Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

SBD 191. BÀI THU HOẠCH MÔN ĐẠO ĐỨC LÃNH ĐẠO Trần Thị Thu Nga

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.41 KB, 20 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VIỆN LÃNH ĐẠO HỌC VÀ CHÍNH SÁCH CƠNG

MƠN ĐẠO ĐỨC VAD LÃNH ĐẠO

BÀI THU HOẠCH
TÌM HIỂU VỀ ĐẠO ĐỨC CƠNG VỤ HIỆN NAY, YÊU CẦU CẤP THIẾT
ĐỐI VỚI CÁN BỘ, CÔNG CHỨC THỜI KỲ PHÁT TRIỂN MỚI

Người thực hiện

: Trần Thị Thu Nga

Lớp

: Cao học Lãnh đạo học K27- Vĩnh Phúc

Chức vụ cơng tác

: Chun viên phịng Quản lý Doanh nghiệp

Đơn vị công tác

: Ban quản lý các Khu công nghiệp Vĩnh Phúc

Vĩnh Phúc, tháng 6 năm 2021
1


PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU
Trước những thực trạng suy thoái đạo đức đang diễn ra trong xã hội, đặc biệt


là trong bộ phận công chức với các vụ tiêu cực, tham nhũng… làm ảnh hưởng đến
cuộc sống, hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, người dân và cản trở
sự phát triển kinh tế - xã hội, đạo đức công vụ đang trở thành vấn đề được xã hội
rất quan tâm. Nâng cao giáo dục, trang bị đạo đức công vụ cho công chức hiện là
vấn đề cấp thiết trong điều kiện Việt Nam đang đẩy mạnh tiến trình cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa, mở cửa hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và toàn diện trên
các lĩnh vực đời sống xã hội.
Với nhiều thế mạnh và tiềm năng phát triển, Vĩnh Phúc phấn đấu đến năm
2025 là tỉnh có nền văn hố nổi tiếng Khơng chỉ là tỉnh có bề dày văn hóa truyền
thống đậm đà bản sắc với 40 dân tộc anh em cùng sinh sống, Vĩnh Phúc cịn là nơi
có nhiều tiềm năng du lịch hấp dẫn, điểm đến an toàn cho các nhà đầu tư... Chính vì
thế, nơi đây đã và đang khơng ngừng phát triển các thế mạnh vốn có để tạo nên một
bức tranh văn hóa đa dạng, nhiều màu sắc, thể hiện rõ nét đẹp cả về tự nhiên lẫn
con người. Vì vậy, em mạnh dạ chọn đề tài: “Tìm hiểu về đạo đức công vụ hiện
nay, yêu cầu cấp thiết đối với cán bộ, công chức thời kỳ phát triển mới”.
Trong q trình nghiên cứu và hồn thành tiểu luận vì thời gian có hạn và
kiến thức của em cịn hạn chế, bài tiểu luận chắc chắn cịn có thiếu sót và khiếm
khuyết. Em kính mong nhận được sự quan tâm, hướng dẫn của Giảng viên hướng
dẫn để nội dung của tiểu luận được hoàn thiện hơn.
Em xin trân trọng cảm ơn!

2


PHẦN II: NỘI DUNG
ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ HIỆN NAY
1. Bản chất và nội hàm của đạo đức công vụ
Đạo đức học là một phạm trù triết học nhân sinh được đặt ra rất sớm từ thời
A-ri-xtốt (Aristode, 384 - 322 trước Công nguyên). Những nhà triết học lớn trong
lịch sử như Sô-cơ-rát (Socrat), Pla-tông (Planton), A-ri-xtốt, Can (Kant), Hê-ghen

(Heghen), Khổng Tử... đã đóng góp to lớn cho q trình phát triển tư tưởng đạo đức
học. Tuy nhiên, do các hạn chế của điều kiện lịch sử cụ thể của thời đại, các nhà tư
tưởng đều có những hạn chế nhất định, đến Các Mác, Ph.  Ăng-ghen và V.I. Lê-nin
khi nghiên cứu sâu vào nguồn gốc và bản chất đạo đức mới khắc phục và bổ khuyết
những hiểu biết mới so với tư tưởng đạo đức học trước đây. Các ông đã đưa ra nhận
thức mới dựa trên phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để nhận thức các hiện
tượng đạo đức phù hợp với lịch sử của thời đại. Theo đó, đạo đức là một hiện tượng
xã hội, một phương diện của đời sống xã hội, hiện diện trong tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội (kinh tế, chính trị, văn hóa, nghệ thuật, tơn giáo và cụ thể trong
hành vi của con người, trong mối quan hệ của con người với con người, con người
với tự nhiên và xã hội...), với tư cách là hình thái ý thức xã hội, biểu hiện dưới dạng
các nguyên tắc, quy tắc, các chuẩn mực, các giá trị điều chỉnh hành vi của con
người và hoạt động xã hội trong sản xuất ra của cải vật chất, giá trị tinh thần.
Các cơng trình nghiên cứu của nhiều thế hệ đã xác lập mối tương quan giữa
đạo đức và các hình thái ý thức xã hội khác, tập trung vào 3 mối quan hệ cơ bản: 1Đạo đức và chính trị; 2- Đạo đức và pháp luật - công cụ khẳng định các chuẩn mực,
các thói quen, các giá trị được xã hội thừa nhận, tuân theo; 3- Đạo đức và tơn giáo trong đời sống, tơn giáo có vai trị hướng dẫn và đóng vai trị đạo đức, hình thành
các giá trị và ý nghĩa của cuộc sống, có giá trị thiêng liêng, góp phần điều chỉnh
hành vi của con người.
3


Trong xã hội hiện đại của Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức “Cần
- Kiệm  - Liêm - Chính” là những giá trị nền tảng cho đạo đức công chức, đạo đức
công vụ. Bác Hồ là hiện thân của giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, phát
triển sáng tạo tư tưởng của Mác - Lê-nin hình thành đạo đức cách mạng. Chính đạo
đức cách mạng của những người cách mạng, của các thế hệ người Việt Nam thể
hiện đỉnh cao trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, ở sự xả thân, dám hy sinh tất
cả vì lý tưởng “Khơng có gì q hơn độc lập, tự do” tạo nên sức mạnh dân tộc,
giành thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ,
làm nên giá trị Việt Nam, đạo đức Việt Nam.

Trong xây dựng và phát triển đất nước hiện nay, đạo đức nghề nghiệp được
đặt ra và thể hiện ở hai phẩm chất đức - tài của người lãnh đạo, quản lý, của người
cán bộ, cơng chức nói chung. Khi công chức thực thi công vụ được xác định là một
nghề đặc biệt, lại càng cần một phẩm chất đặc biệt của người “công bộc” của dân.
Thách thức chuyển từ vai trò người quản lý, từ cơ chế “xin - cho” sang người phục
vụ nhân dân, người phục vụ phát triển là việc hình thành giá trị mới của người cán
bộ, cơng chức - đây là vấn đề có ý nghĩa cách mạng.
Ngay từ những năm 50 của thế kỷ XX, Bác Hồ đã ký Sắc lệnh số 76/SL,
ngày 20-5-1950, về việc ban hành quy chế công chức do Chủ tịch nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa ban hành, đưa ra bốn tiêu chí trong câu nói ngắn gọn: “Cơng
chức là đầy tớ, cơng bộc của dân”, có 4 phẩm chất “Cần - Kiệm - Liêm - Chính”.
Đó cũng chính là những giá trị đạo đức cần được hình thành trong đội ngũ cán bộ,
công chức hiện nay của Việt Nam.
Về đạo đức nghề nghiệp, xã hội có bao nhiêu nghề thì tất yếu có bấy nhiêu
quy định về đạo đức nghề nghiệp, đây là đạo đức xã hội đặc thù thể hiện trong các
hoạt động nghề nghiệp. Với tính cách là loại hình đạo đức xã hội có quan hệ chặt
chẽ với đạo đức cá nhân và được cá nhân thể hiện, nên đạo đức nghề nghiệp có liên
quan trực tiếp tới hoạt động nghề nghiệp - được hình thành trong tất cả các lĩnh vực
4


của đời sống xã hội. Một đặc trưng quan trọng của đạo đức nghề nghiệp từ các
nghiên cứu tập trung vào yếu tố “lương tâm nghề nghiệp” - không chỉ chứa đựng
trạng thái tình cảm, tâm lý mà cịn là một động lực bên trong tạo ra thái độ ứng xử,
thái độ trách nhiệm với nghề, với sản phẩm mình làm ra, nhiệm vụ mình thực hiện.
Đây là mối quan hệ tương tác quan trọng hình thành nhân cách, đạo đức, giá trị của
người cán bộ, công chức trong thực thi cơng vụ, cùng với nó hình thành nghĩa vụ
với nghề nghiệp, thành “nghiệp” của mỗi người.
Về công vụ và thực thi công vụ, trong các văn bản pháp lý, công vụ được
hiểu theo nghĩa rộng là công việc của nhà nước, và việc nhà nước do công chức

đảm nhiệm, thực hiện là theo nghĩa hẹp. Do vậy, công vụ là một hoạt động mang
tính quyền lực nhà nước - quyền lực công. Trong điều kiện xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, đề cao tính tối thượng của
pháp luật, khi xác định công chức là một nghề đặc biệt, nghĩa là địi hỏi người cơng
chức có một phẩm chất đặc biệt, đó là đạo đức cơng vụ.
Cơng việc nhà nước do công chức đảm nhiệm hướng tới hai giá trị: Thực
hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước có hiệu lực, hiệu quả - quản trị tốt; và cung cấp
dịch vụ công tốt nhất cho xã hội, cho nhân dân.
Về thực chất, quyền lực nhà nước thể hiện ý chí của nhân dân, do nhân dân
ủy quyền cho bộ máy nhà nước, mà đội ngũ cán bộ, cơng chức có trách nhiệm thực
thi cần có những quy định rõ ràng thẩm quyền, trách nhiệm của người cán bộ, công
chức trong thực thi công vụ. Đây là một sự ủy quyền gián tiếp, địi hỏi người cán
bộ, cơng chức phải ý thức được rõ ràng trách nhiệm của mình, cần có những chuẩn
mực giá trị đạo đức, hành vi ứng xử rõ ràng, đó là gần dân, nghe dân, hiểu dân và
làm cho dân hài lòng - thực sự phục vụ nhân dân, là “công bộc” của nhân dân.

5


Những đòi hỏi trên đây tạo ra mối quan hệ tốt giữa Nhà nước với nhân dân, hình
thành những giá trị đạo đức mới cho đội ngũ cán bộ, công chức trong thực thi công
vụ.
2. Thực trạng vấn đề đạo đức công vụ của công chức, viên chức
Hiện Việt Nam có 2,8 triệu cơng chức. Nhìn chung, cán bộ cơng chức, viên
chức ở Việt Nam có ý thức rèn luyện, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, lối
sống; có thái độ tôn trọng nhân dân, tận tâm phục vụ nhân dân, lắng nghe ý kiến,
nguyện vọng của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, được nhân dân tin
tưởng; thực hiện tốt lời dạy luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, ý thức tập thể; có
lịng u nghề, tận tụy với cơng việc; tơn trọng đồng nghiệp, hồn thành tốt nhiệm
vụ được giao. Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức Việt Nam về cơ bản đáp ứng

được các yêu cầu, nhiệm vụ. Công chức, viên chức tham gia công tác quản lý, lãnh
đạo các cấp phát huy tốt vai trị và khả năng của mình, khơng ngừng nâng cao hiệu
quả lãnh đạo, quản lý, góp phần quan trọng vào sự đổi mới hoạt động của hệ thống
chính trị.
Bên cạnh những ưu điểm đã được khẳng định, góp phần quan trọng vào
thắng lợi to lớn có ý nghĩa lịch sử trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vẫn
cịn một bộ phận cán bộ, cơng chức yếu cả về năng lực và phẩm chất; quyền làm
chủ của nhân dân chưa được phát huy đầy đủ; kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm; tham
nhũng, lãng phí cịn nghiêm trọng. Trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo,
quản lý và một số cán bộ cao cấp, suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc.
Những sai phạm về đạo đức của cán bộ, công chức, viên chức trong giai
đoạn hiện nay xuất hiện chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực như: đất đai, xây dựng,
công an, kiểm lâm, y tế, giao thơng... Trong đó, có nhiều vụ việc cán bộ, công chức,
viên chức vi phạm đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp gây hậu quả nghiêm
6


trọng, như một số vụ công chức kiểm lâm, viên chức làm công tác quản lý, bảo vệ
rừng lơ là, thiếu trách nhiệm để cho "lâm tặc" phá rừng trong nhiều năm; một số
viên chức ngành y tế lợi dụng vị trí việc làm vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức
nghề nghiệp, xâm phạm nhân phẩm, danh dự và sức khỏe của người khác; một số
cán bộ dự án “rút ruột” cơng trình xây dựng; một số cơng chức, viên chức thanh tra
giao thông, công an giao thông nhận tiền “mãi lộ” của lái xe và doanh nghiệp; một
số cơng chức địa chính cố ý sai phạm để trục lợi cá nhân; có cán bộ làm cơng tác
đền bù, giải phóng mặt bằng thiếu quản lý, tắc trách để cấp dưới gây ra những sai
phạm khiến dư luận, người dân bức xúc; thậm chí cơng chức làm cơng tác văn thư,
lưu trữ của cơ quan chuyên môn cũng hách dịch, rề rà, gây khó dễ cho các cá nhân
đến liên hệ cơng tác... Bên cạnh đó, tình trạng cán bộ, công chức, viên chức bớt xén
thời gian làm việc, đùn đẩy trách nhiệm, giải quyết công việc sai quy định, hướng

dẫn, giải thích cơng việc cho người dân một cách lịng vịng, khó hiểu, thái độ làm
việc hời hợt, thiếu nhiệt tình và sự thân thiện khi tiếp cơng dân.
Nguyên nhân của sự suy thoái đạo đức ở một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức
chủ yếu do:
Thứ nhất, năng lực, đạo đức của nhiều cán bộ, công chức, viên chức còn rất hạn
chế, chưa đáp ứng được yêu cầu trong công tác quản lý nhà nước. Một số cán bộ,
cơng chức, viên chức có năng lực cơng tác, phẩm chất đạo đức còn hạn chế trong
thực hiện, cơng vụ, gây ảnh hưởng xấu đến hình ảnh của bộ máy công quyền.
Thứ hai, lãnh đạo cơ quan chưa thật sự gương mẫu về đạo đức, lối sống và trách
nhiệm trong công việc. Sự thiếu quan tâm đúng mức cũng như thiếu sự gương mẫu
trong công việc và cuộc sống của lãnh đạo đã tác động tiêu cực đến tư tưởng của
cấp dưới trong thực thi nhiệm vụ. Các cơ quan, đơn vị chưa quan tâm đúng mức
đến giáo dục tinh thần trách nhiệm, cũng như xử lý trách nhiệm nghiêm đối với các
trường hợp vi phạm đạo đức cơng vụ. nên chưa thật sự có tính răn đe, làm gương.
7


Thứ ba, việc ban hành chính sách, pháp luật của Nhà nước chậm, thiếu quyết liệt
trong thực thi nên hiệu quả chưa cao. Thiếu những quy định cụ thể trong các đơn vị
về trách nhiệm của cán bộ, công chức; cơ chế quản lý, kiểm tra, giám sát của tổ
chức và thủ trưởng đơn vị cũng như của nhân dân đối với hoạt động của cán bộ,
công chức, viên chức còn hạn chế, chưa thường xuyên, chưa nghiêm túc và thiếu
đồng bộ.
Thứ tư, hoạt động tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật chưa thường xun,
mang tính hình thức. Cần đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục cán bộ, công chức nhận
thức rằng mình là “đầy tớ” của dân, cần hết sức phục vụ nhân dân, hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao.
3. Một số nhân tố ảnh hưởng đến đạo đức cơng vụ
Q trình hình thành đạo đức cơng vụ cũng như q trình hình thành đạo đức
nói chung, là q trình từ nhận thức, ý thức đến tư duy hành động và cuối cùng

được chuẩn hóa thành quy tắc, quy chế, chuẩn mực xã hội và pháp luật của nhà
nước. Đó cũng chính là q trình phát triển từ tự phát đến tự giác. Trong q trình
đó, việc hình thành đạo đức của người cán bộ, công chức chịu tác động của một số
nhân tố chủ yếu sau đây:
Điều kiện phát triển kinh tế - xã hội
Điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia ảnh hưởng, tác động
đến việc hình thành, xây dựng các giá trị đạo đức, trong đó có đạo đức cơng vụ.
Kinh tế phát triển hay đi xuống đều ảnh hưởng đến việc xây dựng đạo đức của
người thi hành công vụ, từ việc xây dựng, hoạch định chính sách, xác định các giá
trị chuẩn mực cho đến các nguồn lực dành cho tổ chức công sở văn minh, hiện đại;
đào tạo, nâng cao trình độ chun mơn, nghiệp vụ, trang bị phương tiện, điều kiện
làm việc cho cán bộ, công chức. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta đã tác động, đặt ra những yêu cầu mới đối với việc xây dựng đạo
8


đức nói chung và đạo đức cơng vụ nói riêng. Những mặt trái của nền kinh tế thị
trường nếu không có biện pháp khắc phục hiệu quả sẽ là điều kiện, môi trường nảy
sinh những biểu hiện tiêu cực, phi đạo đức trong đội ngũ cán bộ, công chức.
Các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc
Giá trị văn hóa truyền thống là những giá trị thuộc về tư tưởng, lối sống,
chuẩn mực thái độ, hành vi được cộng đồng thừa nhận và duy trì, gìn giữ qua các
thế hệ. Đạo đức công vụ luôn gắn với đối tượng là cán bộ, cơng chức - một nhóm
đối tượng cụ thể trong xã hội, một cộng đồng người. Các giá trị văn hóa truyền
thống chính là nền tảng, cơ sở cho việc hình thành, lựa chọn các giá trị về tổ chức,
hoạt động nơi công sở, tới đạo đức và chuẩn mực trong hành vi, lối sống của cán
bộ, công chức.
Các giá trị văn hóa truyền thống tác động đến đạo đức cơng vụ theo cả hai
chiều tích cực và tiêu cực. Những giá trị truyền thống tốt đẹp như lòng yêu nước
nồng nàn, ý thức tự cường dân tộc, tinh thần cộng đồng, lòng nhân ái khoan dung,

trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù sáng tạo trong lao động, sự tế nhị trong
ứng xử, tính giản dị trong cuộc sống,... góp phần hình thành những giá trị, chuẩn
mực chân chính cho cán bộ, cơng chức, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng
đội ngũ cán bộ, công chức trung thành với Tổ quốc, tận tụy với nhân dân, trách
nhiệm với cơng việc, chun nghiệp, có hành vi, thái độ ứng xử đúng mực,...
Những giá trị truyền thống lạc hậu, bảo thủ không phù hợp với bối cảnh, tình hình
hiện tại, như tiểu nơng, cục bộ, bình quân chủ nghĩa,... sẽ tạo ra những lực cản cho
sự phát triển của một nền hành chính văn minh, hiện đại.
Pháp luật và việc tổ chức thực hiện pháp luật
Nếu hệ thống pháp luật hồn chỉnh, khơng có “khe hở” thì việc “lách luật” sẽ
trở nên khó khăn, do đó sẽ hạn chế được những hành vi sai trái trong việc thực hiện
công vụ. Ngược lại, khi tồn tại những bất cập trong pháp luật thì người cán bộ,
9


cơng chức có thể cố ý hoặc vơ ý thực hiện những hành vi trái với đạo đức công vụ,
vi phạm pháp luật, ảnh hưởng tới hiệu quả công việc, hiệu lực quản lý nhà nước, tới
uy tín của nhà nước trước nhân dân. Do pháp luật bao trùm lên mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội, của quản lý nhà nước, nên nhìn chung sự hồn thiện của pháp luật
và hiệu quả của việc tổ chức thực hiện pháp luật, đặc biệt là về những nội dung có
liên quan trực tiếp đến hoạt động cơng vụ ln có sự ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc
đến đạo đức công vụ.
Vai trị của cơ quan hành chính
Cơ quan hành chính có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc tạo dựng uy tín
của cơ quan, tạo nên niềm tin, niềm tự hào của chính cán bộ, cơng chức đối với cơ
quan, đơn vị mình. Vị thế của một cơ quan, đơn vị luôn được quyết định bởi kết
quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị. Nếu thực hiện tốt vai trị
thì vị thế sẽ khơng ngừng được củng cố và phát triển. Nếu một cơ quan, đơn vị có
uy tín, tạo dựng được vị thế tốt, được nhân dân và xã hội thừa nhận thì bản thân
mỗi cán bộ, cơng chức trong cơ quan đó sẽ yêu nghề hơn, không ngừng phấn đấu,

tự giác tuân thủ nội quy, quy chế làm việc, có trách nhiệm hơn với công việc và
không ngừng nâng cao hiệu quả công việc. Ngược lại, nếu hình ảnh, vị thế của cơ
quan, đơn vị bị đánh giá thấp, làm mất niềm tin, không đáp ứng yêu cầu của các
thành viên trong công sở cũng như người dân, tổ chức thì các giá trị của văn hóa
cơng sở, đạo đức cơng vụ sẽ khơng được coi trọng. Vì vậy, cần đặc biệt quan tâm
tới việc tạo dựng hình ảnh và vị thế của cơ quan hành chính nhà nước, phải gắn cơ
quan hành chính với phương châm vì nhân dân phục vụ, tận tụy hết mình phục vụ
nhân dân.
Sự dân chủ, minh bạch, cơng khai trong hoạt động tại cơng sở có tác động
trực tiếp và sâu sắc đến đạo đức công vụ của cán bộ, công chức. Nếu trong cơ quan,
đơn vị mọi hoạt động luôn được công khai, minh bạch, sự dân chủ được tơn trọng
thì sẽ tạo điều kiện để các nhân viên, thậm chí nhân dân kiểm tra, giám sát hoạt
10


động công vụ, dám thẳng thắn chỉ ra các yếu kém, bất hợp lý hoặc sai phạm trong
hoạt động công vụ, nhờ đó làm cho pháp luật được thực thi, đạo đức được tôn
trọng, nâng cao. Ngược lại, nếu thiếu dân chủ thì cơng chức khơng được tham gia,
bàn bạc những việc quan trọng trong cơ quan, đơn vị, nếu phát hiện sai trái cũng
khơng dám lên tiếng góp ý, phản đối vì sợ bị trù dập; nếu khơng cơng khai, minh
bạch trong hoạt động thì cán bộ, cơng chức và nhân dân khó có thể kiểm tra, giám
sát hoạt động cơng vụ. Vì vậy, những hành vi sai phạm vẫn ngang nhiên tồn tại, tái
diễn không được ngăn chặn, xử lý kịp thời. Điều đó sẽ ảnh hưởng xấu đến đạo đức
công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức. Trong công sở, mối quan hệ giữa các đồng
nghiệp cũng có tác động khơng nhỏ đến đạo đức cơng vụ. Nếu các đồng nghiệp
luôn tôn trọng, phối hợp, giúp đỡ lẫn nhau thì vừa có thể hồn thành tốt nhiệm vụ
của cơ quan đơn vị, vừa nâng cao được đạo đức công vụ của cán bộ, công chức.
Ngược lại, khi giữa các đồng nghiệp ln có sự đố kỵ, chia rẽ, mâu thuẫn hoặc
thiếu sự hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau thì vừa làm cho nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị
khơng được hồn thành, vừa tạo ra tâm lý chán nản hoặc những hành vi trái với đạo

đức công vụ.
Hoạt động giáo dục, đào tạo
Việc giáo dục, đào tạo ở tất cả mọi hình thức, mọi bậc học, trong nhà trường
và trong các cơ quan, công sở không chỉ là trang bị những kiến thức chuyên môn,
nghiệp vụ, mà cịn hướng tới hình thành và củng cố nhân cách cho người học. Do
đó, nếu trong nội dung giáo dục, đào tạo, những vấn đề liên quan đến đạo đức,
nhân cách con người được chú trọng thì những người học - nguồn cơ bản của đội
ngũ cán bộ, công chức đã sớm được trang bị, hình thành nên những tố chất cần thiết
của đạo đức công vụ khi trở thành cán bộ, công chức. Nếu việc giáo dục về nhân
cách khơng được coi trọng đúng mức thì sẽ khơng tạo ra được cái gốc căn bản của
đạo đức công vụ cho người cán bộ, công chức sau này.
11


Trình độ, năng lực nhận thức và ý thức tu dưỡng rèn luyện đạo đức công vụ của
bản thân mỗi cán bộ, cơng chức
Trình độ, năng lực nhận thức của đội ngũ cán bộ, công chức được biểu hiện
qua mức độ nắm vững kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, chức trách, quyền và
nghĩa vụ của bản thân; hệ thống các quy tắc ứng xử với cấp trên, cấp dưới, đồng
nghiệp và với nhân dân... Trình độ, năng lực nhận thức cịn biểu hiện thơng qua
mức độ tự giác thực hiện các quy chế, quy định làm việc của cơ quan, các quy tắc,
chuẩn mực ứng xử. Nếu cán bộ, công chức nhận thức rõ và có ý thức tuân thủ, bảo
vệ và duy trì những quy định đó trong hoạt động thực thi cơng vụ thì đạo đức cơng
vụ sẽ không ngừng được nâng cao. Việc tự tu dưỡng, rèn luyện của mỗi cán bộ,
cơng chức là yếu tố có vai trị đặc biệt quan trọng đến sự hình thành và nâng cao
đạo đức cơng vụ.
4. Tiêu chí đánh giá đạo đức công vụ
Đạo đức công vụ là một phạm trù tương đối rộng, bao hàm đạo đức, lối sống,
cách xử sự của cán bộ, công chức không chỉ trong các mối quan hệ xã hội thơng
thường mà cịn trong phạm vi thực hiện nhiệm vụ cơng, đó là trong giao dịch hành

chính với tổ chức, cơng dân.
Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, công chức phải đối mặt với nhiều
vấn đề mà trước đây khơng có. Những vấn đề như: tiền lương, tiền thưởng hay phụ
cấp, môi trường làm việc đều được đem ra so sánh với khu vực tư nhân và sự chênh
lệch giữa hai khu vực này cũng làm cho tư duy về giá trị công vụ, công chức thay
đổi. Hiện tượng “chảy máu chất xám” từ khu vực nhà nước sang khu vực tư nhân
thể hiện sự thay đổi nhận thức giá trị công vụ.
Để hạn chế những mặt trái của nền kinh tế thị trường tác động đến đạo đức
cơng chức cần có nền tảng đạo đức công chức vững chắc. Nền tảng này cần phải
được xây dựng dựa trên một hệ thống pháp luật để bảo đảm cho các chuẩn mực đạo
12


đức được thi hành trong cơng vụ và tiêu chí để đánh giá cơng chức mang tính
truyền thống như trung thực, thẳng thắn, khơng vụ lợi, cần, kiệm, liêm, chính, chí
cơng, vơ tư.
Tiêu chí đánh giá đạo đức cơng vụ: Về bản chất, đạo đức công vụ là đạo đức
thực thi công vụ của công chức, bao gồm hệ thống nguyên tắc, chuẩn mực dùng để
điều chỉnh mối quan hệ giữa đội ngũ công chức với tổ chức, công dân, thể hiện ở
lương tâm và trách nhiệm vì lợi ích chung, ý thức việc cần phải làm và mong muốn
được làm vì lợi ích chung đó. Đạo đức cơng vụ được đánh giá dựa trên hai tiêu chí
sau:
Thứ nhất là đạo đức của bản thân người công chức. Chủ thể đạo đức công
vụ là người công chức. Với tư cách là cơng dân, người cơng chức phải mang trong
mình những nguyên tắc, chuẩn mực, giá trị đạo đức xã hội mà trong đó họ sống và
hoạt động.
Thứ hai là góc độ đạo đức nghề nghiệp. Với tư cách là công chức, họ phải
tuân thủ những nguyên tắc, chuẩn mực quy định cách ứng xử của người công chức
trong hoạt động thực thi công vụ mà không bao giờ được vi phạm đạo đức của nghề
công chức.

Đạo đức công vụ không chỉ dừng lại ở sự nhận thức mà cần phải được thể
chế hóa trong nền cơng vụ. Nếu thiếu sự thể chế hóa thì những ngun tắc, chuẩn
mực, giá trị đạo đức cũng chỉ là những lời giáo huấn, lý thuyết chung chung, khơng
có sức sống trong thực tế. Nếu như sức mạnh của pháp luật là sự cưỡng chế, bắt
buộc thì sức mạnh của đạo đức là niềm tin cá nhân, là truyền thống dân tộc, là sức
mạnh của dư luận xã hội. Chính vì vậy, nâng cao nhận thức đạo đức, biến nhận thức
đạo đức thành hành vi đạo đức, thành thực tiễn đạo đức là việc làm hết sức cần
thiết trong đời sống xã hội của đội ngũ công chức.
5. Một số giải pháp nâng cao đạo đức công vụ
13


Bước vào thời kỳ mới trong bối cảnh thế giới đang thay đổi nhanh chóng,
phức tạp, khó lường, những tác động tích cực và tiêu cực, thuận lợi và khó khăn, cơ
hội và thách thức, đan xen hết sức phức tạp, đòi hỏi phải xây dựng được đội ngũ
cán bộ, cơng chức có chất lượng, ngang tầm, tồn tâm, tồn ý phục vụ sự nghiệp
cách mạng, đào tạo được một lực lượng lao động có chất lượng cao. Để góp phần
nâng cao đạo đức công vụ cho đội ngũ công chức, cần thực hiện tốt một số giải
pháp cơ bản sau:
Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống pháp luật đối với hành vi vi phạm đạo đức
cơng vụ, có cơ chế xử lý nghiêm khắc. Đối với công chức, hệ thống pháp luật hoàn
chỉnh là cơ sở để hoàn thiện hệ thống thể chế về đánh giá, giám sát hoạt động của
công chức, đặc biệt là cơ chế giám sát trực tiếp từ phía nhân dân. Kết quả đánh giá
cơng chức khách quan, trung thực vừa là cơ sở để tiến hành đề bạt, bổ nhiệm, khen
thưởng hay kỷ luật, vừa thúc đẩy vai trị tích cực của cơng chức trong hoạt động
quản lý.
Mặc dù pháp luật liên quan đến đạo đức công vụ ở Việt Nam đã được quy
định trong một số luật liên quan đến công chức, viên chức như: Luật Cán bộ, cơng
chức; Luật Viên chức, Luật Phịng, chống tham nhũng sửa đổi năm 2018; Luật
Khiếu nại; Luật Tố cáo; Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí… Tuy nhiên,

chưa xây dựng luật riêng quy định cụ thể về đạo đức cơng vụ. Do đó, để đáp ứng
u cầu về tăng cường xây dựng đạo đức công vụ trong bối cảnh mới hiện nay, cần
nghiên cứu xây dựng và ban hành Luật Đạo đức công vụ hay Luật Đạo đức của
công chức. Việc ban hành luật này không những có tác dụng nêu lên các nguyên
tắc, chuẩn mực về đạo đức cơng vụ, mà cịn đưa ra những quy định cụ thể về mục
đích đạo đức, hành vi đạo đức và cơng cụ đạo đức trong q trình cán bộ, công
chức tiếp xúc, làm việc với cơ quan, xã hội, doanh nghiệp và người dân. Việc ban
hành luật này sẽ tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động giám sát việc thực thi đạo đức
công vụ.
14


Có chế tài cụ thể hơn về khen thưởng và xử lý vi phạm kỷ luật đối với cán
bộ, công chức, viên chức. Về nguyên tắc, tất cả công chức vi phạm pháp luật không
thể ở lại cơ quan hành chính nhà nước, sẽ “tạo ra tấm gương xấu” cho xã hội. Kiên
quyết xử lý ngay vi phạm chuẩn mực pháp lý về thực thi công vụ; thi hành pháp
luật. Đồng thời có cơ chế khen thưởng xứng đáng cho những ai “chấp hành nghiêm
chỉnh chuẩn mực pháp lý”, bằng cả vật chất lẫn tinh thần.
Thứ hai, phát huy tính tích cực, chủ động, gương mẫu của cơng chức trong
thực thi công vụ. Nâng cao đạo đức công vụ cho cơng chức là cơng việc thường
xun, lâu dài, địi hỏi sự tham gia tích cực khơng chỉ của đội ngũ cơng chức mà
của tồn thể nhân dân. Với sự quan tâm của các cấp ủy đảng, chính quyền, cũng
như tồn xã hội, đạo đức công vụ của đội ngũ công chức Việt Nam sẽ ngày càng
đáp ứng tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ mới.
Thứ ba, tăng cường giáo dục đạo đức công vụ và đổi mới phương pháp giáo
dục đạo đức công vụ. Giáo dục đạo đức công vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức
giúp họ hiểu được giá trị của đạo đức công vụ và tiêu chuẩn hành vi trong thực thi
cơng vụ, qua đó khơi dậy động cơ đạo đức và thúc đẩy hành vi đạo đức của cán bộ,
công chức. Cốt lõi của giáo dục đạo đức công vụ là làm cho cán bộ, công chức hiểu
được vai trị và nghĩa vụ của mình, hiểu được giá trị và ý nghĩa của công việc mà

bản thân mình đang thực hiện; nắm được các tiêu chuẩn hành vi trong thực thi công
vụ. Các nước OECD đã thành lập cơ quan chuyên trách thực hiện chức năng đào
tạo, bồi dưỡng về đạo đức công vụ, chịu trách nhiệm chính trong việc thiết kế
chương trình đào tạo, bồi dưỡng về đạo đức cơng vụ; tổ chức các khóa đào tạo, bồi
dưỡng định kỳ cho các đối tượng khác nhau. Việc đào tạo, bồi dưỡng không nặng
về lý thuyết, coi trọng hơn thực hành đạo đức công vụ, giúp cho người học có khả
năng đưa ra lựa chọn hợp lý trong bối cảnh có sự xung đột giữa lợi ích tư và lợi ích
cơng.
15


Thứ tư, tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện đạo đức công vụ của
cán bộ, công chức. Hoạt động kiểm tra, giám sát về việc thực hiện đạo đức công vụ
cần được tiến hành thường xuyên dưới các hình thức báo cáo, kiểm tra đột xuất, lấy
ý kiến của người dân… Thông qua kiểm tra, giám sát, lãnh đạo hiểu đạo đức công
vụ được thực hiện thế nào, hiệu quả ra sao, cịn hạn chế những gì nhằm bổ sung,
sửa đổi, ngăn chặn các nội dung sai lệch với việc thực hiện đạo đức công vụ. Xây
dựng và thực hiện cơ chế giám sát của nhân dân đối với việc thực hiện đạo đức
công vụ nhằm nêu cao tinh thần trách nhiệm của công chức và bảo đảm thực hiện
quyền làm chủ của nhân dân.
Thứ năm, đổi mới cơng tác tuyển chọn, đánh giá, bố trí và sử dụng cán bộ.
Để xây dựng đạo đức công vụ không chỉ dựa vào sự nỗ lực tự giác của mỗi cán bộ,
công chức trong phấn đấu, rèn luyện về đức và tài, khơng chỉ địi hỏi cần phải đẩy
mạnh giáo dục, tuyên truyền, mà phải chấn chỉnh tổ chức, gắn chặt với công tác tổ
chức, khắc phục những yếu kém trong công tác cán bộ, nhất là khâu tuyển chọn, bố
trí, sử dụng cán bộ (cách dùng người). Dùng người khơng đúng, khơng cơng tâm,
khách quan, khơng vì sự nghiệp chung sẽ có hại cho dân, cho nước, sẽ suy yếu văn
hóa đạo đức. Vì thế, phải cải cách thể chế, đổi mới công tác cán bộ theo hướng
đánh giá đúng cán bộ và sử dụng đúng cán bộ, thực hiện dân chủ hóa trong cơng
tác cán bộ, khắc phục hiện tượng bổ nhiệm và sử dụng cán bộ không theo năng lực,

yếu kém về phẩm chất. Đây là giải pháp then chốt về xây dựng đạo đức công vụ ở
Việt Nam trong giai đoạn hội nhập.
Thứ 6, đội ngũ cơng chức có vai trị và vị trí rất quan trọng trong sự nghiệp
cách mạng dân tộc. Trong đội ngũ công chức, một bộ phận không nhỏ là đảng viên,
là cán bộ lãnh đạo, quản lý, là người tham gia hoạch định chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước. Đội ngũ cơng chức có vai trị quan trọng trong
việc xây dựng và phát triển đất nước; trong việc bảo vệ pháp luật và công lý, bảo vệ
các quyền tự do dân chủ, quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cơng
16


dân, bảo đảm trật tự xã hội, chống lại các hành vi vi phạm pháp luật, tùy tiện, vô
nguyên tắc. Trong thực thi công vụ, người công chức phải chú tâm, cơng bằng,
khơng thiên vị. Đội ngũ cơng chức cịn là người đóng vai trị tiên phong trong cuộc
đấu tranh phòng, chống tham nhũng và các tiêu cực khác để làm cho bộ máy nhà
nước ngày càng trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả hơn.
Thứ 7, một bộ phận công chức chưa nêu cao năng lực phẩm chất đạo đức
cách mạng, tham nhũng, lãng phí nghiêm trọng. Đại bộ phận cơng chức có ý thức
rèn luyện, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống; tôn trọng nhân dân, tận
tâm phục vụ nhân dân, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của nhân dân, chịu sự giám
sát của nhân dân, được nhân dân tin tưởng. Bên cạnh đó, vẫn cịn một bộ phận cơng
chức yếu cả về năng lực và phẩm chất; kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm; tham
nhũng, lãng phí. Cần có cơ chế sớm loại đội ngũ cán bộ, công chức yếu kém ra
khỏi bộ máy, để đội ngũ công chức thực sự trở thành “công bộc” của dân, chăm lo
phục vụ nhân dân, bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của người dân.
Thứ tám, bối cảnh quốc tế và khu vực thay đổi đòi hỏi càng phải nâng cao
chất lượng đạo đức công vụ để đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ mới. Trong bối
cảnh thế giới đang thay đổi nhanh chóng, phức tạp, khó lường, những tác động tích
cực và tiêu cực, thuận lợi và khó khăn, cơ hội và thách thức đan xen hết sức phức
tạp, nhiệm vụ chính trị mới nặng nề, đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải đào tạo lực

lượng lao động có chất lượng cao; xây dựng được đội ngũ công chức ngang tầm
phục vụ sự nghiệp cách mạng. Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân
lực chất lượng cao, gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng
dụng khoa học - công nghệ.
Những biểu hiện tiêu cực, tham nhũng tràn lan từ cao tới thấp, những biểu
hiện suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống, sự xuống cấp về đạo đức xã hội, đạo
đức nghề nghiệp, sự vơ cảm... cũng đặt ra u cầu có giải pháp tổng thể cho việc
xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức mới đủ năng lực, trình độ, “tài - đức” quản trị
17


đất nước trong thời kỳ mới. Một số giải pháp cơ bản cần được ưu tiên để nâng cao
đạo đức công vụ cho cán bộ, công chức trong thời gian tới là:
- Nghiên cứu nền tảng lý luận, triết học về các giá trị đạo đức, đạo đức xã hội
làm cơ sở cho việc nghiên cứu xây dựng khung lý thuyết về đạo đức xã hội mới, về
đạo đức nghề nghiệp, đạo đức công vụ cho đội ngũ cán bộ, cơng chức.
- Nghiên cứu hình thành mơ hình tổ chức bộ máy hành chính nhà nước
chuyên nghiệp, hiện đại, trên cơ sở đó hình thành các tiêu chí của bộ máy hành
chính mới, tiêu chí năng lực, trình độ, phẩm chất đạo đức mới của đội ngũ cán bộ,
công chức.
- Hình thành pháp luật về đạo đức cơng chức thực thi cơng vụ hay cần có
một luật về cơng chức - công vụ.
- Công chức khi thực thi công vụ mới phải tuân thủ các chuẩn mực vừa mang
tính đạo đức xã hội, đạo đức nghề nghiệp, những chuẩn mực quy định mang tính
pháp luật của nhà nước trong mối quan hệ tổng hòa giữa con người với con người,
con người với xã hội, con người với nhà nước trên cơ sở hài hịa quyền và lợi ích.
Do đó, ngun tắc pháp luật về đạo đức công vụ xây dựng trên nguyên lý: Pháp
luật bắt buộc - nguyên tắc nghề nghiệp, đạo đức nghề nghiệp - nguyên tắc đạo đức
xã hội (các quy tắc ứng xử của công chức trong thực thi cơng vụ, thể hiện văn hóa
cơng sở, văn hóa nơi cơng cộng, nêu gương trong ứng xử xã hội).

- Rà soát lại và bổ sung các quy định trong Luật Cán bộ, công chức năm
2008, đồng thời nghiên cứu xây dựng Luật Công chức  - công vụ.
- Đề cao vai trị đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, cơng chức về đạo đức nghề
nghiệp, đạo đức công vụ. Kinh nghiệm từ các nền công vụ tiên tiến trên thế giới,
trong các trường đào tạo, huấn luyện cơng chức đều có chương trình huấn luyện
cơng chức, từ việc ứng xử trong quan hệ công chức với người dân tới thái độ trách
nhiệm trong thực thi công vụ.
18


- Nâng cao chất lượng, hiệu quả của công cuộc cải cách hành chính nhà
nước, từng bước theo hướng chuyên nghiệp, từng bước hiện đại, xây dựng nền
công vụ phục vụ, lấy thước đo hiệu quả bằng sự hài lòng của người dân, coi đó là
cơng cụ, tiêu chí đánh giá chất lượng thực thi công vụ.
- Xây dựng các thể chế tổ chức và hoạt động công vụ theo mục tiêu tăng
cường tính cơng khai, minh bạch, quản lý nhà nước bằng pháp luật trong Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đây là cơ sở
để đẩy lùi tính vơ cảm, vơ trách nhiệm, tham nhũng, lãng phí một cách chủ động,
tích cực, hiệu quả. Huy động sự tham gia của người dân, của các tổ chức xã hội vào
công việc nhà nước, giám sát, phản biện xã hội một cách thiết thực đối với tổ chức,
hoạt động của bộ máy nhà nước và đối với cán bộ, công chức trong thực thi cơng
vụ.
- Đề cao vai trị làm gương của người lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu.
Giáo dục cơng chức bằng hình thức nêu gương, tơn vinh các giá trị, các cơng chức
thực thi cơng vụ có trách nhiệm, tận tâm, nhanh chóng, hiệu quả, nhất là các tấm
gương “Cần - Kiệm - Liêm  - Chính; Chí cơng - Vơ tư” dưới nhiều hình thức.
- Chú trọng, khuyến khích tự đào tạo, tự tu dưỡng rèn luyện phẩm chất đạo
đức của người cán bộ, công chức trong một xã hội học tập, trong nền kinh tế tri
thức.


19


PHẦN III: KẾT LUẬN

Trong điều kiện thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước, chuyển từ
nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp trước đây sang nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập toàn diện với thế giới, nhất là tạo ra
thể chế kinh tế thị trường vận hành tuân thủ đầy đủ các quy luật của nền kinh tế thị
trường, khi Việt Nam đã ký kết, thực hiện nhiều hiệp định song phương và đa
phương với các quốc gia, vùng lãnh thổ và các khu vực, đòi hỏi một sự chuyển đổi
với nhiều thách thức và thời cơ đan xen mà trước hết là vị trí, vai trị mới của đội
ngũ cán bộ, công chức trong quản trị nhà nước phát triển hiệu quả, yêu cầu đội ngũ
cán bộ, cơng chức có trình độ quản trị mới tương ứng với các chuẩn mực đạo đức
mới hình thành, cần một hệ thống giải pháp tổng thể, với bước đi phù hợp với q
trình hiện đại hóa, chun nghiệp hóa theo mục tiêu của cải cách hành chính nhà
nước và đổi mới hệ thống chính trị.
Đó cũng là những lý do rất cấp thiết em lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Tìm
hiểu về đạo đức cơng vụ hiện nay, u cầu cấp thiết đối với cán bộ, công chức
thời kỳ phát triển mới”. Đây là điều kiện tiên quyết, không thể thiếu trong việc xây
dựng các quyết định sự phát triển nền kinh tế tỉnh Vĩnh phúc chúng em ./.

20



×