị các cấp để lãnh đạo, chỉ
đạo và tạo dựng nhiều điều kiện cần thiết cho mọi người dân lao động, mọi tầng
lớp dân cư, các tổ chức kinh tế - xã hội ở Tây Ngun hồ nhập, thích nghi với
lối sống mới, chế độ mới. Đặc biệt từ ngày đổi mới đến nay, nhịp điệu cuộc
sống, cách thức sản xuất, làm ăn của nhiều nhóm cư dân, nhiều chủ thể sản xuất,
kinh doanh trong vùng đã thực sự khởi sắc, năng động, sáng tạo và làm ăn ngày
càng có hiệu quả... Phần lớn đồng bào các dân tộc thiểu số ở các buôn làng đã
định canh, định cư, thực hiện thâm canh sản xuất hàng hoá. Rất nhiều trang trại,
nhiều vùng sản xuất tập trung cà-fê, cao su, dâu tằm, cây ăn quả, cây lương
thực... hình thành, phát triển đạt hiệu quả kinh tế hàng hoá cao. Nhiều phố mới,
làng mới, nhiều cơ sở hạ tầng được xây dựng, phát triển làm cho bộ mặt Tây
Nguyên hiện nay liên tục được thay da, đổi thịt theo dáng dấp của xã hội đang
trong tiến trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố. Nhờ đó đời sống vật chất và tinh
thần của đa số tầng lớp dân cư ở Tây Nguyên được nâng lên rõ rệt so với thời kỳ
trước đổi mới
Tuy vậy, cũng cần nói thêm một thực tế khác, do nhiều nguyên nhân
khách quan và chủ quan khác nhau, nhìn tổng thể sự phát triển của các tỉnh Tây
Nguyên vẫn chưa hoàn toàn vững chắc, nhiều vấn đề bức xúc của đời sống kinh
6


tế, văn hoá, xã hội và đặc biệt là những vấn đề chính trị - xã hội phức tạp, nhạy
cảm vẫn đang tiềm ẩn sự "bùng nổ". Trong quá trình thực hiện chính sách dân
tộc của Đảng ở các tỉnh Tây Nguyên thời gian qua đã bộc lộ những hạn chế,
khuyết điểm. Kinh tế vùng sâu, vùng xa chậm phát triển, đời sống đồng bào dân
tộc còn nhiều khó khăn, các chính sách phát triển kinh tế - xã hội không đồng

bộ, đội ngũ cán bộ dân tộc, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo, quản lý mặc dù được sự
quan tâm đào tạo nhưng vẫn còn thiếu và yếu. Thiếu những cán bộ có năng lực
tổ chức thực tiễn để lãnh đạo sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội vùng dân tộc
thiểu số. Do trình độ hạn chế của đội ngũ cán bộ nên đường lối, nghị quyết, chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước chậm đi vào cuộc sống. Vì vậy, sự
phát triển kinh tế ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn chậm, chưa tương
xứng với tiềm năng, công sức của nhân dân và sự quan tâm của Đảng và Nhà
nước. Nhiều vùng còn khó khăn, nhất là vùng sâu, vùng xa, tình trạng tranh chấp
đất đai, diễn ra thường xuyên, làm cho cơng tác quản lý hành chính gặp nhiều
khó khăn, quan hệ dân tộc càng phức tạp. Mặt khác, quá trình phát triển kinh tế
thị trường làm cho sự phân hóa giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, nhất là
giữa người kinh và người dân tộc thiểu số tại chổ càng lớn. Đó là những nguyên
nhân xuất hiện tư tưởng bài kinh, làm cho khối đoàn kết dân tộc bị tổn thương.
Trong lĩnh vực an ninh, trật tự - an toàn xã hội đã và đang nẩy sinh khá
nhiều vấn đề nổi cộm, bức xúc, trong đó tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định
về Chính trị -xã hội, tác động tiêu cực đến sự phát triển bền vững của vùng Tây
Nguyên. Trong quá trình phát triển kinh tế xã hội, cùng với những biến đổi trên
các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, văn hóa, sự thay đổi của cơ sở hạ tầng kéo theo
những biến đổi của kiến trúc thượng tầng, trong đó có tín ngưỡng tơn giáo. Nhu
cầu tín ngưỡng, tơn giáo của đồng bào các dân tộc thiểu số cũng có những thay
đổi. Lợi dụng tình hình đó, các thế lực thù địch đẩy mạnh tuyền đạo Tin Lành
trái phép vào vùng các đồng bào thiểu số ở Tây Nguyên. Âm mưu và thủ đoạn
của các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo để lừa phỉnh, lơi kéo, mua chuộc, kích
động, gây chia rẽ, ly khai hòng gây bạo loạn lật đổ, chống phá cách mạng, đe
dọa an ninh quốc gia, phá hoại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ
quốc của nhân dân ta.
Trong những năm gần đây, các tổ chức tôn giáo, đặc biệt là đạo Tin Lành
tăng cường các hoạt động truyền giáo, lơi kéo, phát triển tín đồ trong đồng bào
dân tộc thiểu số. Đạo Tin Lành đã bành trướng rất nhanh trong đồng bào các dân
tộc thiểu số ở Tây Nguyên. Tuy nhiên, điều đáng lưu ý ở đây là, cùng với hoạt

động truyền bá đạo Tin Lành, thời gian qua đã có nhiều hoạt động lợi dụng tôn
giáo của các thế lực thù địch trong và ngồi nước chống phá Việt Nam. Núp
bóng cái gọi là “Tin Lành Đề Ga”, chúng âm mưu thành lập một “nhà nước Đề
Ga tự trị”, chúng đã cài cắm, phát triển các cơ sở, tổ chức các hoạt động biểu
tình, bạo loạn. Các sự kiện diễn ra vào tháng 02 năm 2001 và tháng 04 năm
2004 ở các tỉnh Tây Nguyên (tập trung là những sự biến xảy ra ở 2 tỉnh Gia Lai
và Đăk Lăk) là một trong những loại tình huống chính trị-xã hội cụ thể phản ánh
tính chất phức tạp, nhạy cảm trong việc giải quyết các vấn đề dân tộc, tơn giáo ở
Tây Ngun đó cũng chính là q trình giải quyết các lực cản, tạo lập những tiền
đề, động lực cho sự phát triển bền vững ở các tỉnh Tây Nguyên thời kỳ tiếp theo.
7


Những ngày cuối tháng 01 đầu tháng 02 năm 2001 và những ngày trung
tuần tháng 04 năm 2004 ở nhiều địa phương (buôn, làng, xã, huyện, tỉnh) trên
vùng đất Tây Nguyên đã thực sự "nóng bỏng" lên bởi những cuộc biểu tình, gây
rối, chống phá chính quyền, chống phá chế độ của hàng nghìn người thuộc các
dân tộc thiểu số bản địa. Ngay khi sự kiện bùng phát, hoàn toàn có đủ cơ sở để
khẳng định, đây là những vụ bạo loạn chính trị mà các thế lực thù địch đã lợi
dụng các vấn đề dân tộc - tơn gi nhằm chống phá công cuộc xây dựng CNXH
ở nước ta; là những sự kiện, biến cố khởi phát từ chuỗi những âm mưu, hoạt
động chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch, phản động trong
và ngoài nước phối hợp tiến hành.
Tuy nhiên, đứng trên quan điểm và phương pháp tiếp cận hệ thống lại
phải lưu ý rằng: Mục tiêu, âm mưu và hoạt động chống phá các nước xã hội chủ
nghĩa, chống phá phong trào cộng sản nói chung và chống phá cách mạng Việt
Nam (dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam) là bản chất, là tham vọng
cuả các thế lực đế quốc và các lực lượng phản động trong và ngoài nước. Song,
kẻ thù có khả năng thực hiện ý đồ đó đến đâu? Vào lúc nào? Ở đâu trên đất nước
ta?... Điều đó còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, mà yếu tố quan trọng hàng đầu

chính là do tương quan so sánh lực lượng, tuỳ thuộc vào khả năng, sức mạnh của
chính chúng ta... Từ đó, có thể nói, các điểm nóng diễn ra ở Tây Nguyên vừa có
những nguyên nhân sâu xa vừa có những nguyên nhân trực tiếp, vừa có những
nguyên nhân nằm sâu trong lĩnh vực kinh tế, văn hố, xã hội; vừa có những
ngun cớ phát sinh từ những tình huống chính trị cụ thể, vừa có nguyên nhân từ
sự chống phá của các thế lực thù địch lại có nguyên nhân từ sự thiếu sót sai lầm
của chúng ta.
Có thể nhận thấy rằng, trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên, thời gian qua các
thế lực thù địch đã lợi dụng trình độ thấp kém, lạc hậu, sự khác biệt nhất định về
kinh tế, xã hội văn hoá các dân tộc thiểu số để chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa thơng qua hoạt động “diễn biến hồ bình”. Do vậy, đi
đơi với nhiệm vụ phát triển kinh tế -xã hội, phấn đấu thực hiện mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, thì phải hết sức cảnh giác trước âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hồ bình"
của các thế lực thù địch. Nhiệm vụ đấu tranh làm thất bại âm mưu “diễn biến hồ
bình” của các thế lực thù địch, chủ động loại trừ bạo loạn, lật đổ, giữ vững an ninh
quốc gia, bảo vệ thành quả cách mạng, phục vụ công cuộc đổi mới và phát triển, xây
dựng các tỉnh Tây Nguyên vững mạnh mọi mặt đang được đặt ra vừa mang tính cấp
bách, vừa mang tính lâu dài, quyết liệt, có tính chất sống còn đối với sự tồn vong và
phát triển của đất nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Vì vậy, việc nhận diện "diễn biến hồ bình" trên cả hai phương diện lý
luận và thực tiễn, đi sâu nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển, những thủ
đoạn, bản chất của chiến lược"diễn biến hồ bình" của chủ nghĩa đế quốc và các
thế lực phản động, đánh giá những kết quả, hạn chế và rút ra bài học kinh
nghiệm trong cuộc đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” trên địa bàn các tỉnh
Tây Nguyên là điều có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và hết sức cần thiết.
Xuất phát từ nhận thức trên, chúng tôi chọn đề tài “ Cuộc đấu tranh
chống “diễn biến hịa bình” ở Tây Ngun -Thực trạng và giải pháp ” để
làm đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ năm 2008.
8



Trên ý nghĩa đó, thơng qua q trình nghiên cứu về lý luận và thực tiễn
những thủ đoạn mà các thế lực thù địch đã và đang tiến hành hoạt động chống
phá thơng qua “diễn biến hồ bình” ở Tây Ngun, chúng tơi tập trung phân tích
một số vấn đề có liên quan đến việc các thế lực thù địch đã lợi dụng vấn đề dân
tộc, tôn giáo để thực hiện chiến lược “diễn biến hồ bình” và xem đó như là một
trong những phương diện có thể tiếp cận, cắt nghĩa và giải quyết, xử lý các tình
huống đã và đang diễn ra.
Qua nghiên cứu ở các tỉnh Tây Nguyên, mỗi thành viên đề tài nêu lên
những biện pháp cụ thể, từ đó tập hợp những biện pháp thống nhất có tính khả
thi để giảng viên vận dụng vào những bài giảng có liên quan trong chương trình
giảng dạy môn Quan hệ Quốc tế ở Học viện. Đồng thời cũng là tư liệu giúp cho
các cơ quan chức năng ở địa phương hiểu rõ hơn âm mưu và thủ đoạn chống phá
cách mạng trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên của các thế lực thù địch, trên cơ sở
đó không ngừng nâng cao cảnh giác, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt
động chống phá của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Là vùng đất nằm sâu trong nội địa Việt Nam, nhưng do có tầm quan trọng
về mặt chiến lược cũng như có nhiều nét độc đáo về tự nhiên, văn hóa, xã hội và
con người nên từ rất sớm Tây Nguyên đã được nhiều nhà nghiên cứu trong và
ngoài nước chú ý tìm hiểu
Tây Nguyên được người Phương Tây chú ý đến nhiều kể từ cuối thế kỷ
XIX trở đi. Phần lớn những nghiên cứu của họ về Tây Nguyên thời kỳ này là
nghiên cứu dạng mơ tả, phân tích với mục đích giúp họ hiểu kỹ lưỡng hơn về tự
nhiên, văn hóa, con người Tây Ngun. Trong q trình xâm lược và đơ hộ Việt
Nam, để phục vụ việc bình định và khai thác Tây Nguyên, người Pháp đã đầu tư
nhiều hơn cho việc nghiên cứu vùng đất này, trong đó tiêu biểu như:
Cơng trình: “Les populations Moi du Darlac”(Những cư dân mọi ở Đắc
Lắc) của BecnardH, viết về con người và xã hội các dân tộc thiẻu số bản địa ở
Đắc Lắc, đăng tải ở “Bullentin d ,Ecole Francaises d`Extrème Orient”, Hà Nội,

năm 1907
Cơng trình “Lesjungles Moi” (Người Mọi rừng, của Maitre H, xuất bản ở
Pari năm 1912. Công trình này đã có đề cập đến con người, văn hóa – xã hội các
dân tộc thiểu số bản địa ở Tây Nguyên.
Cuốn sách: “En siuvant le piste des homes sur les Hauts –plateaux du
Vietnam” của Dounes J, xuất bản 1955 (Lần theo vết chân những người trên Cao
Nguyên ở Việt Nam), mô tả con người, sinh hoạt xã hội của một số dân tộc ở Tây
Nguyên.
Trong thời kỳ Mỹ xâm lược Việt Nam, các học giả Mỹ cũng đã đầu tư
nghiên cứu, tìm hiểu văn hóa, xã hội Tây Ngun, chủ yếu là phục vụ mục đích
bình định và thơn tính Tây Ngun. Chính phủ Mỹ đã bảo trợ cho một số học
giả Mỹ nghiên cứu và xuất bản những chuyên khảo về Tây Nguyên

9


Sau khi nước Việt Nam hoàn toàn thống nhất cho đến nay, đặc biệt là giai
đoạn thời kỳ đổi mới đất nước 1986 đến nay, Nghiên cứu Tây Nguyên đã thu
hút nhiều nhà nghiên cứu của nhiều nước khác nhau.
Ở trong nước, bắt đầu từ thời Lê Thánh Tông trở đi Tây Nguyên mới được
nhắc đến nhưng còn rất mờ nhạt. Trong bộ “Đại Việt sử ký toàn thư” và một số
cuốn sử biên soạn thời kỳ Hậu Lê, Tây Nguyên được nhắc đến sơ sài, trong tác
phẩm “Phủ biên tạp lục” của Lê Q Đơn cũng đã nói đến Tây Nguyên và người
Tây Nguyên. Ngoài ra nghiên cứu Tây Nguyên còn thể hiện trong các tập sách: Đại
Nam thực lục, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Đại Nam chính biên liệt
truyện...
Trong văn kiện các Đại hội, các Nghị quyết của Đảng đều đề cập đến đặc
điểm dân tộc, dân cư và có chính sách, chủ trương phù hợp ở Tây Nguyên. Các
đồng chí lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta cũng rất quan tâm nghiên cứu về Tây
Nguyên. Tiêu biểu như: Cố Tổng bí thư Lê Duẩn trong bài báo: Tây Nguyên đoàn

kết tiến lên - Tạp chí Cộng sản 1978; Cố Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Trường
Chinh có bài viết: Đưa đồng bào các dân tộc Đắc Lắc lên Chủ nghĩa xã hội- Tạp
chí Cộng sản, 1983, đã phân tích những đặc thù về dân tộc, dân cư và chỉ đạo các
đảng bộ Tây Nguyên phải nghiên cứu, vận dụng để đề ra chủ trương, giải pháp cho
phù hợp.
Một số cơng trình chun khảo về dân tộc học như: Tây Nguyên của
Hoàng Văn Huyên (1980); Các dân tộc ít nguời ở Việt Nam (các tỉnh phía Nam)
(1984); Đại cương về các dân tộc Êđê, M`nông ở Đăk Lăk của Bế Viết Đẳng và
các đồng tác giả (1982); Các dân tộc ở Gia Lai- Kon Tum do Đặng Nghiêm Vạn
chủ biên (1981); Vấn đề dân tộc ở Lâm Đồng do Mạc Đường chủ biên(1983);
Cộng đồng quốc gia dân tộc ở Việt Nam của GS.Đặng Nghiêm Vạn (2003) đã
giúp người đọc hiểu rõ nguồn gốc tộc người, đặc điểm kinh tế –xã hội của các
dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên.
Trên lĩnh vực kinh tế xã hội: Đáng chú ý chương trình cấp nhà nước 4809 Ủy ban khoa học xã hội, nay là Viện khoa học xã hội Việt Nam thực hiện
trong những năm 1980. Kết quả của chương trình được xuất bản thành 3 cuốn
sách: Một số vấn đề kinh tế- xã hội Tây Nguyên(1986); Tây Nguyên trên đường
phát triển(1990); Một số vấn đề kinh tế- xã hội các dân tộc thiểu số ở Đắc
Lắc(1990). Các cơng trình này đã tập trung nghiên cứu đặc điểm kinh tế- xã hội
của các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, đưa ra căn cứ khoa học xác định các
hình thức, bước đi trong quá trình đưa đồng bào các dân tộc thiểu số Tây
Nguyên lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, do hạn chế trong nhận thức về chủ
nghĩa xã hội lúc đó, các tác giả chưa thấy được xu hướng phát triển của vấn đề
dân tộc, quan hệ dân tộc và tôn giáo ở Tây Nguyên.
Đặc biệt, gần đây có các đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ như:
- Đề tài: Các hình thức kinh tế ở Tây Nguyên và xu hướng vận động trong
q trình chuyển sang kinh tế hàng hóa, do TS.Trương Minh Dục làm chủ
nhiệm (1994- 1995)
- Phát triển kinh tế trang trại ở Tây Nguyên, do TS.Phạm Thanh Khiết
làm chủ nhiệm (1999-2000)
10



- Một số chính sách kinh tế- xã hội đối với các dân tộc ít người ở Tây
nguyên, do PGS.TS.Nguyễn Văn Chỉnh làm chủ nhiệm (1997-1998). Các cơng
trình này đã đề cập khá rõ nét về thực trạng phát triển kinh tế xã hội Tây Nguyên
trong thời kỳ đổi mới. Trên cơ sở đó các tác giả đã đề cập đến những biến động
của yếu tố xã hội cần quan tâm.
Trên lĩnh vực chính trị đã có một số cơng trình như:
- Cơng trình nghiên cứu của tập thể tác giả do PGS. TS. Phạm Hảo và TS.
Trương Minh Dục chủ biên với cuốn “Một số vấn đề về xây dựng hệ thống
chính trị ở Tây Nguyên”, Nxb, CTQG, Hà Nội, năm 2003, tập thể tác giả đã tập
trung làm rõ những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình xây dựng hệ thống chính trị
Tây Nguyên, những vấn đề đặt ra ở các tỉnh Tây Nguyên trong xây dựng hệ
thống chính trị, trên cơ sở đó đã đưa ra những giải pháp cơ bản để xây dựng hệ
thống chính trị ở Tây Nguyên.
- Đề tài nhánh cấp nhà nước KX05-11 về cơ cấu, tiêu chuẩn cán bộ lãnh
đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị đổi mới hiện nay ở Đắc Lắc (1993-1994);
“Một số vấn đề về xây dựng đôi ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện người các dân
tộc ở Tây Nguyên” do GS.TS.Lê Hữu Nghĩa làm chủ biên (2001). Các cơng
trình này đã trình bày những nhân tố ảnh hưởng đến q trình xây dựng hệ thống
chính trị, đội ngũ cán bộ các dân tộc thiểu số; đánh giá thực trạng hệ thống chính
trị, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý người dân tộc thiểu số trong hệ thống chính
trị ở Tây Nguyên. Đề xuất các giải pháp để xây dựng hệ thống chính trị, xây
dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đọan hiện nay.
Trên lĩnh vực văn hóa: Ngồi các cơng trình nghiên cứu về sử thi, luật tục,
văn hóa dân gian, có một số cơng trình mang tính lý luận như: “Giữ gìn và phát
huy các giá trị văn hóa Tây Nguyên” do PTS. Nguyễn Hồng Sơn Và PTS.
Trương Minh Dục làm chủ biên (1996); “văn hóa các dân tộc Tây Nguyên thực
trạng và những vấn đề đặt ra”, do GS.TS. Trần Văn Bính chủ biên (2004); các
cơng trình này đã đánh giá các giá trị văn hóa của Tây Nguyên, thực trạng đời

sống văn hóa của các dân tộc thiểu số, đồng thời dự báo xu hướng và đề xuất
các giải pháp vừa cơ bản, vừa cấp bách nhằm xây dựng đời sống văn hóa, tinh
thần của các dân tộc, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa Tây Ngun trong
q trình thực hiện sự nghiệp cơng nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Trên lĩnh vực quan hệ dân tộc; tơn giáo có các cơng trình như:
- “Xu hướng vận động của quan hệ dân tộc khu vực Tây Nguyên và đặc
điểm chính sách dân tộc đối với Tây Nguyên” là đề tài cấp bộ, do PTS. Nguyễn
Văn Nam làm chủ nhiệm đề tài (1994-1995). Các tác giả đã nghiên cứu cơ sở lý
luận và thực tiễn về xu hướng vận động của quan hệ dân tộc ở Tây Nguyên, đề
ra các giải pháp để xây dựng và thực hiện chính sách dân tộc phù hợp với đặc
điểm Tây Nguyên. Tuy nhiên, các tác giả chưa thấy được những mầm móng của
những ngun nhân làm rạn nứt khối đại đồn kết dân tộc khi phát triển kinh tế
thị trường. Đáng chú ý trong lĩnh vực này có các nghiên cứu khá công phu của
GS.TS. Phan Hữu Dật và tập thể tác giả trong cơng trình: “Mấy vấn đề lý luận
và thực tiễn cấp bách liên quan đến mối quan hệ dân tộc hiện nay” (2001);
11


Chuyên luận: “Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết dân tộc, xây dựng
khối đoàn kết dân tộc ở Tây Nguyên”(2004) của PGS.TS. Trương Minh Dục
bước đầu đã đánh gía những thành cơng và hạn chế trong việc thực hiện chính
sách dân tộc của Đảng, phân tích các xu hướng xuất hiện trong quan hệ dân tộc
ở Tây Nguyên thời gian qua (in trong cuốn: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đòan
kết với vấn đề phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong thời kỳ mới,
NXBCTQG, H, 2004)
- Q trình thực hiện chính sách tơn giáo của Đảng đưa đồng bào theo
đạo giáo ở Tây Nguyên đi lên CNXH(1975-1986), do TS. Trần Quốc Long làm
chủ nhiệm (1996- 1997)
- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về dân tộc và quan hệ dân tộc ở Tây

Nguyên của PGS.TS. Trương Minh Dục, do nhà xuất bản Chính trị quốc gia ấn
hành năm 2006,
- Với cơng trình nghiên cứu của tập thể tác giả do Th.S Đoàn Xuân Kỳ làm
chủ nhiệm với đề tài : “Chiến lược diễn biến hồ bình của chủ nghĩa đế quốc và
hoạt động chống phá nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam của các thế lực thù
địch”, Thông tin khoa học, số 2/1997, Phân viện Đà Nẵng- Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh. Tập thể các tác giả trình bày những thủ đoạn mà các thế lực thù
địch đã tiến hành để thực thi “diễn biến hoà bình ” ở nước ta trong giai đoạn mới.
Nghiên cứu tình hình hoạt động “diễn biến hòa bình” ở Tây Nguyên trong
những năm gần đây trên các lĩnh vực đã thu hút nhiều nhà nghiên cứu tham gia
như:
-Tác giả Nguyễn Văn Tài với bài viết: “Nhân tố con người trong phịng
và chống “diễn biến hồ bình”, Tạp chí Cộng sản, số 21, tháng 11/1996;
-Nguyễn Nam Khánh: “Mấy vấn đề cấp bách ở vùng Tây Nguyên” Tạp
chí Cộng sản, số 3 tháng 1/2003..v.v..
Thời gian gần đây, trước những diễn biến bất ổn gắn với những hoạt động
khơng bình thường của đạo Tin Lành và sự gia tăng các hoạt động chống phá
của các thế lực thù địch trong và ngoài nước trên địa bàn Tây Nguyên, công tác
nghiên cứu vấn đề đạo Tin Lành và vấn đề xây dựng củng cố hệ thống Chính trị,
âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hồ bình”ở trong vùng được chú ý, tiêu biểu, đáng
kể trong những cơng trình này như:
-Một số vấn đề về tơn giáo và đấu tranh chống hoạt động lợi dụng tôn
giáo ở Tây Nguyên: Sách chuyên khảo của Trần Xuân Dung. NXB Công an
nhân dân, 2006, Tác giả đã giới thiệu về tơn giáo và q trình du nhập, phát triển
tơn giáo ở Tây Nguyên. Hoạt động của các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo ở
Tây Nguyên và công tác đấu tranh, quan điểm và giải pháp phòng ngừa của
Đảng Nhà nước ta với thế lực này.
- Cơng trình “Đạo Tin Lành ở các dân tộc ít người vùng Nam Trường
Sơn- Tây Nguyên” của Đỗ Hữu Nghiêm, công bố năm 1995, ở thành phố Hồ Chí
Minh


12


-Đề tài khoa học “ Nguyên nhân, điều kiện phục hồi và phát triển đạo Tin
lành trong đồng bào dân tộc Jrai, Bahnar những năm 1989- 1994” do Công an
tỉnh Gia lai thực hiện năm 1995.
-Đề tài khoa học cấp bộ năm 2000 “Về tình hình phát triển đạo Tin Lành ở
miền núi phía Bắc Trường Sơn- Tây nguyên”do GS. Đặng nghiêm Vạn làm chủ
nhiệm
- Cơng trình “ Tìm hiểu hệ quả của việc truyền đạo Tin Lành đối với văn
hóa tuyền thống và tín ngưỡng tơn giáo Việt Nam”của Nguyễn Xn Hùng,
đăng ở tạp chí nghiên cứu tơn giáo số 1 năm 2000
Bên cạnh đó có hàng loạt bài viết về hoạt động chống phá của các thế lực thù
địch ở Tây Nguyên ; một số bài viết về âm mưu đòi thành lập nhà nước “Đề ga”,
đạo Tin lành Đề ga, về cuộc bạo động chính trị ở Tây Nguyên trong năm 2001 và
2004 đăng trên các loại ấn phẩm khác nhau, nhiều tờ báo hàng ngày, hàng tháng.
Tóm lại: Là vùng đất có vị trí chiến lược quan trọng trong thế trận an ninh
quốc phòng, lại giàu có và hấp dẫn về điều kiện tự nhiên, xã hội, con người, …
Tây Nguyên đã được nhiều ngành, nhiều giới chú ý, nghiên cứu. Nhìn chung,
các cơng trình nghiên cứu trên đã đề cập khá đa dạng đời sống văn hóa- xã hội,
tình hình an ninh, trật tự an toàn xã hội, những hoạt động chống phá của các thế
lực thù địch bằng chiến lược “diễn biến hòa bình” ở Tây Ngun. Trong các
cơng trình nghiên cứu đó, có những cơng trình giới thiệu khái qt chiến lược
“diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc, tình hình hoạt động chống phá của
các thế lực thù địch trên một số lĩnh vực như Tôn giáo, vấn đề dân tộc. Có
những cơng trình là tập hợp các bài viết riêng rẽ về các khía cạnh khác nhau về
hoạt động “diễn biến hòa bình” ở Tây Ngun. Có cơng trình mang tính học
thuật chun sâu và cũng có những cơng trình mang tính mơ tả, giới thiệu một
cách khái qt…

Tuy nhiên, cần khẳng định rằng, mặc dù có đề cập một cách rải rác hoặc
riêng rẽ từng khía cạnh, với mức độ nơng sâu khác nhau, nhưng cho đến nay
chưa có một cơng trình nào tập trung làm sáng tỏ một cách trọn vẹn đầy đủ về
cuộc đấu tranh chống “diễn biến hịa bình” ở Tây Ngun- Thực trạng và giải
pháp”. chưa có cơng trình nào đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống âm mưu
và thủ đoạn mà các thế lực thù địch đã và đang lợi dụng để thực hiện “diễn
biến hồ bình” ở Tây Ngun thời gian gần đây, từ đó đưa ra những dự báo và
giải pháp nhằm góp phần đánh bại chiến lược “diễn biến hồ bình” của các thế
lực thù địch ở Tây Ngun, đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay, khi vùng Tây
Ngun có những bất ổn khá nghiêm trọng về Chính trị - xã hơi.
Cho đến nay vẫn chưa có một cơng trình nào đưa vấn đề: “cuộc đấu
tranh chống chiến lược “diễn biến hịa bình” ở Tây Ngun – Thực trạng và
giải pháp.”vào cơng trình với tư cách như là một trong những nội dung nghiên
cứu chính yếu của mình. Tuy vậy, cần phải thấy rằng, những cơng trình nghiên
cứu về cuộc đấu tranh chống chiến lược “diễn biến hòa bình” ở Tây Nguyên đã
liệt kê ở trên là những tài liệu tham khảo hết sức quý giá đối với các nghiên cứu
về Tây Nguyên sau này, đặc biệt đối với đề tài.
13


Có thể khẳng đinh rằng, vấn đề:“Cuộc đấu tranh chống chiến lược “diễn
biến hòa bình” ở Tây Nguyên- Thực trạng và giải pháp” là vấn đề chưa được
nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn vẹn và hệ thống như một cơng trình nghiên
cứu độc lập và chun sâu.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục tiêu
Trên cơ sở phân tích âm mưu và hoạt động của các thế lực thù địch ở Tây
Nguyên, làm rõ thực trạng cuộc đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” ở đây. Đề
xuất các giải pháp chống lại âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù
địch ở các tỉnh Tây Nguyên.

3.2 Nhiệm vụ của đề tài
- Phân tích vị trí của Tây Nguyên và những âm mưu, hành động mà kẻ thù
sử dụng trong q trình tiến hành “diễn biến hồ bình” ở địa bàn này thời gian
qua.
- Phân tích những kết quả đạt được trong cuộc đấu tranh chống chiến
lược diễn biến hòa bình ở Tây Nguyên. Rút ra những kinh nghiệm có ý nghĩa
thực tiễn.
- Đưa ra những giải pháp cơ bản trong cuộc đấu tranh đánh bại mọi âm
mưu và hoạt động chống phá ở Tây Nguyên thông qua “diễn biến hồ bình” của
các thế lực thù địch trong thời gian tới.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được triển khai trên cơ sở phương luận của chủ nghĩa Mác- Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng.
Ngoài những phương pháp chung, phổ biến trong nghiên cứu lý luậnvề
vấn đề dân tộc, giai cấp, tôn giáo, quan hệ quốc tế, về “diễn biến hòa bình”, về
vai trò của quần chúng, về công tác dân vận..v.v.. làm cơ sở lý luận, đề tài còn sử
dụng phương pháp lịch sử, và lơgic và các phương pháp phân tích - tổng hợp,
thống kê, so sánh, điều tra xã hội học, khảo sát thực tế, phỏng vấn, đối thoại, tọa
đàm, đồng thời kế thừa kết quả các cơng trình có liên quan.
5. Những đóng góp của đề tài
Những kết quả của cơng trình sẽ là tài liệu thiết thực cho các nhà nghiên
cứu nói chung, đồng thời là tư liệu bổ ích cho các nhà lãnh đạo quản lý trong
quá trình hoạch định, xây dựng và triển khai các chính sách về tơn giáo, dân tộc,
chính sách phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội ở Tây Nguyên, đặc biệt là chính
sách đối với các dân tộc thiểu số ở Tây ngun.
Ngồi ra, những kết quả từ cơng trình sẽ là nguồn tài liệu cần thiết trong
nghiên cứu, giảng dạy ở các viện nghiên cứu, các trường đại học trong nước và
khu vực, đặc biệt là trên địa bàn Tây Nguyên
6. Kết cấu của đề tài


14


Với những mục tiêu nêu trên nội dung của đề tài ngoài phần mở đầu và
kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, phụ lục, kết cấu đề tài được thực
hiện với ba chương như sau:
Chương I: Tây Nguyên trong chiến lược “diễn biến hòa bình” của chủ
nghĩa đế quốc
Chương II: Đấu tranh chống diễn biến hòa bình ở Tây Nguyên thời gian
qua - kết quả và những vấn đề đặt ra.
Chương III: Những giải pháp cơ bản nhằm chống “Diễn biến hòa
bình”của chủ nghĩa đế quốc trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên

CHƯƠNG I
TÂY NGUYÊN TRONG CHIẾN LƯỢC “DIỄN BIẾN HỊA BÌNH”
CỦA CHỦ NGHĨA ĐẾ QUỐC
1.1. Vị trí Tây Ngun trong chiến lược “diễn biến hồ bình” của chủ
nghĩa đế quốc
1.1.1. Vài nét về tầm quan trọng chiến lược của khu vực Tây Nguyên
trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
15


Nằm án ngữ phía tây các tỉnh Duyên hải miền Trung và tiếp giáp với miền
Đông Nam Bộ, Tây Nguyên không chỉ tiềm ẩn một nguồn tài nguyên vô cùng
phong phú về rừng, đất, nước, khống sản, mà còn có vị trí chiến lược quan
trọng về quốc phòng, an ninh cho cả nước và vùng Đơng Dương. Chính vì vậy,
từ khi đặt ách đô hộ lên đất nước ta, thực dân Pháp và sau này là đế quốc Mỹ tập
trung sức củng cố thế chiến lược của vùng này. Vì nếu chiếm giữ được Tây
Nguyên thì chúng sẽ chiếm giữ được các tỉnh Duyên hải Trung Trung Bộ, khống

chế các tỉnh Đông Nam Bộ và làm chủ chiến trường miền Nam. Ngược lại, nếu
thất thủ Tây Nguyên thì sẽ dẫn đến nguy cơ mất tất cả. Điều này đã được chứng
minh trong chiến dịch giải phóng Bn Ma Thuột, giải phóng Tây Ngun, giải
phóng Sài Gòn và tồn miền Nam của quân và dân ta vào mùa xuân năm 1975
lịch sử.
Vì vậy, có thể thấy Tây Ngun có một vị trí chiến lược hết sức quan
trọng trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta. Cũng chính việc
xác định đúng đắn vị trí chiến lược này mà trong các cuộc chiến tranh chống hai
đế quốc to là Pháp và Mỹ, Đảng ta rất coi trọng địa bàn Tây Nguyên. Nơi đây
không chỉ là vùng căn cứ cách mạng, là hành lang thông thương giữa các vùng
trong nước và hai nước bạn Lào và Campuchia, mà còn là “thủ phủ” của đồng
bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên đã bao đời nay gắn bó sâu nặng với mảnh
đất này. Họ có một nền văn hố phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc; có tinh thần
cách mạng triệt để, một lòng theo Đảng, theo Bác Hồ, đánh Tây giữ làng, nuôi
giấu cán bộ nằm vùng trong những ngày cách mạng đen tối. Và ngót 30 năm
kháng chiến chống xâm lược, đồng bào các dân tộc Tây Nguyên đã cùng với
quân và dân cả nước lập nên biết bao chiến công lẫy lừng làm cho quân thù phải
khiếp sợ, thất điên bát đảo, góp phần giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Ngày nay, trong sự nghịêp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Tây Nguyên vẫn
là một trong những địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng. Mặc dù hiện nay Tây
Nguyên còn nghèo, đời sống nhân dân ở nhiều vùng, nhất là vùng sâu, vùng xa,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) còn nhiều khó khăn, chưa thốt khỏi
cuộc sống nghèo nàn, lạc hậu. Nhưng với nguồn tài nguyên vô cùng phong phú
và đa dạng được thiên nhiên ban tặng là một tiềm năng lớn để phát triển một nền
kinh tế toàn diện theo hướng cơng nghiệp hố, hiện đại hố (CNH, HĐH). Bởi,
Tây Ngun khơng có “biển bạc”, nhưng có “rừng vàng”, có quỹ đất bazan màu
mỡ chạy suốt từ cao nguyên KonTum ở phía bắc đến Lâm Đồng ở phía nam, là
vùng đất hứa cho quá trình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Ở các tỉnh Tây Nguyên, mỗi năm có hàng ngàn hộ gia đình và hàng vạn
lao động từ khắp các vùng, miền trong nước đến làm ăn sinh sống, kể cả dân di

cư có tổ chức và dân di cư tự do. Họ đến vùng đất này khơng ngồi mục đích
xây dựng cuộc sống mới, với mong muốn đổi đời, có đời sống vật chất và tinh
thần ngày càng được cải thiện. Và thực tế đã chứng minh, phần lớn hộ gia đình
đến lập nghiệp ở Tây Nguyên đều có thu nhập khá, cuộc sống ổn định. Đương
nhiên, không phải mọi người đến Tây Nguyên đều làm giàu cả và đều có cuộc
sống no đủ, mà muốn có của ăn, của để thì ngồi đất đai ra còn phải có vốn, có
lao động, có kỹ thuật và phải biết tính tốn làm ăn, tiết kiệm từng đồng vốn thì

16


mới có thể làm giàu được. Nếu khơng hội đủ những yếu tố đó thì dù ở đâu cũng
khơng thể thốt khỏi cuộc sống đói nghèo, lạc hậu.
Với vị trí địa kinh tế và địa chính trị của mình, Tây Ngun khơng chỉ có
tầm chiến lược quan trọng trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, mà cón có vị trí
chiến lược quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bởi, ngày nay
Tây Nguyên là nơi thu hút dân cư và lao động đông nhất từ các nơi đến làm ăn,
sinh sống nhằm thực hiện một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta về phân bố
lại lao động và dân cư trong toàn xã hội. Khẳng định điều này, một mặt để làm rõ vị
trí chiến lược của Tây Nguyên đối với cả nước và cả nước đối với Tây Nguyên.
Mặt khác, để có những chủ trương, chính sách và giải pháp đúng đắn nhằm đầu tư
phát triển Tây Nguyên đúng với vị thế và tầm vóc của nó.
Như vậy, xét về mặt kinh tế - xã hội, Tây Ngun có một vị trí chiến lược
quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hiện tại nó có sức cuốn
hút rất lớn đối với các nhà đầu tư và nhân dân ở khắp các vùng, miền đến sản
xuất, kinh doanh, xây dựng quê hương mới để làm giàu cho mình và cho xã hội.
Song, Tây Nguyên cũng là địa bàn mà các thế lực thù địch thường lợi
dụng để thực hiện chính sách hậu chiến, thực hiện âm mưu “diễn biến hồ bình”
nhằm làm mất ổn định chính trị, gây khó khăn cho công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội (CNXH) và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta.

1.1.2. Các nhân tố mà các thế lực thù địch lợi dụng để thực hiện chiến
lược “diễn biến hồ bình” ở Tây Nguyên.
1.1.2.1. Đặc điểm về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên.

Theo
các
nhà nghiên cứu, thì tên
gọi Tây Nguyên
xuất hiện sau cách mang
tháng Tám năm 1945- dùng để chỉ vùng cao nguyên rộng lớn, trù phú nằm ở Tây
Nam của khu vực Trung bộ. Về mặt lịch sử, văn hóa trong nhiều tài liệu ở nước
ta đều đặt tây Nguyên vào vùng văn hóa trường Sơn – Tây Nguyên.
17


Vào thế kỷ XII, vùng đất này bị Chiêm Thành xâm chiếm. Năm 1470, vua
Chiêm Thành là Trà Toàn mang quân xâm lấn biên giới phía Nam của Đại Việt,
vua Lê Thánh Tông thân chinh đánh đuổi và bắt sống được Trà Toàn tại thành
Đồ Bàn, nước Chiêm Thành tan rã, từ đó đồng bào các dân tộc ở đây thốt khỏi
ách đơ hộ kéo dài 3 thế kỷ và trở thành một phần của lãnh thổ Đại Việt. Sau khi
trở thành lãnh thổ của Đại Việt, một mặt Nhà Lê tôn trọng đường ranh giới giữa
Tây Nguyên với đồng bằng; mặt khác, ban hành những chính sách nhằm đảm
bảo mối liên hệ giữa triều đình Trung ương với các bộ tộc, giữa người Kinh với
đồng bào miền Thượng trong một chỉnh thể quốc gia thống nhất.
Thời kỳ Tây Sơn khởi nghĩa, anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ càng
thắt chặt hơn mối quan hệ với đồng bào miền Thượng. Một trong những căn cứ
nổi tiếng của nghĩa quân Tây Sơn là vùng “Tây Sơn Thượng đạo” nằm giáp ranh
giữa Vĩnh Thạnh và An Khê. Trong đội quân của Nguyễn Huệ có hàng trăm
nghiã quân người Bana rất thiện chiến về cung nỏ.
Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi lấy hiệu là Gia Long và một trong những

chính sách đầu tiên là thực hiện việc quản lý miền Thượng du trong một chỉnh thể
nhà nước phong kiến thống nhất. Gia Long cho đổi tên vùng Thượng Nam Ngãi
thành Trấn Man, đồng thời chia Trấn Man thành 04 Nguyên và 05 Đạo.
Sau khi xâm lược nước ta và đánh chiếm Tây Nguyên (1884), thực dân
Pháp thực hiện âm mưu tách Tây Nguyên ra khỏi Việt Nam. Năm 1885, thực
dân Pháp tiến đánh kinh thành Huế và buộc triều đình Nhà Nguyễn ký một hiệp
ước, trong đó cắt Cao nguyên Trung phần sang lãnh thổ Lào, nhưng do phản ứng
quyết liệt của triều đình Huế cộng với phong trào đấu tranh vũ trang của các dân
tộc Tây Nguyên nên âm mưu này không thực hiện được. Không ép được nhà
Nguyễn tách Tây Nguyên sang Lào, ngày 03 tháng 10 năm 1893, Pháp cấu kết
với Xiêm ký một hiệp ước riêng rẽ, mặc nhiên thừa nhận Tây Nguyên thuộc lãnh
thổ Lào. Cùng năm đó, Khâm sứ Trung kỳ Bu lô sơ (Boulloche) ra lệnh đặt Tây
Nguyên dưới sự “bảo hộ đặc biệt”. Sau đó lần lượt lập ra Tồ Đại lý Bn Mê
Thuột (1894), Tồ Đại lý Kon Tum và Toà Đại lý Pleiku (1899) đặt dưới quyền
quản trị trực tiếp của hạt Strung Treng.. Trên thực tế, từ tháng 10 năm 1893 thực
dân Pháp đã nắm toàn bộ vấn đề kinh tế và an ninh của Tây Nguyên. Triều đình
Huế trong thế suy yếu đành phải chấp nhận để thực dân Pháp thực hiện quyền
“bảo hộ” của chúng đối với vùng đất biên cương phía Tây - mặc dù biết rõ người
Pháp có âm mưu chia cắt Tây Nguyên ra khỏi sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt
Nam…
Sau cách mạng Tháng 8 – 1945, thực dân Pháp quay lại xâm chiếm Đông
Dương và càng tập trung thực hiện mưu đồ tách Tây Nguyên ra khỏi lãnh thổ
Việt Nam. Ngày 27 tháng 6 năm 1946, Cao uỷ Đông Dương - Đác giăng li ơ
(D’Argenlieu) ký lệnh hợp nhất 5 tỉnh lúc bấy giờ: Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk,
Lâm Viên và Đồng Nai Thượng thành một khu vực hành chính riêng, với tên gọi
là “Uỷ phủ liên bang các dân tộc Thượng miền Nam Đông Dương”
(Commissariat Fédéralpour les populations montagnardé du Sud Indochinois)
trực thuộc Phủ Cao uỷ Pháp, thủ phủ đặt tại Buôn Mê Thuột.
Về địa giới và các đơn vị hành chính ở Tây Nguyên, do những nguyên
nhân về chính trị - xã hội, và tính chất chiến lược của Tây Nguyên, các đơn vị

18


hành chính được thiết lập sớm nhất ở Tây Nguyên là Đại lý hành chính Bn
Đơn (1894), Đại lý hành chính Kon Tum và Pleiku (1899). Thời Pháp thuộc có
lúc Tây Nguyên có lúc gồm 02 tỉnh, có lúc 03 tỉnh, có lúc 05 tỉnh. Ngồi ra, để
thuận tiện trong việc quản lý lãnh thổ, đối với các huyện có địa bàn rộng, thực
dân Pháp còn lập ra một cấp hành chính trung gian (trên tổng, dưới huyện) gọi là
vùng (Serteur) do một chủ vùng người Pháp (Chef Serteur) phụ trách.
Về phía ta, trong chính năm chống Pháp, Tây Nguyên thuộc khu XV (từ
1947 – 1949), và thuộc Liên khu V (từ tháng 3 năm 1949 – 1954). Để thuận tiện
trong chỉ đạo, ta sát nhập Lâm Viên và Đồng Nai Thượng thành tỉnh Lâm Đồng
(1848), sát nhập Gia Lai và Kon Tum thành tỉnh Gia Lai – Kon Tum (1950).
Thời Mỹ ngụy phân chia lại và thành lập thêm đơn vị hành chính gồm các
tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Phú Bổn, Đăk Lăk, Quảng Đức, Lâm Đồng và Tuyên
Đức (đặc khu Đà Lạt); cắt phần phía Đơng của Gia Lai về tỉnh Bình Định, thành
lập quận An Túc; cắt phần phía Đơng tỉnh Đăk Lăk về Khành Hồ, thành lập
quận Khánh Dương…
Hiện nay, trong 5 tỉnh của khu vực Tây Ngun thì có 4 tỉnh có đường
biên giới với hai nước bạn Lào và Campuchia; trong đó, đường biên giới với
nước CHDCND Lào dài 135 km; đường biên giới với Vương quốc Campuchia
dài 455 km…Điều cần chú ý là nhân dân sống ở biên giới đa số là đồng bào các
dân tộc thiểu số, đời sống kinh tế - xã hội còn gặp nhiều khó khăn; lại có quan
hệ họ hàng lâu đời với nhân dân hai nước vùng biên (Lào và Campuchia), nên
việc qua lại thăm thân là việc thường xuyên. Trên tuyến biên giới, mặc dù đã bố
trí 43 đồn biên phòng, nhưng do địa bàn và giao thơng khó khăn nên việc quản
lý biên giới còn những hạn chế nhất định, đó là tình trạng xâm phạm đường
biên, phát rẫy xâm canh, săn bắn trái phép vẫn còn xảy ra.
Tây Nguyên như là ngôi nhà chung của 3 nước Việt Nam, Lào,
Campuchia, có điều kiện thuận lợi cho việc quan hệ với các nước khu vực. Từ

trước đến nay, các thế lực thù địch, xâm lược đều tìm mọi cách để độc chiếm
Tây Nguyên. Ngày nay, chủ nghĩa đến quốc đứng đầu là Mỹ, trong chiến lược
diễn biến hồ bình chống phá Việt Nam, chúng vẫn lấy Tây Nguyên làm địa bàn
quan trọng để thực hiện âm mưu của chúng.
Tây Nguyên gồm 5 tỉnh: Đắc lắc, Gia Lai, Lâm Đồng, Kon Tum và Đắc
Nông. Tổng diện tích tự nhiên của Tây Nguyên là 54.474 km 2 (chiếm 16,3 diện
tích cả nước). 5 tỉnh Tây nguyên hiện có 54 đơn vị hành chính cấp huyện, 691
đơn vị hành chính cấp xã; hơn 6,9 nghìn thơn, bn, bon, làng, tổ dân phố. Có 4
thành phố trực thuộc tỉnh: Buôn Ma Thuột, Pleiku, Đà Lạt, Kon Tum, 3 thị xã:
An Khê, Bảo Lộc, Gia Nghĩa. Giới hạn trong toạ độ địa lý từ 11 045’ đến 15027’
(độ vĩ Bắc) và từ 107012’ đến 108055’ (độ kinh Đơng). Phía Bắc giáp tỉnh Quảng
Nam, phía Đơng giáp các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú n, Khánh Hồ,
Ninh Thuận, Bình Thuận, Đồng Nai, phía Nam giáp tỉnh Bình Phước, phía Tây
giáp nước bạn Lào và Campuchia.
Tây Nguyên là một vùng đất rộng lớn chứa đựng nhiều tiềm năng phát
triển, đặc biệt là phát triển nền nơng nghiệp hàng hóa lớn. Phần lớn diện tích đất
canh tác ở Tây Nguyên là đất đỏ ba zan màu mỡ (chiếm 61,4% đất đỏ bazan của
19


tồn quốc), gần 2/3 trong số đó là đất đỏ phong hố hình thành trên đá mẹ
bazan, tầng đất dày và mịn, độ phì cao, tính chất cơ lý đặc trưng, rất thích hợp
với nhiều loại cây cơng nghiệp, cây đặc sản như: cà phê, cao su, điều, tiêu, và
nhiều lại cây ăn trái. Ngoài đất đỏ bazan, Tây nguyên còn có hơn 90. 000 hecta
đất trồng lúa nước, có thể cho năng suất trên 5 tấn/ ha và những đồng cỏ lớn
(như ở AYunPa, M’Drắc..) để có thể chăn nuôi đại gia súc như dê, trâu, bò,..
Rừng là một trong các yếu tố có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với Tây
Nguyên (Theo tài liệu của Phân viện Điều tra quy hoạch rừng Nam Trung bộ
công bố năm 1980, tổng diện tích rừng của Tây Nguyên là 3.868.400 ha, chiếm
70,66% tổng diện tích tự nhiên).

Rừng của Tây Nguyên khơng chỉ lớn về diện tích, mà còn có giá trị đặc
biệt về chất lượng, bởi sinh khối lớn và sự đa dạng, phong phú của hệ động, thực
vật, đồng thời cũng là nơi còn tồn tại nhiều loài đặc hữu 1. Bên cạnh tài nguyên
rừng, đất và đất rừng đối với Tây Ngun khơng chỉ có ý nghĩa quyết định trong
sự phát triển bền vững, không chỉ về mặt tài nguyên thiên nhiên, mà còn gắn với
nhiều vấn đề xã hội sâu sắc. Với diện tích rừng lớn như thế nên trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước đây là nơi để chúng ta xây dựng lực lượng, nơi
đóng các cơ quan lãnh đạo, nơi tập trung của bộ đội ta chuẩn bị cho những trận
đánh lớn. Ngày nay, bọn phản động, các thế lực chống đối lợi dụng sự mênh
mông rộng lớn của rừng để chui lủi, trốn tránh sự truy quét của lực lượng vũ
trang ta. Thậm chí rừng ở một số nơi còn được bọn tàn quân Fulrô sử dụng làm
căn cứ của chúng.
Lòng đất Tây Nguyên chứa nhiều loại tài nguyên, khoáng sản quý hiếm
như vàng, bơ xit, đá q, măng gan, kim loại phóng xạ. Theo tính tốn ban đầu,
trữ lượng bơ xit ở Nam Tây Nguyên khoảng 4,5 tỷ tấn, hiện nay đã thăm dò và
có thể đưa vào khai thác khoảng 2,6 tỷ tấn ở nam Đắc Lắc.
Tây Nguyên nằm hoàn toàn trong khu vực nhiệt đới gió mùa Đơng Nam
Á. Tuy nhiên, do đặc điểm vị trí địa lý và điều kiện địa hình mà khí hậu Tây
Ngun cũng có những nét riêng biệt so với tình hình chung. Điều này được thể
hiện ở các đặc điểm sau:
Khí hậu Tây Nguyên là khí hậu nhiệt đới gió mùa nhưng có nhiệt độ thấp
do độ cao địa hình. Nhiệt độ trung bình năm của Tây Nguyên giao động từ
22,3oC - 23,8 oC. Số giờ nắng trong năm đạt từ 2000 - 2200 giờ.
Gió mùa và các thành phần chủ yếu về bức xạ, kết hợp với địa hình, mặt
đệm hình thành nên hai mùa (mùa mưa và mùa khô) rõ rệt.
Mùa mưa kéo dài 6 tháng (từ tháng 5 đến tháng 10 hàng năm). Mùa này
với hướng gió thịnh hành là Tây Nam mang theo độ ẩm lớn nên lượng mưa
chiếm 80 - 85% lượng mưa cả năm. Mưa lớn thường tập trung vào các tháng từ
tháng 7 đến tháng 10.


1

Với 600 lồi cây gỗ lớn, trong đó có 30 lồi cây gỗ quí hiếm như cẩm lai, cà te, giáng hương, trắc, gụ đỏ…
Trong 56 lồi động vật có xương sống ở cạn được xem là hiếm có ở Đơng Dương, có tới 17 lồi được Hiệp hội
quốc tế về bảo vệ thiên nhiên (IUCN) xếp vào danh sách các loài quí hiếm cần được bảo vệ như: tê giác, voi,
gấu, bò rừng, bò xám, bò tót, hổ, báo, hươu vàng, nai cà toong, vượn đen, gà lôi, công, trĩ…

20


Mùa khô kéo dài 6 tháng (từ tháng 11 năm trước đến tháng 5 năm sau).
Mùa này với hướng gió thịnh hành là Đơng Bắc. Gió mùa này có tốc độ lớn hơn
gió mùa mưa (trung bình 3m/s, có thể tới 3,8m/s). Sau khi vượt dãy Trường Sơn
gió trở nên lạnh và khơ (phơn), nên mùa này rất ít mưa. Lượng mưa trong 6
tháng mùa khô thường chỉ chiếm 15 - 20% lượng mưa cả năm.
Tiềm năng về năng lượng của Tây Nguyên cũng rất lớn, Mật độ sông suối
ở Tây Nguyên tương đối dày, trung bình từ 0,4 - 0,5km/km 2. Với mật độ sông
suối khá dày, ở vùng núi cao sông suối dốc nên lũ lụt xảy ra đột ngột. Điều này
gây cản trở ít nhiều cho việc đi lại trong mùa lũ, cản trở hoặc làm chậm việc truy
quét của lực lượng vũ trang đối với bọn thù địch trong rừng sâu.
Các sông ở Tây nguyên như: Hệ thống sông Sê rê Pốk và hệ thống sông
EaHleo ( Ở Đắc Lắc ), sông Sê san, thượng nguồn sơng Đồng Nai, sơng Pơ
Cơ… được đánh giá là có tiềm năng lớn về thủy điện. Đến nay, trên địa bàn Tây
nguyên đã xây dựng và đưa vào khai thác một số nhà máy thủy điện như: Đa
nhim (Lâm Đồng), Đray, H’Linh (Đắc Lắc), Ialy (Gia Lai). Trong tương lai
nhiều nhà máy thủy điện khác như Sê san II, Sê san III sẽ được đưa vào khai
thác ở Tây Nguyên. Ngồi các sơng lớn, những song suối nhỏ ở Tây Nguyên
cũng có thể khai thác thủy điện vừa và nhỏ phục vụ nhu cầu tại chổ.
Bên cạnh các nguồn tài nguyên, thiên nhiên, Tây Nguyên là vùng đất tươi
đẹp, chứa đựng nhiều tiềm năng về du lịch, đặc biệt là du lịch tự nhiên- sinh thái

và du lịch văn hóa. Những cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ trong các cánh rừng
nguyên sinh ở Chư Moray, ĐaK Uy, Ngọc Linh, Lang Biang, Kon Hơ Nừng,
Yc Đơn, Lak…với các thác nước trong lành, với những cánh rừng xanh tươi
nhiều hoa lá, luôn hấp dẫn con người đến chiêm ngưỡng, nghỉ ngơi thư giãn.
Cùng với cảnh quan thiên nhiên là những nền văn hóa phong phú đa dạng và độc
đáo của các dân tộc bản địa Tây nguyên với những kho tàng văn hóa vật thể và
phi vật thể là một hệ thống các di tích văn hóa – lịch sử hứa hẹn những khả năng
rộng lớn để phát triển một nền kinh tế du lịch và văn hóa kết hợp với du lịch
sinh thái đầy hấp dẫn khách thập phương.

Lễ đua voi

Lễ bỏ mả

Tuy nhiên với những thuận lợi trên đây, yếu tố tự nhiên của Tây ngun
cũng chứa đựng khơng ít những khắc nghiệt khó khăn liên quan đến cuộc đấu
21


tranh chống “diễn biến hòa bình’, bảo đảm an ninh – trật tự an toàn xã hội. Cụ
thể:
Nhiều vùng ở Tây Nguyên địa hình hiểm trở, núi rừng trùng điệp, hoang
vu, giao thông kém phát triển nên đi lại và giao thương rất khó khăn, gần như bị
tách biệt với bên ngoài, đặc biệt là vào mùa mưa bão. Do việc mở mang buôn
bán, trao đổi giao lưu với các vùng khác bên ngoài chưa phát triển nên đời sống
của nhân dân ở một số vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn, tự cung tự cấp,
kém phát triển so với vùng khác.
Phần lớn các đơn vị hành chính ở Tây Nguyên trải rộng trên một diện tích
rộng gấp vài lần, thậm chí gấp vài chục lần diện tích của đơn vị hành chính ở
miền xi, nhưng dân số lại ít hơn nhiều. Chẳng hạn như xã Chư Mô Ray ở tỉnh

Kon Tum có diện tích rộng gần bằng diện tích tỉnh Thái Bình, nhưng dân số
chưa bằng nửa một xã nhỏ ở miền xuôi. Nhiều nơi, giao thông đi lại trong nội bộ
và với bên ngoài của nhiều xã còn rất khó khăn. Ở Tây Nguyên có nhiều huyện
rộng sánh ngang một tỉnh ở miền đồng bằng nhưng dân số chỉ bằng vài xã mật
tập ở đó. Địa bàn rộng, dân số thưa thớt, giao thơng đi lại khó khăn không chỉ
gây trở ngại đối với sự phát triển kinh tế-văn hóa-xã hội mà còn là thách thức
đối với cơng tác bảo đảm an ninh, trật tự an tồn.
Những năm gần đây, do tác động bất thường về khí hậu đã ảnh hưởng rất
lớn đến sản xuất. Ước tính 6 tháng đầu năm 2002, thiệt hạn do hạn hán gây ra
đối với đắc lắc là khoảng 500 tỷ đông, Lâm Đồng là 350 tỷ đồng 2. Sự khắc
nghiệt của khí hậu và những diễn biến xấu của thời tiết trong thời gian gần đây
cùng với sự ngăn cách của địa hình đã tạo nên những khó khăn lớn đối với sự
phát triển nhiều mặt của một số khu vực cũng như toàn vùng Tây Nguyên.
Do nhiều nguyên nhân – mà nhất là sự tàn phá của con người, trong
những năm qua tài nguyên rừng của Tây Nguyên đã suy giảm trầm trọng, khơng
chỉ thu hẹp về diện tích, mà còn suy giảm mạnh cả về trữ lượng và thành phần
các lồi động, thực vật…Theo tính tốn của các cơ quan chức năng , từ năm
1975 đến năm 1993, rừng của Tây Nguyên bị mất hơn một triệu hecta. Từ năm
1992 đến 1995 tốc độ mất rừng có giảm nhưng bình quân mỗi năm cũng mất từ
3000 đến 5000 ha3. Ngồi ra, do khai thác bừa bãi khơng đúng cách, do tác động
xấu của thời tiết khí hậu, diện tích đất bazan ở Tây ngun đang bị thối hóa
nghiêm trọng. Theo số liệu của viện nơng hóa thổ nhưỡng, có tới 21,5% diện
tích đất bazan Tây ngun bị thối hóa nặng, 57,7% bị thối hóa mức độ trung
bình và nhẹ. Cũng cần thấy rằng, các thế lực thù địch cũng đang ra sức khai thác
điều kiện khí hậu của Tây Nguyên để chống phá ta. Mùa mưa là mùa gây khó
khăn cho việc truy kích của chúng ta đối với những kẻ chống đối sống chui rúc,
ẩn náu ở những chỗ địa hình hiểm trở (vùng núi cao), trong rừng sâu. Đây cũng
là mùa mà những kẻ vượt biên trái phép dễ lẫn trốn khỏi sự kiểm soát của bộ đội
biên phòng để đi ra nước ngồi.
Tóm lại: Với địa lý, địa hình, khí hậu, tài ngun khống sản…ở Tây

Ngun nổi lên một số điểm thuận lợi và khó khăn cho xây dựng và bảo vệ an
2

Bộ kế hoach và đầu tư – Vụ kinh tế địa phương. Báo cáo về tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế- xã
hội năm 2002 và phương hướng phát triển năm 2003 vùng Tây Nguyên, Hà nội, ngày 24/6/2002
3
Báo lao động ngày 26/10/1995

22


ninh quốc phòng trên địa bàn các tỉnh Tây nguyên, vừa là những nhân tố mà các
thế lực thù địch có thể lợi dụng để thực hiện “Diễn biến hồ bình”.
Về thuận lợi: Với địa hình có nhiều điểm cao có giá trị chiến thuật, diện
tích rừng còn nhiều, tiện cho việc tổ chức, xây dựng thế trận từ cấp xã phường,
cấp huyện, tỉnh, hệ thống giao thông tương đối phát triển thuận tiện cho phát
triển kinh tế xã hội và an ninh quốc phòng.
Về khó khăn:
Địa hình rộng, cư dân thưa thớt nhất là tuyến giáp Campuchia, Lào sẽ khó
khăn cho ta xây dựng cơ sở cụm làng xã chiến đấu, chỉ huy, hiệp đồng và bảo
đảm chiến đấu, hệ thống giao thơng mang tính độc đạo qua nhiều đèo, dốc, cua
…nên dễ bị chia cắt, cơ lập.
Địa hình nhiều vùng tương đối bằng phẳng trống trải địch dễ cơ động lực
lượng, nhất là xe tăng, thiết giáp, đổ bộ đường khơng, hình thành nhiều mũi tiến
vào các thành phố lớn. Tây Nguyên là một địa bàn mà các thế lực thù địch có
thể đưa người từ ngồi vào qua địa bàn Campuchia, Lào để xây dựng, tập hợp
lực lượng chống đối nhằm đẩy mạnh "diễn biến hòa bình".
Những thuận lợi và khó khăn về điều kiện địa lý – tự nhiên ở Tây Nguyên
đã ảnh hưởng lớn đến quá trình phát triển kinh tế- xã hội, cũng như cuộc đấu
tranh chống “diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc của vùng này

1.1.2.2 Đặc điểm kinh tế-xã hội, văn hóa
a. Đặc điểm về dân cư - tộc người
Nét nổi bật của khu vực Tây Nguyên là vấn đề dân tộc. Trước đây (trong
chiến tranh) do đất rộng, người thưa, các dân tộc cư trú thành các khu vực tương
đối độc lập như vùng Đông Bắc cao nguyên Pleiku kéo đến Đơng Nam Kon
Tum và Tây Bình Định là nơi sinh sống của người Bana; khu vực Đông Nam
cao nguyên Pleiku đến chân núi Chư Dliêya là nơi cư trú của người Gia Rai; gần
trọn cao nguyên Đăk Nông và một phần cao nguyên Di Linh là khu vực sinh
sống của người M’nông, kế tiếp là khu vực người Mạ…Nhưng, dù là khu vực cư
trú của dân tộc nào thì nét nổi bật nhất của thiết chế bn làng vẫn là hình thái
tập cư theo đại gia đình, trong đó tính tự quản và tính cộng đồng bền vững, vai
trò của già làng được đề cao. Ngày nay, do nhu cầu của việc phát triển kinh tế xã hội, của giữ gìn an ninh quốc gia, cũng như việc di dân tự do…buôn làng các
dân tộc đã xen kẽ nhau, xen kẽ với các dân tộc mới đến, xen kẽ với người Kinh,
nên còn rất ít khu vực độc lập dành riêng cho đồng bào các dân tộc thiểu số
(ĐBDTTS).
Năm 1976, dân số Tây Nguyên là 1.225.000 người, gồm 18 dân tộc anh
em, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ là 853.820 người, chiếm 69,7%
dân số.
Năm 1993, dân số tồn vùng tăng lên gấp đơi (2.376.854 người), với 38
dân tộc anh em, trong đó đồng bào các dân tộc thiểu số tại chỗ là 1.050.569
người, chiếm 44,2% dân số. Dân số đến cuối năm 2006 là 4,81 triệu người. Đến

23


cuối năm 2007, dân số là 4,81 triệu người. Người Kinh chiếm 67%, cư dân các
tộc thiểu số chiếm 33%. Đến nay, tồn vùng Tây ngun có 46/54 tộc người4
Các số liệu trên cho thấy cả về qui mô dân số cũng như cơ cấu dân tộc ở
Tây Nguyên biến động liên tục và diễn ra hết sức nhanh chóng. Trong những
năm tới, tỷ lệ đồng bào các dân tộc thiểu số tại chỗ còn có xu hướng giảm thêm,

nếu không ổn định được qui mô dân số và ngăn chặn việc di cư tự do từ các nơi
khác đến5. Một trong những vấn đề bức xúc của Tây Nguyên là tỷ lệ tăng tự
nhiên còn khá cao và tăng cơ học rất cao do di dân tự do từ nơi khác đến. Hậu
quả của vấn đề di cư tự do từ nơi khác đến là nạn phá rừng lấy đất canh tác, mua
bán đất đai và nhiều vấn đề bức xúc khác về môi trường. Việc di cư tự do đến
Tây Nguyên với số lượng lớn cũng đã phá vỡ các kế hoạch, qui hoạch phát triển
kinh tế - xã hội của các tỉnh, nhất là vấn đề ổn định sản xuất và đời sống cho bộ
phận dân cư này rất phức tạp.
Cùng với vần đề này thì vấn đề cơ cấu dân tộc ở Tây Nguyên biến động
rất nhanh, hiện có 46 dân tộc (so với năm 1975 tăng thêm 35 thành phần dân
tộc).6 Bên cạnh ĐBDTTS tại chỗ, còn có nhiều đồng bào các dân tộc thiểu số
hầu khắp cả nước đến lập nghiệp sinh sống mà phần đông là những hộ nghèo,
một số bộ phận không biết chữ, không biết tiếng phổ thông, sinh hoạt tôn giáo
phức tạp... làm tăng tỷ lệ hộ nghèo, mù chữ, thất nghiệp và phát sinh những vấn
đề phức tạp về kinh tế - xã hội, an ninh chính trị (ANCT), an ninh nông thôn cho
các địa phương. Đồng bào các dân tộc thường sống đan xen, khơng có bn nào
chỉ có một dân tộc, thậm chí có xã có tới trên 10 dân tộc. Điều này, một mặt tạo
động lực phát triển kinh tế nhất là vùng ĐBDTTS, các dân tộc giao lưu, trao đổi
với nhau trên mọi lĩnh vực; khẳng định tinh thần đồn kết gắn bó giữa các dân
tộc trong vùng, mặt khác, những khó khăn, những vấn đề nảy sinh trong đời
sồng hàng ngày dễ bị các thế lực thù địch lợi dụng, khai thác để thực hiện “diễn
biến hồ bình”.
Thành phần dân tộc và sự phân bố dân cư ở Tây Nguyên hiện nay có thể
phân thành hai khối: Khối các dân tộc thiểu số bản địa và khối cư dân mới nhập
cư (cư dân người Kinh và các dân tộc thiểu số ở miền Nam và miền Bắc di cư
đến) trong những giai đoạn lịch sử khác nhau.
Khái niệm bản địa được dùng để chỉ các dân tộc thiểu số bản địa đã có
mặt ở Tây Nguyên rất lâu trước khi người Kinh chuyển cư từ các miền đồng
bằng và ven biển lên đây sinh sống làm ăn.
* Đặc điểm khối dân cư mới đến Tây Nguyên

- Người Kinh, hiện nay đã trở thành dân tộc đa số và phân bố rộng khắp
trên địa bàn Tây Nguyên, nhưng tập trung đông nhất là ở các khu vực có điều
kiện sống thuận lợi, đặc biệt ven trục đường giao thông, các thị trấn, thị xã, thị
trấn, thành phố như: thành phố Pleicu, người Kinh chiếm 93,84%; Thị trấn bảo
4
5

6

Xem phụ lục 1
Trong 46 dân tộc có mặt ở Tây Nguyên, được phân như sau:
- Đồng bào Kinh: 3.098.439 người, chiếm 66,37% dân số
- Đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ: 1.181.337 người, chiếm 25,3% dân số
- Đồng bào dân tộc thiểu số mới đến: 348.680 người, chiếm 8,33% dân số
Cũng có một bộ phận nhỏ đồng bào không xác định được dân tộc.

24


lộc (Lâm Đồng): 94,54%; Thành phố Đà Lạt: 96,12%; thị xã An Khê: 96,6%..
Theo số liệu điều tra dân số năm 1999, hiện nay số lượng người Kinh chiếm
66,78% dân số Tây Nguyên.
Dân cư Kinh đến Tây Nguyên trước 1975 đều sống ở thị xã, thị trấn dọc
các trục đường giao thông quan trọng, các đồn điền. Họ là lực lượng tham gia
tích cực vào đời sống chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, có khả năng và kinh
nghiệm thâm canh các loại cây công nghiệp, do cư trú lâu ngày và được sàng lọc
qua cạnh tranh gay gắt để sinh tồn, họ đã thích nghi với hồn cảnh tự nhiên và
đã thuần phục với lề lối làm ăn ở Tây Nguyên, hướng vào việc khai thác tiềm
năng, thế mạnh ở địa phương, tiếp cận nhanh với sản xuất hàng hóa,với thị
trường và có khả năng tiếp thu khoa học kỷ thuật trong sản xuất.

Sau năm 1975, người Kinh lên cư trú ở Tây nguyên ngày càng đông và trở
thành lực lượng quan trọng trong xây dựng và phát triển kinh tế- xã hội ở Tây
Nguyên hiện nay. Cư dân Kinh lên Tây Nguyên có thể chia làm các loại:
+ Đội ngũ cán bộ, công chức gắn với bộ máy chính quyền các cấp từ tỉnh
đến tận cơ sở
Sau giải phóng do yêu cầu quản lý xã hội ở Tây Nguyên, Đảng, Nhà nước
đã điều động hàng nghìn cán bộ Đảng, chính quyền ở miền Bắc, các tỉnh duyên
hải Nam Trung Bộ để tăng cường cho bộ máy chính quyền ở Tây Ngun.
Ngồi ra cũng cần kể đến một bộ phận cán bộ quản lý kinh tế là bộ khung cho
các lâm trường, doanh nghiệp nhà nước. Theo họ là cả gia đình lên định cư, lập
nghiệp. Bộ phận này tập trung sống ở các thị trấn, thị xã, thành phố. Họ là lực
lượng nòng cốt trong quá trình phát triển kinh tế -xã hội ở Tây Nguyên.
+Dân cư kinh tế mới
Để khai thác tiềm năng đất, rừng, và dãn dân đồng bằng, phân bố lại cư
dân trong cả nước và tăng cường lực lượng lao động đang còn rất thiếu và yếu ở
Tây Nguyên, Đảng và Nhà nước ta chủ trương chuyển một bộ phận dân cư ở
đồng bằng duyên hải miền Trung và đồng bằng Bắc bộ đi xây dựng kinh tế mới
ở Tây nguyên với sự đầu tư tập trung cả về vốn lẫn cán bộ. Phong trào chuyển
dân đi kinh tế mới phát triển mạnh mẽ, từ năm 1976 đến 1980 số dân kinh tế
mới được tiếp nhận ở Tây Nguyên là 450.000 người. Trong thời gian 10 năm
tiếp theo (1980 đến 1990) nhận thấy tốc độ đưa dân di cư lên Tây Nguyên như
cũ là không hợp lý, do vậy các tỉnh Tây Nguyên chủ trương hạn chế tiếp nhận
mới và chủ yếu đi vào củng cố số dân kinh tế mới đã có nên chỉ tiếp nhận thêm
260.000 người.
+Di dân tự do
Từ năm 1984 đến nay, hiện tượng di cư tụ do phát triển, số người di cư từ
các tỉnh đồng bằng duyên hải Trung bộ và đồng bằng, miền núi Bắc bộ vào Tây
Nguyên làm ăn ngày càng đông. Thành phần cư dân này phức tạp, gây khó khăn
cho các địa phương sở tại về kinh tế, xã hội và môi trường.
Tốc độ di dân tự do vào Tây Nguyên Tăng dần trong các năm 1990- 1993,

và đặc biệt mạnh từ năm 1994 đến nay, như ở tỉnh Đắc Lắc số lượng nhập cư tự
do thời kỳ đổi mới tăng gấp 13 lần so với thời kỳ 1976- 1985. Từ năm 1990 đến
25


×