Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

Chế đội tài sản của vợ chồng theo pháp luật hôn nhân và gia đình ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (453.19 KB, 68 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRÌNH PHẠM ĐẮC DUY

CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG THEO LUẬT
HƠN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRÌNH PHẠM ĐẮC DUY

CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG THEO LUẬT
HƠN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM NAY

Ngành: Luật Kinh Tế
Mã số: 8380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. HÀ THỊ MAI HIÊN

HÀ NỘI, năm 2019


PHẦN MỞ ĐẦU
1.



Tính cấp thiết của đề tài

Pháp luật về tài sản là một trong những chế định quan trọng trong pháp luật Dân
sự Việt Nam nói chung và của Luật Hơn nhân và Gia đình nói riêng, đặc biệt là chế định
tài sản của vợ chồng. Trong các thời kỳ lịch sử thì có nhiều quy định khác nhau về chế
độ tài sản của vợ chồng và cùng với sự phát triển của xã hội thì những quy định về chế
độ tài sản của vợ chồng ở mỗi thời kỳ được xây dựng, sửa đổi, bổ sung phù hợp với tình
hình thực tiễn của Đất Nước. Pháp luật điều chỉnh về chế độ sở hữu tài sản trong mối
quan hệ vợ chồng, thể hiện sự công bằng, dân chủ, văn minh, sự phát triển của xã hội
và pháp luật, đáp ứng nhu cầu thực tiễn hiện nay về nhu cầu sở hữu tài sản của con người.
Việc nghiên cứu luận văn “Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hơn nhân và Gia đình
Việt Nam hiện nay” là cần thiết và có cơ sở khoa học bởi:
Thứ nhất: Đánh giá được sự phù hợp của quy định pháp luật về chế độ tài sản của
vợ chồng trong quy định của Hiến Pháp, của hệ thống pháp luật của Nhà nước nói chung
và Luật Hơn nhân và Gia đình nói riêng.
Thứ hai: Xuất phát từ thực tiễn áp dụng pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng
hiện nay về các quy định pháp luật cịn chưa hồn thiện và còn nhiều hạn chế, các quy
định pháp luật hiện hành về chế độ tài sản của vợ chồng hiện nay vẫn chưa quy định chi
tiết, rõ ràng, chưa có văn bản hướng dẫn thi hành, nhiều quy định còn mâu thuẩn, chồng
chéo giữa quy định trong Bộ luật Dân sự và quy định trong Luật Hôn nhân và Gia đình
dẫn đến cơng tác áp dụng pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng trong thực tế gặp
nhiều khó khăn, vướng mắc.
Thứ ba: Thực trạng các tranh chấp về tài sản trong quan hệ pháp luật vợ chồng
hiện nay diễn ra thường xuyên và phức tạp, các tranh chấp về tài sản của vợ chồng có
giá trị lớn, tài sản tranh chấp đa dạng và phức tạp về nguồn gốc, cơng sức đóng góp tạo
dựng. Nhiều vụ án tranh chấp tài sản của vợ chồng với khối lượng tài sản lớn, phức tạp,
liên quan đến nhiều người, gây tốn kém nhiều thời gian công sức của các cơ quan tố tụng
khi giải quyết tranh chấp liên quan đến chế độ tài sản của vợ chồng.
Thứ tư: Hiện nay các tranh chấp tài sản của vợ chồng xảy ra thường xun dẫn

đến tình trạng suy thối về truyền thống văn hóa, đạo đức, lối sống của con người, phá


vỡ truyền thống gia đình, làm mất trật tự an toàn xã hội, nảy sinh nhiều mâu thuẫn mới,
tranh chấp mới trên nhiều lĩnh vực xã hội.
Thứ năm: Công tác xét xử và thi hành án đối với các tranh chấp về tài sản trong
quan hệ vợ chồng gặp nhiều khó khăn và vướng mắc vì tranh chấp về tài sản của vợ
chồng hiện nay diễn ra thường xuyên và có nhiều tranh chấp phức tạp, giá trị tranh chấp
lớn. Công tác xét xử các tranh chấp tài sản của vợ chồng tại Tòa án thường bị quá tải ở
những thành phố lớn, đông dân cư như Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội,…
Thứ sáu: Ở các thành phố lớn như: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và một số
thành phố lớn có mật độ dân cư sinh sống đơng đúc thì thực trạng vợ chồng ly hơn, thanh
chấp tài sản diễn ra ngày càng thường xuyên và phức tạp, nhiều tranh chấp tài sản lớn,
diễn biến vụ việc phức tạp từ đó gây khó khăn và áp lực quá tải cho công tác giải quyết
các tranh chấp tài sản của vợ chồng. Vì vậy, chế độ tài sản của vợ chồng hiện nay cần
phải được nghiên cứu chuyên sâu và làm rõ các khía cạnh của vấn đề. Từ đó, làm cơ sở
để nghiên cứu thực trạng, nguyên nhân và đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật
và nâng cao hiệu quả công tác áp dụng pháp luật.
Từ những lý do đó tác giả nhận thấy được tầm quan trọng của “Chế độ tài sản của
vợ chồng theo Luật Hơn nhân và Gia đình ở Việt Nam hiện nay” là rất quan trọng và cần
thiết, vấn đề cần phải được nghiên cứu và làm rõ không chỉ ở góc độ khoa học pháp lý
mà cịn phải nghiên cứu làm rõ vấn đề dưới nhiều góc độ khoa học như: Xã hội học, kinh
tế học, đạo đức học… Vì vậy, tác giả đã lựa chọn nghiên cứu đề tài nhằm làm rõ chế độ
tài sản của vợ chồng, góp phần hồn thiện quy định pháp luật, ổn định các quan hệ Hơn
nhân và Gia đình, tạo cơ sở pháp lý thực hiện quyền và nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng.
Bên cạnh những hiệu quả của quy định pháp luật hiện hành đem lại và những kết quả
trong công tác tố tụng đã đạt được, trong thời gian qua công tác áp dụng pháp luật về chế
độ tài sản của vợ chồng cịn gặp nhiều khó khăn và cần phải có giải pháp để giải quyết.
Vì vậy, việc nghiên cứu luận văn “Chế đội tài sản của vợ chồng theo pháp Luật Hơn
nhân và Gia đình ở Việt Nam hiện nay” là cần thiết nhằm làm rõ vấn đề về mặt lý luận

và thực tiễn. Từ đó, chỉ ra thực trạng, nguyên nhân và kiến nghị giải pháp hồn thiện
pháp luật, điều hịa mối quan hệ Hơn nhân và Gia đình trong xã hội, nâng cao hiệu quả
công tác áp dụng pháp luật trong thực tiễn.


2.

Tình hình nghiên cứu

Chế độ tài sản của vợ chồng là đề tài nghiên cứu khoa học đã được nhiều tác giả
nghiên cứu dưới nhiều góc độ, khía cạnh và địa phương khác nhau như:
- Nguyễn Thị Kim Dung (2014), “Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận
trong pháp luật Việt Nam” luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội”.
- Lê Thị Hà (2016), “Hiệu lực của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng theo
pháp luật Việt Nam”, luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội”.
- Trương Thị Lan (2016) “Chế độ tài sản pháp định theo Luật Hơn nhân và Gia
đình năm 2014”, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội”.
- Lê Đình Nghị, “Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận luật Hơn nhân và
Gia đình năm 2014 ở Việt Nam hiện nay”, luận văn thạc sĩ luật học, Học viện khoa học
xã hội.
- Đào Thanh Huyền (2017), “Giải quyết tranh chấp tài sản vợ chồng trong các vụ
án ly hơn, từ thực tiễn xét xử của Tịa án nhân dân tỉnh Hải Dương”, Luận án tiến sĩ,
Học viện khoa học xã hội”.
- Ngồi những tác giả trên, cịn nhiều tác giả khác cũng nghiên cứu về “Chế độ tài
sản của vợ chồng” dưới nhiều góc độ khoa học và nghiên cứu ở nhiều địa phương khác
nhau. Có thể thấy, các cơng trình nghiên cứu trên của các tác giả về cơ bản đã tiếp cận
chế độ tài sản của vợ chồng nói chung và chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hơn
nhân và Gia đình nói riêng dưới nhiều góc độ lý luận khoa học và thực tiễn, nghiên cứu
thực trạng ở nhiều địa phương là khác nhau. Mỗi cơng trình nghiên cứu tiếp cận vấn đề
ở các khía cạnh khác nhau, nghiên cứu về lý luận, thực tiễn, phân tích đánh giá thực

trạng và có những kiến nghị, giải pháp khác nhau phù hợp với từng thời điểm và từng
địa phương.
Hiện nay tình hình nghiên cứu chế định tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân
và Gia đình là rất cần thiết, góp phần đánh giá được hiệu quả và tầm quan trọng của pháp
Luật Hơn nhân và Gia đình 2014 trong thực tiễn áp dụng, ngồi ra, nghiên cứu cịn làm
rõ những vấn đề tồn tại bất cập hiện nay về chế độ tài sản của vợ chồng. Từ đó đánh giá
thực trạng, nguyên nhân và giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật và nâng cao hiệu


quả áp dụng pháp luật. Đặc biệt, là trên địa bàn các thành phố lớn, đông dân cư sinh sống
như: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh.
3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu

Luận văn là cơ sở nghiên cứu khoa học và pháp lý để làm rõ các vấn đề lý luận và
thực tiễn chế độ tài sản của vợ chồng hiện nay.
Phân tích và làm rõ các khái niệm, nội dung cơ bản, các đặc điểm, ý nghĩa các quy
định pháp luật, quá trình hình thành và phát triển, các yếu tố tác động đến quy định pháp
luật và thực hiện pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng hiện nay.
Phân tích và làm rõ các quy định pháp luật trong Luật Hôn nhân và Gia đình, quy
định về chế độ tài sản của vợ chồng hiện nay để làm cơ sở đánh giá hiệu quả của Bộ luật
Dân sự 2015, Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Nghiên cứu tình hình thực tiễn hiện nay của chế định tài sản vợ chồng để chỉ ra
thực trạng, tìm ra ngun nhân của những khó khăn vướng mắc, từ đó kiến nghị những
giải pháp tích cực nhằm hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để làm rõ chế độ tài sản của vợ chồng theo quy định Luật hôn nhân và Gia đình thì
luận văn tập trung nghiên cứu những nhiệm vụ sau:

- Làm rõ một số vấn đề lý luận về chế độ tài sản của vợi chồng như: khái niệm, nội
dung cơ bản, đặc điểm, ý nghĩa, các yếu tố tác động đến chế độ tài sản của vợ chồng.
- Làm rõ quá trình hình thành và phát triển của các quy định pháp luật về chế độ
tài sản của vợ chồng.
- Phân tích nội dung chế độ tài sản của vợ chồng theo quy định của Luật Hơn nhân
và Gia đình 2014.
- Nghiên cứu và làm rõ nội dung của các quy định pháp luật trong Luật Hơn nhân
và Gia đình và pháp luật có liên quan đến tài sản nói chung, tài sản chung, tài sản riêng
của vợ chồng.


- Phân tích đánh giá tình hình thực tiễn, thực trạng của chế độ tài sản của vợ chồng
ở nước ta hiện nay. Từ đó, chỉ ra những khó khăn, vướng mắc, tìm ra nguyên nhân và
kiến nghị giải pháp.
4.

Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn về chế độ
tài sản của vợ chồng theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam hiện nay.
Nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành có liên quan đến chế độ tài sản của
vợ chồng trong: Hiến pháp 2013, Bộ Luật Dân sự 2015, Luật Hôn nhân và Gia đình
2014, và các văn pháp luật hướng dẫn thi hành.
Nguyên cứu các số liệu thực tiễn đã thu thập để tổng hợp, phân tích, đánh giá và
rút ra tình hình thực tiễn hiện nay của chế độ tài sản của vợ chồng.
Nghiên cứu thực trạng giải quyết các tranh chấp tài sản của vợ chồng tại Tòa án và
tham khảo các bản án, Quyết định của Tòa án trong xét xử và giải quyết các vụ việc liên
quan đến chế độ tài sản của vợ chồng.
5.


Phạm vi nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu chế độ tài sản của vợ chồng theo quy định của Luật Hơn nhân
và Gia đình từ năm 2015 đến nay. Nghiên cứu chế định này tập trung chủ yếu trong thời
gian hiệu lực của Luật Hôn nhân và Gia đình 2014.
Luận văn nghiên cứu chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và Gia đình
2014 trên phạm vi cả nước thơng qua các báo cáo, tổng hợp của Tòa án nhân dân các
cấp.
6.

Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

- Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác
- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về chế độ Hơn nhân
và Gia đình trên tinh thần của Hiến pháp 2013.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp: Được sử dụng để nghiên cứu trong các phần
của Luận văn, phương pháp này cho phép nghiên cứu rõ các vấn đề lý luận của pháp luật
về chế độ tài sản của vợ chồng theo quy định Luật Hôn nhân và Gia đình hiện hành.


- Phương pháp luận từ lý luận đến thực tiễn và tính độc lập tương đối tác động
ngược trở lại lý luận nhận thức.
- Phương pháp so sánh: Được sử dụng nhằm tham khảo và so sánh các điểm giống
và khác nhau từ đó tìm ra những ưu điểm và hạn chế.
- Phương pháp thống kê và phân tích số liệu thống kê: dựa trên số liệu thống kê của
Tòa án nhân nhân Tối cao qua các báo cáo trong công tác xét xử và giải quyết các vụ
việc và vụ án lên quan đến chế độ tài sản của vợ chồng.
- Phương pháp tư vấn chuyên gia: trao đổi và lấy ý kiến tư vấn sau đó chọn lọc và
nghiên cứu.

- Phương pháp tham khảo các tài liệu như: sách, báo, bài viết, tạp chí, tra cứu
internet.
7.

Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn

- Luận văn có ý nghĩa to lớn góp phần làm rõ hơn cơ sở lý luận khoa học về chế độ
tài sản của vợ chồng theo quy định luật Hơn nhân và Gia đình. Từ đó, có cơ sở khoa học
để đi sâu nghiên cứu các nội dung của vấn đề, kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật
và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật.
- Luận văn cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn cho công tác lập pháp, hành pháp
và tư pháp trong thực tiễn áp dụng pháp luật.
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu chuyên sâu
chế độ tài sản của vợ chồng, dùng làm tài liệu để giảng dạy và cơ sở để kiến nghị sửa
đổi, bổ sung quy định pháp luật.
8.

Cấu trúc của Luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo. Nội dung của luận văn được
thiết kế thành ba chương như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận vể chế độ tài sản của vợ chồng.
Chương 2: Thực trạng chế độ tài sản của vợ chồng theo quy định của luật hôn nhân
và gia đình hiện hành và thực tiễn thực hiện.
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật về chế độ tài sản vợ chồng ở Việt Nam hiện nay.


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG

1.1.

Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa chế độ tài sản của vợ chồng

1.1.1. Khái niệm
Tài sản đóng vai trị quan trọng trong mọi mối quan hệ xã hội nói chung và quan
hệ pháp luật nói riêng, là trung tâm trong mọi quan hệ pháp luật dân sự. Vì vậy, trong xã
hội tài sản được xem là một dạng vật chất có giá trị và có tầm ảnh hưởng rất lớn đến tất
cả các mối quan hệ xã hội và quan hệ pháp luật. Theo từ điển Luật học “Tài sản là của
cải, vật chất dùng vào mục đích sản xuất và tiêu dùng” [25]. Theo BLDS 2015 thì tài
sản được quy định như sau: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá trị và quyền tài sản; tài
sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện
có và cũng có thể là tài sản hình thành trong tương lai” [21, Điều 105]. Từ những khái
niệm trên thì ta có thể thấy khái niệm tài sản nói chung là ám chỉ vật chất có giá trị đối
với con người, đối với hoạt động sản xuất, đối với sự phát triển của xã hội. Khái niệm
tài sản là một khái niệm đa dạng và phức tạp về loại tài sản, giá trị tài sản, hình thức của
tài sản. Vì vậy, khái niệm tài sản cần phải được nghiên cứu và làm rõ trước khi đưa ra
khái niệm về tài sản của vợ chồng.
Mối quan hệ vợ chồng là một trong những mối quan hệ gắn bó giữa hai người giữa
nam và nữ sau khi kết hôn, họ cùng chung sống với nhau, cùng tham gia hoạt động sản
xuất tạo ra của cải vật chất, cùng chăm lo cho gia đình và đóng góp cho sự phát triển của
xã hội. Mối quan hệ vợ chồng được pháp luật hiện nay công nhận và bảo vệ khi họ thực
hiện thủ tục đăng ký kết hôn theo đúng theo các chế định luật định. Kết hôn là quyền của
con người được Hiến pháp 2013 ghi nhận là quyền của con người và được pháp luật
công nhận, bảo vệ “Nam, nữ có quyền kết hơn, ly hơn. Hơn nhân tự nguyện, tiến bộ, một
vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau” [18]. Mối quan hệ hôn nhân còn
được pháp luật quy định trong BLHS, BLDS và chi tiết hơn là Luật Hơn nhân và Gia
đình. Nam, nữ kết hôn với nhau là nền tảng để duy trì nịi giống, chung sức tạo ra của
cải vật chất phục vụ nhu cầu và đóng góp cho sự phát triển của xã hội. Gia đình được
xem là nền tảng của xã hội, trong đó vợ, chồng, con cái vừa là thành viên trong gia đình,



vừa là thành viên của xã hội. Vợ chồng với tư cách là một cơng dân của xã hội, vì vậy
họ có quyền sở hữu tài sản gồm các quyền chiếm hữu, sử dụng và quyền định đoạt tài
sản của mình. Quyền sở hữu là quyền của cơng dân được Hiến pháp 2013 ghi nhận và
bảo vệ. Ngoài ra quyền sở hữu của cơng dân cịn được quy định trong BLDS, BLHS
Luật Hơn nhân và Gia đình,…Tuy nhiên, vấn đề sở hữu tài sản là một vấn đề phức tạp
và ln có sự thay đổi cũng như thường xun nảy sinh mâu thuẩn, tranh chấp nên những
quy định pháp luật hiện hành đã đem lại nhiều hiệu quả tích cực trong điều chỉnh mối
quan hệ tài sản này. Tuy nhiên, pháp luật hiện nay vẫn còn những hạn chế nhất định
trong việc quy định và điều chỉnh các mối quan hệ xã hội liên quan đến chế độ sở hữu
tài sản của vợ chồng.
Vợ chồng là những công dân được pháp luật quy định và bảo vệ về quyền sở hữu
tài sản dựa trên việc xác lập mối quan hệ vợ chồng, mà đối tượng này có những quy định
cụ thể và rõ ràng hơn khác với các chủ thể có quyền sở hữu tài sản bình thường khơng
có mối quan hệ vợ chồng. Khi vợ chồng có quyền sở hữu tài sản thì khi đó mới có thể
tạo lập nên khối tài sản chung hoặc tài sản riêng. Như vậy, việc pháp luật quy định và
điều chỉnh chế độ tài sản của vợ chồng là chủ trương đúng đắn, phù hợp với nhu cầu con
người và tình hình thực tiễn, đúng với quy định của Hiến pháp.
Sau khi hết hơn, vợ chồng cùng nhau chung sức, góp tài sản tạo dựng và phát triển
khối tài sản chung nhằm xây dựng gia đình hạnh phúc, đầy đủ cơ sở vật chất, xây dựng
kinh tế gia đình phát triển, góp phần ổn định và phát triển của xã hội.
Theo quy định của Luật Hơn nhân và Gia đình 2014 và quy định của pháp luật liên
quan thì mối quan hệ vợ chồng được pháp luật công nhận và bảo vệ khi người vợ và
người chồng tiến hành đến cơ quan chức năng đăng ký kết hơn thì họ chính thức được
nhà nước công nhận là vợ chồng. Việc đăng ký kết hơn phải hồn tồn tự nguyện, đúng
thủ tục và đúng quy định pháp luật. Từ việc đăng ký kết hôn đó sẽ nãy sinh nhiều quan
hệ xã hội và quan hệ pháp luật mới như: quan hệ vợ chồng, quan hệ gia đình, quan hệ tài
sản chung, quan hệ tài sản riêng, quan hệ thừa kế, nghĩa vụ tài chính,…



Từ những phân tích trên về tài sản và quan hệ vợ chồng thì khái niệm về chế độ tài
sản của vợ chồng như sau: “Chế độ tài sản của vợ chồng là tổng hợp các quy phạm pháp
luật điều chỉnh quan hệ sở hữu của vợ, chồng, bao gồm các quy định về căn cứ, nguồn
gốc xác lập tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng; quyền và nghĩa vụ của vợ chồng
đối với các loại tài sản đó; các trường hợp tài sản, các nguyên tắc chia tài sản chung của
vợ chồng và nguyên tắc giải quyết tranh chấp về chế độ tài sản của vợi chồng [4, tr.8].
1.1.2. Đặc điểm của chế độ tài sản vợ, chồng
Vì tài sản của vợ chồng là tài sản thuộc quyền sở hữu chung của vợ chồng hoặc là
sở hữu riêng của vợ chồng nên chế độ tài sản có những đặc điểm riêng biệt khác với chế
độ về tài sản thơng thường. Có những quy định pháp luật chun ngành điều chỉnh khác
với tài sản thông thường của cá nhân và tổ chức được điều chỉnh bởi BLDS mà thay vào
đó là chịu sự quy định của BLDS, Luật Hơn nhân và Gia đình, các VBQPPL có liên
quan. Chế độ tài sản của vợ chồng có nhiều vấn đề liên quan đến điều kiện kinh tế và xã
hội, truyền thống dân tộc, đạo đức, tôn giáo.
Thứ nhất: Chủ thể của quan hệ sở hữu trong chế độ tài sản của vợ chồng phải là
quan hệ hôn nhân hợp pháp, phải là vợ chồng và thỏa mãn các quy định pháp luật về
Hơn nhân và Gia đình như năng lực dân sự, độ tuổi, phải tự nguyện, không vi phạm các
quy định cấm kết hôn, không vi phạm đạo đức, thuần phong mỹ tục, phải làm đầy đủ các
thủ tục đăng ký kết hơn tại cơ quan có thẩm quyền. Thì mới đảm bảo thực hiện được chế
độ tài sản của vợ chồng theo đúng quy định pháp luật.
Thứ hai: Chế độ tài sản của vợ chồng gắn liền với mối quan hệ Hôn nhân, tồn tại
trong thời kỳ Hôn nhân, chấm dứt khi quan hệ Hôn nhân chấm dứt bằng bản án hoặc
quyết định của Tịa án có hiệu lực thi hành hoặc vợ, chồng có người chết trước. Chế độ
tài sản của vợ chồng tồn tại theo quy định của pháp luật và do pháp luật điều chỉnh.
Trong đó, quy định căn cứ xác lập, chấm dứt chế độ tài sản này phụ thuộc vào điều kiện
phát sinh và chấm dứt của quan hệ hôn nhân. Tài sản của vợ chồng trong thời kỳ Hôn
nhân là nguồn bảo đảm đối với cuộc sống về vật chất và tinh thần của vợ chồng và các
thành viên trong gia đình. Xuất phát từ quan hệ hôn nhân, quan hệ gia đình mà chế độ



tài sản của vợ chồng lệ thuộc vào sự tồn tại của mối quan hệ hôn nhân được pháp luật
công nhận và chấm dứt khi vợ hoặc chồng chết trước, hoặc có bản án, quyết định của
Tịa án tun vợ chồng ly hôn. Tuy nhiên, sau khi ly hôn người vợ hoặc người chồng có
thể xác lập mối quan hệ vợ chồng và tài sản của vợ chồng đối với một người khác khi
họ đăng ký kết hôn với một người khác và được pháp luật công nhận là vợ chồng.
Thứ ba: Các VBQPPL về chế độ tài sản của vợ chồng được xây dựng nhằm mục
đích trước tiên là bảo đảm quyền và lợi ích của vợ chồng trong mối quan hệ hơn nhân,
gia đình, tơn trọng truyền thống đạo đức con người, là cơ sở để vợ chồng thực hiện quyền
và nghĩa vụ của mình đối với tài sản, đối với người thân trong gia đình và đối với xã hội.
Đồng thời, các chủ thể có liên quan đến tài sản của vợ chồng phải nghiêm chỉnh tuân
theo và thực hiện các quy định pháp luật về quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm liên quan
đến tài sản của vợ chồng.
Thứ tư: Các VBQPPL về chế độ tài sản của vợ chồng là cơ sở pháp lý để thực hiện
các quyền sở hữu tài sản của vợ hoặc chồng như quyền: chiếm hữu, sử dụng và định đoạt
tài sản giữa vợ và chồng với nhau, giữ vợ chồng với với các chủ thể khác. Qua đó, góp
phần đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mình và của gia đình trong đó có lợi ích
của cá nhân người vợ hoặc chồng hoặc chủ thể khác liên quan đến tài sản của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân. Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng chung sống với nhau nên có
nhiều nhiều quan hệ xã hội và quan hệ pháp luật mới về quyền và nghĩa vụ liên quan đến
tài sản. Do đó, cần phải xác định trong các giao dịch về tài sản của vợ chồng, trường hợp
nào phải có sự đồng ý thống nhất của vợ chồng, trường hợp nào được coi là đã có sự
đồng ý của vợ chồng, trường hợp nào người vợ hoặc chồng có quyền tự ý quyết định tài
sản của cả vợ chồng. Việc xác định này nhằm bảo đảm quyền lợi và nghĩa vụ của vợ
chồng liên quan đến tài sản của mình và quyền lợi của người khác trong các giao dịch
liên quan đến tài sản của vợ chồng.
Thứ năm: Các VBQPPL về chế độ tài sản của vợ chồng là căn cứ pháp lý để cơ
quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về tài sản giữa người vợ và
người chồng và với người khác có liên quan khi Tịa án tun ly hơn hoặc giải quyết
phân chia tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng.



Thứ sáu: Chế độ tài sản của vợ chồng tuy được pháp luật quy định nhưng trên thực
tế cũng phải đảm bảo các yếu tố về đạo đức, thuần phong mỹ tục, tôn giáo và truyền
thống dân tộc. Giữa quy định pháp luật và đạo đức có mối quan hệ gắn bó với nhau. Đạo
đức là cơ sở nền tảng xây dựng nên các quy định pháp luật về chế độ tài sản của vợ
chồng. Từ đó, điều chỉnh hài hịa góp phần bảo vệ mối quan hệ gia đình, bảo vệ mối
quan hệ vợ chồng, bảo vệ khối tài sản chung của vợ chồng, góp phần ổn định và phát
triển kinh tế - xã hội.
Thứ bảy: Các VBQPPL về chế độ tài sản của vợ chồng là căn cứ pháp lý để cơ
quan nhà nước có thẩm quyền điều chỉnh và giải quyết các tranh chấp về tài sản của vợ
chồng và với người liên quan. Tịa án ngồi giải quyết ly hơn, giải quyết việc ni con
thì nếu vợ chồng có tài sản và yêu cầu giải quyết thì Tịa án phải giải quyết phân chia tài
sản chung, tài sản riêng của vợ chồng khi có yêu cầu. Tòa án phải giải quyết phân chia
tài sản vợ chồng theo quy định của pháp luật và việc phân chia tài sản cũng có thể dựa
trên nguồn gốc, cơng sức đóng góp vào khối tài sản của vợ chồng.
Hiện nay tài sản của vợ chồng được chia thành các chế độ tài sản như sau:
+ Chế độ tài sản pháp định (theo quy định của pháp luật)
+ Chế độ tài sản của vợ chồng theo sự thỏa thỏa thuận của vợ chồng
Chế độ tài sản của vợ chồng phân theo quyền sở hữu thì gồm có tài sản chung của
vợ chồng và tài sản riêng của vợ hoặc chồng.
1.1.3. Nội dung của quy định pháp luật về chế độ tài sản vợ chồng
Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: “Tài sản chung của vợ, chồng gồm
tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh, hoa
lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân;
tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung, được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ
chồng thỏa thuận là tài sản chung; quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết
hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng,
được tặng cho riêng hoặc có được thơng qua giao dịch bằng tài sản riêng. Điều 34 Luật



Hơn nhân và Gia đình 2014 quy định: “Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của
vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng, thì giấy
chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng phải ghi tên cả hai vợ chồng,
trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác. Trong khi đó, điều 98 Luật Đất đai 2013
quy định về nguyên tắc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất là tài sản chung của vợ chồng thì phải ghi
tên cả hai vợ chồng vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền ở hữu nhà và tài sản
gắn liền với đất, trừ trường hợp vợ và chồng có thỏa thuận ghi tên một người; cụ thể như
quy định ở thông tư số 15/2014/TT-BCA ngày 04/04/2014 của Bộ Công an về đăng ký
xe, điều 25 quy định: xe là tài sản chung của vợ, chồng thì chủ xe tự nguyện khai là tài
sản chung của vợ chồng, phải ghi đầy đủ họ tên, chữ ký của vợ, chồng trong giấy đăng
ký xe.
Như vậy, đối với những tài sản có giá trị lớn như: đất, nhà, xe thì pháp luật quy
định phải đăng ký quyền sở hữu, sử dụng, thì giấy chứng nhận quyền sở hữu, sử dụng,
chung của vợ chồng sẽ được thể hiện cả tên vợ và chồng trên giấy chứng nhận sở hữu,
sử dụng và khi thực hiện các quyền đối với những tài sản chung này thì phải có sự đồng
ý của cả hai vợ chồng.
Đối với tài sản riêng của vợ, chồng. Điều 43 Luật Hơn nhân và Gia đình 2014 quy
định: Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hơn, tài sản
được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân, tài sản được chia riêng
cho vợ, chồng do vợ, chồng thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung, tài sản
phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật
thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng. Như vậy, tài sản riêng có hai thời điểm hình thành đó
là trước thời kỳ hơn nhân và trong thời kỳ hôn nhân.
Căn cứ xác định và phân chia tài sản của vợ chồng
- Thứ nhất: về căn cứ xác định và phân chia tài sản chung của vợ, chồng
Về căn cứ xác định tài sản chung của vợ, chồng
Điều 32 Hiến pháp 2013 quy định: “Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp
pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong

doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác”. Theo đó, khi cơng dân có quyền sở


hữu các tài sản thì các tài sản đó được công nhận là tài sản hợp pháp của họ. Vợ, chồng
là những cá nhân và họ đương nhiên có các quyền đó. Khi có quyền sở hữu tài sản thì
mới có thể tạo lập nên khối tài sản dù là tài sản chung hay tài sản riêng của cá nhân. Về
sở hữu chung của vợ chồng:
- Sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia.
- Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung; có quyền ngang nhau
trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản cung.
- Vợ chồng thỏa thuận hoặc ủy quyền cho nhau chiếm hữu, sử dụng hoặc định đoạt
tài sản chung.
- Tài sản chung của vợ chồng có thể phân chia theo thỏa thuận hoặc theo quyết
định của Tòa án.
- Trường hợp vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận, theo quy định của
pháp luật về Hơn nhân và Gia đình thì tài sản chung của vợ chông được áp dụng theo
chế độ tài sản này.
Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 lại quy định khá cụ thể về chế định tài
sản chung của vợ chồng: “Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra,
thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sịnh từ tài
sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy
định tại khoản 1 điều 40 của Luật này; Tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc
được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Quyền
sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ
trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thơng
qua giao dịch bằng tài sản riêng”.
- Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm
nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
- Trong trường hợp khơng có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có
tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.

Luật dân sự là một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, là tổng hợp các
QPPL điều chỉnh các quan hệ dân sự nói chung, quan hệ tài sản mang tính chất hàng hóa
- tiền tệ nói riêng và các quan hệ nhân thân khác trên cơ sở bình đẳng, độc lập của chủ


thể khi tham gia các quan hệ đó. BLDS và Luật Hơn nhân và Gia đình đều có chung một
đối tượng điều chỉnh là nhóm quan hệ nhân thân và tài sản trong quan hệ Hơn nhân và
Gia đình. Trong đó, BLDS 2015 có một số quy định cụ thể vấn đề sở hữu, chiếm hữu,
định đoạt và thừa kế tài sản. Qua đó, các quy định pháp luật nhằm mục đích điều chỉnh
các mối quan hệ xa hội liên quan đến chế độ tài sản của vợ chồng.
Về căn cứ phân chia tài sản chung của vợ, chồng.
Điều 38 Luật Hơn nhân và Gia đình quy định: “ Trong thời kỳ hơn nhân, vợ chồng
có quyền thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung, trừ trường hợp quy định
tại điều 42 của Luật này, nếu không thỏa thuận được thì có quyền u cầu Tịa án giải
quyết. Trong trường hợp vợ, chồng có u cầu thì Tòa án giải quyết việc chia tài sản
chung của vợ chồng theo quy định tại điều 59 của Luật này”. Như vậy. Việc chia tài sản
chung của vợ chồng có thể được giải quyết theo thỏa thuận của vợ chồng hoặc thơng qua
con đường Tịa án. Bên cạnh đó, thỏa thuận về việc phân chia tài sản chung của vợ chồng
phải được lập thành văn bản, có cơng chứng, chứng thực theo quy định pháp luật.
Tại thông tư số 01/2016/TTLT-TANDTC-BTP ngày 06/01/2016 của Tòa án nhân
dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ tư pháp hướng dẫn thi hành một số điều
của Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 như sau:
“Vợ chồng khi ly hơn có quyền tự thoả thuận với nhau về toàn bộ các vấn đề, trong
đó có cả việc phân chia tài sản. Trường hợp, vợ chồng khơng thoả thuận được mà có u
cầu thì Tồ án phải xem xét, quyết định việc áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo
thoả thuận hay theo luật định, tuỳ từng trường hợp cụ thể mà Tồ án xử lý như sau:
Trường hợp khơng có văn bản thoả thuận về chế độ tài sản của vợ chồng theo thoả thuận
hay theo luật định.
Trường hợp không có văn bản thoả thuận về chế độ tài sản của vợ chồng hoặc văn bản
thoả thuận về chế độ tài sản của vợ chồng và văn bản này không bị Tồ án tun bố vơ

hiệu tồn bộ thì áp dụng các nội dung của văn bản thoả thuận để chia tài sản của vợ
chồng khi ly hôn. Đối với những vấn đề không được vợ chồng thoả thuận hoặc thoả
thuận khơng rõ ràng hoặc bị vơ hiệu thì áp dụng các quy định tương ứng tại các khoản


2, 3, 4, 5 Điều 59 và các Điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm
2014 để chia tài sản của vợ chồng khi ly hơn.
- Khi giải quyết ly hơn, nếu có yêu cầu tuyên bố thoả thuận về chế độ tài sản của
vợ chồng bị vơ hiệu thì Tồ án xem xét, giải quyết đồng thời với yêu cầu chia tài sản của
vợ chồng khi ly hôn.
- Khi chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hơn, Tồ án phải xác định vợ, chồng
có quyền, nghĩa vụ về tài sản với người thứ ba hay không để đưa người thứ ba vào tham
gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ về tài sản với người thứ ba mà họ
có u cầu giải quyết thì Tồ án phải giải quyết khi chia tài sản chung của vợ chồng.
Trường hợp vợ chồng có nghĩa vụ với người thứ ba mà người thứ ba khơng u cầu giải
quyết thì Toà án hướng dẫn họ để giải quyết bằng một vụ án khác.
- Trường hợp áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định để chia tài sản
của vợ chồng khi ly hơn thì tài sản chung của vợ chồng về ngun tắc được chia đơi
nhưng có tính đến các yếu tố sau:
+ Hồn cảnh của gia đình và của vợ, chồng là tình trạng về năng lực pháp luật,
năng lực hành vi, sức khỏe, tài sản, khả năng lao động tạo ra thu nhập sau khi ly hôn của
vợ, chồng cũng như của các thành viên khác trong gia đình mà vợ chồng có quyền, nghĩa
vụ về nhân thân và tài sản theo quy định của Luật hơn nhân và gia đình. Bên gặp khó
khăn hơn sau khi ly hôn được chia phần tài sản nhiều hơn so với bên kia hoặc được ưu
tiên nhận loại tài sản để bảo đảm duy trì, ổn định cuộc sống của họ nhưng phải phù hợp
với hoàn cảnh thực tế của gia đình và của vợ, chồng;
+ Cơng sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài
sản chung là sự đóng góp về tài sản riêng, thu nhập, cơng việc gia đình và lao động của
vợ, chồng trong việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Người vợ hoặc
chồng ở nhà chăm sóc con, gia đình mà khơng đi làm được tính là lao động có thu nhập

tương đương với thu nhập của chồng hoặc vợ đi làm. Bên có cơng sức đóng góp nhiều
hơn sẽ được chia nhiều hơn;


+ Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp
để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập là việc chia tài sản chung của vợ
chồng phải bảo đảm cho vợ, chồng đang hoạt động nghề nghiệp được tiếp tục hành nghề;
cho vợ, chồng đang hoạt động sản xuất, kinh doanh được tiếp tục được sản xuất, kinh
doanh để tạo thu nhập và phải thanh toán cho bên kia phần giá trị tài sản chênh lệch.
Việc bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và hoạt động
nghề nghiệp không được ảnh hưởng đến điều kiện sống tối thiểu của vợ, chồng và con
chưa thành niên, con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự;
+ Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng là lỗi của vợ hoặc
chồng vi phạm quyền, nghĩa vụ về nhân thân, tài sản của vợ chồng dẫn đến ly hôn.
Về căn cứ xác định tài sản riêng của vợ, chồng
Kể từ khi luật Hơn nhân và Gia đình năm 2014 được ban hành và có hiệu lực, qua đó
có nhiều quy định đột phá và tích cực so với Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2000 cụ
thể:
Một là, Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2014 đã bỏ căn cứ xác định tài sản riêng
của vợ, chồng là “đồ dùng, tư trang cá nhân”. Điều này xuất phát từ nhu cầu giải quyết
những bất cập, vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật đối với căn cứ khơng phù
hợp nói trên. Bởi, theo quy định của Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2000 thì cứ là đồ
dùng, tư trang cá nhân thì đều là tài sản riêng của vợ, chồng mà khơng có quy định nào
hạn chế giá trị tài sản, không quy định loại tài sản nào được xem là đồ dùng, tư trang cá
nhân thuộc sở hữu riêng; bên cạnh đó, pháp luật cũng khơng xem xét nguồn gốc hình
thành đồ dùng, tư trang là tài sản chung hay riêng. Do vậy, có thể hiểu người nào (vợ
hoặc chồng) quản lý, sử dụng tài sản đó sẽ được xác định là tài sản riêng của người đó.
Với quy định như vậy rõ ràng là khơng phù hợp, vơ tình đã tạo khe hở cho vợ hoặc chồng
chuyển dịch trái phép tài sản chung sang tài sản riêng, gây thiệt hại cho bên cịn lại.
Ngồi ra, xuất phát từ văn hoá truyền thống của người Việt Nam trong việc tặng, cho

con cái các loại tư trang vào ngày cưới hỏi, văn hoá cất giữ tiền bạc thơng qua các loại
tư trang; vì vậy, thiết nghĩ các món trang sức trong trường hợp này được ghi nhận như
một sự tích luỹ của cải vật chất của vợ chồng trong thời kỳ hơn nhân, mang thuộc tính


“tiền tệ”, như một phương thức cất giữ, tiết kiệm tài sản chung của gia đình. Do đó, việc
pháp luật Hơn nhân gia đình bỏ căn cứ nên trên là hoàn toàn phù hợp và được xem là
bước tiến mới trong q trình sửa đổi luật.
Hai là, Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2014 xác định cụ thể khối tài sản hình
thành từ tài sản riêng của vợ, chồng chính là tài sản riêng của vợ, chồng trong thời kỳ
hơn nhân.
Trong khi đó, Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2000, đưa ra những căn cứ xác định
tài sản chung, đồng thời lại vừa đưa ra những căn cứ xác định tài sản riêng của vợ, chồng.
Quy định như vậy thì về cơ bản đã khá rõ ràng cho việc áp dụng pháp luật. Tuy nhiên,
thực tế giải quyết tranh chấp vẫn xảy ra những trường hợp tài sản “mập mờ” chưa được
xác định là tài sản chung hay tài sản riêng, bởi nó khơng thuộc trường hợp theo quy định
tại Điều 27 và Điều 32 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, do vậy, loại tài sản trên đã
được Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2014 xác định cụ thể đó là tài sản riêng của vợ,
chồng là một minh chứng cụ thể. Do đó, việc Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2014 xác
định tài sản hình thành từ tài sản riêng của vợ chồng đó chính là tài sản riêng của vợ,
chồng. Đây là một bước tiến bộ, đảm bảo quyền tài sản riêng của cá nhân, tạo cơ sở pháp
lý vững chắc cho q trình áp dụng pháp luật.
Ba là, Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2014 đã có những căn cứ xác định tài sản
riêng còn là các “tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của gia đình”. Sở dĩ, pháp luật quy
định nhóm tài sản này thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng là dựa vào đặc điểm cũng như
tác dụng của nó. Đảm bảo được quyền tự do cá nhân cũng như các nhu cầu thiết yếu của
cuộc sống. Tuy nhiên, như thế nào được coi là “thiết yếu” thì đây là một vấn đề cần được
xem xét. Đối với những cá nhân hoặc những gia đình có mức sống khác nhau thì khái
niệm đồ dùng thiết yếu sẽ không giống nhau. Chẳng hạn như, đối với cá nhân này thì
những vật dụng như xoong, nồi, bát đĩa, giày dép, quần áo là những đồ dùng thiết yếu

hàng ngày, nhưng đối với cá nhân khác thì lại xem những vật dụng như điện thoại, laptop,
ô tô, tủ lạnh… là những đồ dùng thiết yếu của mình, do vậy nó tuỳ thuộc vào điều kiện
sống của mỗi cá nhân cụ thể là khác nhau. Việc pháp luật quy định cụ thể như vậy được
coi là một bước đột phá tiến bộ, linh hoạt và đã thể hiện rất rõ việc trao quyền tài phán


cho cơ quan xét xử (Toà án) trong việc xem xét để giải quyết vụ việc dựa trên hoàn cảnh
cụ thể của từng cá nhân, gia đình khi phát sinh quan hệ pháp luật tranh chấp.
Bốn là, tài sản riêng của vợ, chồng còn gồm các loại tài sản quy định của pháp luật
đó là tài sản riêng của vợ, chồng. Quy định này tưởng chừng chỉ là căn cứ để dự liệu cho
các trường hợp pháp luật chưa dự liệu hết nhưng thực tế nó lại có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng và vơ cùng lớn trong q trình nhận thức và là cơ sở pháp lý vững chắn trong việc
áp dụng pháp luật – điều mà trước đây, Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2000 chưa thể
hiện được. Với quy định như vậy đã giúp dẫn chiếu cho việc áp dụng các quy định của
văn bản pháp luật khác trong việc xác định cụ thể các loại tài sản, đặc biệt là tài sản thuộc
sở hữu riêng của vợ chồng được hình thành trong thời kỳ hơn nhân. Chẳng hạn như, theo
Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP TANGTC ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán
Toà án nhân dân tối cao, xác định tài sản mà người có cơng với cách mạng được nhận
trong thời kỳ hôn nhân là tài sản riêng của người đó, hay dẫn chiếu xác định tài riêng của
vợ, chồng dựa vào thoả thuận chế độ tào sản chung sống.
Năm là, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 có quy định tài sản mà vợ, chồng
thoả thuận là tài sản riêng của mỗi bên theo thoả thuận về chế độ tài sản được lập trước
khi kết hôn là tài sản riêng của mỗi người. Đây tiếp tục lại là một bước đột phá lớn nữa
trong việc quy định chế độ tài sản của vợ, chồng, đảm bảo phù hợp theo nguyên tắc tự
thoả thuận và định đoạt của pháp luật dân sự; đảm bảo phù hợp với tình hình mới trong
quan hệ hơn nhân gia đình trong điều kiện nhu cầu ngày càng cao trong việc chủ động
đầu tư, sản xuất kinh doanh để phát triển kinh tế là tài sản của bản thân cá nhân và gia
đình; đây cũng được xem là một trong những giải pháp hữu hiệu trong việc phân định
và bảo vệ tài sản của mỗi bên vợ, chồng trong điều kiện mà khối tài sản có trước khi kết
hơn của các cặp vợ chồng ngày càng tăng. Ngoài ra, để đảm bảo giữ vững tính cộng đồng

của hơn nhân, đảm bảo cho lợi ích chung của gia đình, con cái, Luật Hơn nhân và Gia
đình năm 2014 đã đưa ra những nguyên tắc, những điều kiện có hiệu lực của thoả thuận,
đồng thời giao cho Toà án tối cao tiếp tục hồn thiện các điều kiện có hiệu lực của thoả
thuận.


Như vậy, có thể thấy với sự phát triển mạnh mẽ của xã hội hiện nay thì các quan
hệ cũng phải thay đổi cho phù hơp với xu thế của xã hội, do đó pháp luật cũng ln phải
thay đổi theo để bắt kịp với những thay đổi đó. Sự ra đời của Luật Hơn nhân và Gia đình
năm 2014 thay thế Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2000 là một sự thay đổi tiến bộ phù
hợp với tiến trình phát triển của đất nước; phù hợp với quy luật khách quan, phù hợp với
Hiến pháp năm 2013 – một đạo luật gốc, là cơ sở, nền tảng cho việc điều chỉnh các Luật
chuyên ngành. Việc quy định chế định tài sản của vợ chồng (trong đó bao gồm cả tài sản
chung và tài sản riêng của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân) là điều rất cần thiết, đáp
ứng được những yêu cầu và đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống kinh tế, xã hội, phù hợp với
ý chí, nguyện vọng của người dân trong một xã hội mới, của một nhà nước mà quyền và
lợi ích của người dân được đặt lên trên, phu hợp với tiến trình của một nhà nước Pháp
quyền của dân, do dân và vì dân [30.tr 28 ].
1.1.4. Ý nghĩa của chế độ tài sản của vợ chồng
- Chế độ tài sản của vợ chồng ở nước ta hiện nay có ý nghĩa vô cùng quan trọng
trong việc điều chỉnh các mối quan hệ về Hơn nhân và Gia đình, điều chỉnh các mối quan
hệ về tài sản, bảo bảo tình hình an ninh trật tự an toàn xã hội, đảm bảo được truyền thống
đạo đức dân tộc.
- Chế độ tài sản vợ chồng góp phần chung vào sự phát triển và hồn thiện của pháp
luật. Góp phần tạo ra sự cơng bằng, văn minh và tiến bộ trong xã hội, góp phần vào phát
triển kinh tế - xã hội Đất nước.
- Chế độ tài sản vợ chồng góp phần vào bảo vệ sự cơng bằng, bình đẳng giới, bảo
vệ quyền tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp của con người.
- Chế độ tài sản vợ chồng tạo nên sự phát triển tiến bộ của xã hội, hòa nhập và phát
triển cùng thế giới

- Giúp hồn thiện pháp luật Hơn nhân và Gia đình và pháp luật Dân sự, Đặc biệt là
các vấn đề về tài sản.
- Bảo vệ và phát triển truyền thống đạo đức, cũng như mối quan hệ vợ chồng đúng
với chuẩn mực, đúng quy định pháp luật. Góp phần vào bảo vệ Gia đình và ổn định xã
hội.
- Góp phần đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội.


- Chế độ tài sản của vợ chồng hiện nay góp phần vào phát triển kinh tế và xã hội
của Đất Nước.
1.2.

Phân loại chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật Việt Nam

Theo quy định pháp luật Việt Nam hiện nay thì chế độ tài sản của vợ chồng được
phân loại thành chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng và chế độ tài sản của vợ
chồng theo Luật định, cụ thể như sau:
1.2.1. Chế độ tài sản của vợ chồng theo quy định pháp luật
Chế độ này được áp dụng trong trường hợp vợ chồng không chọn áp dụng chế độ
tài sản theo thỏa thuận hoặc có thỏa thuận về chế độ tài sản nhưng thỏa thuận này bị Tịa
án tun vơ hiệu theo quy định điều 50 Luật Hơn nhân và Gia đình 2014 và điều 7 Nghị
định 126/2014/NĐ-CP.
Tài sản của vợ chồng theo chế độ quy định pháp luật bao gồm tài sản chung và tài
sản riêng. Cụ thể:
Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động,
hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp
pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp hoa lợi, lợi túc phát sinh từ tài sản
riêng của mỗi bên sau khi chia tài sản chung được quy định tại khoản 1 điều 40 Luật Hôn
nhân và Gia đình 2014. Tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho
chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung thì được pháp luật cơng

nhận là tài sản chung của vợ chồng và được pháp luật bảo vệ. Tài sản là quyền sử dụng
đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp
vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thơng qua giao
dịch bằng tài sản riêng.
Tài sản riêng của vợ chồng bao gồm: tài sản mà mỗi người có trước khi kết hơn.
Tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân. Tài sản được
chia riêng cho vợ, chồng theoquy định Luật Hơn nhân và Gia đình. Tài sản phục vụ nhu
cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu
riêng của vợ chồng. Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng. Hoa lợi, lợi
tức phát sinh từ tài sản riêng của mỗi bên sau khi chia tài sản chung được quy định tại
khoản 1 điều 40 của Luật Hơn nhân và Gia đình 2014.


- Thực hiện chế định tài sản vợ chồng theo luật định:
Chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định được thực hiện theo quy định tại các
điều 33 đến điều 46 và từ điều 59 đến điều 64 của Luật Hơn nhân và Gia đình 2014. Xuất
phát từ điều kiện kinh tế - xã hội, truyền thống, văn hóa, đạo đực của mỗi Quốc gia mà
quy định pháp luật về tài sản của vợ chồng có sự kế thừa và phát huy những yếu tố trên.
Cụ thể:
+ Quan niệm thứ nhất: Đời sống chung của vợ chồng đòi hỏi cần phải có khối tài
sản cộng đồng (tài sản chung). Theo đó, chế độ tài sản của vợ chồng được thiết lập theo
tiêu chuẩn chung của cộng đồng.
+ Quan niệm thứ hai: Trong đời sống chung của vợ chồng khơng bắt buộc và khơng
cần thiết phải có một khối tài sản chung. Quan niệm này tôn trọng và bảo vệ quyền sở
hữu riêng của vợ chồng phải được độc lập. Theo đó, chế độ tài sản của vợ chồng được
thiết lập theo tiêu chuẩn phân sản (khơng có tài sản chung của vợ chông).
- Chế độ tài sản theo tiêu chuẩn cộng đồng gồm: chế độ cộng đồng toàn sản, chế
độ cộng đồng động sản và tạo sản
- Chế độ tài sản của vợ chồng theo tiêu chuẩn không có cộng đồng tài sản hay cịn
gọi là chế độ phân sản: Chế độ phân sản là hình thức của chế độ tài sản pháp định, theo

đó, giữa vợ và chồng không tồn tại khối tài sản chung. Tất cả tài sản mà mỗi bên vợ,
chồng có từ trước khi kết hơn hoặc tạo ra được, có được do tặng cho, cho riêng, thừa kế
trong thời kỳ hơn nhân thì đều thuộc sở hữu riêng. Trong đó vợ chồng tùy theo khả năng
của mỗi bên có nghĩa vụ đóng góp vào việc chi tiêu chung của gia đình nhằm đảm bảo
lợi ích chung của gia đình [12, tr. 12 - 16].


1.2.2. Chế định tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận
Trong trường hợp hai bên kết hôn lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận thì thỏa
thuận phải được lập trước khi kết hơn, bằng hình thức văn bản có cơng chứng hoặc chứng
thực. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được xác lập kể từ ngày đăng ký kết
hôn (điều 47 Luật hôn nhân và Gia đình 2014). Tài sản của vợ chồng theo chế độ tài sản
thỏa thuận thì vợ, chồng có thể tự thỏa thuận về xác định tài sản theo một trong các nội
dung sau đây:
- Tài sản giữa vợ và chồng bao gồm tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng
- Giữa vợ và chồng có tài sản riêng của vợ, chồng mà tất cả tài sản do vợ, chồng có
được trước khi kết hơn hoặc trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc tài sản chung
- Giữa vợ và chồng khơng có tài sản chung mà tất cả tài sản do vợ, chồng có được
trước khi kết hơn và trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc sở hữu riêng của người có được
tài sản đó
- Xác định theo thỏa thuận khác của vợ chồng.
- Nội dung chế định tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận hoàn toàn đúng quy định
pháp luật, phù hợp với nguyên tắc của Bộ Luật Dân sư và thể hiện sự tôn trọng quyền và
lợi ích hợp pháp của các bên tham gia vào mối quan hệ vợ chồng liên quan đến tài sản
và lợi ích của mình.
- Nội dung thỏa thuận của vợ chồng về tài sản được quy định tại điều 48 Luật Hơn
nhân và Gia đình 2014 như sau:
+ Tài sản được xác định là tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng
+ Quyền, nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng và giao dịch
có liên quan

+ Điều kiện, thủ tục và nguyên tắc phân chia tài sản khi chấm dứt chế độ tài sản
+ Nội dung khác có liên quan
Khi thực hiện chế độ tài sản theo thỏa thuận mà phát sinh những vấn đề chưa được
vợ chồng thỏa thuận hoặc thỏa thuận không rõ ràng thì áp dụng quy định tại điều 29, 30,
31, 32 của Luật Hơn nhân và Gia đình 2014 và quy định tương ứng của chế độ tài sản
của vợ chồng theo quy định pháp luật.


- Thực hiện chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được thực hiện theo quy
định tại điều 47, 48, 49, 50, 59 của Luật Hôn nhân và Gia đình.
1.2.3. Chế độ tài sản của vợ chồng của một số nước trên thế giới
Pháp:
Pháp là nước phát triển, nên pháp luật về Hơn nhân và Gia đình thường đề cao
quyền tự do cá nhân, tự do thỏa thuận và quyền tự định đoạt về tài sản của vợ chồng
trong mối quan hệ Hơn nhân và Gia đình. BLDS Pháp quy định “pháp luật chỉ điều chỉnh
quan hệ tài sản giữavợ chồng khi mà họ khơng có thỏa thuận riêng, miễn là các thỏa
thuận đó khơng trái với thuần phong mĩ tục hoặc với các quy định pháp luật” [11, Điều
1387]. Bên cạnh đó, thỏa thuận của vợ chồng không được gây tổn hại đến những quyền
lợi được quy định bởi Bộ luật này, các thỏa thuận của vợ chồng cũng không được làm
chấm dứt hay thay đổi trật tự thừa kế theo pháp luật [11, Điều 1389]. Về nội dung của
thỏa thuận: pháp luật của Pháp cho phép vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản chung và chế
độ tài sản riêng dựa trên ý cí của vợ, chồng.
- Trung Quốc
Trước năm 2001, Trung Quốc chỉ áp dụng chế độ tài sản pháp định tức là mọi tài
sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc sở hữu chung theo quy định pháp
luật. Điều 13 Luật Hôn nhân năm 1980 quy định “Tài sản của vợ chồng làm ra trong
suốt thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng, ngồi ra, mỗi bên có thể có tài sản
riêng ngồi quy định trên” [ 2 ].
Năm 2001, Trung Quốc sửa đổi Luật Hôn nhân, bổ sung quy định mới liên quan
đến hôn ước. “Tất cả thu nhập kiếm được và tài sản của các bên được coi là tài sản

chung ngoại trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Tài sản chung bao gồm: lương,
tiền thưởng, lợi nhuận từ sản xuất kinh doanh, lợi nhuận từ quyền sở hữu tài sản trí thức,
tài sản có được nhờ thừa kế, hiến tặng nhưng ngồi quy định tại điều 18 chương 3 của
Luật này. Những tài sản khác mà cần thuộc về sở hữu chung” [28, Điều 17].
Về quyền có tài sản riêng của vợ, chồng, trong đó phần tài sản thuộc về một bên
vợ hoặc chồng được quy định như sau: “Tài sản của một bên trước hơn nhân; một bên vì
thân thể có thương tích có được chi phí chữa trị, phí hỗ trợ cấp cuộc sống của người tàn
tật; những tài sản mà trong di chúc hoặc văn bản hiến tặng xác định là chỉ thuộc về một


×