Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

Một số giải pháp đầu tư nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của chi nhánh Ngân hàng ngân hàng nông nghiệp và phát triêng nông thôn Thủ Đô

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (510.01 KB, 88 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Hội nhập kinh tế quốc tế là con đường tất yếu và bắt buộc đối với Việt Nam
trên con đường phát triển. Chúng ta đang tham gia vào các tổ chức Hiệp hội Kinh tế
trên thế giới như là :APEC, ASEAN, Hiệp định thương mại Việt –Mỹ và nhất là
WTO. Hội nhập sẽ mở ra cho chúng ta không ít cơ hội nhưng cũng đầy cam go và
thách thức ngành ngân hàng nói chung và NHNo&PNTN Việt Nam nói riêng cũng
không thóat khỏi xu thế đó.
Truớc tình hình đó, NHNo&PTNT Thủ Đô –nằm trong hệ thống chi nhánh
của NHNo&PTNT Việt Nam đặt ra mục tiêu phải đầu tư nhằm nâng cao năng lực
cạnh tranh của mình trên thị trường. Trong thời gian thực tập tại Ngân hàng, được
việc trực tiếp với các anh chị cán bộ Ngân hàng, đã giúp em hiểu rõ hơn về tình hình
họat động cũng như những khó khăn, hạn chế còn vướng mắc trong quá trình đầu tư
nâng cao năng lựuc cạnh tranh của Ngân hàng. Với những kiến thức đã được trang bị
và xin góp một vài ý kiến trong quá trình đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của
Ngân hàng, em đã lựa chọn đề tài:”Một số giải pháp đầu tư nhằm nâng cao năng
lực cạnh tranh của chi nhánh Ngân hàng No&PTNT Thủ Đô”.
Kết cấu của chuyên đề bao gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận về đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại các
NHTM.
Chương II: Thực trạng đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của chi
nhánh Ngân hàng No&PTNT Thủ Đô
Chương III:Giải pháp đầu tư nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của
chi nhánh Ngân hàng No&PTNT Thủ Đô
CHƯƠNG I:LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ NÂNG CAO NĂNG LỰC
CẠNH TRANH TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nói chung và Ngân hàng nói
riêng
1.1.1.Khái niệm cạnh tranh:
Trong thế kỷ XX, nhiều lý thuyết cạnh tranh hiện đại đã ra đời như lý thuyết
của Micheal Porter,J.B.Barney,… Trong đó phải kể đến lý thuyết “lợi thế cạnh
tranh”của Micheal Porter, ông giải thích hiện tượng khi doanh nghiệp tham gia cạnh


tranh thương mại quốc tế cần phải có “lợi thế cạnh tranh “và “lợi thế so sánh”. Ông
phân tích lợi thế cạnh tranh tức là sức mạnh nội sinh của doanh nghiệp, của quốc gia,
còn lợi thế so sánh là điều kiện tài nguyên thiên nhiên, sức lao động, môi trường tạo
cho doanh nghiệp, quốc gia thuận lợi trong sản xuất cũng như trong thương mại. Ông
cho rằng lợi thế cạnh tranh và lợi thế so sánh có quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ
nhau, lợi thế cạnh tranh phát triển dựa trên lợi thế so sánh, lợi thế so sánh phát huy
nhờ lợi thế cạnh tranh.
Qua những quan điểm của các lý thuyết cạnh tranh trên cho thấy, cạnh tranh
không phải là sự triệt tiêu của các chủ thể tham gia mà cạnh tranh là động lực phát
triển của các doanh nghiệp. Cạnh tranh góp phần cho sự tiến bộ của khoa học, cạnh
tranh giúp cho các chủ thể tham gia biết quý trọng hơn những cơ hội và lợi thế mà
mình có được, cạnh tranh mang lại sự phồn thịnh cho đất nước,…thông qua cạnh
tranh chủ thể xác định cho mình những điểm mạnh, điểm yếu cùng với những cơ hội
và thách thức trước mắt và trong tương lai, để từ đó có những hướng đi có lợi nhất
cho mình khi tham gia quá trình cạnh tranh.
Vậy cạnh tranh là sự ganh đua giữa những cá nhân, tập thể, đơn vị kinh tế có
chức năng như nhau thông qua các hành động, nỗ lực và các biện pháp để giành phần
thắng trong cuộc đua để thỏa mãn các mục tiêu của mình. Các mục tiêu này có thể thị
phần, lợi nhuận, hiệu quả, an toàn,…
Tuy nhiên, không phải tất cả các hành vi cạnh tranh là lành mạnh, hoàn hảo và
nó giúp các chủ thể tham gia đạt được tất cả cái mình mong muốn. Thực tế để có lợi
thế trong kinh doanh các chủ thể tham gia đã sử dụng những hành vi cạnh tranh
không lành mạnh để làm tổn hại đến đối thủ. Cạnh tranh không mang ý nghĩa triệt
tiêu lẫn nhau nhưng kết quả cạnh tranh mang lại là hoàn toàn trái ngược.
1.1.2.Các loại hình cạnh tranh:
• Căn cứ vào tính chất cạnh tranh:
Cạnh tranh được chia thành 3 loại:
-Cạnh tranh không hoàn hảo: là hình thức cạnh tranh giữa những người bán
có các sản phẩm không đồng nhất với nhau. Mỗi sản phẩm đều mang hình ảnh hay uy
tín khác nhau cho nên để giành được ưu thế trong cạnh tranh, người bán phải sử dụng

các công cụ hỗ trợ bán như :Quảng cáo, khuyến mại, cung cấp dịch vụ, ưu đãi giá
bán, đây là loại hình cạnh tranh phổ biến trong giai đoạn hiện nay.
-Cạnh tranh hoàn hảo: là hình thức cạnh tranh giữa nhiều người bán trên thị
trường trong đó không người nào có đủ ưu thế khống chế giá cả trên thị trường. Các
sản phẩm bán ra đều được người mua xem là đồng thức, tức là không khác nhau về
quy cách, phẩm chất mẫu mã. Để chiến thắng trong cuộc cạnh tranh các doanh
nghiệp buộc phải tìm cách giảm chi phí, hạ giá thành hoặc làm khác biệt các sản
phẩm của mình so với các đối thủ cạnh tranh.
-Cạnh tranh độc quyền: trên thị trường chỉ có một hoặc một số ít người bán
một sản phẩm hoặc dịch vụ nào đó trên thị trường sẽ do họ quyết định không phụ
thuộc vào quan hệ cung cầu.
• Căn cứ vào phạm vi ngành kinh tế:
Cạnh tranh được phân thành hai loại:
-Cạnh tranh trong nội bộ ngành: là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
trong cùng một ngành, cùng sản xuất ra một loại hàng hóa hoặc dịch vụ. Kết quả của
cuộc cạnh tranh này làm cho kỹ thuật phát triển.
-Cạnh tranh giữa các ngành: là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong
các ngành kinh tế với nhau nhằm thu được lợi nhuận cao nhất. Trong quá trình này có
sự phân bổ vốn đầu tư một cách tự nhiên giữa các ngành, kết quả là hình thành tỷ
suất lợi nhuận bình quân.
• Căn cứ vào chủ thể tham gia thị trường:
Cạnh tranh được chia làm 3 loại:
- Cạnh tranh giữa người mua và người bán: người bán muốn bán hàng hóa của
mình với giá cao nhất, còn người mua muốn mua với giá thấp nhất. Giá cả cuối cùng
được hình thành sau quá trình thương lượng giữa hai bên.
-Cạnh tranh giữa những người mua với nhau: mức độ cạnh tranh phụ thuộc
vào quan hệ cung cầu trên thị trường. Khi cung nhỏ hơn cầu thì cuộc cạnh tranh trở
nên gay gắt, giá cả hàng hóa và dịch vụ sẽ tăng lên, người mua phải chấp nhận giá
cao để mua được hàng hóa mà họ cần.
-Cạnh tranh giữa những người bán với nhau: là cuộc cạnh tranh nhằm giành

giật khách hàng và thị trường, kết qủa là giá cả giảm xuống và có lợi cho người mua.
Trong cuộc cạnh tranh này, doanh nghiệp nào tỏ ra yếu đuối, không chịu được sức ép
sẽ phải rút lui khỏi thị trường, nhường thị phần của mình cho các đối thủ mạnh hơn.
1.1.3.Năng lực cạnh tranh của NHTM:
1.1.3.1.Khái niệm về NHTM:
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế.
Ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ hoặc vai trò mà chúng
thực hiện trong nền kinh tế.Ví dụ, Luật các tổ chức tín dụng do kỳ họp thứ 2 Quốc
hội khóa X thông qua ngày 12/12/1997 tuy không nêu riêng khái niệm NHTM,
nhưng cũng chỉ ra “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ
hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất
và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân
hàng phát triển, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng
khác” (Điều20, mục2), khái niệm này cũng được Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật các tổ chức tín dụng do kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa XI thông qua ngày
15/06/2004 khẳng định lại. Điều 1 Nghị định 48/2000/ND-CP ngày 12/09/2000 do
Thủ tướng Chính phủ ban hàng thì định nghĩa rõ hơn:”Ngân hàng thương mại là ngân
hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác
có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế của Nhà
nước”.
Tuy nhiên vấn đề là ở chỗ không chỉ chức năng của các ngân hàng đang thay
đổi mà chức năng của các đối thủ cạnh tranh chính của ngân hàng cũng không ngừng
thay đổi. Thực tế là rất nhiều các tổ chức tài chính, bao gồm các công ty chứng
khoán, công ty bảo hiểm hàng đầu… đều đang cố gắng cung cấp dịch vụ ngân hàng.
Ngược lại, ngân hàng cũng đối phó với các đối thủ cạnh tranh (các tổ chức tài chính
phi ngân hàng) bằng cách mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ, hướng về lĩnh vực bất
động sản và môi giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, đầu tư vào quỹ
tương hỗ và thực hiện nhiều dịch vụ mới khác. Như vậy, cách tiếp cận thận trọng
nhất là có thể xem xét khái niệm ngân hàng trên phương diện những lọai hình dịch
vụ mà chúng cung cấp : Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục

các dịch vụ tài chính đa dạng nhất- đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm , dịch vụ thanh toán
và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào
trong nền kinh tế (Quản trị NHTM-Peter Rose).
1.1.3.2.Khái niệm năng lực cạnh tranh trong lĩnh vực Ngân hàng :
Cho đến nay, tất cả các nghiên cứu đều thống nhất rằng rất khó có thể đưa ra
một định nghĩa chuẩn về khái niệm năng lực cạnh tranh đúng cho mọi trường hợp.
Tuy nhiên, đối với từng đối tượng nghiên cứu, vẫn cần đưa ra một định nghĩa về
năng lực cạnh tranh của một quốc gia, một ngành hay một doanh nghiệp một cách
chính xác làm căn cứ khoa học cho việc đưa ra những chính sách, giải pháp hợp lý và
hiệu quả. Như vậy, năng lực cạnh tranh của các Ngân hàng thương mại có thể được
định nghĩa như sau :”Năng lực cạnh tranh của một NHTM là khả năng ngân hàng đó
tạo ra, duy trì và phát triển những lợi thế nhằm duy trì và mở rộng thị phần, đạt được
mức lợi nhuận cao hơn mức trung bình của ngành và liên tục tăng đồng thời đảm bảo
sự hoạt động an toàn và lành mạnh, có khả năng chống đỡ và vượt qua nhữg biến cố,
bất lợi của môi trường kinh doanh “ (PGS.TS.Nguyễn Thị Quy-Năng lực cạnh tranh
của các NHTM trong xu thế hội nhập).
1.1.3.3.Đặc điểm trong cạnh tranh Ngân hàng:
Như các doanh nghiệp khác trong nền kinh tế thị truờng, các NHTM luôn
phải đối mặt với cạnh tranh từ các đối thủ để tranh giành thị phần lẫn nhau. Nhưng so
với các loại hình kinh tế khác, cạnh tranh trong lĩnh vực Ngân hàng có những đặc thù
riêng:
• Do hoạt động Ngân hàng mang tính hệ thống rất cao, nếu năng lực cạnh
tranh của một Ngân hàng yếu dẫn đến khó khăn, sẽ ảnh hưởng trực tiếp
đến thị truờng tiền tệ, và có ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế. Vì vậy, hoạt
động của các Ngân hàng phải tuân thủ theo pháp luật.
• Hoạt động Ngân hàng có liên quan đến nhiều tổ chức kinh tế, chính trị, xã
hội và các cá nhân. Nếu một Ngân hàng đổ vỡ sẽ ảnh hưởng đến các Ngân
hàng khác. Vì thế trong các hoạt động của Ngân hàng, đi liền với cạnh
tranh lẫn nhau là hợp tác với nhau, nhằm huớng đến môi trường cạnh tranh
lành mạnh hơn.

Từ hai đặc điểm trên, để tránh những nguy cơ đổ vỡ cho hệ thống, Ngân hàng
Trung ương phải có sự giám sát chặt chẽ thị trường tiền tệ, nhằm có những giải pháp
can thiệp kịp thời tránh những yếu tố có thể làm suy yếu và thôn tính lẫn nhau trong
các hoạt động của các NHTM.
Mặt khác, hoạt động Ngân hàng không giới hạn phạm vi trong nuớc mà liên
quan đến các nước khác trong hoạt động kinh tế đối ngoại. Do vậy, hoạt động của
Ngân hàng còn chịu sự chi phối của các yếu tố nước ngoài. Vì thế, sự cạnh tranh của
NHTM đòi hỏi những chuẩn mực rất cao và đòi hỏi rất nghiêm.
• Kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ là lĩnh vực kinh doanh rất nhạy cảm,
chịu tác động bởi rất nhiều nhân tố về kinh tế, chính trị, xã hội, tâm lý,
truyền thống văn hoá… mỗi một nhân tố này có sự thay đổi dù là nhỏ nhất
cũng đều tác động rất nhanh chóng và mạnh mẽ đến môi trường kinh
doanh chung. Chẳng hạn: Chỉ cần một tin đồn thổi dù là thất thiệt cũng có
thể gây nên cơn chấn động rất lớn, thậm chí đe dọa sự tồn vong của cả hệ
thống các tổ chức tín dụng. Một NHTM hoạt động yếu kém, khả năng
thanh khoản thấp cũng có thể trở thành gánh nặng cho nhiều tổ chức kinh
tế và dân chúng trên địa bàn… Chính vì vậy, trong kinh doanh, các NHTM
vừa phải cạnh tranh để từng bước mở rộng khách hàng, mở rộng thị phần,
nhưng cũng không thể cạnh tranh bằng mọi giá, sử dụng mọi thủ đoạn, bất
chấp pháp luật để thôn tính đối thủ của mình, bởi vì, nếu đối thủ là các
NHTM khác bị suy yếu dẫn đến sụp đổ, thì những hậu quả đem lại thường
là rất to lớn, thậm chí dẫn đến đổ vỡ luôn chính NHTM này do tác động
dây chuyền.
• Hoạt động kinh doanh của các NHTM có liên quan đến tất cả các tổ chức
kinh tế, chính trị – xã hội, đến từng cá nhân thông qua các hoạt động huy
động tiền gửi tiết kiệm, cho vay cũng như các loại hình dịch vụ tài chính
khác; đồng thời, trong hoạt động kinh doanh của mình, các NHTM cũng
đều mở tài khoản cho nhau để cùng phục vụ các đối tượng khách hàng
chung. Chính vì vậy, nếu như một NHTM bị khó khăn trong kinh doanh,
có nguy cơ đổ vỡ, thì tất yếu sẽ tác động dây chuyền đến gần như tất cả

các NHTM khác, không những thế, các tổ chức tài chính phi NH cũng sẽ
bị “vạ lây”. Đây quả là điều mà các NHTM không bao giờ mong muốn.
Chính vì vậy, các NHTM trong kinh doanh luôn vừa phải cạnh tranh lẫn
nhau để dành giật thị phần, nhưng luôn phải hợp tác với nhau, nhằm hướng
tới một môi trường lành mạnh để tránh rủi ro hệ thống.
• Do hoạt động của các NHTM có liên quan đến tất cả các chủ thể, đến mọi
mặt hoạt động kinh tế – xã hội, cho nên, để tránh sự hoạt động của các
NHTM mạo hiểm nguy cơ đổ vỡ hệ thống, tất cả Ngân hàng Trung ương
(NHTW) các nước đều có sự giám sát chặt chẽ thị trường này và đưa ra hệ
thống cảnh báo sớm để phòng ngừa rủi ro. Thực tiễn đã chỉ ra những bài
học đắt giá, khi mà NHTW thờ ơ trước những diễn biến bất lợi của thị
trường đã dẫn đến hậu quả là sự đổ vỡ của thị trường tài chính – tiền tệ
làm suy sụp toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Chính vì vậy, nên sự cạnh tranh
trong hệ thống các NHTM không thể dẫn đến làm suy yếu và thôn tính lẫn
nhau như các loại hình kinh doanh khác trong nền kinh tế.
• Hoạt động của các NHTM liên quan đến lưu chuyển tiền tệ, không chỉ
trong phạm vi một nước, mà có liên quan đến nhiều nước để hỗ trợ cho các
hoạt động kinh tế đối ngoại; do vậy, kinh doanh trong hệ thống NHTM
chịu sự chi phối của nhiều yếu tố trong nước và quốc tế, như: Môi trường
pháp luật, tập quán kinh doanh của các nước, các thông lệ quốc tế… đặc
biệt là, nó chịu sự chi phối mạnh mẽ của điều kiện hạ tầng cơ sở tài chính,
trong đó công nghệ thông tin đóng vai trò cực kỳ quan trọng, có tính chất
quyết định đối với hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng này. Điều đó
cũng có nghĩa là, sự cạnh tranh trong hệ thống các NHTM trước hết phải
chịu sự điều chỉnh bởi rất nhiều thông lệ, tập quán kinh doanh tiền tệ của
các nước, sự cạnh tranh trước hết phải dựa trên nền tảng kỹ thuật công
nghệ đáp ứng được yêu cầu của hoạt động kinh doanh tối thiểu; bởi vì, một
NHTM mở ra một loại hình dịch vụ cung ứng cho khách hàng là đã phải
chấp nhận cạnh tranh với các NHTM khác đang hoạt động trong cùng lĩnh
vực. Tuy nhiên, muốn lĩnh vực dịch vụ này được thực hiện thì đòi hỏi phải

đáp ứng tối thiểu về điều kiện hạ tầng cơ sở tài chính mà thiếu nó thì
không thể hoạt động được. Rõ ràng là, sự cạnh tranh của các NHTM loại
hình cạnh tranh bậc cao, đòi hỏi những chuẩn mực khắt khe hơn bất cứ
loại hình kinh doanh nào khác.
1.1.3.4.Các công cụ cạnh tranh của ngân hàng thương mại:
• Cạnh tranh bằng công cụ lãi suất:
Trong hoạt động ngân hàng, lãi suất là công cụ quan trọng để cạnh tranh đối
với hai mảng nghiệp vụ là huy động vốn và nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng.
-Đối với nghiệp vụ huy động vốn, lãi suất càng cao thì càng thu hút được
nhiều khách hàng gửi tiền và mua các chứng từ có giá do ngân hàng phát hành.
Thông thường, lãi suất có thể chia làm nhiều mức tương ứng với các kỳ hạn tiền gửi
để khách hàng lựa chọn và cũng tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng gửi tiền.
Những khoản tiền gửi có kỳ hạn dài thường có lãi suất cao hơn những khoản tiền gửi
ngắn hạn. Mức chênh lệch lãi suất giữa khoản tiền gửi dài hạn và ngắn hạn tác động
tới tâm lý và sự lựa chọn kỳ hạn tiền gửi của khách hàng.
-Đối với nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng thì lãi suất cho vay càng thấp,
càng thu hút khách hàng vay tiền. Khoản tiền cho vay có kỳ hạn dài, lãi suất sẽ cao
hơn các khoản cho vay ngắn hạn. Lãi suất cho vay của ngân hàng đối với một dự án
đầu tư hoặc một món vay còn tùy thuộc vào độ rủi ro của nó. Nếu độ rủi ro cao thì lãi
suất cho vay cao và ngược lại.
Do tính đặc thù của hoạt động kinh doanh ngân hàng nên lãi suất có vai trò hết
sức quan trọng trong cạnh tranh chiếm lĩnh thị phần. Việc tăng, giảm lãi suất không
chỉ phụ thuộc vào các yếu tố chi phí kinh doanh, tổng doanh số mà còn phụ thuộc vào
sự cân đối giữa huy động vốn và sử dụng vốn. Điều chỉnh lãi suất sẽ ảnh hưởng rất
lớn tới khách hàng của ngân hàng. Sự điều chỉnh không hợp lý giữa lãi suất huy động
vốn và lãi suất cho vay sẽ gây những hậu quả khôn lường trong công tác chiếm lĩnh
thị trường vì khách hàng luôn nhạy cảm với những dao động của lãi suất trên thị
trường liên ngân hàng. Nếu lãi suất cho vay cao có thể chấp nhận được đối với khách
hàng thì ngân hàng có thể tăng lãi suất huy động vốn để tăng lượng vốn và thu hút
khách hàng mới. Ngược lại, nếu ngân hàng huy động được nguồn vốn có lãi suất thấp

thì có thể giảm lãi suất cho vay đối với khách hàng để cạnh tranh thu hút khách hàng
của ngân hàng khác. Tùy theo mục tiêu điều chỉnh cân đối theo kỳ hạn và đảm bảo
tính thanh khoản cho khách hàng mà ngân hàng điều chỉnh lãi suất huy động và cho
vay phù hợp theo từng thời kỳ nhất định.
Trên thực tế, lãi suất ngân hàng còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như lãi
suất trên thị trường quốc tế hay các chính sách tái chiết khấu, chính sách về tỷ lệ dự
trữ bắt buộc do NHTW ban hành. Vì vậy, trong quá trình điều chỉnh lãi suất cạnh
tranh, các nhà quản trị ngân hàng phải tính đến và dự báo những biến động để đưa ra
những quyết định về lãi suất sao cho hợp lý và có tính cạnh tranh. Thông thường, lãi
suất của các ngân hàng chênh lệch không nhiều và bị ảnh hưởng bởi các ngân hàng
lớn. Việc điều hành lãi suất phải mang tính ổn định để tạo tâm lý an tâm cho khác
hàng vì nếu thay đổi đột ngột trong thời gian ngắn, dễ gây hoang mang cho khách
hàng. Lãi suất chỉ có thể lên, xuống dần dần trong một khoảng thời gian dài.
• Cạnh tranh bằng phí dịch vụ ngân hàng:
Phí dịch vụ ngân hàng là giá mà khách hàng phải trả cho các dịch vụ như mở
tài khoản, nộp tiền, rút tiền, chuyển tiền, phát hành séc thẻ tín dụng. Để cạnh tranh
với các ngân hàng khác thì dịch vụ phải đảm bảo an toàn, nhanh chóng và có mức phí
có thể chấp nhận được. Khả năng hạ phí dịch vụ phụ thuộc vào các yếu tố: chi phí
kinh doanh, doanh số dịch vụ,..
Phí dịch vụ ngân hàng nhìn chung tương đối ổn định. Tùy từng thời điểm,
ngân hàng có thể giảm hoặc tăng phí dịch vụ để tìm kiếm lợi nhuận hay thu hút khách
hàng. Các ngân hàng lớn tăng hay giảm phí dịch vụ thường kèm sự biến đổi của các
ngân hàng khác. Họ có thể tăng phí của các dịch vụ ngân hàng khi nhu cầu dịch vụ đó
tăng cao nhằm tạo lợi nhuận vì khách hàng đang quen sử dụng dịch vụ ngân hàng của
họ và chưa có đủ thời gian để chuyển hướng, khách hàng sẵn sàng chấp nhận mức giá
để thuận lợi trong công việc. Ngân hàng cũng có thể giảm phí các dịch vụ khi “trái
mùa”nhằm thu hút khách hàng.
• Cạnh tranh bằng các dịch vụ:
Dịch vụ có thể chia thành:
-Dich vụ cốt lõi bao gồm công dụng cơ bản của dịch vụ, ví dụ như tài khoản

tiết kiệm là hình thức tiền gửi có lãi suất hấp dẫn. Dịch vụ cốt lõi thường ít được
dùng như vũ khí cạnh tranh:
-Dịch vụ phụ trợ là các đặc tính về tính tin cậy, sự tiện dụng, có nhiều tiện ích
phù hợp,…Các ngân hàng thường cạnh tranh thông qua các dịch vụ này. Một ngân
hàng có thể tạo sổ tiết kiệm của khách hàng với những tiện ích như có thể gửi ngoại
tệ, cho phép ủy quyền rút tiền. Hệ thống chứng từ được chuẩn hóa, dễ hiểu, chính
xác, quy trình làm việc với khách hàng phải đảm bảo được quản lý chặt chẽ về phía
ngân hàng nhưng cũng phải giảm phiền phức đối với khách hàng. Điều quan trọng
đối với khách hàng là đảm bảo an toàn sinh lợi, thuận tiện và nhanh chóng.
-Các dịch vụ kèm theo, dịch vụ sau bán như khi khách hàng rút tiền và yêu cầu
ngân hàng giao tiền tại nhà cho khác hàng hay cung cấp sao kê tài khoản định kỳ.
Tính độc đáo của dịch vụ ngân hàng là một yêu cầu nảy sinh trong quá trình
cạnh tranh.Các ngân hàng muốn giữ được khách hàng và thu hút thêm khách hàng thì
phải tạo ra tính độc đáo riêng trong ngành ngân hàng rất là khó vì đây là lĩnh vực dịch
vụ nên các đối thủ dễ làm theo.
Đặc điểm ngân hàng là có một cơ cấu dịch vụ hết sức đa dạng từ các nghiệp
vụ huy động vốn, chu chuyển chi trả, tài khoản cá nhân cho đến các dịch vụ trung
gian, tư vấn nên việc kết hợp đưa đến cho khách hàng nhiều dịch vụ cũng tạo nên lợi
thế cạnh tranh quan trọng. Khách hàng sử dụng dịch vụ này sẽ dễ dàng sử dụng dịch
vụ khác.
• Cạnh tranh về mạng lưới chi nhánh, quan hệ ngân hàng đại lý:
Mạng lưới chi nhánh, văn phòng đại diện và phòng giao dịch sẽ giúp ngân
hàng mở rộng phạm vi hoạt động của mình. Số lượng chi nhánh ngân hàng lớn là tiền
đề để cho ngân hàng thu hút khách hàng, thu hút vốn, ngoài ra nó còn giúp cho
khách hàng thuận lợi trong việc sử dụng những dịch vụ của ngân hàng như chuyển
tiền, nhận tiền.
Ngân hàng thiết lập mối quan hệ rộng rãi với các ngân hàng quốc tế nhằm tạo
nên lợi thế cho ngân hàng trong lĩnh vực chuyển tiền, kinh doanh ngoại tệ, thanh toán
quốc tế,…Một số ngân hàng có hoạt động buôn bán, nghĩa là họ thực hiện cho vay,
nhận tiền gửi, nhận làm trung gian chuyển tiền giữa các ngân hàng với nhau. Các

ngân hàng này mở tài khoản tại các ngân hàng đầu mối ở các nước và hưởng lợi phí
từ các dịch vụ vận chuyển tiền quốc tế hay kinh doanh ngoại tệ,…
Phương thức phục vụ và thanh toán cũng là một công cụ tạo nên sự tiện lợi
cho khách hàng. Phương thức này thể hiện ở 3 giai đoạn của quá trình giao dịch :
trước giao dịch, trong quá trình giao dịch, và sau khi giao dịch.
-Trước giao dịch, ngân hàng thu hút khác hàng đến với mình và tạo điều kiện
thuận lợi cho khách hàng thông qua công tác quảng cáo, tại các điểm giao dịch bố trí
các biển chỉ dẫn cho khách hàng….
-Trong quá trình giao dịch, cán bộ ngân hàng phải thật sự tôn trọng khách
hàng , ân cần, lịch sự, chu đáo, đặt lợi ích khách hàng lên trên. Nhân viên giao dịch
nên tìm hiểu nhu cầu khách hàng và có trách nhiệm tư vấn cho họ để tạo được sự tin
cậy nơi khách hàng …Một hệ thống thanh toán tốt còn đảm bảo công tác quản lý của
ngân hàng.
-Sau khi giao dịch, ngân hàng có thể thực hiện các dịch vụ kèm theo như giao
tiền đến tận nhà người mua, hỏi thăm các khách hàng quan trọng và triển khai cung
ứng các dịch vụ khác cho khách hàng. Những dịch vụ này nếu thực hiện tốt sẽ tăng
uy tín của ngân hàng đối với khách hàng.
• Cạnh tranh về thời cơ thị trường:
Dự báo về thời cơ của thị truờng chính xác sẽ giúp ngân hàng giành chiến
thắng trong cạnh tranh. Cạnh tranh về thời cơ thị trường thể hiện ở chỗ ngân hàng dự
báo được những thay đổi của thị trường để có chính sách khai thác hợp lý sớm hơn
các ngân hàng khác. Tuy nhiên, cạnh tranh về thời cơ thị trường còn đòi hỏi ngân
hàng tìm ra được lợi thế kinh doanh và đi vào khai thác thị trường. Đồng thời, ngân
hàng cũng phải thích ứng nhanh với sự thay đổi.
Sử dụng vũ khí về quảng cáo khuếch trương giúp người dân hiểu biết về các
tiện ích của ngân hàng. Uy tín ngân hàng cũng là yếu tố quan trọng trong cạnh tranh.
Sở dĩ khách hàng muốn ngân hàng là thủ quỹ của khách hàng, đại diện cho khách
hàng trong thanh toán là do sự tin tưởng vào uy tín của ngân hàng. Một ngân hàng
chưa tạo dựng được uy tín thì khách hàng sẽ ít sử dụng dịch vụ của ngân hàng. Uy tín
là hết sức quan trọng, không chỉ đối với ngân hàng mà còn đối với các doanh nghiệp

có mối quan hệ với ngân hàng vì khi tham gia vào hoạt động trong và ngoài nước thì
việc ngân hàng đại diện có tên tuổi và uy tín sẽ giúp các doanh nghiệp hoạt động
thuận lợi hơn. Uy tín của ngân hàng phải trải qua một thời gian tạo lập. Khi đã có uy
tín, việc giao dịch giữa khách hàng và ngân hàng sẽ trở nên nhanh chóng, tiện ích,
khách hàng sẽ tin tưởng vào khả năng và tư vấn của cán bộ ngân hàng. Họ sẵn sàng
chọn sự hợp tác với ngân hàng dù chi phí có đắt hơn. Khi đó, ngân hàng sẽ có những
khách hàng trung thành. Ngoài ra, việc tạo lập được uy tín đối với một số khách hàng
sẽ tạo nên tiếng vang và có thể thu hút được các khách hàng mới tự tìm đến với mình.
• Cạnh tranh về không gian và thời gian:
Khi môi trường phát triển tuơng đối ổn định, giá cả tuơng đương nhau, thông
tin hoàn hảo thì thời cơ và thời gian tương đối quan trọng. Nó quyết định tới lợi thế
cạnh tranh của ngân hàng. Ngân hàng có quá trình giao dịch tiện nhất, nhanh nhất sẽ
chiến thắng trong cạnh tranh. Vũ khí cạnh tranh này là do hạ tầng kỹ thuật công nghệ
ngân hàng quy định. Thông tin là một công cụ cạnh tranh lợi hại của ngân hàng, có ý
nghĩa quyết định đối với việc kinh doanh của ngân hàng. Thông tin đủ và đúng sẽ
giúp ngân hàng hạn chế được rủi ro trong kinh doanh và tìm ra lợi thế so sánh của
ngân hàng mình với các đối thủ, chuẩn bị kịp thời và đưa ra được những sản phẩm
dịch vụ mang ưu điểm nổi trội, từ đó tăng cường sức cạnh tranh. Trong mọi lĩnh vực
họat động của ngân hàng, để đưa ra một quyết định kinh doanh, các nhà điều hành
phải luôn cập nhật thông tin, dự báo những biến động trên thị trường để tận dụng
được những cơ hội và hạn chế rủi ro về lãi suất, tỷ giá,…Hiện nay, các ngân hàng
đều trang bị máy tính và những chuyên gia về thu thập chọn lọc và xử lý thông tin về
tình hình tài chính tiền tệ quốc tế, các chỉ số tài chính quan trọng để phục vụ các
quyết định kinh doanh.
Các yếu tố mới và sự mạo hiểm cũng là có thể tạo nên lợi thế. Trong kinh
doanh hoạt động ngân hàng cũng vậy, một số ngân hàng có thể tham gia đầu tư vào
các dự án cho vay có lợi nhuận cao, những dịch vụ mới mà ở đó rủi ro thường cao để
đạt được mức lợi nhuận cao trong tương lai. Mặt khác, điều đó giảm được áp lực từ
đối thủ cạnh tranh hiện tại. Sự mạo hiểm chấp nhận rủi ro nhằm thu lợi nhuận lớn
bằng cách đi đầu trong kinh doanh là công cụ cạnh tranh cực kỳ hiệu quả. Vì vậy,

việc sử dụng hiệu quả công cụ này đòi hỏi các nhà điều hành phải có tài năng và bản
lĩnh.
Tóm lại, có nhiều vũ khí cạnh tranh để ngân hàng có thể sử dụng. Vấn đề là
hiệu quả của từng loại vũ khí ra sao và làm thế nào để kết hợp chúng, tạo ra hiệu quả
tối đa.
1.1.3.5.Các tiêu thức đánh giá năng lực cạnh tranh NHTM:
1.1.3.5.1.Năng lực tài chính:
Năng lực tài chính của các NHTM được thể hiện qua các yếu tố sau:
*Vốn tự có:
Trong cơ cấu vốn chủ sở hữu thì vốn điều lệ (vốn được ghi trong điều lệ của
Ngân hàng), chiếm tỷ trọng lớn nhất và có ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt động
kinh doanh của các NHTM. Vốn điều lệ thể hiện khả năng tài chính, năng lực hoạt
động của NHTM, có tác động trực tiếp đến khả năng mở rộng mạng lưới cũng như
quy mô hoạt động của các NH. Vốn điều lệ cao, sẽ giúp Ngân hàng tạo được uy tín
trên thị trường và tạo đuợc lòng tin nơi công chúng.
*Quy mô và khả năng huy động vốn:
Khả năng huy động vốn là một trong những tiêu chí đánh giá tình hình hoạt
động kinh doanh của Ngân hàng. Khả năng huy động vốn còn thể hiện tính hiệu quả,
năng lực và uy tín Ngân hàng đó trên thị trường. Khả năng huy động vốn tốt cũng có
nghĩa là Ngân hàng đó sử dụng các sản phẩm dịch vụ hay công cụ huy động vốn
hiệu quả, thu hút được khách hàng.
*Khả năng sinh lời: là chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động của Ngân hàng,
đồng thời cũng phản ánh một phần kết quả cạnh tranh của ngân hàng. Mức sinh lời là
thước đo khả năng tạo giá trị cho các cổ đông, tạo vốn kinh doanh bổ sung và duy trì
hay nâng cao thanh danh cho ngân hàng.
Mức sinh lời được phân tích thông qua các thông số sau:
ROE
=
Thu nhập sau thế
Vốn chủ sở hữu

x
Tỷ lệ thu nhập trên vốn tự có
ROE:thể hiện thu nhập của một đồng vốn chủ sở hữu .
Nếu ROE quá thấp so với ROA chứng tỏ vốn tự có ngân hàng chiếm tỷ trọng
nhỏ hơn so với tổng nguồn vốn.Vì vậy, vốn kinh doanh sẽ chủ yếu từ nguồn huy
động, gây ảnh hưởng tới mức độ lành mạnh trong hoạt động kinh doanh của hàng.Hệ
số ROE của NHTM ở các nước luôn ở mức trên 15%.
ROA=thu nhập sau thuế/tổng tài sản*tỷ lệ thu nhập trên tổng tài sản
ROA
=
Thu nhập sau thế
Tổng tài sản
x
Tỷ lệ thu nhập trên tổng tài sản
Chỉ số ROA cho thấy hiệu quả kinh doanh tính trên một đồng tài sản có. Hệ số
này lớn chứng tỏ hiệu quả kinh doanh tốt, NHTM có cơ cấu tài sản hợp lý, sinh lời và
linh hoạt. Tuy nhiên, tỷ lệ này quá lớn lại phản ánh hoạt động của ngân hàng tiềm ẩn
rủi ro cao. Hệ số ROA ở nhóm các ngân hàng khu vực châu Á-Thái Bình Dương
(gồm 52 NHTM thuộc 10 nước) là 0,94% và ở các ngân hàng các nước mới nổi (gồm
14 ngân hàng của các nước Thailand, Indonesia, Phillipines)là 0,77%.
*Mức độ rủi ro:
Mức độ rủi ro của NH thường được đo lường bằng chỉ tiêu sau:
+Hệ số an toàn vốn:CAR
Hệ số CAR chính là tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản có rủi ro chuyển đổi
(theo Ủy ban giám sát tín dụng Bassel). Theo chuẩn quốc tế thì CAR tối thiểu phải
đạt 8%. Tỷ lệ này càng cao cho thấy khả năng tài chính của NH càng mạnh, càng tạo
được uy tín, sự tin cậy của KH với NH càng lớn.
1.1.3.5.2.Tính đa dạng của sản phẩm dịch vụ :
Với đặc tính riêng của ngành NH là các sản phẩm dịch vụ hầu như không có
sự khác biệt thì các NHTM phát huy khả năng cạnh tranh của mình không chỉ bằng

những sản phẩm cơ bản mà còn thể hiện ở sự độc đáo, sự đa dạng của sản phẩm dịch
vụ.
Một NH mà có thể tạo ra sự khác biệt riêng cho từng loại sản phẩm của mình
trên cơ sở sản phẩm truyền thống sẽ làm cho danh mục sản phẩm của mình trở nên đa
dạng hơn, điều này sẽ đáp ứng được hầu hết các nhu cầu khác nhau của khách hàng
khác nhau, từ đó chiếm lĩnh thị trường và từ đó làm tăng sức mạnh cạnh tranh của
NH.
Ngoài ra, các NHTM còn sử dụng các dịch vụ bổ trợ khác để thu hút khách
hàng, tạo thu nhập cho NH, như cung cấp sao kê định kỳ, tư vấn tài chính,…
1.1.3.5.3.Nguồn nhân lực:
Nguồn nhân lực là một nguồn lực không thể thiếu của bất kỳ doanh nghiệp
nào. Trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, các doanh nghiệp không chỉ
cạnh tranh để giành thị phần trên thị trường hàng hóa dich vụ mà một xu hướng rất
quan trọng đang diễn ra trong thời gian qua là sự cạnh tranh để thu hút nguồn nhân
lực, người lao động đã và đang trở thành nhân tố quyết định trong sự thành bại trong
hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp nói chung và NHTM nói riêng. Nâng
cao năng lực cạnh tranh của nguồn nhân lực một doanh nghiệp nói chung thể hiện ở
những yếu tố sau: số lượng, trình độ đào tạo, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, sự sáng
tạo trong công việc, mức độ hăng say, động cơ phấn đấu và cam kết gắn bó lâu dài.
Nhân sự của một ngân hàng là yếu tố mang tính kết nối các nguồn lực của ngân hàng,
đồng thời cũng là nguồn gốc của mọi cải tiến đổi mới, làm tăng khả năng cạnh tranh.
1.1.3.5.4.Năng lực công nghệ:
Trong lĩnh vực NH thì việc áp dụng công nghệ là một trong những yếu tố tạo
nên sức mạnh cạnh tranh trong NHTM. Để nâng cao chất luợng sản phẩm dịch vụ
nhằm đáp ứng mọi yêu cầu KH thì nhu cầu công nghệ là vô cùng quan trọng. Công
nghệ sẽ giúp phần tạo nên những chuyển biến mang tính độc đáo và tiện ích hơn.
Ngày nay các NHTM đang triển khai phát triển những sản phẩm ứng dụng công
nghệ cao và sử dụng các sản phẩm dịch vụ mang tính chất công nghệ làm thước đo
cho sự cạnh tranh, đặc biệt là trong lĩnh vực sản phẩm điện tử và thanh toán khác.
Trên diễn đàn “banking Vietnam”khẳng định việc sử dụng công nghệ thông

tin là công cụ chính để khẳng định năng lực cạnh tranh của các NHTM, công nghệ là
yếu tố tạo nên sự khác biệt giữa các NHTM trong kinh doanh.
1.1.3.5.5.Năng lực quản trị điều hành NH:
Một yếu tố quan trọng quyết định đến sự thành bại trong hoạt động kinh
doanh của bất kỳ doanh nghiệp nào là vai trò của những người lãnh đạo doanh
nghiệp, những quyết định của họ có tầm ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động của doanh
nghiệp.
Năng lực quản trị, kiểm soát và điều hành của nhà lãnh đạo trong NH có vai
trò quan trọng trong việc đảm bảo tính hiệu quả, an toàn trong họat động NH. Tầm
nhìn của nhà lãnh đạo là yếu tố then chốt để NH có một chiến lược kinh doanh đúng
đắn trong dài hạn. Thông thường đánh giá năng lực quản trị, kiểm soát, điều hành của
một NH người ta xem xét, đánh giá các chuẩn mực và các chiến luợc mà NH xây
dựng cho hoạt động của mình. Hiệu quả hoạt động cao, có sự tăng trưởng theo thời
gian và khả năng vượt qua những bất trắc là bằng chứng cho năng lực quản trị cao
của NH.
Một số tiêu chí thể hiện năng lực quản trị của NH :
-Chiến lược kinh doanh của NH: bao gồm chiến lược marketing (xây dựng uy
tín,thương hiệu,..), phân khúc thị trường, phát triển sản phẩm dịch vụ,..
-Cơ cấu tổ chức và khả năng áp dụng phương thức quản trị NH hiệu quả.
-Sự tăng trưởng trong kết quả hoạt động kinh doanh của NH.
1.1.3.5.6.Danh tiếng, uy tín và khả năng hợp tác:
Hoạt động trong lĩnh vực NH luôn gắn liền với yếu tố uy tín của NHTM đó,
tâm lý của người tiêu dùng luôn là yếu tố quyết định đến sự sống còn của hoạt động
NH với hiệu ứng dây chuyền do tâm lý người tiêu dùng mang lại. Vì thế, danh tiếng
và uy tín của NHTM là yếu tố nội lực vô cùng to lớn, nó quyết định đến sự thành
công hay thất bại cho NH đó trên thương trường.Việc gia tăng thị phần và mở rộng
mạng lưới hoạt động, tăng thu nhập phụ thuộc rất nhiều vào NHTM.
Tuy nhiên uy tín của NHTM chỉ được tạo lập sau một thời gian khá dài thông
qua hinh thức sở hữu, đội ngũ nhân viên, việc ứng dụng các sản phẩm mang tính
công nghệ cao, việc đáp ứng đầy đủ và thỏa đáng các nhu cầu của người tiêu dùng.

Vì vậy, để tạo được danh tiếng và uy tín trên thương trường, các NHTM phải nỗ lực
và luôn luôn cải biến sản phẩm dịch vụ và nhu cầu ngày càng cao của KH.
Ngày nay, ngoài danh tiếng và uy tín của mình, các NHTM còn phải thể hiện
được sự liên kết lẫn nhau trong hoạt động kinh doanh của mình, sự kiện một NHTM
hợp tác với một tổ chức tín dụng có uy tín và danh tiếng khác trên thuơng trường,
hoặc sự hợp tác chiến lược giữa các NH hay tổ chức tài chính, tập đoàn kinh tế lớn
nào cũng góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của NHTM trên thương trường.
1.1.3.6.Những yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh Ngân hàng:
1.1.3.6.1.Về thương hiệu:
Trong kinh tế thị trường, thương hiệu có vai trò rất quan trọng đối với sự phát
triển của bất cứ doanh nghiệp nào, nó được coi như một tài sản có giá trị rất lớn bởi
nó có tác động rất lớn đến thái độ và hành vi người tiêu dùng.
Trong lĩnh vực NH, thương hiệu chính là uy tín về chất luợng dịch vụ của một
NH sẵn sàng cung ứng cho xã hội(về mặt này các NHTM Việt Nam chưa có sự chuẩn
bị tốt tuy nhiên gần đây vấn đề thương hiệu đang dần được các NHTM quan tâm
hơn). Do vậy thuơng hiệu có ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực cạnh tranh của các
NHTM trên thị trường tài chính tiền tệ. Một thương hiệu nổi tiếng sẽ hỗ trợ cho NH
thu hút được nhiều khách hàng đến với mình, qua đó NH sẽ có được những KH
truyền thống và lòng trung thành đối với thương hiệu của KH cho phép NH có thể dễ
dự báo và kiểm soát thị trường, hơn nữa, đồng thời nó sẽ tạo nên một rào cản vô
hình, gây khó khăn cho các NH đối thủ khác khi muốn thâm nhập thị trường.
1.1.3.6.2.Về công nghệ:
Sản phẩm NH là loại hình sản phẩm đặc thù mang loại hình công nghệ càng
cao càng hiệu quả và càng bảo mật, các NHTM hiện nay đã và đang cố gắng tạo ra
các sản phẩm tiện ích và đa dạng để cung cấp cho KH như thẻ ATM(Automaitc
Teller Machine), homebanking, phonebanking,…Vì thế đẩy mạnh ứng dụng công
nghệ thông tin trong ngành NH đang là sự quan tâm hàng đầu của các NHTM. Đến
nay hơn 80% các nghiệp vụ NH đã được xử lý bằng máy tính và hầu hết xử lý trên
mậng nội bộ, các giao dịch nghiệp vụ huy động vốn, thanh toán cho vay, kinh doanh
ngoại hối,.. buớc đầu được chuẩn hóa phù hợp với điều kiện của mỗi NHTM.

Những tiện ích trên thực hiện được là nhờ vào vai trò của công nghệ, công
nghệ càng hiện đại, NH càng cung cấp nhiều tiện ích cho khách hàng, đáp ứng nhu
cầu ngày càng tăng của khác hàng, công nghệ NH nào càng hiện đại thế cạnh tranh và
năng lực cạnh tranh càng cao.
Theo tính toán và kinh nghiệm của các NH nước ngoài, công nghệ thông tin
có thể làm giảm 76%chi phí hoạt động NH, nhưng đây là lĩnh vực đòi hỏi đầu tư rất
lớn và cũng chính là hạn chế rất lớn đối với NHTM Việt Nam do quy mô vốn còn
kém. Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng công nghệ của NHTM Việt Nam vẫn còn
nhiều yếu kém so với công nghệ NH nước ngoài. Cụ thể:
Theo WB, công nghệ trong lĩnh vực NHVN vẫn còn ở mức thấp kém, chỉ số
công nghệ NHVN mới chỉ là (-0.47), trong khi ở Trung Quốc là (-0.35), Thái
Lan(-0.07),..
Tính liên kết giữa các NH về công nghệ chưa cao, dẫn đến các dịch vụ còn
hạn chế, tiện ích kém hấp dẫn.
1.1.3.6.3.Về kinh nghiệm quản lý và trình độ nghiên cứu:
Kinh ngiệm quản lý và trình độ nghiên cứu là hai mặt của một vấn đề về con
người, vì thế trong xây dựng chiến lược phát triển kinh doanh của các NHTM nên
chú trọng phát triển nguồn nhân lực, đây là vấn đề then chốt cho thành công của các
NHTM hiện nay.
Về kinh nghiệm quản lý của các NHTM Việt Nam hiện nay còn nhiều bất cập,
chưa phù hợp với các nguyên tắc và chuẩn mực về quản trị doanh nghiệp như : tính
minh bạch thấp, chưa hình thành thói quen làm việc chuyên nghiệp,vai trò và nhiệm
vụ vị trí công tác chưa rõ ràng, hệ thống quản lý rủi ro, hệ thống thông tin quản lý,
kiểm toán chưa phát huy hiệu quả.
Trình độ quản lý kinh doanh và quản lý rủi ro của hệ thống cán bộ NH còn
yếu (năng lực thẩm định còn hạn chế, hệ thống phân loại nợ còn chưa chính xác ,
nguyên tắc kiểm tra, kiểm soát chưa chặt chẽ,..). Hầu hết các NHTM chưa thiết lập
được hệ thống quản lý rủi ro hiệu quả và chưa có chiến lược kinh doanh dài hạn để
đối mặt với thách thức của tiến trình mở cửa thị trường tài chính.
Phát triển nguồn nhân lực là góp phần năng cao năng lực cạnh tranh trên

thương trường. Vì vậy xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực luôn là mối
quan tâm của NH, con người là nhân tố trung tâm của sự phát triển và sẽ phát triển
hơn trong điều kiện môi trường làm việc phù hợp.
Với lực lượng cán bộ quản lý có kinh nghiệm và một trình độ chuyên môn
sâu sẽ rút ngắn được thời gian xử lý công việc, qua đó hiệu quả công việc và chất
lượng công việc sẽ được nâng lên và tạo được niềm tin khách hàng, lúc đó năng lực
cạnh tranh của NH sẽ được nâng lên so với đối thủ cạnh tranh.
1.1.3.6.4.Về giá cả và sự đa dạng hóa dịch vụ sản phẩm:
Kinh tế càng phát triển, sống được nâng lên, nhu cầu đòi hỏi về tính đa dạng
sản phẩm của KH ngày càng cao.
1.1.3.7.Các yếu tố ảnh hưởng năng lực cạnh tranh NH:
1.1.3.7.1.Môi trường kinh doanh:
Môi trường kinh doanh của NHTM thể hiện ở các đặc điểm sau:
-Tình hình kinh tế trong và ngoài nước:
+Nội lực nền kinh tế của một quốc gia được thể hiện qua mức độ quy mô và
tăng trưởng GDP, dự trữ ngoại hối,..
+Độ ổn định của nền kinh tế vĩ mô thông qua các chỉ tiêu: chỉ tiêu lạm phát,
lãi suất, tỷ giá hối đoái, cán cân thanh toán,..
+Độ mở cửa của nền kinh tế thể hiện qua các rào cản, sự gia tăng nguồn vốn
đầu tư trực tiếp, sự gia tăng trong hoạt động xuất nhập khẩu,…
+Tiềm năng tài chính, hiệu quả họat động của các doanh nghiệp hoạt động
trên địa bàn trong nuớc cũng như xu thế chuyển hướng hoạt động của các doanh
nghiệp nước ngoài vào trong nuớc.
Các yếu tố này tác động đến khả năng tích lũy và đầu tư của người dân, khả
năng thu hút tiền gửi và cấp tín dụng của nguời dân và phát triển các sản phẩm của
NHTM, khả năng mở rộng hoặc thu hẹp mạng lưới của NH. Từ đó làm giảm hay tăng
nhu cầu tín dụng, triển khai các dịch vụ, mở rộng thị phần của NHTM. Để đạt được
các mục tiêu trên, NHTM sẽ phải áp dụng các chiến lược khác nhau của mình để
nâng cao khả năng cạnh tranh.
Sự biến động của nền kinh tế sẽ có sự tác động vào lưu lượng vốn của nước

ngoài vào Việt nam thông qua các hình thức đầu tư trực tiếp và gián tiếp. Ngoài ra,
chúng chịu ảnh hưởng đến tình hình hoạt động chung của các NHTM, tổ chức,
doanh nghiệp, cá nhân có tham gia quan hệ thanh toán, mua bán với các doanh
nghiệp trong nước cũng như NHTM trong nước. Điều này ảnh hưởng đến họat động
của NHTM trong nước và ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của các NHTM trong
nước.
1.1.3.7.2.Hệ thống pháp luật, môi truờng văn hóa, xã hội, chính trị:
Với đặc điểm đặc biệt trong hoạt động kinh doanh của NHTM chịu chi phối
và ảnh hưởng của rất nhiều hệ thống pháp luật khác nhau luật xây dựng, luật dân sự,
…Bên cạnh đó, NHTM còn chịu sự quản lý chặt chẽ của NHNN và được xem là một
trung gian để NHNN thực hiện các chính sách tiền tệ của mình. Do vậy, sức mạnh
cạnh tranh của các NHTM phụ thuộc rất nhiều vào chính sách tiền tệ, tài chính của
chính phủ và NHNN.
Ngoài những văn bản và hệ thống pháp luật trong nước, NHTM còn phải chịu
quy định, chuẩn mực chung của Tổ chức thương mại Quốc tế(WTO), trong việc quản
trị họat động kinh doanh của mình.
Do vậy, bất kỳ sự thay đổi nào trong hệ thống pháp luật, chuẩn mực quốc tế,
cũng như chính sách tiền tệ của NHNN cũng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực
cạnh tranh của NHTM.
1.1.3.7.3.Sự gia tăng sử dụng dịch vụ NH trong nền kinh tế thế giới:
Với quá trình mở cửa nền kinh tế, tự do hóa và hội nhập thị trường tài chính
tiền tệ, sự cạnh tranh đối với NH tất yếu sẽ ngày càng trở nên gay gắt và quyết liệt.
Hiện nay cạnh tranh gay gắt giữa các NHTM không chỉ dừng lại ở các dịch vụ truyền
thống (huy động và cho vay) mà còn cạnh tranh ở các sản phẩm dịch vụ mới. Phân
tích những yếu tố dưới đây có thể thấy được nhu cầu dịch vụ NH trong tương lai gần
sẽ tăng cao:
-Sự biến đổi về cơ cấu dân cư, sự tăng dân số (sự tăng khu vực đô thị), tăng
khu vực công nghiệp, khu đô thị mới dẫn đến doanh nghiệp và cá nhân có nhu cầu sử
dụng dịch vụ NH ngày càng tăng.
-Thu nhập bình quân đầu người các quốc gia tăng lên, qua đó dịch vụ NH

cũng sẽ có những bước chuyển biến tương ứng.
-Các hoạt động giao thương quốc tế ngày càng phát triển làm gia tăng nhu cầu
thanh toán quốc tế qua NH.
-Số lao động di cư giữa các quốc gia có xu hướng tăng nên nhu cầu chuyển
tiền cũng như thanh toán qua NH cũng tăng.
Ngoài ra thị trường tài chính càng phát triển thì NH có nhiều sự lựa chọn. Các
yêu cầu của khách hàng đối với các dịch vụ NH ngày càng cao hơn cả về chất lượng,
giá cả, tiện ích lẫn phong cách phục vụ. Đây chính là áp lực buộc các NHTM phải đổi
mới và hòan thiện mình hơn nhằm đáp ứng nhu cầu khách hàng và nâng cao khả năng
cạnh tranh của mình.
1.1.3.7.4.Sự phát triển của thị trường tài chính và các ngành phụ trợ liên
quan với ngành NH:
Thị trường tài chính trong nước phát triển mạnh cũng là điều kiện để ngành
phát triển và gia tăng cung vào một ngành có lợi nhuận, từ đó dẫn đến mức độ cạnh
tranh cũng gia tăng.
1.2.Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh trong NHTM:
1.2.1.Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp trong
nền kinh tế:
Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp bao gồm nội dung
sau:
• Đầu tư vào tài sản cố định, đổi mới máy móc thiết bị ở doanh nghiệp
Đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm máy móc thiết bị của DN được xem là đầu
tư dài hạn và việc đầu tư này có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển của DN trong
tương lai.
Có thể phân biệt nội dung của đầu tư vào TSCĐ theo 2 góc độ.
* Đầu tư vào TSCĐ qua mua sắm trực tiếp:
Đó chính là việc DN bỏ vốn mua lại các cơ sở dã có sẵn để tiếp tục sử dụng và
phát huy hiệu quả của nó. Hình thức này chủ yếu được sử dụng ở các nước phát triển
thông qua sát nhập và thôn tính. Với hình thức này thì DN sẽ chỉ phải bỏ ra một
khoản vốn vừa phải ( ít hơn so với đầu tư mới ) như vậy DN có thể tiết kiệm được

một khoản chi phí và dành nó cho các hoạt động khác.
* Đầu tư vào xây dựng cơ bản.
Đây là việc rất quan trọng hay nói cách khác, để tiến hành được các hoạt động
sản xuất kinh doanh thì DN bắt buộc phải có một lượng vốn để đầu tư xây dựng cơ
bản, không chỉ DN mà bất kì tổ chức nào muốn tồn tại và hoạt động phải đầu tư xây
dựng cơ bản. Ta xét trên 2 góc độ:
- Đầu tư xây dựng hệ thông nhà xưởng, công trình.
Đối với một DN mà nói thì đây là yếu tố căn bản ban đầu có thể tiến hành sản
xuất kinh doanh.
Trước hết ta xem xét DN kinh doanh trên lĩnh vực công nghiệp: để tiến hành
sản xuất ra sản phẩm thì phải có nơi, địa điểm (nhà xưởng ) để chứa các dụng cụ
hàng hoá, máy móc thiết bị để giao dịch.
Đối với DN xây dựng thì đây vừa là công việc vừa là sản phẩm của họ và họ
sẽ chuyển giao bán lại cho ngưới khác…
Vậy tóm lại đầu tư cho việc xây dựng nhà xưởng, trụ sở, cơ quan… là đầu tư
bắt buộc ban đầu, bất kì một DN nào củng phải bỏ ra một khoản vốn để tiến hành xây
dựng cơ sở vật chất ban đầu. Hơn nữa khi mở rộng sản xuất kinh doanh thì đầu tư
thêm vào xây dựng cơ bản là điều hiển nhiên.
-Đầu tư vào máy móc thiết bị:
Có nhà xưởng rồi, muốn sản xuất ra các sản phẩm phải mua sắm thiết bị, hay
nói cách khác DN muốn mở rộng thêm sản xuất cần mua thêm máy móc thiết bị, sau
một thời gian sử dụng máy móc thiết bị bị hỏng, khấu hao hết. Máy móc bị hao mòn
hữu hình thì đều phải tiến hành bỏ chi phí để sửa chữa mua sắm mới. Tất cả những
nội dung đó đều được hiểu là đầu tư vào máy móc thiết bị. Các DN kinh doanh trên
lĩnh vực khác nhau thì sử dụng các loại máy móc thiết bị khác nhau, nhưng dù hoạt
dộng trên bất kì lĩnh vực sản xuất nào thì đầu tư vào máy móc thiết bị là điều kiện cơ
bản của quá trình sản xuất.
• Đầu tư bổ sung hàng dự trữ
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, dự trữ hàng hoá, nguyên vật liệu là
cần thiết khách quan vì duy trì dự trữ hàng hoá có vai trò quan trọng.

• Đầu tư phát triển nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực có vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh và
sự phát triển của DN. Nêú thiếu nguồn nhân lực hoặc nguồn nhân lực không đáp ứng
được yêu cầu hoạt động của DN sẽ bị ngừng trệ, ảnh hưởng lớn đến sự phát triển.
Nguồn nhân lực luôn là vấn đề được quan tâm hàng đầu tại các DN.
Trước tiên, đầu tư phát triển nguồn nhân lực là đầu tư nâng cao chất lượng
nhân lực: đào tạo nâng cao tay nghề và tinh giảm đội ngũ lao động. Hình thức đào tạo
rất phong phú, nhưng chủ yếu là hình thức đào tạo ngắn hạn để kịp thời cho phục vụ
sản xuất kinh doanh đồng thời hình thức đào tạo dài hạn ( hơn 12 tháng ) đang ngày
càng tăng, DN ngày càng quan tâm phát triển nguồn nhân lực một cách toàn diện.
Trong điều kiện hiện nay nhiều DN coi việc đầu tư phát triển nguồn nhân lực
là chiến lược canh tranh. Nguồn nhân lực trong doanh nghiệp bao gồm :Cán bộ quản
lí, công nhân sản xuất và cán bộ nghiên cứu khoa học. Đối với từng loại phải có
chính sách đào tạo riêng nhưng đều phải liên tục được tu dưỡng rèn luyện nghiên cứu
học tập.. để nâng cao kinh nghiệm, trình độ tay nghề.
• Đầu tư vào chất lượng sản phẩm.
Chất lượng sản phẩm là một phạm trù phức tạp mà DN thường hay gặp trong
các lĩnh vực hoạt động của mình.
Chất lượng luôn là một yếu tố quan trọng quyết định đến khả năng cạnh tranh
của DN trên thị trường
Chất lượng hàng hoá tốt sẽ giúp DN tạo uy tín, danh tiếng tốt tới người tiêu
dùng. Là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển lâu dài cho DN.
• Đầu tư vào nghiên cứu và triển khai, đổi mới công nghệ:
Khi DN muốn tạo ra sản phẩm mới và các lĩnh vực hoạt động mới đòi hỏi cần
đầu tư cho các hoạt động nghiên cứu, triển khai, ứng dụng công nghệ.
Đầu tư nghiên cứu khoa học công nghệ là vô cùng cần thiết đối với các DN,
là con đường nâng cao sức cạnh tranh và khả năng tồn tại phát triển của DN trên thị
trường.Tuy nhiên, đầu tư nghiên cứu hoặc mua công nghệ đòi hỏi vốn lớn và độ rủi
ro cao.
• Đầu tư vào hoạt động Marketing:

Hoạt động marketing là một trong những hoạt động quan trọng của DN.
Marketing còn có thể định nghĩa là một hệ thống các hình thức kinh doanh để
hoạch định, định giá chiêu mại và phân phối hàng hoá hay dịch vụ nhằm thu lợi
nhuận từ thị trường, thị trường này bao gồm cả khách hàng công nghiệp, hộ tiêu dùng
hiện tại và trong tương lai.
Marketing (MKT) là một trong những yếu tố quan trọng. Đầu tư cho hoạt
động marketing bao gồm đầu tư cho hoạt động quảng cáo, xúc tiến thương mại, xây
dựng thương hiệu…
NHTM cũng là một doanh nghiệp và là một doanh nghiệp đặc biệt. Vì thế
trong đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của NHTM bên cạnh có những nội dung
giống nhau thì vẫn có những điểm khác biệt.
1.2.2. Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của NHTM:
a.Sự cần thiết của hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của
NHTM
Việc ký kết Hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ (năm 2000)được xem là
cột mốc quan trọng có ảnh hưởng sâu sắc tới các hoạt động NHTM,dẫn tới việc mở
cửa thị trường ,đặc biệt là thị trường ngân hàng trong 10 năm tới.Điều này đem lại
nhiều cơ hội nhưng cũng kèm theo nhiều thách thức:
• Những cơ hội
Thứ nhất,hội nhập đã thúc đẩy sự phát triển và trao đổi các dịch vụ tài chính,
ngân hàng giữa các nước. Các nước đang phát triển, nơi mà các ngân hàng trong
nước thường có chi phí họat động cao và lợi nhuận thấp hơn đối với các đối thủ cạnh
tranh ngoài nước thì sự xuất hiện của các NH ngoài nước trên thị trường nội địa sẽ có
ảnh hưởng tích cực. Do sức ép cạnh tranh tăng lên đã thúc đẩy các NH nội địa hoạt
động có hiệu quả hơn, nâng cao chất luợng sản phẩm và dịch vụ để giữ vững và phát
triển thị phần, quản lý chặt chẽ chi phí để có lợi nhuận.
Thứ hai,hội nhập quốc tế sẽ làm tăng sức ép cạnh tranh từ bên ngoài, buộc các
NH trong nước nếu muốn duy trì và phát triển được trên thị trường cần phải tiến hành
cải tiến quản lý, đổi mới kiểm soát nội bộ, phòng ngừa rủi ro và giám sát an toàn hoạt
động, mở rộng phạm vi cũng cấp dịch vụ tốt hơn, cải thiện vị trí của mình.

Thứ ba,nhờ hội nhập mà các NH trong nuớc có thể thu thút được các nguồn
vốn từ bên ngoài, ứng dụng và tiếp cận được những công nghệ hiện đại tiên tiến vào
quá trình họat động của mình, mở rộng các hoạt động kinh doanh về ngoại hối,chứng
khoán quốc tế, phát triển các dịch vụ ngân hàng mới, tạo điều kiện cho các ngân hàng
trong nuớc đa dạng hóa các hình thức họat động, phân tán và giảm thiểu rủi ro.
Thứ tư,việc hình thành các tập đoàn ngân hàng lớn cùng với quá trình mở rộng
hoạt động của chúng trên thế giới sẽ tạo cho NH sẽ có nhiều lợi thế cạnh tranh cũng
như khả năng đối phó với những biến động thị trường. Sự tham gia của các NH nước
ngoài có tên tuổi này trên thị trường nội địa sẽ có ảnh hưởng tích cực trong việc cải
thiện các quy định phòng ngừa rủi ro, tuân thủ các chuẩn mực quốc tế về kế toán,
công bố công khai. Ngoài ra, những NH ở các nuớc đang phát triển muốn thâm nhập
vào thị trường các nước cần đảm bảo đáp ứng được các yêu cầu và tiêu chuẩn của
những thị trường này mới nhận được giấy phép hoạt động.
• Những thách thức:
Thứ nhất, mở cửa thị trường tài chính làm tăng số lượng các ngân hàng có
tiềm lực về tài chính, công nghệ và trình độ quản lý, áp lực cạnh tranh cũng tăng dần
theo lộ trình nới lỏng các quy định đối với các tổ chức tài chính nước ngoài, nhất là
về mở chi nhánh và điểm giao dịch, phạm vi hoạt động, hạn chế về đối tượng khách
hàng và tiền gửi được phép huy động, khả năg mở rộng dịch vụ ngân hàng trong khi
các tổ chức tài chính việt nam còn nhiều yếu kém:
-Trình độ chuyên môn và trình độ quản lý còn nhiều bất cập, hiệu quả hoạt
động và sức cạnh tranh thấp, nợ quá hạn cao, khả năng chống đỡ rủi ro còn kém, vốn
nhỏ, năng lực tài chính thấp, chất luợng tài sản chưa cao.
-Hoạt động tín dụng đuợc mở ra nhanh chóng nhưng rủi ro tín dụng chưa được
kiểm soát và đánh giá một cách chặt chẽ, chưa phù hợp chuẩn mực quốc tế và yêu
cầu hội nhập.
-Sản phẩm và dịch vụ còn đơn điệu, tính tiện ích chưa cao, chất lượng dịch vụ
thấp. Quy trình quản lí trong các tổ chức tài chính chưa phù hợp với các nguyên tắc
và chuẩn mực quốc tế, tính minh bạch thấp, chưa hình thành môi trường làm việc và
văn hóa kinh doanh lành mạnh do vai trò, trách nhiệm của các vị trí công tác chưa rõ

ràng, hệ thống thông tin quản lý và quản lý rủi ro chưa rõ ràng.
-Hạ tầng công nghệ NH và hệ thống thanh toán lạc hậu và có nguy cơ tụt hậu
xa hơn so với các nước trong khu vực, chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển và nâng
cao chất lượng dịch vụ và năng lực quản lý điều hành của NHNH và khả năng chống
đỡ rủi ro của NHTM còn nhiều hạn chế.
-Thể chế của hệ thống NH còn nhiều bất cập, hệ thống NH còn thiếu đồng bộ,
chưa phù hợp với cải cách và lộ trình hội nhập.
Thứ hai,mở cửa thị trường tài chính trong nước làm tăng rủi ro do những tác
động từ bên ngoài, cơ hội tận dụng chênh lệch tỷ giá, lãi suất thị trường trong nước
và thị trường quốc tế giảm dần. Hệ thống NH Việt Nam cũng phải đối mặt với các
cơn sốc kinh tế, tài chính quốc tế và nguy cơ khủng hoảng. Trong trường hợp đó, thị
trường vốn chưa phát triển sẽ khiến hệ thống NH phải chịu mức độ thiệt hại lớn do
rủi ro gây nên.
b.Nội dung đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của NHTM:
Thứ nhất,đầu tư vào lĩnh vực khoa học công nghệ:
.Các NHTM đẩy mạnh ứng dụng những thành tựu công nghệ hiện đại, nhất là
các công nghệ thông tin, bởi vì chỉ trên cơ sở kỹ thuật công nghệ hiện đại thì các
NHTM mới có điều kiện triển khai các loại hình dịch vụ mới, mở rộng đối tuợng và
phạm vi KH. Công nghệ thông tin cho phép các NHTM nắm bắt cập nhật và đầy đủ
các thông tin từ phía KH, cho phép giảm thiểu rủi ro từ lựa chọn đối nghịch và rủi
ro đạo đức. Công nghệ hiện đại cũng cho phép các NHTM giảm chi phí, giảm thời
gian trong giai đoạn giao dịch, tăng độ an toàn cho khách hàng-đây vốn là những yêu
cầu bắt buộc trong kinh doanh của các NHTM.
Chính vì thế Ngân hàng nên đầu tư đẩy mạnh mua những phần mềm “cốt lõi”,
phần mềm giúp quản lí rủi ro, phần mềm chống virut nhằm bảo vệ hệ thống,..
Thứ hai, đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực:
Trong hệ thống hoạt động NH, rủi ro luôn tiềm ẩn do tất cả các khâu, các
công đoạn trong kinh doanh của NHTM đều gắn liền với sự vận động của vốn tiền tệ.
Để giảm thiểu rủi ro-một trong những yêu cầu bắt buộc là nâng cao trình độ chuyên
môn nghiệp vụ cho tất cả cán bộ, nhân viên trong các NHTM. Chính vì thế, NH

không chỉ dừng lại ở đầu tư nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ tài chính mà
gồm cả đầu tư nâng cao trình độ kinh tế tổng hợp cho tất cả cán bộ, nhân viên, bởi
vì, có như vậy thì các NHTM mới tư vấn cho KH của mình các định huớng đầu tư
vốn hiệu quả, đồng thời qua đó mới thẩm định chính các dự án đầu tư tín dụng.
Thứ ba, đầu tư nâng cao năng lực tài chính, trong đó quan trọng nhất là vốn
điều lệ.
Vốn điều lệ là một phần rất quan trọng của tài chính NHTM. Chính vì vậy,
đầu tư nâng cao năng lực tài chính chủ yếu là đầu tư nâng cao chất lượng nguồn vốn
bằng một số biện pháp như sau:
-Tăng vốn ngân sách NHà Nước cấp(đối với các NHTM nhà nước)
-Cổ phần hóa NHTM Nhà nước
-Phát hành thêm cổ phiếu mới (đối với các NHTMCổ phần)
-Sáp nhập,hợp nhất các NHTM.
Thứ tư ,đầu tư tăng cường hiệu quả công tác Marketing NH.
Để tăng cường hiệu quả công tác Marketing, NHTM cần phân đoạn chính xác
thị trường, xác định đúng đối tượng khách hàng mục tiêu, từ đó có biện pháp chủ
động tiếp cận khách hàng để giới thiệu các sản phẩm dịch vụ của mình. Ngân hàng
nên đầu tư vào việc quảng bá hình ảnh thông qua các biện pháp: sử dụng quảng cáo
qua các phuơng tiện thông tin đại chúng (báo chí,truyền hình,..), áp dụng marketing
fourmix(product, price, place, promotion). Bên cạnh đó, Ngân hàng nên có sự đầu tư
nâng cao hoạt động “chăm sóc khách hàng” bằng cách đi sâu tìm hiểu KH và thu
nhận các thông tin từ phái KH để có những phương huớng, biện pháp điều chỉnh
thích hợp, từ đó giúp nâng cao năng lực cạnh tranh của NHTM. Nếu hoạt động đầu tư
nâng cao hiệu quả công tác Marketing tốt thì không những tăng uy tín ,thương hiệu
mà còn góp phần giúp NHTM thu được lợi nhuận nhiều hơn, vững mạnh hơn và phát
triển hơn.
1.2.3.Các nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh
của NHTM
1.2.3.1.Nguy cơ từ các ngân hàng mới
Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ, cũng như những hiệp định song phương và

đa phương khác, đòi hỏi Việt Nam phải tiếp tục mở cửa thị trường dịch vụ tài chính
và ngân hàng. Dĩ nhiên đây là một thách thức lớn và một mối ưu tư của các ngân
hàng trong nước vì họ sẽ phải đối đầu cạnh tranh với các ngân hàng quốc tế có thế
mạnh cạnh tranh toàn cầu. Điều này chắc chắn ảnh hưởng đến việc đầu tư nâng cao
năng lực cạnh tranh của các NHTM.
Sau khi chính thức được cấp phép thành lập NH 100% vốn nước ngoài tại VN
ngày 08/9/2008, ngày 16/8 NH Standard Chartered và tập đoàn Công nghiệp Than -
Khoáng sản VN (Vincomin) đã ký kết hợp đồng vay vốn trị giá 58 triệu USD với kỳ hạn
7 năm. Về kế hoạch phát triển Standard Chartered, ông Ashok Sud, TGĐ Standard
Chartered cho biết, dự định sẽ mở thêm 20-30 chi nhánh ngân hàng tại VN trong 3-4
năm tới và sẽ lắp đặt 250 máy ATM từ nay cho tới năm 2010.

×