Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Xây dựng hệ thống đề mở trong dạy học nghị luận văn học nhằm phát triển năng lực sáng tạo cho học sinh lớp 10 trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.53 MB, 82 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

NGUYỄN THỊ PHƯƠNG

XÂY DỰNG HỆ THỐNG ĐỀ MỞ TRONG DẠY HỌC NGHỊ
LUẬN VĂN HỌC NHẰM PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC SÁNG TẠO
CHO HỌC SINH LỚP 10 TRUNG HỌC PHỔ THƠNG

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
NGÀNH SƯ PHẠM NGỮ VĂN

Hà Nội – 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

XÂY DỰNG HỆ THỐNG ĐỀ MỞ TRONG DẠY HỌC NGHỊ
LUẬN VĂN HỌC NHẰM PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC SÁNG TẠO
CHO HỌC SINH LỚP 10 TRUNG HỌC PHỔ THƠNG
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
NGÀNH SƯ PHẠM NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học: TS Dương Tuyết Hạnh
Sinh viên thực hiện khóa luận: Nguyễn Thị Phương

Hà Nội – 2018


LỜI CẢM ƠN


Để có được kết quả nghiên cứu này, tơi xin gửi lời cảm ơn chân thành
và lịng biết ơn sâu sắc đến TS. Dương Tuyết Hạnh, người hướng dẫn khoa
học đã tận tình chỉ bảo, động viên, khích lệ tơi trong suốt q trình thực hiện
đề tài.
Tơi cũng xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo, cán bộ quản lý của
trường Đại học Giáo dục - Đại học Quốc gia Hà Nội đã nhiệt tình giảng dạy,
tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu. Xin
gửi lời cảm ơn tới Ban giám hiệu và tổ chuyên môn Ngữ văn, trường THPT
Tây Hồ, bạn bè cùng những người thân trong gia đình đã giúp đỡ, tạo điều
kiện để tơi hồn thành khóa luận này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, nhưng khóa luận khó tránh khỏi thiếu sót.
Tơi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của các thầy cơ giáo
và các bạn đồng nghiệp để hồn thiện đề tài nghiên cứu này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2018

Tác giả

Nguyễn Thị Phương


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt

STT


Chữ viết đầy đủ

1

ĐC

Đối chứng

2

GV

Giáo viên

3

HS

Học sinh

4

KTĐG

Kiểm tra đánh giá

5

LL&PPDH


Lý luận và phương pháp dạy học

6

NL

Năng lực

7

NLVH

Nghị luận văn học

8

PPDH

Phương pháp dạy học

9

SBD

Số báo danh

10

TC


Tiêu chí

11

TK

Thế kỷ

12

TN

Thực nghiệm

13

THPT

Trung học phổ thơng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 5
5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 6
6. Cấu trúc của khóa luận .................................................................................. 7
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC XÂY DỰNG
HỆ THỐNG ĐỀ MỞ TRONG DẠY HỌC NGHỊ LUẬN VĂN HỌC NHẰM

PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC SÁNG TẠO CHO HỌC SINH LỚP 10 THPT .. 8
1.1. Đề mở ......................................................................................................... 8
1.1.1. Quan niệm về đề mở ............................................................................... 8
1.1.2. Phân loại đề mở ..................................................................................... 10
1.2. Năng lực sáng tạo ..................................................................................... 12
1.2.1. Năng lực sáng tạo .................................................................................. 12
1.2.1. Cơ sở tâm lý của HS lớp 10 THPT ....................................................... 17
1.3. Ưu thế của đề mở trong việc phát triển năng lực sáng tạo cho HS lớp 10
THPT ............................................................................................................... 19
1.3.1. Đề mở giúp phát triển năng lực tư duy sáng tạo ................................... 19
1.3.2. Đề mở giúp phát triển năng lực liên tưởng, tưởng tượng ..................... 20
1.3.3. Đề mở giúp phát triển năng lực diễn đạt sáng tạo ................................ 21
1.4.2. Vấn đề xây dựng và sử dụng đề mở trong dạy học nghị luận văn học
nhằm phát triển năng lực sáng tạo cho HS lớp 10 THPT ............................... 26
1.4.3. Nguyên nhân ......................................................................................... 27
CHƯƠNG 2: ĐỀ XUẤT XÂY DỰNG HỆ THỐNG ĐỀ MỞ TRONG DẠY
HỌC NGHỊ LUẬN VĂN HỌC NHẰM PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC SÁNG
TẠO CHO HỌC SINH LỚP 10 THPT ........................................................... 29


2.1. Nguyên tắc xây dựng đề mở trong dạy học nghị luận văn học nhằm phát
triển năng lực sáng tạo cho HS lớp 10 THPT ................................................. 29
2.1.2. Đảm bảo tính phù hợp ............................................................................................................ 32
2.1.3. Đảm bảo tính giáo dục, phát triển .......................................................................................... 33
2.1.4. Đảm bảo tính thẩm mĩ ............................................................................................................ 34
2.2. Đề xuất quy trình xây dựng đề mở trong dạy học nghị luận văn học nhằm phát triển năng lực
sáng tạo cho HS lớp 10 THPT ......................................................................................................... 35
2.2.1. Xác định mục đích của việc ra đề .......................................................................................... 35
2.2.2. Hệ thống hóa, sàng lọc các nội dung kiến thức và kĩ năng phù hợp với đối tượng ra đề....... 36
2.2.3. Thiết kế đề thi, đề kiểm tra..................................................................................................... 37

2.2.4. Biên soạn đáp án và thang điểm............................................................................................. 38
2.2.5. Sửa chữa, hoàn thiện .............................................................................................................. 49
CHƯƠNG 3: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM .................................................................................... 51
3.1. Mục đích thực nghiệm .............................................................................................................. 51
3.2. Thời gian và đối tượng thực nghiệm ......................................................................................... 51
3.2.1. Thời gian thực nghiệm ........................................................................................................... 51
3.2.2. Đối tượng thực nghiệm .......................................................................................................... 52
3.3. Quy trình thực nghiệm .............................................................................................................. 52
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ .................................................................................................. 69
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................................ 72
PHỤ LỤC......................................................................................................................................... 74


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Những đổi thay khơng ngừng của xã hội theo xu hướng tồn cầu hố và
sự phát triển của khoa học, kĩ thuật hiện đại là những thách thức lớn cho giáo
dục trong việc phát triển nguồn nhân lực có tri thức cao, thơng minh và sáng
tạo. Đổi mới quy trình, chương trình đào tạo và phương pháp dạy học (PPDH)
là những vấn đề thời sự của tất cả hệ thống giáo dục. Rất nhiều các PPDH
mới được thử nghiệm nhằm đào tạo những người lao động có bản lĩnh, có
năng lực chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, sẵn sàng thích ứng với
những đổi thay của xã hội hiện đại… Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng
tạo của học sinh trong hoạt động tập thể để tự phát hiện, tự giải quyết các vấn
đề trong học tập và trong cuộc sống được quan tâm hơn lúc nào hết; từ đó,
người học tự chiếm lĩnh và vận dụng các kiến thức và kĩ năng cơ bản dưới sự
tổ chức và hướng dẫn của giáo viên (GV).
Trong dạy học Ngữ văn, việc xây dựng hệ thống câu đề, đặc biệt là đề
mở là một đòi hỏi quan trọng, quyết định lớn đến chất lượng dạy và học. Đề
mở giúp cho học sinh (HS) chiếm lĩnh tác phẩm, hình thành ở các em một

phương pháp tự tìm hiểu, phám phá, liên hệ, cảm nhận tác phẩm văn chương;
đồng thời, đề mở cịn có vai trị trong khâu cuối cùng của quá trình dạy học –
khâu kiểm tra đánh giá (KTĐG) kết quả học tập. Muốn đào tạo những con
người chủ động, sáng tạo, bản lĩnh, dạy học nói chung, dạy học Ngữ văn nói
riêng cần phải đổi mới PPDH, khơng thể duy trì phương pháp truyền thống,
áp đặt, cung cấp kiến thức nặng nề. Đã đến lúc dạy học cần một phương pháp
khoa học. Dạy học Ngữ văn trong nhà trường phổ thông cần lấy hoạt động
của HS làm trung tâm. Theo đó, một tác phẩm văn chương được tiếp cận từ
hai phía: người dạy và người học; nói cách khác, tác phẩm văn chương được
nhìn ở ba điểm nhìn khác nhau: nhà văn – giáo viên – học sinh. Vậy nhiệm vụ
của giờ văn là phải tạo được sự tương tác của ba chủ thể đó.
1


Việc đổi mới kiểm tra đánh giá (KTĐG) môn Ngữ văn đã và đang
đươc ̣ tiến hành trong thời gian vừa qua và hứa hẹn ̣ sẽ có những thay đổi rõ
nét hơn sau năm 2018. Theo đó, các đề mở/ câu hỏi mở xuất hiên ̣ ngày càng
nhiều trong các kì thi quan trọng. Đây là một trong những công cụ hữu hiệu
để đánh giá NL sáng tạo của người học. Tuy nhiên trên thực tế GV chưa có
cách hiểu thống nhất về đề mở và chưa có kĩ năng xây dựng đề mở khoa học,
phù hợp với yêu cầu phát triển NL cho HS. Nghiên cứu để có những biện
pháp thiết kế đề mở hợp lí, giúp HS thích ứng đươc ̣ với các dạng đề mở khác
nhau… là nhiệm vu ̣của mỡi GV. Xuất phát từ địi hỏi của xã hội , từ yêu cầu
đổi mới PPDH và KTĐG môn Ngữ văn; với mong muốn phát triển NL sáng
tạo cho HS lớp 10 để nâng cao hiệu quả dạy học… chúng tôi lựa chọn nghiên
cứu đề tài: Xây dựng hệ thống đề mở trong dạy học nghị luận văn học
nhằm phát triển năng lực sáng tạo cho HS lớp 10 THPT.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Những nghiên cứu về đề mở trong môn Ngữ văn
Đổi mới cách ra đề thi ở môn Ngữ văn là một nội dung đã được nhắc

tới từ lâu, ít nhất là gắn liền với chương trình và SGK Ngữ văn từ năm 2006.
Trong Hệ thống đề mở Ngữ văn lớp 10, sau khi tiến hành khảo sát các đề thi/
đề kiểm tra trong SGK Ngữ văn từ năm 2000 đến nay, các tác giả đã đi đến
nhận định: Điều đổi mới đáng ghi nhận nhất là việc tăng cường ra các đề
theo dạng mở đã kích thích được nhiều sự suy nghĩ độc lập, độc đáo và sáng
tạo của HS. Cũng trong cuốn sách này, các tác giả đã trình bày một số vấn đề
liên quan đến ưu điểm và hạn chế của đề mở: Cái hay của dạng đề mở là
phân hóa được HS rất rõ, người viết bài khó mà chép được văn mẫu, phải tự
mình suy nghĩ và viết ta những ý nghĩ của chính mình… Điểm hạn chế của
dạng đề này là ở chỗ khá khó đối với HS có lực học trung bình. GV chấm bài
cũng phải rất vững tay vì đáp án khó làm cho rõ ràng, rành mạch.
Về đề mở trong môn Ngữ văn, không thể không kể tới những nghiên cứu
2


của tác giả Đỗ Ngọc Thống. Trong cuốn Tài liệu chuyên Văn, tác giả có bài
Đề mở - nhận diện và cách làm bài. Nội dung của bài viết đã xác lập một
cách hiểu về đề mở, trình bày những vấn đề liên quan đến đề mở gắn với thực
tiễn KTĐG và những có những gợi ý khá cụ thể về cách thực hiện một đề mở
trong môn Ngữ văn.
Từ góc nhìn của những người xây dựng chương trình SGK Ngữ văn,
Trần Đình Sử có bài viết Đề mở trong dạy học làm văn (2012). Bài viết
đãtrình bày một số quan điểm của tác giả về đề mở và những khó khăn cần
khắc phục để phát huy những ưu điểm của dạng đề này trong dạy học và
KTĐG môn Ngữ văn. Tác giả cho rằng: Đề mở là một hướng tiến bộ trong
dạy học làm văn, những vẫn đang là một vấn đề mới, chưa được nghiên cứu
sâu, cịn có những khía cạnh chưa rõ, phải qua thực tiễn thì mới nhìn thấy hết
được. Vấn đề này địi hỏi các GV nghiên cứu, suy nghĩ, nhìn thấy chỗ mạnh,
chỗ khó, thậm chí chỗ yếu của nó, nghiên cứu PPDH phù hợp thì phương
hướng này mới phát huy được tác dụng tích cực của nó.

Trong thực tế, đã có một số nghiên cứu tìm hiểu các biện pháp nâng
cao chất lượng của các đề làm văn được ra theo hướng mở, khắc phục những
ngộ nhận liên quan đến dạng đề này. Tác giả Ngô Văn Nghĩa trong LV thạc sĩ
Định hướng ra đề làm văn theo hướng mở ở cấp THPT đã đóng góp một số
hướng ra đề mở mơn Văn ở cấp THPT. Xem đề mở, câu hỏi mở không chỉ là
phương tiện để đo lường, đánh giá chất lượng học tập của HS mà còn là một
dạng phương tiện dạy học, tác giả Trịnh Thị Ngọc Thúy trong LV Thạc sĩ
Xây dựng hệ thống câu hỏi mở trong dạy học Ngữ văn THP đi sâu
nghiên cứu về cách thức xây dựng những câu hỏi có tính chất gợi mở và việc
ứng dụng những câu hỏi này trong quá trình dạy học Ngữ văn.
2.2. Những nghiên cứu về vấn đề phát triển NL sáng tạo cho HS
Ở Việt Nam, nghiên cứu về lĩnh vực sáng tạo có thể kể đến một số nhà
nghiên cứu tiêu biểu như: Hoàng Chúng, Nguyễn Cảnh Toàn, Vũ Dương
3


Thụy, Tơn Thân, Trần Thị Bích Liễu… Các cơng trình nghiên cứu về sáng tạo
chủ yếu tập trung vào hai mảng là: tâm lý học và lý luận dạy học. Ở mảng lý
luận dạy học, có các cơng trình khoa học tiêu biểu như: Tác giả Hoàng Chúng
trong cuốn Rèn luyện khả năng sáng tạo toán học ở nhà trường phổ thông ,
đã tập trung nghiên cứu vấn đề rèn luyện cho HS phát triển các phương
pháp suy nghĩ cơ bản trong sáng tạo tốn học như đặc biệt hóa, tổng quát hóa,
tương tự hóa và cho rằng các phương pháp này có thể vận dụng trong giải để
mở rộng, đào sâu và hệ thống hóa kiến thức. Tác giả Nguyễn Cảnh Tồn
trong Tập cho HS giỏi tốn làm quen dần với nghiên cứu toán học đã
đặt trọng tâm vào việc rèn luyện khả năng “phát hiện vấn đề”, rèn luyện tư
duy sáng tạo và khả năng tìm tịi “cái mới”… Tuy nhiên đúng như tác giả
Nguyễn Huy Tú nhận định: “nhìn chung, việc nghiên cứu về tính sáng tạo ở
nước ta mới chỉ là manh nha. Điều này tất yếu gây những hạn chế nhất định
đến chất lượng GD&ĐT”

Nội dung dạy học và KTĐG trong môn Ngữ văn theo định hướng phát
triển NL đã được nhắc tới khá nhiều, nhất là trong thời gian gần đây; song
những cơng trình nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề phát triển NL sáng tạo cho
HS trong mơn Ngữ văn thì rất hạn chế. Cuốn sách Dạy học phát triển NL
sáng tạo cho HS phổ thông: Lý thuyết và thực hành của tác giả Trần Thị
Bích Liễu là một trong số ít đầu sách có dành một phần nội dung đề cập đến
vấn đề phát triển NL sáng tạo cho HS trong môn Ngữ văn. Tuy vậy, phần nội
dung này lại chủ yếu được cụ thể hóa thơng qua việc hướng dẫn GV thiết kế
giáo án để phát triển NL sáng tạo cho HS, chứ không đề cập đến vấn đề
KTĐG, nhất là việc ra đề mở môn Văn nhằm phát triển NL sáng tạo. Trong
bài viết Xác định cấu trúc và đường phát triển một số NL trong môn học
Ngữ văn ở trường phổ thông, tác giả Nguyễn Thị Hồng Vân đã nghiên cứu
về các thành tố cấu trúc của NL thâm mỹ và NL sáng tạo; qua đó phác thảo
đường phát triển của các NL này. Đây là nghiên cứu có ý nghĩa thiết thực
trong việc cụ thể hóa những biểu hiện của NL sáng tạo văn học ở HS. Tuy
4


vậy, đúng như tác giả nhận định: Nghiên cứu mới là những phác thảo ban đầu
mang tính minh họa về cách thức xác định cấu trúc và đường phát triển một
số năng lực cốt lõi trong mơn học Ngữ văn.
Tóm lại:
Từ việc khảo sát các cơng trình nghiên cứu liên quan đến đề tài… có thể
thấy: Đã có nhiều nghiên cứu về đề mở, song chủ yếu mới dừng lại ở việc nêu
nhận định về ưu điểm và hạn chế của đề mở so với đề truyền thống và một số
gợi ý cho việc ra đề mở và thực hiện đề mở. Các cơng trình nghiên cứu về vấn
đề phát triển NL sáng tạo cho HS mơn Ngữ văn nói riêng… nhìn chung cịn
ít. Đặc biệt, chưa có cơng trình nghiên cứu nào đi sâu tìm hiểu về các biện
pháp xây dựng đề mở gắn với mục tiêu phát triển NL sáng tạo cho người học,
nhất là với HS lớp 10 THPT.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý luận về đề mở, đề xuất hướng biên soạn hệ
thống đề mở trong dạy học nghị luận văn học nhằm phát triển năng lực sáng
tạo cho HS lớp 10 THPT
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn hướng đến làm rõ những vấn đề sau:
- Tìm hiểu và khái quát những vấn đề lý luận cơ bản về đề mở, ưu thế
của đề mở trong dạy học nghị luận văn học trong việc phát triển NL sáng tạo
cho HS lớp 10 THPT.
- Xác định các nguyên tắc xây dựng đề mở trong dạy học nghị luận
văn học mơn Ngữ văn, đề xuất quy trình xây dựng đề mở nhằm phát triển NL
sáng tạo cho HS lớp 10 THPT.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Vấn đề xây dựng hệ thống đề mở trong dạy học nghị luận văn học,
nhằm phát triển NL sáng tạo cho HS lớp 10 THPT

5


4.2. Phạm vi nghiên cứu
Vì NL nói chung và NL sáng tạo nói riêng của HS được thể hiện rõ
nhất thông qua các hoạt động học tập; nên trong đề tài này chúng tôi chủ
trương nghiên cứu việc xây dựng hệ thống đề mở gắn liền với hoạt động dạy
học và KTĐG nhằm đánh giá được mức độ phát triển NL sáng tạo ở HS lớp
10 THPT không chuyên.
Để dễ dàng thực hiện việc nghiên cứu và kiểm chứng về hiệu quả của
đề mở trong việc phát triển NL sáng tạo cho HS; chúng tôi lựa chọn phạm vi
nghiên cứu thực tiễn là hoạt động dạy học của GV và HS lớp 10 trường THPT

Tây Hồ, Hà Nội.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong q trình thực hiện luận văn, chúng tơi đã sử dụng một số phương
pháp nghiên cứu sau đây:
5.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận
Để thấy rõ ưu thế của đề mở trong hoạt động dạy học và KTĐG môn
Văn, nhất là với mục tiêu phát triển NL sáng tạo cho đối tượng HS lớp 10;
chúng tôi tiến hành tập hợp tư liệu liên quan đến đề mở, vấn đề phát triển NL
sáng tạo cho HS lớp 10. Trên cơ sở tổng hợp những tài liệu đã có, chúng tôi
nêu quan điểm về nguyên tắc biên soạn đề mở và đề xuất biện pháp thiết kế
đề mở trong dạy học nghị luận văn học nhằm phát triển NL sáng tạo cho HS
lớp 10 THPT
5.2. Phương pháp điều tra
Chúng tôi sử dụng bảng hỏi in sẵn các câu hỏi liên quan đến đặc điểm
tâm lý, trí tuệ, NL học tập, khả năng xử lý đề thi… của HS lớp 10 và thực
hiện việc trưng cầu ý kiến của các Thầy/ Cô giáo đang trực tiếp giảng dạy
môn Ngữ văn ở trường THPT. Đồng thời tổ chức trưng cầu ý kiến của HS lớp
10 về đề mở và việc thực hiện đề mở. Để xử lý dữ liệu: Chúng tôi dùng
phương pháp thống kê – phân loại, so sánh – đối chiếu, tổng hợp… sau khi
6


đưa ra các chỉ số cụ thể và phân tích các chỉ số đó.
5.3. Phương pháp thực nghiệm
Trong q trình thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng phương pháp thực
nghiệm trên hai nhóm HS lớp 10 THPT với hai dạng đề kiểm tra môn Văn
(dạng đề truyền thống và đề mở). Trong đó:
- Nhóm đối tượng thực nghiệm thực hiện bài kiểm tra với đề mở
- Nhóm đối chứng có cùng trình độ, thực hiện bài kiểm tra với dạng đề
truyền thống.

6. Cấu trúc của khóa luận
Ngồi các phần mở đầu, kết luận, tư liệu tham khảo, phụ lục; nội dung đề
tài của chúng tôi được cấu tạo gồm có ba chương:
- Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
- Chương II: Đề xuất biện pháp xây dựng hệ thống đề mở trong dạy học
nghị luận văn học nhằm phát triển NL sáng tạo cho HS lớp 10 THPT
- Chương III: Thực nghiệm sư phạm

7


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC XÂY
DỰNG HỆ THỐNG ĐỀ MỞ TRONG DẠY HỌC NGHỊ LUẬN VĂN
HỌC NHẰM PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC SÁNG TẠO CHO HỌC SINH
LỚP 10 THPT
1.1. Đề mở
1.1.1. Quan niệm về đề mở
Khái niệm đề mở, xét về nguồn gốc, có thể liên quan đến tên goị của
một dạng bài kiểm tra ở nước Mỹ . Đó là dạng Test/examination with open
books, open notes (bài kiểm tra cho phép được mở sách vở); phân biệt với
dạng Test/examination with closed books, closed notes (kiểm tra không được
mở sách, mở vở).
Sau này, khái niệm đề mở được hiểu mở rộng hơn ý nghĩa là một loại
đề cho phép mở tài liệu khi làm bài . Chữ mở trong đề mở có thể được hiểu
như là một đặc điểm, một phẩm chất của đề; nó quy định sự khác nhau giữa
đề mở và đề truyền thống (cịn gọi là đề đóng). Nếu đề truyền thống là những
đề bài có yêu cầu cụ thể về nội dung, cách thức thực hiện, phạm vi tư liệu; thì
đề mở là dạng đề chỉ có những gợi dẫn nhất định, tùy theo từng trường hợp
HS được tự lựa chọn vấn đề, cách triển khai hoặc nguồn tư liệu để thực hiện
đề bài một cách hiệu quả nhất theo quan điểm của mình.

Nhận định về đề mở, tác giả Đinh Văn Thiện (2015) cho rằng: Đề mở
khơng cịn bị đóng khung một cách cứng nhắc vào một số câu, chữ, một số tác
phẩm trong chương trình quy định, cũng khơng bị gị bó vào mơṭ vài quan
điểm, nhận định có sẵn mn thuở đối với những tác phẩm học trích ấy.
Trong cuốn Hê ̣ thống đề mở Ngữ văn 10, tác giả Đỗ Ngọc Thống và
cộng sự từ phương diện hình thức cũng nêu quan niệm về đề mở như sau: Đề
mở là loại đề chỉ nêu vấn đề cần bàn luận trong bài nghị luân ̣ hoăc ̣ chỉ nêu
đề tài để viết văn tự sư,̣ miêu tả… không nêu mệnh lệnh gì về thao tác lập
8


luận như kiểu: hãy chứng minh, hãy giải thích, hãy phân tích… hoặc phương
thức biểu đạt như: hãy kể, hãy phát biểu cảm nghĩ,…
Có thể thấy các quan niệm trên đều thống nhất ở chỡ đề cao tính khơng
hạn định của đề mở. Các nhà nghiên cứu đã nhìn nhận tính mở của đề mở ở
nhiều phương diện khác nhau, tùy thuộc vào tính chất và u cầu của kì thi/ kì
kiểm tra và của đối tượng làm bài. Cụ thể:
- Về nội dung: Đề mở là dạng đề mà nội dung có tính gợi mở cao,
khơng bị áp đặt vào một vấn đề bó buộc nào. Nội dung của đề mở có thể là
những vấn đề tương đối rộng, chứ không nhất thiết phải thuộc phần kiến thức
mà HS đã được học. Đề mở vì vậy cho phép đánh giá khả năng xâu chuỗi,
tổng hợp kiến thức từ nhiều nguồn, nhiều góc độ của HS; đồng thời kích thích
khả năng trình bày vấn đề theo ý hiểu và theo cá tính của người học.
- Về hình thức trình bày và quan điểm đánh giá: Đề mở có thể được diễn
đạt một cách mới mẻ qua những giả định bất ngờ, những cách diễn đạt lấp
lửng, đa nghĩa, mang tính gợi mở cao… Qua đó, đề mở thường được dùng với
mục đích KTĐG khả năng ứng xử, khả năng phản biện, khả năng vận dụng
sáng tạo của người học. Đề mở cũng có thể là loại đề được sử dụng cho nhiều
đối tượng HS. Tính mở ở đây thiên về khả năng đánh giá của đề với những
đối tượng khác nhau. Ví dụ: Theo thơng tin của Nguyễn Thị Hồng Vân, trong

kì đánh giá quốc gia của NAPLAN (Australia) năm 2009, tất cả HS các lớp 3,
5, 7, 9 đều làm cùng một đề kiểm tra viết như sau: Hôm nay chúng ta sẽ viết
một bài văn tự sự hoặc một truyện ngắn. Ý tưởng cho câu chuyện của bạn là
"Chiếc hộp". Cái gì đang nằm ở bên trong chiếc hộp? Làm thế nào để tìm ra
nó? Nó có giá trị hay khơng? Có thể nó là một vật sống! Trong hộp có thể
cịn xuất hiện một lời nhắn hoặc một vật gì đó rất bí ẩn. Cái gì sẽ xảy ra trong
câu chuyện bạn kể nếu chiếc hộp được mở ra? Với đề bài này, mỗi HS ở các
lớp khác nhau, các trình độ khác nhau đều có thể tưởng tượng, suy nghĩ và thể
hiện NL cá nhân trong khi viết bài theo gợi ý của đề bài. Mặc dầu sử dụng
chung một đề thi nhưng mức độ phân hóa rất rõ theo từng đối tượng.
9


Tóm lại:
Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau về đề mở, song điểm thống nhất
là các ý kiến đều khẳng định tính mở và ưu thế của đề mở so với các dạng đề
truyền thống. Tính mở của đề mở được quy định trên các phương diện:
(1) Nội dung: khơng bó buộc vào một vấn đề cụ thể hoặc chỉ nêu chủ
đề, HS phải tự xác định vấn đề .
(2) Thao tác lập luận: không bắt buộc HS thực hiện yêu cầu của đề
bằng các mệnh lệnh như: Hãy giải thích, hãy chứng minh, hãy bình luận…
mà cho các em được linh hoạt vận dụng các thao tác lập luận để làm sáng tỏ
vấn đề.
(3) Phạm vi tư liệu: không giới hạn trong một khuôn khổ nhất định, mà
cho phép HS có cơ hội huy động kiến thức từ nhiều nguồn khác nhau để làm
sáng tỏ yêu cầu của đề. Chính tính mở đã tạo ra ưu thế của đề mở so với đề
truyền thống: đề mở cho phép HS tự do, linh hoạt hơn khi xử lý yêu cầu của
đề bài. Nó trở thành mảnh đất gieo trồng cho những tư tưởng, quan điểm mới;
những cách diễn đạt/ khả năng thể hiện cái mới; những cách ứng xử linh hoạt,
nhạy bén của người học trước một vấn đề/ một tình huống được đặt ra.

1.1.2. Phân loại đề mở
Có nhiều cách để phân loại đề mở. Căn cứ về tính mở của đề trên các
phương diện về nội dung, thao tác thực hiện, phạm vi tư liệu; có thể nhận diện
đề mở trong môn Ngữ văn ở một số dạng như sau:
1.1.2.1. Đề mở về nội dung
Các đề có tính mở về nội dung thường chỉ nêu chủ đề, u cầu HS cụ
thể hóa thành một bài viết. Vì khơng thể hiện u cầu có tính chất áp đặt về
nội dung cụ thể cần triển khai, nên đề mở ở dạng này cho phép HS tự do phát
triển ý của bài viết một cách linh hoạt bằng quan điểm cá nhân. Hình thức của
các đề mở về phương diện nội dung khá phong phú.
Ví dụ: Từ đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” (trích Chinh
10


phụ ngâm) của Đoàn Thị Điểm. Em hãy viết một bài văn về số phận người
phụ nữ trong xã hội xưa.
1.1.2.2. Đề mở về thao tác
Đề mở về thao tác là những đề bài không ấn định cụ thể về cách thức
thực hiện bài viết bằng những mệnh lệnh như: Hãy chứng minh, hãy giải
thích, hãy bình luận…
Với những đề mở này, HS có thể tự do lựa chọn thao tác lập luận và các
phương thức biểu đạt phù hợp để làm bài. Các em cũng có thể sử dụng kết
hợp nhiều thao tác lập luận khác nhau để tăng tính thuyết phục cho bài viết.
Ví dụ:

Nhân vật Thúy Kiều (Trao duyên, Truyện Kiều – Nguyễn Du)

trong suy nghĩ của em
Với những đề mở này, HS có thể tự do lựa chọn thao tác lập luận và các
phương thức biểu đạt phù hợp để làm bài. Các em cũng có thể sử dụng kết

hợp nhiều thao tác lập luận khác nhau để tăng tính thuyết phục cho bài viết.
1.1.2.3. Đề mở về phạm vi tư liệu
Đề mở về phạm vi tư liệu là những đề bài không khoanh vùng tư liệu cụ
thể mà HS cần sử dụng để thực hiện bài viết. Với đặc điểm này, các đề bài sẽ
trao cho HS cơ hội được tự huy động, lựa chọn những tri thức từ nhiều nguồn
khác nhau để triển khai bài viết.
Ví dụ: Sức sống của một tác phẩm văn học mà anh/chị u thích.
Với đề bài trên, HS có thể lựa chọn một tác phâm văn học bất kì (trong
hoặc ngồi chương trình, thuộc bộ phận văn học dân gian hoặc văn học viết,
tác phâm văn học Việt Nam hoặc tác phâm văn học nước ngoài…) để làm
sáng tỏ yêu cầu của đề bài.
Lưu ý: Trong thực tế, có những đề mở mang tính chất giao thoa của cả
3 dạng trên. Đó là những đề bài vừa cho phép HS được triển khai bài viết
bằng nhận thức của bản thân, vừa khơng bó buộc về cách thức trình bày văn
bản. Với những cách hỏi đa dạng như: Viết tiếp một câu chuyện còn dang dở,
11


viết lại câu chuyện từ vai một nhân vật nào đó, trình bày cảm nghĩ về một bức
tranh… các đề này đã tạo không gian mở tối đa cho HS phát huy NL văn học
của mình.
*Tóm lại:
Sự phong phú, đa dạng về nội dung và hình thức của đề mở là một tín
hiệu khả quan trong hoạt động dạy học và KTĐG mơn Ngữ văn. Sự đa dạng
đó là bảo hiểm cho sáng tạo, có khả năng khơi gợi hứng thú của cả GV và HS.
Đề mở không chỉ tạo điều kiện cho HS phát huy những NL chuyên biệt như
cảm thụ, phân tích, lí giải và đánh giá các hiện tượng văn học; rèn luyện cho
các em cách thức và quy trình tạo lập văn bản; mà cịn phát triển NL sáng tạo
cho các em trong quá trình làm bài. Việc ra đề mở vì thế trở thành một xu thế
tất yếu trong dạy học Ngữ văn hiện nay.

1.2. Năng lực sáng tạo
1.2.1. Năng lực sáng tạo
1.2.1.1. Năng lực sáng tạo nhìn từ góc độ tâm lý học
* Năng lực
Năng lực là một khái niệm có nguồn gốc từ tiếng Latinh “competentia”.
Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về năng lực.
Theo Từ điển Tiếng Việt, năng lực là: Khả năng, điều kiện chủ quan
hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó; Phẩm chất tâm lý và
sinh lý tạo cho con người khả năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với
chất lượng cao.
Nghiên cứu về năng lực ở bình diện tâm lý học, Trần Việt Dũng (2013)
cho rằng: Năng lực là tập hợp các tính chất hay phẩm chất của tâm lý cá
nhân, đóng vai trị là điều kiện bên trong, tạo thuận lợi cho việc thực hiện tốt
một dạng hoạt động nhất định (…); là tổ hợp các thuộc tính độc đáo của cá
nhân phù hợp với những yêu cầu của hoạt động nhất định, đảm bảo cho hoạt
động đó có kết quả tốt”
12


Như vậy: Năng lực là khả năng thực hiện, làm việc dựa trên hiểu biết
chắc chắn, kĩ năng thuần thục và thái độ phù hợp; là những kiến thức, kĩ năng
và các giá trị được phản ánh trong thói quen suy nghĩ và hành động của mỗi
cá nhân. Khác với “tiềm năng”, “năng lực” chủ yếu hiện ra trong hiện thực
chứ không phải ở dạng tiềm tàng. Khác với “khả năng” nói chung, “năng lực”
là “một mức độ nhất định của khả năng con người, biểu thị ở việc hoàn thành
có kết quả một hoạt động nào đó”. “Năng lực” cũng khơng giống “tài năng”
vì “tài năng” là mức độ năng lực cao hơn, biểu thị sự hoàn thành một cách
sáng tạo một hoạt động nào đó và càng khác với “năng khiếu” – khả năng sẵn
có, có tính bâm sinh. Cịn so với “kĩ năng”, “năng lực” lại có phạm vi nghĩa
rộng hơn, “năng lực” bao gồm khả năng đáp ứng các yêu cầu phức tạp dựa

trên việc huy động cả kĩ năng và thái độ trong một hoàn cảnh cụ thể. Gắn với
hoạt động giáo dục, có thể thấy: Năng lực chính là đích đến cuối cùng, là mục
tiêu mà giáo dục cần hướng đến.
* Sáng tạo
Sáng tạo là một yếu tố đặc trưng của con người trong hoạt động nhận
thức. Đó là một trong các phâm chất của trí tuệ. Theo những nghiên cứu của
Trần Thị Bích Liễu trong cuốn sách Giáo dục phát triển năng lực sáng tạo
(2016): Đã có nhiều nghiên cứu đề cập đến sáng tạo. Tác giả Henry Gleiman
cho rằng: Sáng tạo, đó là năng lực tạo ra những giải pháp mới hoặc duy nhất
cho một vấn đề thực tiễn và hữu ích. F.Raynay và A.Rieunier cũng khẳng
định: Tính sáng tạo là năng lực tưởng tượng nhanh, nhiều lời giải độc đáo khi
đối đầu với một vấn đề.
Cuốn Từ điển về sáng tạo (2007) nêu: Sáng tạo được hiểu là khả năng
của một con người, của một tổ chức đưa ra những ý tưởng mới, có chất lượng
cao và có giá trị cao; là sự tư duy theo cách mới, là sự nhìn thấy vấn đề mới
trong các vấn đề cũ. Sáng tạo là sản phẩm của các phẩm chất và năng lực trí
tuệ. Đồng quan điểm này, nhà nghiên cứu Phan Đình Diệu diễn đạt về sáng
13


tạo như sau: Cái chung nhất của sáng tạo là tìm kiếm những cái mới, một tri
thức mới hay một cách vận dụng mới của những tri thức đã có, một phương
pháp mới hay một giải pháp mới cho vấn đề tưởng rằng đã cũ.
Các tài liệu Tâm lý học giáo dục cơ bản thống nhất trong việc xác định
cấu trúc của sáng tạo bao gồm:
- Sự mềm dẻo, linh hoạt (Flexibility). Sự mềm dẻo là khả năng chủ thể
biến đổi thông tin, kiến thức đã tiếp thu được một cách dễ dàng, nhanh chóng
từ góc độ, quan niệm này sang góc độ và quan niệm khác, chuyển đổi sơ đồ tư
duy có sẵn trong đầu sang một hệ tư duy khác, chuyển đổi từ phương pháp cũ
sang hệ thống phương pháp mới, chuyển đổi từ hành động trở thành thói quen

sang một hành động mới, gạt bỏ sự cứng nhắc mà con người đã có để thay đổi
sự nhận thức dưới một góc độ mới, thay đổi cả những thái độ đã cố hữu trong
hoạt động tinh thần, trí tuệ.
- Sự lưu lốt, trơi chảy (Fluency): Sự trơi chảy lưu loát là NL tổ hợp,
tạo ý tưởng mới, kết hợp các yếu tố riêng lẻ của tình huống, hồn cảnh, sự vật
nhanh chóng.
- Sự độc đáo (Originality): Sự độc đáo là NL tư duy độc lập trong quá
trình giải quyết vấn đề, nó cho phép con người nhìn nhận các sự vật, hiện
tượng, vấn đề theo cách khác, mới lạ so với những cách trước.
- Sự chế tạo mới (Elaboration): Sự chế tạo mới nghĩa là từ các thông tin
đã biết, từ những ý tưởng đã có chủ thể xây dựng được một cấu trúc mới, một
kế hoạch mới với các bước tổ chức, hành động liên tiếp và phù hợp, phối hợp
các ý tưởng, các câu nói, các cử động…
- Sự nhạy cảm (Sensitivity): Sự nhạy cảm là năng lực nhanh chóng phát
hiện sai lầm, mâu thuẫn, thiếu hụt hoặc thiếu logic, thiếu ngắn gọn…; NL
nắm bắt dễ dàng nhanh chóng các vấn đề, nhận ra các ý nghĩa mới của sự vật
từ những thơng tin cịn thiếu hụt của bản thân.
* Năng lực sáng tạo
14


Tổng hợp các nghiên cứu về NL và sáng tạo, có thể hiểu : Năng lực
sáng tạo là khả năng của một người khi sản sinh các ý tưởng mới, nhìn nhận vấn
đề theo cách mới, phát hiện cái mới trong cái cũ, để tạo ra các sản phẩm mới
1.2.1.2. Năng lực sáng tạo nhìn từ góc độ lí luận dạy học hiện đại
* Việc đổi mới PPDH theo hướng tích cực hóa hoạt động của HS:
Các lý thuyết, phương pháp và kĩ thuật dạy học hiện đại như: Thuyết
kiến tạo, thuyết nhận thức, thuyết hành vi, phương pháp bàn tay nặn bột…
đều có điểm chung là giúp người học kiến tạo tri thức một cách chủ động và
sáng tạo. Lấy HS làm trung tâm, tích cực hóa các hoạt động học tập của người

học… đã trở thành tinh thần của việc đổi mới phương pháp dạy học.
Tính tích cực trong nhận thức của người học có nhiều biểu hiện phong
phú như: hào hứng tìm hiểu, khám phá các đơn vị kiến thức; tích cực tham gia
xây dựng bài trong giờ học, tích cực trình bày những quan điểm của bản thân
trong quá trình học tập; suy nghĩ một cách độc lập, sáng tạo; biết vận dụng
những tri thức đã được học để giải quyết những vấn đề phức tạp trong học tập
và cuộc sống… Chúng tôi cho rằng: Những biểu hiện của việc tích cực hóa
hoạt động của người học theo yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học, chính là
tiền đề quan trọng để phát triển các NL cần thiết cho người học, trong đó hạt
nhân là NL sáng tạo.
Trong môn Ngữ văn, việc đổi mới phương pháp dạy học càng có liên
quan mật thiết đến việc phát triển NL sáng tạo của người học. Nếu trong quá
trình dạy học văn trước đây người GV đóng vai trị trung tâm, HS chỉ là đối
tượng thụ động tiếp nhận tri thức từ thầy cơ… thì trong dạy học tích cực theo
tinh thần đổi mới phương pháp hiện nay, HS trở thành trung tâm của q trình
học tập. Mỡi giờ học văn trở thành một cơ hội tương tác đa chiều giữa HS với
thầy cô giáo, với tài liệu, với bạn học… để kiến tạo kiến thức. HS được coi là
bạn đọc sáng tạo, tham gia tích cực vào quá trình “đồng sáng tạo” với nhà
văn, cùng đối thoại với thầy cô và bạn bè để mở rộng hiểu biết.
15


* Vấn đề đổi mới KTĐG:
Đánh giá theo mục tiêu phát triển NL người học trở thành điểm trọng tâm
của việc đổi mới KTĐG hiện nay. Việc đổi mới KTĐG môn Ngữ văn được quy
định trên cả hai phương diện là nội dung và cách thức đánh giá. Những định
hướng về đổi mới nội dung đánh giá tập trung vào một số điểm như:
(i) KTĐG một cách toàn diện các kiến thức và kĩ năng đã học của ba
phân môn theo tinh thần tích hợp;
(ii) KTĐG theo q trình, dựa trên khả năng nghe, nói, đọc viết các

kiểu văn bản cũng như thực hành phân tích, bình giá tác phẩm;
(iii) Khuyến khích tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS;
(iv) Đánh giá trình độ HS chủ yếu qua kĩ năng nhận diện và vận dụng
các đơn vị tri thức đã học hơn là trình bày lại những đơn vị kiến thức một
cách thuần túy.
Bên cạnh những đổi mới về nội dung, cách thức KTĐG trong mơn
Ngữ văn cũng có những đổi mới quan trọng. Theo đó, để việc KTĐG được
khách quan, tồn diện và có tác dụng phát triển NL người học thì việc đổi mới
cách thức ra đề, nhất là việc sử dụng các đề mở trở thành một trong những
giải pháp quan trọng nhất. Vì đề mở sẽ hạn chế được tính chủ quan trong
KTĐG, tạo điều kiện cho người học bộc lộ phâm chất và NL tồn diện của
mình, khơi gợi cảm hứng và động lực học tập mơn Ngữ văn. Đề mở chính là
địn bây quan trọng thúc đây sự phát triển của NL sáng tạo ở HS.
1.2.1.3. Năng lực sáng tạo nhìn từ góc độ giáo dục học
NL sáng tạo đã được đề cập trong Đề án đổi mới Chương trình, sách
giáo khoa (2014). Theo đó: NL sáng tạo của HS phổ thơng Việt Nam được
xác định là các khả năng của HS hình thành ý tưởng mới, đề xuất được các
giải pháp mới hay cải tiến làm mới một sự vật, có các giải pháp khác nhau để
giải quyết một vấn đề, sự tị mị, thích đặt các câu hỏi để khám phá sự thật
xung quanh, năng lực tưởng tượng và tư duy sáng tạo.
16


Tác giả Trần Thị Bích Liễu trong cuốn sách Giáo dục phát triển năng
lực sáng tạo (2016), đã chỉ ra những đặc tính tư duy cụ thể của cá nhân sáng
tạo. Dưới đây, chúng tơi tóm lược một số đặc điểm nổi bật ở người có NL
sáng tạo mà cuốn sách đã chỉ ra:
- Người có NL sáng tạo thường là những người có khả năng tổng hợp
thơng tin/ vấn đề theo cách mới, nhìn vấn đề với triển vọng mới và trong sự
biến đổi.

- Có các kĩ năng tư duy logic (có NL đưa ra các minh chứng, kết luận)
- Có NL nhận biết, đánh giá và giải quyết vấn đề một cách sáng tạo.
- Thích ứng tốt với những điểm mới và độc lập khi đánh giá vấn đề.
- Có khả năng tưởng tượng tốt.
- Linh hoạt, khéo léo trong việc đưa ra các quyết định.
- Tìm thấy trật tự trong sự hỗn loạn; tinh tế, nhạy bén trong tư duy.
Có thể đi đến khái quát về đặc điểm của mỗi cá nhân sáng tạo như sau:
Bảng 1.1. Biểu hiện của NL sáng tạo ở mỗi cá nhân
Trí tuệ
Thái độ
Hành vi

Giàu kiến thức, thông thạo, giàu tưởng tượng, có nhiều ý tưởng
độc đáo, tinh tế, nhạy cảm…
Tị mị, mạo hiểm, say mê khám phá…
Linh hoạt, thích ứng tốt với những điểm mới, có các câu trả lời
sáng tạo

1.2.1. Cơ sở tâm lý của HS lớp 10 THPT
Tuổi học sinh THPT là thời kỳ đạt được sự trưởng thành về mặt cơ thể.
Sự phát triển thể chất đã bước vào thời kỳ phát triển bình thường, hài hịa, cân
đối. Ở tuổi đầu thanh niên, học sinh THPT vẫn còn tính dễ bị kích thích và sự
biểu hiện giống như lứa tuổi thiếu niên. Tuy nhiên tính dễ bị kích thích ở tuổi
thanh iên khơng phải chỉ do ngun nhân sinh lý như lứa tuổi thiếu niên mà
nó cịn do cách sống của cá nhân ở độ tuổi này như (hút thuốc lá, không giữ
17


điều độ trong học tập, lao động, vui chơi…) Nhìn chung lứa tuổi THPT có
sức khỏe và sức chịu đựng tốt hơn tuổi thiếu niên. Sự phát triển của thể chất

lứa tuổi này sẽ có ảnh hưởng nhất định đến tâm lý và nhân cách cũng như ảnh
hưởng tới những lựa chọn trong cuộc sống.
Học tập vẫn là hoạt động chủ đạo của học sinh THPT. Với những yêu
cầu cao hơn về tính tích cực và độc lập trí tuệ. Muốn lĩnh hội được sâu sắc
mơn học phải có trình độ tư duy. Địi hỏi phải có tính năng động và độc lập ở
lứa tuổi này. Thái độ đối với việc học tập cũng có sự thay đổi. Thái độ tự ý
thức về việc học tập cho tương lai được nâng cao. Học sinh THPT bắt đầu
đánh giá hoạt động chủ yếu theo quan điểm của tương lai của mình. Có thái
độ lựa chọn đối với từng mơn học và đôi khi chỉ chăm chỉ học những môn
được cho là quan trọng và có ảnh hưởng trực tiếp tới tương lai. Ở lứa tuổi này
các hứng thú và khuynh hướng học tập đã trở nên xác định và thể hiện rõ ràng
hơn, học sinh thường có hứng thú ổn định đối với một mơn khoa học hay lĩnh
vực nào đó. Điều này kích thích nguyện vọng muốn mở rộng và đào sâu các
tri thức trong linh vực tương ứng.
Lứa tuổi THPT là giai đoạn quan trọng trong việc phát triển trí tuệ. Do
cơ thể được hồn thiện nên tạo điều kiện cho phát triển trí tuệ. Cảm giác và tri
giác lứa tuổi này đã đạt mức độ của người lớn. Điều này làm cho năng lực
cảm thụ được nâng cao Trí nhớ cũng phát triển rõ rệt, học sinh đã biết sử
dụng nhiều phương pháp ghi nhớ chứ không chỉ ghi nhớ một cách máy móc
(học thuộc). Sự chú ý của học sinh THPT cũng phát triển. Ví dụ học sinh có
thể tập trung chú ý vào tài liệu mà mình khơng hứng thú nhưng hiểu được ý
nghĩa quan trọng của nó. Hoạt động tư duy của học sinh THPT phát triển
mạnh, ở thời kỳ này học sinh đã có khả năng tư duy lý luận, trừu tượng một
cách độc lập và sáng tạo. Những năng lực như phân tích, so sánh, tổng hợp
cũng phát triển. Tóm lại, hoạt động nhận thức của lứa tuổi học sinh THPT đã
phát triên ở mức độ cao, có khả năng nhận thức vấn đề một cách đúng đắn và
18


sâu sắc. Khả năng tư duy và nhận thức cũng sẽ dần được hồn thiện trong q

trình học tập và rèn luyện cá nhân.
Ở cấp THPT, kĩ năng viết của HS đã phát triển ở mức độ cao hơn. Về
mặt lí thuyết, HS ở cấp học này có thể tạo lập được văn bản theo những
phương thức khác nhau, đặc biệt là có thể viết được bài văn nghị luận nêu
được quan điểm, tư tưởng riêng của mình về các vấn đề của đời sống hoặc
văn học một cách sâu sắc, có sức thuyết phục.
1.3. Ưu thế của đề mở trong việc phát triển năng lực sáng tạo cho HS lớp
10 THPT
1.3.1. Đề mở giúp phát triển năng lực tư duy sáng tạo
Đề mở với đặc điểm khơng bị đóng khung một cách cứng nhắc vào
những quan điểm, nhận định có sẵn và khơng bị gị bó bởi những u cầu
buộc phải thực hiện kiểu mệnh lệnh… nên đứng trước một đề mở đồng nghĩa
với việc người làm bài đứng trước một sự lựa chọn, một sự tìm đường đầy
gian nan mà cũng đầy hứng thú. Vì khơng có những chỉ dẫn tận nơi kiểu bày
cỗ, nên người làm bài sẽ phải tự suy nghĩ, cân nhắc cách thức triển khai bài
viết sao cho hiệu quả, phù hợp với vấn đề mà đề đã gợi mở. Ở HS lớp 10
THPT; chính việc tìm ý, triển khai ý cho các đề mở sẽ là một trong số những
biện pháp rèn tư duy hiệu quả. Các em sẽ tránh được cách tư duy máy móc,
vụn vặt; thay vào đó là khả năng khái quát vấn đề, lựa chọn những luận điểm
then chốt để triển khai bài làm sao cho hiệu quả.
*Xét đề bài ví dụ:
Hãy viết một bài văn với tiêu đề: Tình yêu trong văn học
Với đề bài trên, rõ ràng HS khơng có những chỉ dẫn cụ thể về thao tác
lập luận, phương thức biểu đạt hay được định hướng, khoanh vùng phạm vi tư
liệu thật cụ thể. Song, chính điều đó sẽ giúp cho các em buộc phải động não,
suy tư để phát triển ý thành một bài viết thể hiện quan điểm cá nhân. Trong
khi tự đặt ra những câu hỏi liên quan đến vấn đề cần nghị luận, tùy thuộc vào
19



×