Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

Luận văn thạc sĩ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn huyện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (702.58 KB, 71 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐÀO THANH DIÊN

CÁC TÌNH TIẾT GIẢM NHẸ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN TÂY SƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐÀO THANH DIÊN

CÁC TÌNH TIẾT GIẢM NHẸ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN TÂY SƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH

Chun ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN NGỌC HÀ

HÀ NỘI, năm 2020




MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Các tình tiết giảm nhẹ TNHS có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình
xem xét, đánh giá và quyết định hình phạt của Hội đồng xét xử đối với người
phạm tội trong mỗi vụ án cụ thể. Việc lạm dụng hoặc thờ ơ đối với việc áp
dụng chúng đều sẽ gây nên hậu quả nhất định. Quyết định hình phạt quá nhẹ
dẫn đến giảm hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm; cịn quyết định hình
phạt q nghiêm khắc, dẫn đến phản tác dụng đối với quá trình cải tạo, giáo
dục người phạm tội.
Trong BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã bổ sung một số
quy định mới đáp ứng u cầu thực tiễn cơng tác phịng, chống tội phạm, các
tình tiết giảm nhẹ TNHS tiếp tục được quy định trong một điều luật riêng biệt
– Điều 51, với 22 tình tiết cụ thể được ghi nhận tại Khoản 1 và các tình tiết
khác được xác định trên cơ sở quyết định của Tòa án theo quy định tại khoản
2 Điều 51. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để cơ quan tiến hành tố tụng hình
sự đánh giá đúng tính chất vụ án, tính chất và mức độ nguy hiểm hành vi
phạm tội. Từ đó đưa ra quyết định hình phạt phù hợp, đảm bảo vừa có tính
răn đe, nhưng cũng đồng thời có giá trị cải tạo, giáo dục người phạm tội.
Chính sách khoan hồng trong chính sách hình sự của Việt Nam ln
được đặt lên hàng đầu, việc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ TNHS trong giải
quyết các vụ án hình sự vì vậy có phạm vi tương đối rộng và tần suất lớn. Tuy
nhiên, thực tế cho thấy, hiện nay hiệu quả, tính đúng đắn trong áp dụng các
tình tiết này vẫn tồn tại những điểm hạn chế nhất định.
Từ thực tiễn tại địa bàn huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định, việc xét xử các
vụ án hình sự của Tịa án nhân dân huyện phần lớn đều được áp dụng các tình
tiết giảm nhẹ TNHS theo đúng quy định của pháp luật. Nhưng cá biệt vẫn còn
những trường hợp, do cách hiểu chưa đúng, chưa đồng nhất, việc nhìn nhận,
1



đánh giá chưa đầy đủ, thiếu khách quan đã dẫn đến những bất cập trong thực
tiễn áp dụng.
Chình vì vậy, việc lựa chọn đề tài luận văn “Các tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Tây
Sơn, tỉnh Bình Định” trên cơ sở phân tích một cách khoa học các vấn đề lý
luận và dữ liệu thực tiễn từ địa bàn huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định sẽ góp
phần làm rõ những vấn đề còn vướng mắc khi áp dụng vào thực tiễn, để từ đó
đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng áp
dụng các tình tiết giảm nhẹ TNHS trong giải quyết các vụ án hình sự trên địa
bàn huyện Tây Sơn nói riêng và hệ thống Luật hình sự Việt Nam nói chung.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Các tình tiết giảm nhẹ TNHS đã được nghiên cứu qua nhiều cơng trình
khoa học, các sách, báo, giáo trình với tư cách là một trong những căn cứ
quyết định hình phạt. Có thể kể đến một số cơng trình nghiên cứu có liên
quan trực tiếp đến vấn đề được nghiên cứu trong luận văn, bao gồm: GS TSKH Đào Trí Úc (2000), Luật hình sự Việt Nam, quyển 1, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội; Tập thể tác giả do PGS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên (2001),
Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb Giáo dục, Đại học
Huế…..
Ngoài ra, còn một số bài nghiên viết đăng trên các tạp chí khoa học có
liên quan đến đề tài các tình tiết giảm nhẹ TNHS như: Nguyễn Ngọc Kiện
(2017) “Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 51 Bộ
luật Hình sự năm 2015”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 4, tr.31-37; Đinh
Văn Quế (2019) “Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và việc áp dụng
khi quyết định hình phạt”, Tạp chí Kiểm sát, số 6, tr.28-40; Đinh Văn Quế
(2019) “Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và việc áp dụng khi quyết
định hình phạt”, Tạp chí Kiểm sát, số 7, tr.34-43; Đinh Văn Quế (2018) “Một

2



số vấn đề cần chú ý khi áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự khi quyết định hình phạt”, Tạp chí Kiểm sát, số 14, tr.20-23; Nguyễn
Đức Hạnh (2018) “Những điểm mới về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách
nhiệm hình sự”, Tạp chí Khoa học Kiểm sát, số 4, tr.3-9….
Thông qua việc hệ thống các tài liệu trên đây có thể thấy dưới những góc
độ nghiên cứu khác nhau, các tác giả đã đưa ra những quan điểm và giải quyết
được nhiều vấn đề của các tình tiết giảm nhẹ TNHS. Tuy nhiên, một số nội
dung, quan điểm của các nhà nghiên cứu chưa thống nhất, nhiều vấn đề chưa
được giải quyết thỏa đáng, cũng có một số trường hợp các tác giả chỉ đề cập đến
nội dung của việc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ TNHS, chưa đưa ra được
hướng hồn thiện, nâng cao hiệu quả việc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ TNHS.
Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích các số liệu thực tiễn từ địa bàn huyện
Tây Sơn, tỉnh Bình Định, cùng với việc lý giải thêm về mặt lý luận theo quy
định của BLHS hiện hành về các tình tiết giảm nhẹ TNHS, tác giả chọn đề tài
“Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam
từ thực tiễn huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu những vấn đề lí luận chung về các tình tiết giảm nhẹ
TNHS theo quy định của BLHS hiện hành; tình hình, đặc điểm có liên quan
và thực trạng áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại Tịa án
nhân dân huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Qua đó đưa ra những đánh giá và
phương hướng hoàn thiện đối với những quy định này nhằm tìm ra giải pháp
bảo đảm áp dụng đúng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong thời
gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích như trên, luận văn cần tập trung giải quyết được

3



các nhiệm vụ sau:
- Phân tích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về các tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự.
- Đánh giá tình hình, đặc điểm có liên quan và thực trạng áp dụng các tình
tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại Tịa án nhân dân huyện Tây Sơn, tỉnh Bình
Định.
- Đề xuất, kiến nghị một số giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các tình
tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận, quy định của BLHS
hiện hành về các tình tiết giảm nhẹ TNHS và thực tiễn áp dụng những quy
định này trên địa bàn huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn ở các tình tiết được quy định tại
Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Đồng thời,
kết hợp với việc nghiên cứu, đánh giá tình hình áp dụng chế định này trong
thực tiễn tại địa bàn huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định từ năm 2015 đến năm
2019.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận văn dựa trên cơ sở vận dụng phép duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử; lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về Nhà nước và
Pháp luật, về tội phạm học, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về ngun
tắc xử lý tội phạm. Thơng qua đó, việc nghiên cứu làm rõ những nét đặc thù
và giá trị kế thừa trong các quy định về những trường hợp giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự. Từ đó trang bị cách tiếp cận biện chứng cho việc áp dụng

4



những trường hợp giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với pháp luật hình sự
trong thực tiễn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể:
Chương 1: Sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp những vấn đề lý
luận và pháp lý về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo pháp luật
hình sự Việt Nam.
Chương 2: Sử dụng phương pháp thống kê, phương pháp phân tích,
tổng hợp nhận xét, đánh giá về thực tiễn áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự trên địa bàn huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định.
Chương 3: Sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp kết hợp với
đánh giá thực tiễn để đề ra các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng
các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong thời gian tới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận về các
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam. Kết
quả nghiên cứu của luận văn trong một phạm vi nhất định góp phần phát triển
một số lý luận về những trường hợp giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong
BLHS Việt Nam, góp phần nâng cao hiệu quả cơng tác áp dụng các tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong thời gian tới.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn đưa ra một số luận cứ khoa học cho
việc cụ thể hoá chính sách nhân đạo của Nhà nước đối với việc xử lý tội phạm
trong pháp luật hình sự hiện hành. Đồng thời đưa ra giải pháp giải quyết một
số vấn đề còn vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật và nâng cao hiệu
quả áp dụng các quy định về những trường hợp giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.


5


Kết quả nghiên cứu đề tài có thể phục vụ cho việc trang bị một số kiến thức
chuyên sâu đối với cán bộ pháp luật trong lĩnh vực hình sự.
7. Kết cấu luận văn
Luận văn có kết cấu gồm 3 chương. Cụ thể:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về các tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Tình hình, đặc điểm có liên quan và thực trạng áp dụng các tình
tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại tịa án nhân dân huyện Tây Sơn, tỉnh Bình
Định.
Chương 3: Yêu cầu và giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng
các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong thời gian tới.

6


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT
VỀ CÁC TÌNH TIẾT GIẢM NHẸ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Những vấn đề lý luận về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự
1.1.1.1. Khái niệm các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
Tuy những trường hợp giảm nhẹ trách nhiệm hình sự có giá trị giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bất cứ tội phạm nào, nhưng chúng cũng có
thể có mặt ở trường hợp này mà khơng có mặt trong trường hợp phạm tội

khác. Vì thế, những trường hợp giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khơng được sử
dụng là dấu hiệu chung để xây dựng chế tài đối với một tội phạm cụ thể. Lấy
chế tài làm gốc, việc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được áp dụng theo những
quy tắc nhất định trên cơ sở cân nhắc giá trị giảm nhẹ của mỗi trường hợp
hoặc của một tập hợp các trường hợp.
Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được sử dụng khá nhiều và
đóng vai trị quan trọng với tư cách là một trong những căn cứ để Tịa án
quyết định hình phạt. Tuy nhiên, BLHS năm 2015 không đưa ra khái niệm mà
chỉ liệt kê các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong Khoản 1 Điều 51
và quy định Tịa án có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ trong
Khoản 2 Điều 51.
Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung) của Trường Đại học
Huế do GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên có nêu: “Các tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự được cân nhắc khi quyết định hình phạt là những tình tiết khác

7


nhau về tội phạm đã thực hiện, về nhân thân người phạm tội được quy định
cụ thể trong luật hoặc không được quy định cụ thể trong luật nhưng được Tòa
án cân nhắc với ý nghĩa làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối
với người phạm tội”. [10, tr.423]
GS.TSKH Lê Văn Cảm đưa ra khái niệm rằng “Tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự là tình tiết được quy định trong Phần chung Bộ luật hình
sự với tính chất là tình tiết giảm nhẹ chung hoặc là tình tiết do Tịa án tự xem
xét, cân nhắc và được ghi rõ trong bản án (nếu trong vụ án hình sự khơng có
tình tiết này), đồng thời là một trong những căn cứ để cơ quan tư pháp hình
sự có thẩm quyền và Tịa án tùy thuộc vào giai đoạn tố tụng hình sự tương
ứng cá thể hóa trách nhiệm hình sự và hình phạt của người phạm tội theo
hướng giảm nhẹ hơn trong phạm vi một khung hình phạt”. [8, tr.17]

Trong bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 phần chung,
Thạc sĩ Đinh Văn Quế cho rằng “Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự là các tình tiết trong một vụ án cụ thể nó sẽ làm giảm trách nhiệm hình sự
của người phạm tội trong một khung hình phạt” [20, tr.228].
TS. Trần Thị Quang Vinh lại cho rằng “Các tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự là những tình tiết của vụ án hình sự, liên quan đến việc giải
quyết trách nhiệm hình sự, có ý nghĩa làm giảm mức độ nguy hiểm cho xã hội
của hành vi phạm tội, phản ánh khả năng cải tạo tốt hoặc hoàn cảnh đặc biệt
của người phạm tội đáng được khoan hồng và giá trị giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự của chúng chưa được ghi nhận trong chế tài.” [14, tr.9]
Hầu hết các tác giả đều cho rằng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
là tình tiết được quy định trong BLHS với tính chất là tình tiết giảm nhẹ chung
hoặc là tình tiết được ghi nhận trong văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật hay
do Tòa án tự xem xét, cân nhắc và ghi rõ trong bản án, đồng thời là một trong
những căn cứ để Tịa án cá thể hóa trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với

8


người phạm tội.
Theo Từ điển tiếng Việt, “Tình tiết” được hiểu là sự việc nhỏ trong quá
trình diễn biến của sự kiện, tâm trạng [1, tr.979]. Do vậy, tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự có thể hiểu là những sự việc nhỏ trong một vụ án có ý
nghĩa làm giảm mức độ trách nhiệm hình sự của người phạm tội.
Cịn “Giảm nhẹ trách nhiệm hình sự” có thể được hiểu là việc hạn chế
sự tác động hình sự thuộc nội dung của trách nhiệm hình sự. Tại một mức độ
cao nhất, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là bất kỳ tình tiết nào mà sự
hiện diện của nó làm giảm bớt mức độ trách nhiệm hình sự. Như vậy, ở cấp độ
này, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là các tình tiết định tội giảm
nhẹ, định khung giảm nhẹ, các tình tiết giảm nhẹ tại Điều 51 và các điều luật

khác tại phần chung Bộ luật hình sự, cũng như các tình tiết được áp dụng theo
khoản 2 điều 51. Ở mức độ thứ hai, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
là những tình tiết có ý nghĩa giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trên cơ sở đã có
một sự chuẩn mực xác định về trách nhiệm hình sự. Như vậy, tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự là những tình tiết được quy định và áp dụng theo quy
định tại phần chung Bộ luật hình sự.
Từ các quan điểm về khái niệm các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự đã nêu trên, cũng như căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam
về tình tiết giảm nhẹ TNHS. Tác giả qua nghiên cứu xem xét, đưa ra khái
niệm của các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như sau “Các tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là các tình tiết trong một vụ án cụ thể mà nó sẽ
làm giảm trách nhiệm hình sự của người phạm tội trong một khung hình phạt.
Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thuộc về nhân thân người phạm
tội chỉ có ý nghĩa giải nhẹ đối với cá nhân người phạm tội, cịn các tình tiết
giảm nhẹ khác nếu thuộc về người nào thì chỉ có người đó được giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự”.

9


1.1.1.2. Đặc điểm của các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
Căn cứ vào quy định của pháp luật, tác giả nhận thấy các tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, được quy định cụ thể trong BLHS. Những tình tiết được coi là
tình tiết giảm nhẹ hình sự khi được quy định cụ thể tại Điều 51 BLHS. Cụ thể:
- Khoản 1. Các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
+ Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội
phạm;
+ Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc
phục hậu quả;

+ Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phịng vệ chính đáng;
+ Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
+ Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người
phạm tội;
+ Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái
pháp luật của nạn nhân gây ra;
+ Phạm tội vì hồn cảnh đặc biệt khó khăn mà khơng phải do mình tự
gây ra;
+ Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
+ Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
+ Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;
+ Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà khơng
phải do lỗi của mình gây ra;
+ Phạm tội do lạc hậu;
+ Người phạm tội là phụ nữ có thai;
+ Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;
+ Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt

10


nặng;
+ Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc
khả năng điều khiển hành vi của mình;
+ Người phạm tội tự thú;
+ Người phạm tội thành khẩn khai báo hoặc ăn năn hối cải;
+ Người phạm tội tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát
hiện hoặc điều tra tội phạm;
+ Người phạm tội đã lập công chuộc tội;
+ Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến

đấu, học tập hoặc công tác;
+ Người phạm tội là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ, người có cơng
với cách mạng.
- Khoản 2. Khi quyết định hình phạt, Tịa án có thể coi đầu thú hoặc tình
tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án.
- Khoản 3. Các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật này quy định là dấu
hiệu định tội hoặc định khung thì khơng được coi là tình tiết giảm nhẹ trong
khi quyết định hình phạt”.
Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại khoản 2 còn được quy
định trong một số các văn bản khác như Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP
ngày 04/08/2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng
dẫn áp dụng một số quy định trong phần chung của Bộ luật hình sự năm 1999,
Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình
sự. Trong q trình xét xử, Tịa án cịn có thể xem xét, cân nhắc coi những
tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và điều này phải ghi rõ
lý do trong bản án.
Khi áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cần lưu ý rằng,

11


những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã được quy định với tính cách
là yếu tố định tội hoặc là yếu tố định khung hình phạt của một số tội phạm cụ
thể thì trong quá trình xét xử, Tịa án khơng được xem xét nó như là tình tiết
giảm nhẹ chung được quy định tại Khoản 1 Điều 51 BLHS.
Thứ hai, các tình tiết giảm nhẹ TNHS là căn cứ để Tịa án áp dụng hình
phạt theo hướng nhẹ hơn đối với người phạm tội.
Thứ ba, các tình tiết giảm nhẹ TNHS là một trong những căn cứ để Tịa án
quyết định hình phạt.

Thứ tư, mức độ ảnh hưởng của mỗi tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự đến việc quyết định hình phạt khơng giống nhau.
1.1.2. Phân loại các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
Có nhiều cách để phân loại các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự,
nhưng theo tác giả thì mỗi cách phân loại đều có yếu tố hợp lý và ý nghĩa
riêng khi áp dụng pháp luật nhưng lại tồn tại những vướng mắc nhất định.
Nguyên nhân phát sinh khởi nguồn từ bản chất của các tình tiết giảm nhẹ là
những biểu hiện riêng biệt của từng trường hợp phạm tội cụ thể vì vậy chúng
rất đa dạng và phong phú. Ngược lại tội phạm dù phát triển theo các điều kiện
kinh tế, chính trị xã hội nên rất đa dạng song vẫn là một thể thống nhất bao
gồm các yếu tố khách quan, chủ quan. Chính sự bất đồng này khiến việc cố
gắng chia tách rạch rịi các nhóm về nội dung của các tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự trở nên khó thực hiện.
Theo đó, các tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại Điều 51 BLHS năm
2015 được phân loại theo ba tiêu chí sau:
Nhóm các tình tiết giảm nhẹ TNHS có giá trị làm giảm mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội được quy định tại Khoản 1 (bao gồm
các tình tiết tại điểm c, d, e, g, h, i, k).
Nhóm các tình tiết giảm nhẹ TNHS phản ánh khả năng giáo dục, cải tạo

12


của người phạm tội được quy định tại Khoản 1 (bao gồm các tình tiết tại điểm
a, b, m, r, s, t, u, v).
Nhóm các tình tiết giảm nhẹ TNHS phản ánh hoàn cảnh đặc biệt của
người phạm tội đáng được hưởng khoan hồng (bao gồm các tình tiết cịn lại
trong Khoản 1).
1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
Việc quy định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự có ý nghĩa to

lớn về mặt pháp lý. Bởi khi giải quyết một vụ án hình sự thì việc giải quyết
trách nhiệm hình sự là vơ cùng quan trọng và cần phải cân nhắc đến các tình
tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để có thể giải quyết một cách chính xác,
đảm bảo công bằng. Để đảm bảo sự tương xứng giữa tính chất và mức độ
nguy hiểm cho xã hội của tội phạm với mức độ trách nhiệm hình sự, các quy
định về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được sử dụng như phương tiện
để phân hóa trách nhiệm hình sự trong luật và cá thể hóa trách nhiệm hình sự
khi áp dụng. Vì vậy mà các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự có một số
vai trị, ý nghĩa như sau:
Thứ nhất, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là một phương tiện
phân hóa trách nhiệm hình sự trong luật.
Mỗi tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đều có giá trị giảm nhẹ nhất
định. Tuy nhiên, không thể đánh đồng giá trị của tất cả các tình tiết này là
một. Các nhà làm luật Việt Nam dựa trên sự đánh giá về giá trị của các tình
tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự này đã phân biệt các mức độ giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự khác nhau dưới sự ảnh hưởng của một hay một tập hợp các
tình tiết giảm nhẹ trong tồn bộ quá trình giải quyết và thực hiện trách nhiệm
hình sự. Thể hiện ở việc không phải mọi hành vi phạm tội đều bị áp dụng đến
biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất là hình phạt, khơng phải mọi trường
hợp bị kết án đều phải chấp hành hết thời hạn hình phạt tuyên hay không phải

13


mọi trường hợp đều phải chấp hành ngay hình phạt tù…Và căn cứ để có thể
đưa ra các quyết định mang tính khoan hồng đó cơ bản được dựa trên các quy
định về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Thứ hai, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đóng vai trị là
phương tiện để cá thể hóa trách nhiệm hình sự.
Mỗi cá nhân phạm tội lại có những đặc điểm nhân thân riêng biệt, những

đặc điểm này khi có đầy đủ các yếu tố để trở thành tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự thì sẽ mang lại những giá trị giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho
cá nhân đó. Với vai trị là một trong những căn cứ đó, các tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự được sử dụng như một phương tiện để cá thể hóa trách
nhiệm hình sự. Đối với mỗi tội phạm, trong khung hình phạt quy định thì tùy
vào từng trường hợp cụ thể để áp dụng các tình tiết đó để giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự một cách hợp lý và cơng bằng.
Thứ ba, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là một trong những
điều kiện cần thiết để đạt được mục đích của hình phạt.
Mục đích chính của hình phạt ngồi việc trừng trị thì quan trọng hơn
cả là cải tạo người phạm tội, khiến họ nhận ra sai lầm của mình và sửa chữa
nó. Vì vậy, khi giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự, nếu không thỏa đáng
hoặc quá khắt khe sẽ tạo ra sự bất mãn và khơng đạt được mục đích của hình
phạt. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự với vai trị là căn cứ để quyết
định hình phạt sẽ đem lại sự cơng bằng và thể hiện tính nhân đạo của pháp
luật. Hay nói một cách khác, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự sẽ
đem lại cho họ hy vọng và cảm giác họ vẫn là người có ích cho xã hội để họ
có thể nhận ra sai lầm và cải tạo bản thân. Đây là một ý nghĩa quan trọng của
các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Ngồi các ý nghĩa pháp lý nêu trên, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự cịn thể hiện ý nghĩa xã hội đó là thực hiện công bằng xã hội và thực

14


hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước trong lĩnh vực xử lý tội phạm. Nó thể
hiện ở chỗ từ ý nghĩa cá thể hóa trách nhiệm hình sự của mỗi cá nhân, các
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đem lại sự công bằng đối với người
phạm tội. Đảm bảo việc xử đúng người đúng tội, làm cho phán quyết về trách
nhiệm hình sự sát hơn với từng trường hợp cụ thể. Điều này thể hiện ở việc

khi đã có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì trách nhiệm hình sự
của người phạm tội sẽ được giảm đi đáng kể và hạn chế sử dụng những biện
pháp cưỡng chế nghiêm khắc. Như vậy, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện công bằng xã hội và thực
hiện chính sách nhân đạo của pháp luật hình sự Việt Nam.
1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự
Trên cơ sở kế thừa những quy định của BLHS năm 1999 (sửa đổi bổ
sung năm 2009), BLHS năm 2015 tiếp tục quy định tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự tại Điều 51, nhưng có sự sửa đổi, bổ sung những quy định mới
so với BLHS năm 1999 BLHS năm 2015 đã quy định 22 trường hợp cụ thể
được xem xét là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (khoản 1 Điều 51) và
cũng bổ sung thêm việc Tòa án khi quyết định hình phạt, có thể coi đầu thú
hoặc các tình tiết khác là các tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm
nhẹ trong bản án. Đây là một điểm mới so với 18 trường hợp tại điều 46 Bộ
luật hình sự năm 1999.
So với BLHS năm 1999, BLHS năm 2015 đã bổ sung thêm những tình
tiết giảm nhẹ TNHS mới là: “Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần
thiết khi bắt giữ người phạm tội; Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả
năng nhận thức mà khơng phải do lỗi của mình gây ra; Người phạm tội là
người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng; Người phạm tội là cha,
mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ, người có cơng với cách mạng”.

15


1.2.1. Nội dung của những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
theo khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015
Trong phần này, tác giả sẽ tập trung phân tích nội dung đồng thời lý
giải các cơ sở giảm nhẹ TNHS của mỗi tình tiết giảm nhẹ TNHS như sau:

❖ Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm
Để áp dụng tình tiết giảm nhẹ này, người đã thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm sau khi phạm tội phải có hành vi tích cực
để ngăn chặn tác hại của tội phạm, hoặc làm giảm bớt các tác hại đó. Hành vi
làm giảm bớt tác hại của tội phạm được người phạm tội thực hiện khi tội
phạm mà họ gây ra trước đó đã bắt đầu phát sinh tác hại, tuy nhiên các tác hại
này đã được hạn chế, giảm bớt do hành động tích cực của người phạm tội.
Việc ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm có thể do người phạm
tội tự quyết định thực hiện hoặc do người khác khuyên bảo. Pháp luật hình sự
Việt Nam khơng địi hỏi người phạm tội phải tự mình quyết định hành động,
chỉ cần họ tự thực hiện việc ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội
phạm mà họ gây ra và hành động này mang lại hiệu quả khiến tác hại của tội
phạm thực sự được ngăn chặn hoặc giảm bớt.
❖ Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc
phục hậu quả
Tình tiết này được hiêu là, trước khi người bị thiệt hại có u cầu địi sửa
chữa, bồi thường hoặc khắc phục hậu quả, người phạm tội đã tự nguyện thực
hiện hoạt động này. Đây là trường hợp hành vi của người phạm tội đã gây ra hậu
quả của tội phạm thể hiện dưới dạng thiệt hại cụ thể hoặc những hậu quả khác.
Người phạm tội sau đó đã tự mình quyết định việc và thực hiện việc sửa chữa,
bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả của tội phạm mà mình gây ra mà
khơng phải do người bị thiệt hại hoặc người khác yêu cầu, ép buộc. Ví dụ: A có
hành vi dùng gậy đập vỡ yếm chiếc xe máy mới mua của B, sau đó, A đã chủ

16


động tự nguyện mang xe của B đi hàn lại yếm. Bồi thường thiệt hại được hiểu là
dùng tiền hoặc tài sản của mình đưa cho người bị thiệt hại để bù đắp lại những
thiệt hại do hành vi phạm tội của mình gây ra bao gồm cả những thiệt hại về vật

chất, thể chất hoặc những thiệt hại về tinh thần. Ví dụ: M sau khi cố ý gây
thương tích cho T đã chủ động sang thăm hỏi, trả tiền viện phí và bồi thường cho
T một khoản tiền cho những thiệt hại mà mình gây ra. Khắc phục hậu quả là
trường hợp hành vi phạm tội gây ra những hậu quả không phải dưới dạng thiệt
hại về vật chất, không thể sửa chữa hay bồi thương được, buộc người phạm tội
phải có những hành động tích cực nhằm khắc phục những hậu quả đó. Mức độ
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với trường hợp này phụ thuộc vào thái độ cố
gắng, tự nguyện muốn chuộc lỗi của người phạm tội và mức độ hậu quả được
khắc phục trên thực tế.

❖ Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phịng vệ chính đáng
Phịng vệ chính đáng là một trong những trường hợp được loại trừ trách
nhiệm hình sự theo quy định của BLHS năm 2015. Khi chống trả lại một cách
cần thiết người có hành vi xâm phạm các quyền và lợi ích chính đáng của cá
nhân, tổ chức trong xã hội, người thực hiện quyền phòng vệ khơng phải chịu
trách nhiệm hình sự vì phịng vệ chính đáng khơng phải là tội phạm.
Tuy nhiên, nếu trong trường hợp người có hành vi bảo vệ các lợi ích chính
đáng lại chống trả quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất, mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại và có căn cứ cho thấy việc chống trả rõ
ràng là quá mức thì họ phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá. Sự
chống trả quá mức ở đây phải được thể hiện rõ ràng và có lỗi của người thực
hiện hành vi chống trả, ví dụ như sử dụng cơng cụ, phương tiện quá nguy hiểm
so với tình huống, đánh giá sai tình huống phịng vệ,…Mặc dù vậy trách nhiệm
hình sự của người thực hiện hành vi vượt giới hạn phịng vệ chính đáng khơng
như những trường hợp bình thường vì động cơ phạm tội là động cơ tốt để bảo vệ
lợi ích chính đáng của Nhà nước, của tổ chức, quyền lợi và lợi ích chính đáng

17



của người phịng vệ hoặc người khác. Vì thế, đây được coi là một trường hợp
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người phạm tội.

Chính do đặc điểm này mà có ý kiến cho rằng khơng nên coi tình tiết
này là tình tiết giảm nhẹ nữa vì nó đã là dấu hiệu định tội ở Điều 126 (tội giết
người do vượt q giới hạn phịng vệ chính đáng) và Điều 136 (tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới
hạn phịng vệ chính đáng). Tuy nhiên, khơng phải trường hợp nào cứ vượt q
giới hạn phịng vệ chính đáng đều được coi là trường hợp quy định tại Điều
126 hoặc Điều 136 BLHS mà khơng ít trường hợp, tuy có yếu tố phịng vệ
chính đáng nhưng tính chất và mức độ nguy hiểm chưa đến mức áp dụng
Điều 126 hoặc 136 BLHS thì người phạm tội được coi là tình tiết giảm nhẹ
khi quyết định hình phạt. Do đó, về lý luận cũng như thực tiễn xét xử, người
phạm tội bị kết án về tội giết người quy định tại Điều 123 và tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác quy định tại Điều
134 BLHS vẫn có thể có tình tiết giảm nhẹ “do vượt q giới hạn phịng vệ
chính đáng”. Tuy nhiên trong bản án, Tòa án phải nêu rõ lý do vì sao họ chỉ
được coi là tình tiết giảm nhẹ.
❖ Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết
Trường hợp này quy định về trường hợp giảm nhẹ do hoàn cảnh khách
quan đặc biệt đem lại. Việc thực hiện hành vi phạm tội của người phạm tội bị
đặt trong hoàn cảnh do tác động từ bên ngoài nảy sinh hành vi phạm tội.
Cơ sở giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của tình tiết này thể hiện ở chỗ,
việc gây thiệt hại là do yêu cầu của một hoàn cảnh khách quan, đang diễn ra
một tình trạng nguy hiểm, buộc phải hy sinh một lợi ích nhỏ hơn thiệt hại cần
ngăn ngừa. Trong hoàn cảnh đó người phạm tội đã xử sự rõ ràng là vượt quá
yêu cầu cấp thiết.
❖ Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người

18



phạm tội
Bộ luật hình sự năm 1999 chưa quy định tình tiết giảm nhẹ này. Nếu
trong thực tiễn xảy ra trường hợp trong khi bắt giữ người mà gây thiệt hại cho
người bị bắt giữ thì vận dụng chế định phịng vệ chính đáng để xử lý. Nếu gây
thiệt hại rõ ràng vượt quá mức cần thiết, thì người gây thiệt hại phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của người khác trong khi
thi hành công vụ. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp khi bắt người phạm tội,
người bị bắt chỉ bỏ chạy, không có hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ
lực, nhưng để bắt được người phạm tội thì buộc phải gây thiệt hại cho họ.
Thiệt hại gây ra cho người phạm tội chủ yếu là tính mạng, sức khỏe, cịn thiệt
hại tài sản cũng có nhưng rất ít xảy ra.
Nay BLHS năm 2015 quy định trường hợp gây thiệt hại trong khi bắt
giữ người phạm tội thành một chế định riêng, nhằm đáp ứng yêu cầu đấu
tranh phòng chống tội phạm. Người bắt giữ người thực hiện hành vi phạm tội
có thể là người có chức vụ, quyền hạn như: chiến sĩ công an, quân đội, hải
quan, kiểm lâm, cảnh sát biển,... nhưng cũng có thể chỉ là người tham gia vào
việc truy bắt người đang có hành vi phạm tội cũng như được hưởng chế định
này.
Nếu trong khi bắt giữ người thực hiện hành vi phạm tội mà gây thiệt
hại do sử dụng vũ lực rõ ràng vượt quá mức cần thiết, thì người gây thiệt hại
phải chịu trách nhiệm hình sự, nhưng được coi là tình tiết giảm nhẹ.
Cũng như tình tiết giảm nhẹ phạm tội trong trường hợp vượt q giới
hạn phịng vệ chính đáng, tình tiết giảm nhẹ này chỉ áp dụng trong trường hợp
người phạm tội không bị truy cứu về các tội quy định tại các Điều 126 và
Điều 136 BLHS.
❖ Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái
pháp luật của nạn nhân gây ra


19


Cần phải nhận thấy rằng, nội dung của tình tiết giảm nhẹ này khác với
tình tiết quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999.
Nếu điểm đ khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999 quy định: “...do hành vi
trái pháp luật của người bị hại hoặc của người khác” thì điểm e khoản 1 Điều
51 chỉ quy định: “...do hành vi trái pháp luật của nạn nhân”.
Như vậy, tình tiết giảm nhẹ đã thu hẹp phạm vi áp dụng so với điểm đ
khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999.
Tình tiết giảm nhẹ này cũng khác với tình tiết là yếu tố định tội tại Điều
125 (tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh) và Điều 135
(tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh); người phạm tội trong trường hợp này
cần phải xác định là họ bị kích động chứ khơng phải là bị kích động mạnh
như Điều 125 và Điều 135 BLHS.
Đây là trường hợp được giảm nhẹ liên quan đến phản ứng do bị kích
động về tinh thần của người phạm tội. Trạng thái tinh thần bị kích động của
người phạm tội là do nạn nhân đã có hành vi trái pháp luật trước đó, đây là lí
do khiến người phạm tội đã khơng làm chủ và kiểm sốt hồn tồn được hành
vi của mình. Cơ sở giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội phụ
thuộc vào mức độ nghiêm trọng của hành vi trái pháp luật của nạn nhân, mức
độ bị kích động của người phạm tội.
❖ Phạm tội vì hồn cảnh đặc biệt khó khăn mà khơng phải do mình tự
gây ra
Tình tiết này được hiểu là trường hợp người phạm tội đã thực hiện hành
vi nguy hiểm cho xã hội do hồn cảnh đặc biệt khó khăn. Hồn cảnh này
khơng phải do họ tự gây ra mà là do khách quan như thiên tai, hỏa hoạn, bệnh
tật, tai nạn,…Hoàn cảnh này có thể là hồn cảnh khó khăn đặc biệt của bản
thân người phạm tội hoặc của gia đình họ, có thể tạm thời nảy sinh, hoặc đã


20


tồn tại từ lâu,…Hoàn cảnh này phải là hoàn cảnh khó khăn hơn nhiều so với
mức bình thường. Chính sự đặc biệt khó khăn của hồn cảnh đã khiến người
phạm tội khơng tự mình vượt qua được và đã chọn thực hiện hành vi phạm
tội. Mức độ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với trường hợp này phụ thuộc
vào mức độ khó khăn của hồn cảnh và khả năng cố gắng tìm cách khắc phục
những khó khăn đó của người phạm tội trước khi họ thực hiện hành vi phạm
tội.
❖ Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn
Quy định về giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong trường hợp phạm tội
nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn, trên cơ sở hậu quả của
phạm tội được hạn chế hoặc phạm tội lần đầu mà mức độ phạm tội ít nghiêm
trọng. Đây đều là những căn cứ dựa trên tính chất thiệt hại, mức độ nguy hiểm
trong hành vi phạm tội giới hạn ở mức thấp. Theo đó, thiệt hại thực tế theo
quy định tại điểm g chưa xảy ra hoặc thiệt hại xảy ra không lớn. Mặc dù lỗi
của người phạm tội làm căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự không thay đổi
nhưng do thiệt hại chưa xảy ra mà mức độ truy cứu cũng được Nhà nước giảm
nhẹ, khoan hồng. Giới hạn giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phụ thuộc vào mức
độ gây thiệt hại của hành vi phạm tội, hình thức lỗi, cách thức gây thiệt hại.
Phạm tội trong trường hợp này là trường hợp phạm tội nhưng thiệt hại trên
thực tế chưa xảy ra hoặc xảy ra khơng lớn. Trong thực tiễn, tình tiết này
thường được áp dụng trong những trường hợp hành vi phạm tội bị phát giác
kịp thời nên không phát sinh thiệt hại do đã có sự ngăn chặn từ phía những
người khác, tài sản bị chiếm đoạt được trả lại ngay cho người bị hại. Mức độ
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của trường hợp này phụ thuộc vào mức thiệt hại
mà người phạm tội đã gây ra cho nạn nhân.
❖ Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng

Để áp dụng tình tiết này người phạm tội phải thỏa mãn hai điều

21


kiện: thứ nhất, trường hợp phạm tội lần này phải là lần đầu tiên họ thực hiện
hành vi phạm tội; thứ hai, tội phạm mà họ thực hiện phải là tội ít nghiêm
trọng, hoặc nếu khơng thì trường hợp phạm tội của họ phải có nhiều yếu tố
làm cho trường hợp đó trở nên ít nghiêm trọng.
Cần phân biệt trường hợp phạm tội này với một số trường hợp quy định
trong một số điều luật cũng có tình tiết “thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”
nhưng lại là tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm
trọng thì khơng coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Ví dụ, khoản 2
Điều 110 đối với tội gián điệp có quy định “phạm tội trong trường hợp ít
nghiêm trọng” nhưng khung hình phạt từ 05 năm đến 15 năm là tội rất nghiêm
trọng thì khơng coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, vì đây là dấu
hiệu khách quan của cấu thành tội phạm (cấu thành giảm nhẹ), là dấu hiệu
định khung hình phạt.
❖ Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức
Phạm tội do bị đe dọa, cưỡng bức là những trường hợp giảm nhẹ dựa
trên những tác động khách quan dẫn đến động cơ thực hiện hành vi phạm tội.
Phạm tội vì bị người khác đe dọa, cưỡng bức là tình tiết có ý nghĩa giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự vì người phạm tội thực hiện tội phạm trong một hoàn
cảnh bị hạn chế tự do ý chí do bị đe dọa, cưỡng bức, khơng thể hiện đầy đủ tự
do ý chí. Đây chính là cơ sở giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của tình tiết trên.
Giá trị giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của tình tiết phạm tội vì bị đe dọa,
cưỡng bức phụ thuộc vào tính chất và mức độ của sự đe dọa. Phạm tội do bị
đe dọa, cưỡng bức có hai mơ tả trong trường hợp giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự. Phạm tội do bị đe dọa là trường hợp người phạm tội bị uy hiếp về mặt tinh
thần bằng việc sử dụng vũ lực hoặc thực hiện hành vi trái pháp luật gây nên.

Hành vi đe dọa trong trường hợp này phải chứa đựng khả năng trở thành hiện
thực. Phạm tội do bị cưỡng bức là trường hợp người phạm tội bị người khác

22


×