Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Giải pháp phát triển ngành công nghiệp thức ăn chăn nuôi Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (419.11 KB, 10 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHỊNG

GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGÀNH CƠNG NGHIỆP THỨC ĂN CHĂN NUÔI
VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
Th.s Phùng Mạnh Hùng, Th.s Nguyễn Thị Mỹ Nguyệt
Trƣờng Đại học Thƣơng mại
Email:
Tóm tắt:
Bài viết tập trung vào làm rõ tính hấp dẫn của thị trường thức ăn chăn nuôi Việt Nam,
cấu trúc các doanh nghiệp trong ngành, quy mô và mức độ xâm nhập của các cơng ty nước
ngồi vào thị trường trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế
toàn cầu, những tác động cạnh tranh đối với doanh nghiệp nội địa về nguồn nguyên liệu,
công nghệ sản xuất và hệ thống phân phối. Từ đó đề xuất các giải pháp đối với doanh nghiệp
nội địa, hàm ý về mặt chính sách đối với cơ quan quản lý nhà nước nhằm phát triển ngành
bền vững.
Từ khóa: thức ăn chăn nuôi, hội nhập, tiềm năng thị trường, nguyên liệu, mạng lưới
phân phối, công nghệ sản xuất……
1.Đặt vấn đề nghiên cứu
Nông nghiệp là một trong những lĩnh vực tiềm năng của Việt Nam và còn nhiều dư
địa để phát triển với sự thuận lợi của điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng, 70% dân số làm nơng
nghiệp. Trong đó chăn nuôi và sản xuất thức ăn chăn nuôi là những ngành thu hút nhiều
doanh nghiệp trong nước và nước ngoài đầu tư do nhu cầu về thịt của thị trường Việt Nam
được xếp hạng cao trên thế giới, tốc độ tăng trưởng trong nhu cầu hàng năm đạt 4.9%, mức độ
tiêu thụ trung bình đạt 40kg/người/ năm. Nhu cầu tiêu thụ thịt lợn của Việt Nam đứng thứ hai
sau thị trường Trung Quốc và hàng năm Việt Nam vẫn xuất khẩu một lượng lớn thịt lợn vào
thị trường này qua con đường tiểu ngạch. Ngành chăn nuôi của Việt Nam đang thay đổi tư
duy phát triển, từ chăn nuôi nhỏ lẻ và manh mún sang mơ hình chăn ni trang trại, sử dụng
thức ăn chăn ni cơng nghiệp thay vì thức ăn tự chế biến. Tất cả những yếu tố tổ này làm
cho nhu cầu thức ăn chăn nuôi công nghiệp tại Việt Nam liên tục tăng lên, có những thời điểm
cung không đủ bù đắp cho nhu cầu. Nắm bắt được cơ hội này, nhiều cơng ty nước ngồi có uy
tín trong ngành thức ăn chăn ni cơng nghiệp đã xâm nhập thị trường Việt Nam từ khi Việt


Nam chính thức mở cửa hội nhập kinh tế vào năm 1991, cạnh tranh trực tiếp về nguồn nguyên
liệu, công nghệ chế biến, kiểm soát mạng lưới kênh phân phối. Mức độ đầu tư sâu hơn thông
qua việc biến các liên doanh thành các cơng ty 100% vốn nước ngồi, quy mô đầu tư mở rộng
hơn thông qua mở thêm nhà máy mới. Nhà nước trong một thời gian dài chú trọng tới phát
triển ngành chăn nuôi mà quên đi việc ban hành và triển khai các chính sách tạo động lực phát
triển ngành thức ăn chăn nuôi công nghiệp. Xuất phát từ những luận cứ này, vấn đề thảo luận
các giải pháp từ phía các doanh nghiệp nội địa trong ngành và cơ quan quản lý nhà nước
nhằm phát triển ngành bền vững, tránh sự phụ thuộc vào nguồn thức ăn chăn ni cơng
nghiệp từ bên ngồi là hết sức cần thiết.
2. Tiềm n ng của thị trƣờng thức n ch n nuôi Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia có tỷ lệ dân số tham gia vào trong các lĩnh vực nông nghiệp
bao gồm: trồng trọt, chăn nuôi gia súc, gia cầm và thủy sản chiếm tới 70% dân số. Số lượng
gia súc và gia cầm (2015) được nuôi trên phạm vi cả nước ước đạt 379 triệu con [3]. Xu
hướng tham gia cao trong lĩnh vực nông nghiệp của phần lớn dân số xuất phát từ truyền thống
Việt Nam là một nước nông nghiệp, mặt khác cũng xuất phát từ nhu cầu tiêu thụ các sản
phẩm nông nghiệp của thị trường Việt Nam ở mức cao, đặc biệt là các sản phẩm thịt gia súc
và gia cầm. Nhu cầu tiêu thụ thịt của thị trường Việt Nam đứng đầu Đơng Nam Á (trung bình

192


TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG

40kg/người/năm) và thứ hai tại Châu Á, chỉ sau thị trường Trung Quốc (trung bình
60kg/người/năm) [4]. Bên cạnh đó, hàng năm các doanh nghiệp Việt Nam cũng xuất khẩu
một lượng lớn các loại thịt, đặc biệt là thịt lợn vào thị trường Trung Quốc thông qua các con
đường tiểu ngạch và chính ngạch càng kích thích nhu cầu chăn ni trong nước, từ đó làm
tăng nhu cầu về thức ăn chăn ni. Điều này lí giải vì sao ngành cơng nghiệp thức ăn chăn
ni của Việt Nam là một trong những ngành phát triển năng động trên thế giới với tốc độ
tăng trưởng xấp xỉ 20%/ năm (trong giai đoạn 2012 – 2015) [4].


Hình 1.1: Sản lƣợng sản xuất thức n ch n nuôi giai đoạn 2005 đến 2012 và dự
báo đến n m 2020 [4]
Cung thức ăn
chăn nuôi CN

Tổng nhu cầu
thức ăn chăn nuôi

Hinh 1.2: Tỷ lệ giữa cung thức n ch n nuôi công nghiệp và nhu cầu thức n
ch n nuôi giai đoạn 2000 đến 2015 và dự báo đến n m 2020 [5]
Để có thức ăn phục vụ cho nhu cầu chăn nuôi gia súc và gia cầm, những hộ nông dân
nhỏ lẻ thường chủ yếu mua nguyên liệu bên ngoài và tự trộn thành thức ăn chăn nuôi. Đối với
những doanh nghiệp chăn ni quy mơ lớn thì chủ yếu sử dụng thức ăn cơng nghiệp của các
doanh nghiệp có uy tín nhằm đảm bảo sức khỏe cho đàn gia súc và gia cầm. Trong năm 2015,
tổng nhu cầu tiêu thụ thức ăn chăn ni đạt 20 triệu tấn, trong đó tiêu thụ thức ăn chăn nuôi
công nghiệp là 13.26 triệu tấn và tiêu thụ thức ăn chăn nuôi tự chế tại các hộ gia đình là 6.27
triệu tấn [2]. Với nhu cầu tiêu thụ thịt gia súc và gia cầm ngày càng lớn, chính sách khuyến
khích phát triển chăn ni theo hướng ngành hàng và tư duy đang thay đổi của các hộ nông
dân theo hướng chăn nuôi công nghiệp và sử dụng thức ăn cơng nghiệp thì thị trường thức ăn
chăn nuôi công nghiệp hứa hẹn sẽ là một mảnh đất màu mỡ để các doanh nghiệp khai thác.

193


TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG

2. Cơ cấu các doanh nghiệp và áp lực cạnh tranh

Hình 1.3: Cấu trúc các doanh nghiệp tham gia vào ngành công nghiệp thức n ch n nuôi

Việt Nam [1]
Tiềm năng của thị trường thức ăn chăn nuôi công nghiệp tại Việt Nam đã được các
doanh nghiệp nước ngoài (FDIs) phát hiện từ sớm và ngay khi Chính Phủ Việt Nam có các
chính sách mở cửa nền kinh tế thì các doanh nghiệp nước ngồi đã dần dần xâm nhập vào thị
trường. Proconco là doanh nghiệp nước ngoài đầu tiên mở nhà máy tại Việt Nam. Tính đến nay
cả nước có 230 doanh nghiệp hoạt động trong ngành: trong đó có 44 doanh nghiệp thuộc 100%
sở hữu nước ngoài, 16 doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh theo hình thức liên doanh, và
khoảng 170 doanh nghiệp trong nước. Đáng chú ý là có sự phân biệt về thị phần và thị trường
giữa các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có yếu tố đầu tư nước ngồi. Các doanh
nghiệp có yếu tố đầu tư nước ngồi (bao gồm doanh nghiệp 100% thuộc sở hữu nước ngoài và
doanh nghiệp liên doanh) chiếm tới 60% thị phần và tập trung khai thác khu vực thị trường
miền Nam, nơi có các doanh nghiệp chăn ni quy mơ lớn. Trong khi đó các doanh nghiệp
trong nước chỉ chiếm 40% và tập trung khai thác thị trường miền Bắc, nơi tập trung chủ yếu các
hộ chăn nuôi nhỏ lẻ. Các doanh nghiệp có yếu tố đầu tư nước ngồi thường có công suất lớn
(trên 60.000 tấn/ năm) trong khi các doanh nghiệp trong nước chỉ đạt công suất nhỏ (dưới
10.000 tấn/ năm) và vừa (từ 10.000 tấn/ năm đến dưới 60.000 tấn/ năm). Sự cạnh tranh diễn ra
gay gắt giữa các doanh nghiệp, trong đó các doanh nghiệp trong nước đang tỏ ra yếu thế hơn và
đang bị loại dần khỏi cuộc chơi, đặc biệt là những doanh nghiệp có quy mô nhỏ.
4. Tác động của xu hƣớng hội nhập kinh tế quốc tế tới ngành công nghiệp thức
n ch n ni Việt Nam
Việt Nam là quốc gia có nhiều lợi thế để phát triển nông nghiêp tuy nhiên thu hút
nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào lĩnh vực này vẫn cịn hạn chế. Theo đó, tính
đến tháng 9/2016, cả nước đã thu hút được 518 dự án FDI trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm
nghiệp, thủy sản với tổng vốn đạt 3,54 tỷ USD (chiếm 2,4% tổng số dự án và 1,2% tổng vốn
đầu tư của tất cả các lĩnh vực). Các dự án chủ yếu tập trung vào một số lĩnh vực còn nhiều
tiềm năng chế biến gỗ và lâm sản, chăn nuôi và chế biến thức ăn chăn nuôi. Thị trường thức
ăn chăn nuôi công nghiệp Việt Nam đã được các doanh nghiệp nước ngoài (FDIs) phát hiện
từ sớm và xu hướng đầu tư bắt đầu từ những năm 1991, tuy nhiên do những hạn chế về chính
sách đầu tư của Chính Phủ Việt Nam nên các doanh nghiệp nước ngồi chỉ dừng lại ở hình
thức liên doanh với doanh nghiệp trong nước. Những liên doanh có mặt sớm tại thị trường

Việt Nam như Procono (1991), CP Group (1993), Cargill Vietnam (1995)….Đến khi Việt

194


TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG

Nam gia nhập WTO và dần dỡ bỏ các rào cản đầu tư, xu hướng đầu tư vào ngành công nghiệp
này diễn ra mạnh mẽ hơn, hầu như các doanh nghiệp nước ngồi có tên tuổi trên thế giới
trong ngành thức ăn chăn ni đã có mặt tại thị trường Việt Nam và không ngừng mở rộng
quy mô sản xuất cũng như những nhà máy mới, trong khi đó các doanh nghiệp trong nước
hoặc giảm quy mô sản xuất hoặc rút ra khỏi ngành. Đáng chú ý, xu hướng đầu tư diễn ra
mạnh mẽ hơn từ năm 2011 khi Việt Nam bắt đầu thực hiện các cam kết hội nhập giảm thuế
nguyên liệu thức ăn chăn nuôi, nhu cầu về thịt của người tiêu dùng tăng do sự cải thiện đáng
kể trong thu nhập bình quân, Trung Quốc vẫn tiếp tục là một thị trường tiềm năng tiếp tục chi
phối ngành chăn nuôi trong nước.
Bảng 1.1: Các xu hƣớng đầu tƣ chính trong ng nh CN thức n ch n nuôi Việt Nam [4]
N m
Các xu hƣớng cơ bản
1991 - Procono (Pháp) thành lập liên doanh và mở nhà máy tại tỉnh Đồng Nai
1993 - CP Group (Thái Lan) thành lập liên doanh và mở nhà máy tại Đồng Nai
- Cargill Corporation (Hoa Kỳ) thành lập liên doanh và mở nhà máy tại Việt Nam
1995
- ANT (công ty đa quốc gia) thành lập liên doanh và mở nhà máy tại tỉnh Đồng Nai
- Anco (Malaisia) thành lập liên doanh và mở nhà máy tại tỉnh Đồng Nai.
2003
- Greenfeed (công ty đa quốc gia) lập chi nhánh và mở nhà máy tại Long An.
- Sojitz Corporation (Nhật Bản) thành lập liên doanh và mở nhà máy tại tỉnh Bến
Tre và Long An.
- CP Corporation (Thái Lan) lập chi nhánh và mở nhà máy tại tỉnh Hải Dương.

- De Heus Corporation (Hà Lan) thâu tóm một cơng ty nội địa và mở nhà máy tại
2011 tỉnh Long An.
- Sichuan Tequ Group (Trung Quốc) lập chi nhánh và mở nhà máy tại tỉnh Bắc
Giang.
- Tongwei Group (Trung Quốc) lập chi nhánh và mở nhà máy tại tỉnh Hải Dương.
- Cargill corporation (Hoa Kỳ) mở rộng sang sản xuất thức ăn nuôi trồng thủy sản
2013 - De Heus Corporation (Hà Lan) mở rộng quy mô sản xuất tại tỉnh Vĩnh Long.
- Tập đo n Hòa Phát (Việt Nam) tham gia vào ngành và mở nhà máy tại tỉnh
Hưng Yên và Đồng Nai.
2016
- Tập đo n Masan (Việt Nam) tham gia vào ngành và mở nhà máy tại tỉnh Nghệ
An.
Tác động từ hội nhập kinh tế và áp lực cạnh tranh đã bộc lộ những điểm yếu của
doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi trong nước:
- Một là, chất lượng sản phẩm chưa cao và giá cả sản phẩm chưa cạnh tranh. Ngành
công nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi là một ngành có hàm lượng cơng nghệ cao do doanh
nghiệp cần phải đầu tư vào hoạt động nghiên cứu và phát triển sản phẩm, tạo ra các chủng
men để kích thích nhanh khả năng tăng trưởng của vật ni nhưng đồng thời phải an toàn,
thường xuyên cập nhật các công thức thức ăn của thế giới nhằm nâng cao khả năng cạnh
tranh, có phịng khảo nghiệm thức ăn chăn ni trước khi đưa sản phẩm ra ngồi thị trường.
Bảng 1.2: N ng lực sản xuất của một số doanh nghiệp chính trong ngành cơng
nhiệp thức n ch n ni Việt Nam n m 2015 [4]
Tên
Tên
N ng lực sx
N ng lực sx
STT
STT
(tấn)
(tấn)

doanh nghiệp
doanh nghiệp
1
CP Vietnam
2,300,000
13
New Hope Vietnam
320,000
2
Proconco
985,000
14
East Hope Vietnam
314,000

195


TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG

3
4
5
6
7
8
9
10
11
12


Cargill Vietnam
980,000
15
CJ
270,000
Japfa Vietnam
800,000
16
Evialis
236,000
Anco Vietnam
550,000
17
Deheus
230,000
Greenfeed Vietnam
540,000
18
Sojitz
200,000
ANT
507,000
19
Laitchien
180,000
Tongwei
500,000
20
AFC

159,000
Ausfeed Vietnam
450,000
21
Suijin
140,000
Hong Ha
400,000
22
RTD
120,000
Dabaco
392,000
11,888,000
Tổng n ng lực sản xuất
Vinafeed
390,000
Tuy nhiên hiện nay phần lớn các doanh nghiệp nội địa chưa làm được điều này, phần
lớn vẫn chỉ dừng lại ở mức độ phát triển cơ bản, tức là mua các nguyên liệu cơ bản như: cám,
ngô, đỗ tương, bột cá……cùng các phụ gia để trộn và đóng thành thức ăn chăn ni. Một số
doanh nghiệp còn vi phạm đạo đức kinh doanh khi cho thêm chất cấm vào thức ăn để kích
thích khả năng tăng trưởng của vật ni, từ đó làm cho hình ảnh sản phẩm thức ăn chăn ni
trong nước khơng được các hộ chăn nuôi đánh giá cao. Chất lượng sản phẩm khơng cao do
vậy quy mơ tiêu thụ ít, từ đó làm giảm đi tính kinh tế quy mơ của các doanh nghiệp nội địa và
giá cả sản phẩm kém cạnh tranh là một hệ quả.
- Hai là, mạng lưới kênh phân phối yếu và đang bị chi phối bởi các doanh nghiệp
nước ngồi. Kênh phân phối đóng một vai trò rất quan trọng liên quan tới đầu ra sản phẩm
trong bất kì ngành nghề kinh doanh nào, trong ngành chế biến thức ăn chăn ni CN thì hệ
thống kênh phân phối lại càng quan trọng do thông qua mạng lưới kênh này sẽ cho phép các
công ty chế biến thức ăn chăn ni có thể tiếp cận được với khách hàng là những nông dân

sinh sống rải rác ở các khu vực nông thôn, nơi mà sự tiếp cận với khách hàng có thể khó khăn
do sự phức tạp về địa lý.
Nhà sản xuất

Nhà phân phối cấp 1

Nông dân/ doanh
nghiệp ch n nuôi

Nhà phân phối cấp 2

Hinh 1.4: Tổ chức mạng lƣới phân phối trong ngành CN thức n ch n nuôi [4]
Mặt khác, kênh phân phối là đối tượng gánh rủi ro thay cho doanh nghiệp vì kênh
phân phối bán nợ sản phẩm cho người nông dân, đợi nơng dân chăn ni thành cơng và hồn
trả mức tín dụng này cho kênh phân phối, thơng thường mức tối đa là 1 triệu/1 nơng dân/ 1
năm. Có nhiều trường hợp nông dân chăn nuôi thua lỗ và không có khả năng chi trả vì dịch
bệnh, giá cả xuống thấp, vì vậy kênh phân phối sẽ mất trắng khoản tiền này. Thấu hiểu được
vai trò của mạng lưới kênh phân phối trong ngành, các doanh nghiệp nước ngoài rất chú trọng
đầu tư và kiểm soát phần lớn mạng lưới kênh phân phối thức ăn chăn ni với nhiều chính
sách ưu đãi. Trong khi các công ty nội địa rất ít khi làm việc với mạng lưới kênh phân phối
mà chủ yếu bán sản phẩm trực tiếp cho hộ chăn ni. Các cơng ty nước ngồi có nhiều chính

196


TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG

sách ưu đãi hơn cho kênh phân phối cấp 1 để từ đó họ quản lý các kênh cấp 2, bao gồm: chiết
khấu 1 đến 2% giá trị đơn hàng cho kênh phân phối cấp 1 độc quyền (chỉ phân phối duy nhất
sản phẩm của DN); hỗ trợ tài chính hàng tháng, hàng quý và hàng năm cho các kênh cấp 1 đạt

được mức doanh số kì vọng nhằm kích thích tiêu thụ sản phẩm trong cả năm, không chỉ là
những tháng cao điểm. Các doanh nghiệp nội địa rất khó làm được điều này do quy mô sản
xuất nhỏ và nguồn lực hạn chế.
- Ba là, sự phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu khẩu là một rủi ro và làm
giảm đi sức cạnh tranh của các doanh nghiệp nội địa.
Nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi bao gồm 22 loại khác nhau trong đó bao gồm:
cám gạo, ngơ, đỗ tương, sắn, bột xương, bột cá, các loại phụ gia,…….Trong đó cám gạo và
sắn là hai loại nguyên liệu đã chủ động được trong nước, các loại nguyên liệu còn lại vẫn phải
nhập khẩu do chất lượng không đảm bảo, giá cao hoặc do các doanh nghiệp trong nước chưa
đủ trình độ cơng nghệ để sản xuất. Các doanh nghiệp nội địa hiện nay đang phụ thuộc tới 70%
nguồn nguyên liệu từ thị trường nước ngoài. Giá trị nhập khẩu nguyên liệu thức ăn chăn nuôi
năm 2016 đạt 1.9 tỷ đô la [5]. Sự phụ thuộc này là không cần thiết khi Việt Nam là một quốc
gia có tiềm năng vê nơng nghiệp, các doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn ni có thể tích hợp
về phía trước để tạo cho mình những vùng ngun liệu có chi phí thấp và chất lượng tốt, giảm
thiểu sự phụ thuộc vào thị trường nước ngoài, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh, tuy nhiên
điều này chưa trở thành hiện thực, do một số nguyên nhân:
Đối với hoạt động canh tác ngô
Ngô cũng giống như những cây hoa màu khác chưa được sự quan tâm của người nông
dân để phát triển thành vùng nguyên liệu thức ăn chăn nuôi. Quy mô canh tác hàng năm chỉ
khiêm tốn 200.000 hecta và mới đáp ứng đủ 1/3 nhu cầu nguyên liệu cho thức ăn chăn nuôi.
Người nông dân chưa mặn mà với ngô do giá trị kinh tế thấp so với cây ăn quả và các loại cây
trồng khác. Khoảng 95% nông dân canh tác dưới 2 hecta/ năm, cây ngô chủ yếu được trồng ở
những vùng đất không màu mỡ như vùng trung du và vùng núi, giống lạc hậu là những
nguyên nhân làm cho năng suất ngô không cao, giá thành lớn. Công nghệ bảo quản sau thu
hoạch kém cũng làm cho chất lượng ngô giảm, không dành được sự ưu tiên mua của các
doanh nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi.
Bảng 1.3: Quy mô canh tác ngô của các hộ nông dân n m 2015 [4]
Quy mô canh tác
Số hộ nông dân
Tỷ lệ %

< 0.2 hecta
3.753.454
32.21
Từ 0.2 đến < 0.5 hecta
4.259.744
36.55
Từ 0.5 đến < 2 hecta
2.956.742
25.37
Trên 2 hecta
683.538
5.88
Tổng
11.653.47
100%
Đối với hoạt động canh tác đậu nành
Đậu nành cũng là một trong những nguyên liệu thức ăn chăn nuôi quan trọng bên cạnh
ngô tuy nhiên gần như 100% loại nguyên liệu này phải nhập khẩu để phục vụ cho nhu cầu sản
xuất thức ăn chăn nuôi. Đây là một loại cây tương đối khó trồng với điều kiện thời tiết của
Việt Nam, hiện nay loại cây này chỉ được trồng ở 25/63 tỉnh thành, tập trung chủ yếu ở các
tính phía Bắc với diện tích khoảng 180.000 hecta với sản lượng 270.000 tấn [1]. Năng suất
thấp, không phù hợp với điều kiện thời tiết Việt Nam, chi phí canh tác cao là những nguyên
nhân khiến đậu nành nội địa không được chấp nhận là đầu vào của ngành thức ăn chăn nuôi.

197


TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHỊNG

Hình 1.5: Tỷ trọng nhập khẩu đậu n nh (đậu tƣơng) trong tƣơng quan với các

nguyên liệu nhập khẩu khác n m 2016 [1]

Hình 1.6: Sản lƣợng nhập khẩu đậu nành theo từng quốc gia n m 2016 [4]
5. Giải pháp phát triển ngành thức n ch n nuôi Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
5.1. Các giải pháp từ phía các doanh nghiệp n i địa tham gia vào ngành
Các doanh nghiệp nội địa là trọng tâm trong phát triển ngành sản xuất thức ăn chăn
ni Việt Nam, từ đó hỗ trợ hiệu quả cho ngành chăn nuôi, tránh sự phụ thuộc vào nhập khẩu
thức ăn chăn ni từ thị trường nước ngồi. Tuy nhiên sự phát triển của các doanh nghiệp nội
địa còn yếu trong khi các đối thủ cạnh tranh nước ngồi khơng ngừng mở rộng quy mô kinh
doanh. Với tiềm năng lớn của thị trường thức ăn chăn ni Việt Nam thì sự gia nhập của các
đối thủ cạnh tranh mới như tập đồn Massan, Nutreco, De Heus sẽ cịn tiếp tục diễn ra, từ đó
đe dọa tới sự tồn tại của các doanh nghiệp nội địa. Để đối phó với áp lực cạnh tranh gia tăng
từ các đối thủ “ngoại”, các doanh nghiệp nội địa nên tập trung vào các giải pháp:
- Đổi mới dây chuyền công nghệ sản xuất thức ăn chăn nuôi, thiết lập bộ phận chuyên
nghiên cứu các chất kích thích sự tăng trưởng an tồn cho vật nuôi (premix), các chất phụ gia
trong thức ăn chăn nuôi, cập nhật các công thức chế biến thức ăn chăn ni tiên tiến của thế
giới nhằm giúp doanh nghiệp có thể tối ưu nguyên liệu trong chế biến, từ đó giảm giá thành
và giá bán sản phẩm. Phối kết hợp với các viện nghiên cứu về chăn nuôi để đào tạo nhân lực
chuyên lập công thức về thức ăn chăn nuôi.

198


TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHỊNG

- Tích cực tham gia vào q trình đàm phán với các đối tác nước ngồi nhằm hình
thành các liên doanh (joint venture company) tổ chức sản xuất thức ăn chăn ni. Hiện nay cả
nước có 16 cơng ty liên doanh là tương đối ít. Con số này có thể tăng thêm, tuy nhiên các
cơng ty nội địa có ý định liên doanh cần chứng minh được năng lực sản xuất và kinh doanh,
khả năng am hiểu thị trường thức ăn chăn nuôi. Liên doanh cũng là một cách tốt để giúp các

doanh nghiệp nội địa cải thiện khả năng quản lý, bí quyết cơng nghệ chế biến từ các cơng ty
nước ngồi.
- Phân phối đang là một vấn đề lớn của các công ty nội địa khi mà tổng thị phần chỉ
chiếm khoảng 40%. Phần lớn các công ty nội địa quy mô nhỏ tiếp cận trực tiếp với các hộ
chăn nuôi nhỏ lẻ do vậy khả năng tiêu thụ không cao. Đi kèm với việc không ngừng cải thiện
và nâng cao chất lượng sản phẩm, các cơng ty nội địa nên tìm cách tiếp cận với các hộ chăn
nuôi trang trại quy mô lớn hơn, trực tiếp cấp tín dụng thức ăn chăn ni cho họ sẽ có mức chi
phí thấp hơn là thơng qua kênh phân phối. Cũng có thể sản xuất thức ăn chăn nuôi theo công
thức và yêu cầu riêng của trang trại đó. Trực tiếp lắng nghe ý kiến phản hồi của hộ chăn nuôi
về sản phẩm cũng là một lợi thế thay vì sử dụng kênh phân phối. Tuy nhiên phân phối qua các
kênh cũng là một hình thức chun mơn hóa theo chức năng và doanh nghiệp nội địa khơng
thể bỏ qua hình thức phân phối này. Nên có nhiều chính sách ưu đãi đối với kênh phân phối
để họ chấp nhận phân phối sản phẩm cho doanh nghiệp.
- Theo quyết định số 10/2008/QĐ T.Tg của Thủ tướng Chính phủ về việc quy hoạch lại
đàn gia súc và gia cầm đến năm 2020, nhà nước sẽ tiến hành giảm tỷ trọng đàn lợn trong khi đó sẽ
tăng tỷ trọng đàn gia cầm và gia súc khác. Quyết định này cũng xuất phát từ thực tế thói quen tiêu
dùng của người Việt Nam theo hướng khoa học hơn, tăng tỷ trọng thịt trắng (gia cầm) và giảm tỷ
trọng thịt đỏ (thịt lợn). Trong năm 2015, thịt lợn chiếm 73% nhu cầu về thịt, gia cầm chiếm 19%.
Kỳ vọng đến năm 2020, nhu cầu thịt gia cầm sẽ tăng lên 28%, thịt lợn sẽ giảm xuống còn 62%.
Xu hướng này khuyến khích cách doanh nghiệp nội địa nên tham gia nhiều hơn vào ngành sản
xuất thức ăn chăn nuôi gia cầm, thay vì tập trung chủ yếu cho đàn lợn như hiện nay.

Thịt lợn

Gia cầm

Hình 1.7: Cấu trúc thị trƣờng thịt
Việt Nam n m 2015 [5]

Loại khác

Hình 1.8: Cấu trúc thị trƣờng thịt
Việt Nam dự báo đến n m 2020 [5]

- Tăng cường sự tích hợp về phía trước và phía sau nhằm nâng cao khả năng cạnh
tranh trên thị trường. Hiện nay Việt Nam đã chủ động được một số nguyên liệu phục vụ sản

199


TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHỊNG

xuất thức ăn chăn ni với chi phí thấp hơn so với nhập khẩu từ các thị trường khác. Các
doanh nghiệp nội địa nên biến đổi điều này thành lợi thế, kí kết các hợp đồng bao tiêu nguyên
liệu dài hạn với người nông dân, chia sẻ kinh nghiệm và kĩ thuật canh tác, cập nhật giống mới
thông qua phối hợp giữa nông dân, doanh nghiệp và viện nghiên cứu. Chia sẻ các lợi ích xứng
đáng để người nơng dân gắn bó lâu dài với vùng nguyên liệu. Đặc trưng của các doanh nghiệp
nội địa là quy mơ nhỏ, vì vậy các doanh nghiêp có thể kết nối với nhau thơng qua mơ hình từ
sản xuất thức ăn chăn nuôi, lai tạo con giống, chăn nuôi và chế biến thực phẩm với định
hướng thực phẩm sạch dựa trên nguyên liệu sạch trong bối cảnh vệ sinh an toàn thực phẩm
đáng báo động như hiện nay, hứa hẹn đây là một mơ hình kinh doanh giúp các doanh nghiệp
nội địa tìm được một hướng đi mới.
5.2. Các kiến nghị về mặt chính sách đối với các cơ qu n quản lý nhà nước nhằm
khuyến khích ngành cơng nghiệp thức ăn chăn nu i phát triển
Khuyến nghị về mặt chính sách đối với các cơ quan quản lý nhà nước tập trung vào
các chính sách khuyến khích phát triển vùng nguyên liệu và ngành công nghiệp phụ trợ hỗ trợ
ngành chế biến thức ăn chăn nuôi, tạo hành lang pháp lý thơng thống cho các doanh nghiệp
nhập khẩu nguyên liệu thức ăn chăn nuôi, hỗ trợ doanh nghiệp vay vốn, bảo vệ lợi ích người
chăn ni, cụ thể:
- Khuyến khích phát triển vùng nguyên liệu phục vụ ngành chế biến thức ăn chăn ni,
trong đó tập trung vào các nguyên liệu cơ bản mà điều kiện khí hậu Việt Nam có thể trồng được

như: ngơ, đỗ tương, cám gạo, sắn. Đối với cây ngô, cần phối hợp với các viện nghiên cứu về
cây trồng thuộc bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để nghiên cứu và áp dụng các giống
ngô biến đổi gen cho năng suất cao. Mở rộng diện tích trồng ngơ về phía các đồng bằng thay vì
trồng rải rác ở các tỉnh trung du và miền núi như hiện nay. Đối với cây đậu nành, nghiên cứu
các giống đậu nành mới phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng của Việt Nam, có thể trồng xem
canh bộ ba cây trồng biến đổi gen bao gồm ngơ, bơng và đậu nành để tăng năng suất. Khuyến
khích và tạo điều kiện để người nông dân dồn điền đổi thửa, trông các cây nguyên liệu này trên
quy mô lớn, hướng dẫn cách chăm sóc, thu hoạch và bảo quản nguyên liệu.
- Tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp nước ngồi tham gia vào ngành cơng nghiệp
phụ trợ hỗ trợ cho ngành chế biến thức ăn chăn nuôi. Hiện nay các chất phụ gia, bột thịt, bột
cá…….dùng trong sản xuất thức ăn chăn nuôi chủ yếu được nhập khẩu từ thị trường nước
ngồi, đầu tư vào ngành cơng nghiệp này địi hỏi cơng nghệ cao và doanh nghiệp trong nước
chưa thể tham gia được. Do vậy nhà nước cần có các chính sách đầu tư ưu đãi hơn như ưu đãi
về thuế hoạt động kinh doanh tại việt nam, vị trí kinh doanh, thủ tục……nhằm khuyến khích
các doanh nghiệp nước ngoài mạnh trong chế biến phụ gia thức ăn chăn nuôi tham gia thị
trường, chia sẻ công nghệ và kinh nghiệm với các doanh nghiệp trong nước. Tiến tới tự sản
xuất được các chất phụ gia phục vụ ngành.
- Hỗ trợ tín dụng cho các doanh nghiệp nội địa có kết quả kinh doanh tốt với mức lãi
suất ưu đãi. Sản phẩm của doanh nghiệp được người nông dân đánh giá tốt, không vi phạm
đạo đức kinh doanh, sản phẩm xuất khẩu ra thị trường nước ngoài…..Sự hỗ trợ tín dụng này
sẽ cho phép doanh nghiệp có thể đổi mới dây chuyền cơng nghệ, nâng cấp phịng nghiên cứu,
mở rộng quy mơ sản xuất….từ đó cải thiện được khả năng cạnh tranh.
- Tăng thuế nhập khẩu đối với những nguyên liệu mà trong nước đã sản xuất được và giảm
thuế nhập khẩu đổi với những nguyên liệu mà trong nước chưa thể chủ động nhằm khuyến khích
ngành cơng nghiệp phụ trợ thức ăn chăn nuôi phát triển được. Nhà nước cần áp mức thuế cao với
những nguyên liệu đã chủ động được như cám gạo và sắn, trong khi đó giảm thuế nhập khẩu với
nguyên liệu phụ gia là nguyên liệu chưa tự cung cấp được, để từ đó giảm mức giá bán thức ăn chăn
ni trên thị trường.
- Rút ngắn các thủ tục nhập khẩu nguyên liệu thức ăn chăn nuôi nhằm tiết kiệm thời
gian và chi phí cho các doanh nghiệp. Hiện nay Bộ Nơng nghiệp và Phát triển Nông thôn phối

hợp với Bộ Công thương đã có quy định cụ thể với những loại nguyên liệu được phép nhập
khẩu do vậy đối với những loại nguyên liệu được phép và có cùng một nguồn gốc xuất xứ mà

200


TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG

cơ quan Hải quan đã tiến hành đánh giá chất lượng một số lần nhất định thì khơng nhất thiết
phải đánh giá chất lượng trong những lần tiếp theo. Ngồi ra nên số hóa các thủ tục này để tiết
kiệm thời gian xử lý hồ sơ cho doanh nghiệp nhập khẩu.
- Quản lý chặt chẽ giá bán thức ăn chăn nuôi trên thị trường nhằm bảo vệ lợi ích cho
người nơng dân. Ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi Việt Nam là ngành phát triển năng động,
với mức tăng trưởng 18 đến 20%/ năm, giá bán thức ăn chăn nuôi được đánh giá cao hơn tại
các nước khác từ đó gây áp lực lên người nơng dân. Tại Thái Lan, chính Phủ quy định lợi
nhuận thức ăn chăn nuôi không được vượt quá 5% giá bán, do vậy đã đến lúc cơ quan quản lý
nhà nước cần có các biện pháp quản lý giá với loại sản phẩm này nhằm bảo vệ nơng dân là
nhóm người dễ bị tổn thương.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT
[1] Nguyễn Đức Hải (2017), Hồn thiện chính sách phát triển ngành cơng nghiệp thức ăn
chăn ni của Việt Nam, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 33,
Số 1 92-99.
[2] Nguyễn Văn Giáp (2015), Thị trường chăn nuôi Việt Nam, thay đổi để nâng cao cạnh
tranh, Nhà xuất bản Hồng Đức.
[3] />TIẾNG ANH
[4] Bocquillet X. (2014), Multi-sc4ale assessment of livestock development pathways in
Vietnam.
[5] Stoxplus research team (2016), Vietnam‟s animal feed industry report.
[6] />SOLUTIONS FOR DEVELOPING VIETNAM’S ANIMAL FEED INDUSTRY IN

CONTEXT OF 4.0 INDUSTRIAL REVOLUTIONARY
ABSTRACT
This journal focuses on explaining the attraction of Vietnam’s animal feed market, the
structrure of industry and the firms taking participate in industry, The scale and level of
integration of international enterprises into the market While Vietnam economy is integrating
widenly and deeply into the global economy, the competitive affects of foreign firms to
domestic firms which include: input resources, production technology, and distribution
channel. Basing on these statistic aspects, author discusses few solutions for domestic
companies and policies for state agencies to motivate the sustainable development of the
industry.
Keywords: animal feed, integration, market potential, raw material, distribution
channel….

201



×