Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

SKKN phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm trong môn toán học lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (86.54 KB, 14 trang )

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập – Tự do – hạnh phúc

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:

“PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC LẤY HỌC SINH LÀM
TRUNG TÂM TRONG MƠN TỐN LỚP 4”

Quảng Bình, tháng 5 năm 2021


Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập – Tự do – hạnh phúc

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:

“PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC LẤY HỌC SINH LÀM
TRUNG TÂM TRONG MƠN TỐN LỚP 4”

Họ và tên: Phạm Thị Châu
Chức vụ : Giáo viên
Đơn vị
: Trường Tiểu học số 2 Hồng Thủy

Quảng Bình, tháng 5 năm 2021


I . PHẦN MỞ ĐẦU:
1.1. Lý do chọn đề tài:
Chương trình Sách giáo khoa đổi mới tuy đến nay đã thực hiện được hết 3 cấp học,
xong dường như, đối với nhiều giáo viên tiểu học, phương pháp mà sách giáo khoa mới


đòi hỏi là phải lấy học sinh làm trung tâm cho mọi hoạt động dạy học, phải dạy học sinh
tự phát hiện và làm chủ tiết học quả là rất khó. Một phần là do đa số giáo viên đã quen
với cách dạy truyền thống. Phần khác, nếu dạy học theo phương pháp này, tuy lấy học
sinh làm trung tâm nhưng khơng vì thế mà giáo viên được “ nhàn” hơn thậm chí giáo viên
phải vất vả hơn vì phải chuẩn bị rất kĩ tại nhà và tới lớp cũng vẫn phải linh hoạt theo học
sinh. Hơn nữa, cách dạy này rất tốn thời gian và học sinh nước ta cịn chưa quen nên
nhiều khi khó thực hiện hoặc thực hiện khơng có hiệu quả. Tình trạng trên diễn ra ở rất
nhiều trường, đặc biệt là đối với các trường ở cấp huyện, xã nơi mà mặt bằng trình độ của
học sinh tương đối thấp.
Tuy thế, rõ ràng là phương pháp dạy học này là một phương pháp dạy học rất hiệu
quả. Chính vì vậy, bản thân tơi ln tâm huyết tìm tịi và nghiên cứu nhằm thực hiện
phương pháp dạy học này. Sáng kiến “Phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung
tâm trong mơn tốn học lớp 4” này chính là những bài học mà bản thân tơi đã đúc rút
qua q trình dạy học và ứng dụng rất thành công vào công tác giảng dạy thực tiễn. Tơi
lựa chọn mơn Tốn là bởi vì trong những mơn học ở trường thì mơn Tốn ln được coi
là một trong những mơn học chính vì tầm quan trọng của nó đối với cuộc sống. Đây cũng
là mơn học địi hỏi sự tư duy và tính sáng tạo cao nhưng đồng thời cũng lại tương đối
“khô khan” và khó với đa số học sinh.


Sáng kiến này đã được nhiều đồng nghiệp nghiên cứu, tuy nhiên, điểm mới của sáng
kiến này là dạy học theo hướng tổ chức cho học sinh tự tìm tịi, tranh luận, thảo luận để
tìm cách giải quyết vấn đề thì mới có thể phát huy hết ưu điểm của sách giáo khoa mới.
Cách dạy này cũng sẽ giúp trẻ có điều kiện để tự thể hiện tài năng, trí thơng minh, óc
sáng tạo của mình; Qua đó, các em có thể rèn luyện tính tháo vát, năng lực xoay sở, óc
dám nghĩ, dám làm, đồng thời cũng rèn luyện cho trẻ năng lực “phát minh”, năng lực
trình bày và diễn đạt, tính tự tin trong cuộc sống.
1.2. Phạm vi áp dụng đề tài:
Như tôi đã đề cập ở trên, vì đây là một phương pháp khá khó ứng dụng và tốn thời
gian nên giáo viên không nên lạm dụng mà chỉ nên thực hiện đối với một số môn nhất

định. Trong sáng kiến này, tôi chỉ đưa ra một mơ hình chung cho phương pháp dạy học
lấy học sinh làm trung tâm; phân tích các bước của mơ hình để thấy được những khó
khăn giáo viên hay gặp phải khi thực hiện nó để từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm khắc
phục những khó khăn đó. Cuối cùng là một ví dụ về một tiết Tốn học mà tôi đã ứng
dụng.
II. PHẦN NỘI DUNG:
2.1. Thực trạng nội dung cần nghiên cứu:
* Đối với giáo viên:
Năm học 2020 – 2021, lớp tơi có 27 học sinh, đa số các em đều xuất phát từ hồn
cảnh khó khăn vì đây là địa phương ở vùng nông thôn. Bên cạnh đó, việc tiếp thu kiến
thức khơng đồng đều, kèm theo sự nhút nhát, sợ thể hiện của học sinh phần nào làm giảm
đi sự tích cực trong học tập.


* Đối với học sinh:
Trình độ nhận thức của học sinh khơng đồng đều, xếp vào 4 nhóm:
- Nhóm 1 – số học sinh tiếp thu nhanh: 7 em
- Nhóm 2 – số học sinh tiếp thu khá nhanh: 9 em
- Nhóm 3 – số học sinh tiếp thu chậm: 8 em
- Nhóm 4 – số học sinh tiếp thu rất chậm: 3 em
* Đối với phụ huynh:
Do hoàn cảnh gia đình của học sinh khó khăn, sống chủ yếu nhờ vào đất nông nghiệp
nên hầu hết các bậc phụ huynh đi làm ăn xa, ít có thời gian quan tâm, kèm cặp việc học
hành và rèn chữ của con em mình.
Từ thực trạng trên, tơi quyết tâm áp dụng phương pháp này cho học sinh lớp mình với
mong muốn cải thiện trình độ nhận thức và đạt kết quả cao.
2.2. Một số giải pháp:
2.1. Nêu vấn đề:
Trong bước 1 khó khăn mà giáo viên gặp phải khi thực hiện theo mơ hình này là
khâu “Tổ chức bàn bạc để định hướng giải quyết”. Lý do là vì học sinh chưa quen với

phương pháp này. Hơn nữa, lúc này các em chưa có một kiến thức gì về vấn đề mà giáo
viên nêu ra ( vì đây là bài mới chưa học).
Để khắc phục khó khăn trên địi hỏi người giáo viên cần phải sâu sát
với trình độ của học sinh, từ đó có những câu hỏi, câu gợi ý phù hợp, hướng dẫn các em
sử dụng kiến thức mà các em đã có từ những bài học trước để đưa ra ý kiến. Giáo viên
cũng cần lưu ý rằng những ý kiến này nên có tính khái qt mà không cần phải cụ thể và


chi tiết. Có thể xảy ra trường hợp học sinh đưa ra một ý kiến sai hoặc thậm chí các em
không đưa ra được ý kiến nào. Không sao. Điều đó là bình thường và dễ gặp phải bởi vấn
đề mà giáo viên nêu ra trong phần này là kiến thức của bài mới chưa học. Vì vậy, giáo
viên cũng không nên sửa ngay. Giáo viên chỉ cần tập hợp lại một số ý, dựa vào ý của các
em (nếu có) để định hướng suy nghĩ cho các em. Mục đích của bước này đơn giản chỉ để
tạo hứng thú đồng thời hướng các em vào nội dung chính, trọng tâm của bài.
2.2.1.Từng học sinh tự nghĩ cách giải quyết:
Giáo viên có thể cho học sinh làm việc cá nhân trong khoảng ít phút ( một hoặc hai
phút) theo hướng đã định ra trong phần nêu vấn đề, nên yêu cầu các em ghi tắt ý kiến của
mình ra một mảnh giấy. Sau đó, để cơng việc của học sinh hiệu quả hơn, giáo viên có thể
cho các em trao đổi theo cặp hoặc theo nhóm. Hiệu quả nhất là nên làm việc theo nhóm
bốn học sinh (vì thơng thường, bàn học sinh là bàn ngồi hai người; tổ chức nhóm bốn vừa
dễ sắp xếp, đỡ tốn thời gian, dễ cho việc trao đổi của các em cũng như việc quản lý của
giáo viên, ít gây ồn ào trơng cơng việc lập nhóm.)
Trong lúc học sinh thảo luận theo nhóm nhỏ này, giáo viên nên đi quanh lớp để quan
sát, quản lý đảm bảo tất cả các học sinh đều làm việc, đồng thời đơn đốc, khuyến khích
các ý hay hoặc gợi ý và trả lời một số câu hỏi của học sinh.
Để khắc phục vấn đề tốn thời gian vì lí do học sinh khơng quen, giáo viên có thể cho
học sinh thực hiện hoạt động nhóm thường xuyên trong các buổi học. Điều này sẽ tạo ra
một thói quen giúp các em nhanh hơn trong các thao tác như trao đổi, thảo luận, lập nhóm
và giúp đỡ lẫn nhau trong khi cùng làm việc trong nhóm. Các nhóm cũng sẽ hoạt động
hiệu quả hơn nếu giáo viên có thể sắp xếp chỗ ngồi hợp lý cho các em (đảm bảo trong



mỗi nhóm đều phải có một thành viên khá giúp điều khiển nhóm). Giáo viên cũng nên
hướng dẫn cho các nhóm chọn ra một thành viên làm “thư kí” ghi lại tồn bộ các ý kiến
của nhóm đã thảo luận và nghĩ ra. Những ý này có thể ghi vào một tờ giấy hoặc tốt hơn là
ghi vào một bảng phụ để tiện cho việc trình bày và sửa chữa trước lớp ở bước tiếp theo.
2.2.2. Thảo luận trước lớp cách giải quyết:
Sau khi các nhóm đã thảo luận xong, giáo viên nên dành thời gian cho ít nhất một
hoặc hai học sinh được đứng trước lớp trình bày cách giải quyết của mình hoặc của nhóm
mình vì hoạt động này giúp rèn luyện tính tự tin, năng lực trình bày và diễn đạt sự việc
cho trẻ. Nếu thời gian hạn chế không cho phép đại diện của tất cả các nhóm trình bày thì
giáo viên nên treo bảng phụ của các nhóm này lên bảng. Trong khi các đại diện trình bày,
giáo viên yêu cầu cả lớp lắng nghe, sau đó so sánh, trao đổi, thảo luận để nhận xét, bổ
sung ý kiến cho bạn và cho mình.
Ở hoạt động này, giáo viên nên yểm trợ về mặt sư phạm. Điều đó có nghĩa là giáo viên
nêu lại cho rõ các ý mà học sinh đã nói. Học sinh nói đúng thì giáo viên nêu lại cho rõ cái
ý đúng ấy; học sinh nói sai thì giáo viên nêu lại cho rõ cái ý sai ấy để cả lớp hiểu rõ các ý
kiến của các “báo cáo viên”. Đây là việc làm hết sức cần thiết vì học sinh thường trình
bày các vấn đề một cách lúng túng, lộn xộn, không rõ ràng, mạch lạc. Nếu thiếu sự yểm
trợ về mặt sư phạm này thì rất dễ xảy ra trường hợp “khơng ai hỏi ai nói gì”.Giáo viên
tuyệt đối không nên vội khẳng định là ý nào đúng, ý nào sai để khuyến khích học sinh
sáng tạo trong trao đổi, thảo luận để tự nhận ra ý sai, ý đúng, ý hay. Nói tóm lại là giáo
viên chỉ yểm trợ về mặt sư phạm mà không yểm trợ về mặt khoa học ở hoạt động thảo
luận.


2.2.3. Giáo viên nhận xét, đánh giá:
Đây chính là lúc mà giáo viên đưa ra sự yểm trợ về mặt khoa học cho học sinh. Giáo
viên tổng kết thảo luận: nêu lại các cách làm của học sinh; đánh giá đúng, sai, hay, dở,
sau đó chốt lại ý quan trọng (ý này có thể là một trong những ý kiến của học sinh hoặc

nếu học sinh chưa đưa ra được thì giáo viên đưa ra ý của mình, trọng tâm của bài học).
Nói chung, khi thực hiện phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm, giáo viên
có thể gặp một số khó khăn nhất định như học sinh khơng quen, tốn thời gian, khó tổ
chức và quản lý. Tuy nhiên, với cách tiến hành như tơi đã trình bày ở trên, các khó khăn
này sẽ được khắc phục và phương pháp này chắc chắn phát huy hiệu quả tối ưu.
*MỘT VÍ DỤ MINH HOẠ
TỐN 4 – TIẾT 73
DẠY BÀI : NHÂN VỚI SỐ CÓ 2 CHỮ SỐ
BƯỚC 1 : NÊU VẤN ĐỀ
a) GV nêu vấn đề : Tính 38 x 24 = ?
- Làm thế nào bây giờ ?
b) HS thảo luận, nói vắn tắt ý của mình…
c) GV dựa vào ý của HS để định hướng suy nghĩ :
- Đây là phép nhân với số có 2 chữ số, ta chưa học.
- Ta mới chỉ học cách nhân với số có một chữ số.
- Vậy phải tìm cách quy về phép nhân với số có một chữ số (hay quy về các phép
nhân đã học)
BƯỚC 2 : GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ :


Hoạt động 1 :
HS tự nghĩ cách nhân theo hướng nêu trên, ghi tắt vào giấy các ý riêng của mình.
Sau đó các em bàn bạc trong nhóm nhỏ (nhưng phải nói thì thầm).
Trong lúc đó GV đi quanh để giám sát, đơn đốc, khuyến khích các ý hay, trả lời các
câu hỏi của học sinh (GV cũng phải nói thầm).
Hoạt động 2 :
a) Một số học sinh lên công bố “phát minh” của mình (hoặc nhóm mình) trước cả lớp.
Học sinh này được nói và viết tự do trên bảng lớp. Chẳng hạn:
- HS A : + Tách 24 = 8 x 3 => 38 x 24 = 38 x (8 x 3) = (38 x 8) x 3
+ 38 nhân 8 là một phép nhân với số có một chữ số, em đã biết làm

+ 38 x 8 được bao nhiêu nhân tiếp với 3,cũng là nhân với số có một chữ số, em biết
làm rồi.
+ Cả lớp hoan hô. GV khen : tuyệt hay, giỏi !
- HS B: + Em tách theo phép cộng 24 = 7 + 8 + 9
+ Dùng quy tắc nhân một số với một tổng
38 x 24 = 38 x (7 + 8 + 9 ) = 38 x 7 + 38 x 8 + 38 x 9
+ Đây toàn là phép nhân với số có một chữ số, biết làm rồi.
+ Cả lớp hoan hô. GV khen …
- HS C : + Em dùng phép trừ 38 = 40 - 2
+ Dùng quy tắc nhân một hiệu với một số
38 x 24 = (40 – 2) x 24 = 40 x 24 – 2 x 24
+ 40 x 24 là nhân với số tròn chục : học rồi.


+ 2 x 24 là phép nhân với số có một chữ số, biết làm rồi.
+ Hoan hô… khen …
- HS D : + Em dùng phép cộng theo cách khác : 24 = 10 + 10 + 4
+ Dùng quy tắc nhân một một số với một tổng:
38 x 24 = 38 x (10 + 10 + 4 ) = 38 x 10 + 38 x 10 + 38 x 4
+ Phép nhân với 10 : quá dễ.
+ 38 x 4 là phép nhân với số có một chữ số: đã học.
+ Hoan hô… khen …
- HS E :

+ Em tách theo phép cộng : 24 = 20 + 4

+ 38 x 24 = 38 x (20 + 4 ) = 38 x 20 + 38 x 4
+ 38 x 20 : có dạng phép nhân với số trịn chục : đã học.
+ 38 x 4 là phép nhân với số có một chữ số: đã học.
+ Khen … Hoan hô…

- HS F : + Em bắt chước cách cộng viết : nhân số chục với số chục, số đơn vị với số
đơn vị :

3x2=6

;

8 x 4 = 32

+ 38 x 24 = 632
+ Khen … Hoan hô…(mặc dù sai !)
b) Thảo luận về các “phát hiện” đã được công bố :
- Đúng, sai ?
- Cách nào gọn hơn, dễ làm hơn ?
- Cách nào dài, khó làm ?
- Cách nào quá đặc biệt ?


- ….Chẳng hạn :
- A làm hay nhưng nếu 38 x 17 thì làm sao tách 17 thành tích của 2 số ?
A trả lời (cãi): thế thì em tách 38.
Chất vấn : Tách thử coi.
38 = 2 x 19
Vậy 38 x 24 = 2 x 19 x 24 vẫn là nhân với số có hai chữ số.
A thừa nhận là kẹt đường, cách này không dùng được.
- B làm đúng song dài hơn C : ba phép tính dài hơn hai phép tính.
- C làm đúng nhưng khơng hay bằng E : phép trừ khó làm hơn phép cộng.
Cách làm của D và E cũng giống nhau nhưng D làm dài hơn.
- Cách làm của F sai vì khơng thể làm tính nhân giống như tính cộng được ( chỉ tính
38 x 20 đã lớn hơn 700 rồi khơng thể bằng 632 được.)

- Cách làm của E hay nhất.
Hoạt động 3 :
a) GV tổng kết thảo luận để chốt lại cách làm của E sau đó nêu cách tính thực tiễn
như trong sách giáo khoa.
b) HS vận dụng giải bài tập.
* Kết quả đạt được
Qua thời gian thực nghiệm suốt học kỳ II đã có kết quả rõ rệt. Kết quả kiểm tra học
kì I mơn Tốn thay đổi như sau:
Kết quả kiểm tra GHKII
+ Tổng số học sinh : 27

Kết quả kiểm tra CHKII
+ Tổng số học sinh : 27


Giỏi : 15 em. Tỉ lệ: 55.5%

Giỏi : 17 em. Tỉ lệ: 62.7%

Khá : 7 em. Tỉ lệ: 26%

Khá : 7 em. Tỉ lệ: 26%

TB : 5 em. Tỉ lệ: 18.5%

TB : 3 em. Tỉ lệ: 11.1%
3. PHẦN KẾT LUẬN

3.1. Ý nghĩa của sáng kiến
Phương pháp dạy học “lấy học sinh làm trung tâm” là một trong những cách dạy

học tiên tiến bậc nhất hiện nay. Khi thực hiện phương pháp này trong các tiết tốn trên
lớp, tơi nhận thấy ban đầu đúng là các em còn lúng túng bỡ ngỡ trong các thao tác nhưng
qua một vài lần thực hiện và được sự hướng dẫn tận tình của giáo viên (sự yểm trợ đúng
lúc một số câu hỏi, gợi ý, yểm trợ về mặt sư phạm hay về mặt khoa học,…) các em đã trở
nên quen dần và thậm chí cịn tỏ ra rất thích thú vì bản thân các em được trực tiếp tham
gia vào bài học. Các em học tập hào hứng và hăng say hơn vì hoạt động nhóm giúp giảm
bớt căng thẳng đặc biệt là đối với những học sinh có học lực yếu, khơng thể tự làm việc
một mình. Học sinh có thể hỏi giáo viên hoặc bạn bè ngay những điều mà các em không
biết, không hiểu. (Điều mà ở cách dạy truyền thống, khi giáo viên tự mình “diễn trình”,
học sinh rất ngại làm). Chính vì thế mà các tiết học đều đạt hiệu quả rất cao, hầu như mọi
học sinh đều hiểu bài và vì vậy bước thực hành ( HS giải bài tập) diễn ra rất tốt.
Tuy nhiên, rõ ràng phương pháp dạy học này vẫn mang trong mình nhiều nhược
điểm. Hai trong số đó là việc giáo viên và học sinh chưa quen lắm với cách dạy, học này
và cách dạy, học này cũng khá tốn thời gian. Song như tơi đã đề cập, những khó khăn này
sẽ dễ dàng được khắc phục dựa vào lịng nhiệt tình, vào tâm huyết với nghề của người


giáo viên. Nếu người giáo viên “chịu khó đầu tư” kĩ cho tiết dạy tại nhà, nghiên cứu kĩ về
khả năng của từng học sinh để có sự sắp xếp chỗ ngồi hợp lý nhằm tạo điều kiện cho học
sinh có thể giúp đỡ nhau, trao đổi, thảo luận trong nhóm cũng như giữa các nhóm. Thêm
vào đó, đơi lúc giáo viên cũng cần phải khích lệ, dặn dị học sinh chuẩn bị trước bài ở
nhà.
Có một vài nhược điểm của phương pháp dạy học này mà khơng có cách khắc
phục. Đó là phương pháp này sẽ rất khó thực hiện nếu như học sinh đã học trước bài từ
trong hè. (Bởi nếu vậy học sinh đã biết trước kiến thức của bài mới và việc này hạn chế
khả năng tư duy, sáng tạo của các em. Ngồi ra, nó cũng chỉ có thể thực hiện ở một số
loại bài mà không phải ở tất cả các môn, các bài. Chính vì thế, điều cần thiết là người
giáo viên phải biết linh hoạt sử dụng phương pháp này vào đúng bài học, đúng đối tượng,
linh hoạt trong từng tiết dạy, từng tình huống phát sinh trên lớp từ những ý kiến, những
câu trả lời của học sinh thì mới có thể đạt được hiệu quả như mong muốn. Bên cạnh đó,

giáo viên nên ghi nhớ một điều cốt lõi : phải tạo được một khơng khí học tập thật thoải
mái khơng gị ép thì học sinh mới khơng thụ động mà ngược lại sẽ chủ động tham gia vào
các hoạt động, phát huy được tối đa khả năng và óc sáng tạo của tất cả học sinh.
Cuối cùng, cho dù phương pháp có hay đến mấy mà giáo viên sử dụng không tốt
đôi khi lại gây ra hiệu ứng ngược: làm học sinh rối tung và không hiểu bài. Việc sử dụng
quá nhiều cũng sẽ gây ra tâm lý nhàm chán ở học sinh. Bởi vậy, giáo viên không nên chỉ
sử dụng phương pháp này mà phải biết kết hợp sử dụng một số phương pháp dạy học
khác nữa nhằm tạo ra sự phong phú trong việc dạy các môn khác nhau.


Nói tóm lại, để một tiết dạy được thành cơng, điều kiện quyết định không phải là ở
phương pháp mà ở chính người giáo viên. Và phương pháp chỉ là một phương tiện giúp
người giáo viên đạt được mục đích đó. “Phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung
tâm” mà tôi vừa giới thiệu trong sáng kiến này hi vọng sẽ là một phương tiện hiệu quả
giúp cho các bạn đồng nghiệp gần xa trong việc giảng dạy với phương châm “Tất cả vì
học sinh thân yêu!”
3.2. Kiến nghị, đề xuất
Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ mà bản thân tơi đúc rút được qua q trình
giảng dạy. Tuy nhiên do thời gian và năng lực có hạn chắc hẳn sẽ có những thiếu sót. Rất
mong sự góp ý, giúp đỡ của quý thầy cô và bạn bè đồng nghiệp để sáng kiến kinh nghiệm
của tơi được hồn thiện hơn và có hiệu quả thiết thực hơn trong công tác giảng dạy.
Tôi xin chân thành cảm ơn!



×