Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

BÀI THU HOẠCH Môn Giáo dục môi trường Sự suy giảm tự nhiên rừng ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 18 trang )

Trường CĐ Ngô Gia Tự Bắc Giang
Khoa Tiểu học – Mầm non

BÀI THU HOẠCH
Môn: Giáo dục môi trường
Lớp: Tiểu học C k34 - Nhóm 5
Đề tài: Sự suy giảm tự nhiên rừng ở Việt Nam

Bắc Giang, ngày 28 tháng 10 năm 2015

Thành viên nhóm 5:


Đề tài: Sự suy giảm tự nhiên rừng ở Việt Nam - Nhóm 5

1. Nguyễn Thanh Thanh

7. Vi Thị Thành

2. Hoàng Thị Linh

8. Lưu Thị Sự

3. Nguyễn Quỳnh Hương

9. Trần Thị Lan

4. Phan Thị Phương Thảo

10. Ngô Thị Bích Hường


5. Dương Thị Hoa

11. Ngô Thị Hòa

6. Vũ Thị Nụ

Ngày 28/10/2015

Trang 2


Đề tài: Sự suy giảm tự nhiên rừng ở Việt Nam - Nhóm 5

Đề tài:
SỰ SUY GIẢM TỰ NHIÊN RỪNG Ở VIỆT NAM

I. Mở đầu:
Rừng là nguồn tài nguyên quý giá của đất nước ta, là lá phổi xanh của Trái
đất, rừng không những là cơ sở phát triển kinh tế - xã hội mà còn gĩư chức năng
sinh thái cực kỳ quan trọng. Rừng tham gia vào quá trình điều hoà khí hậu, đảm
bảo chu chuyển oxy và các nguyên tố cơ bản khác trên hành tinh, duy trì tính ổn
định và độ màu mỡ của đất, hạn chế lũ lụt, hạn hán, ngăn chặn xói mòn đất, làm
giảm nhẹ sức tàn phá khốc liệt của các thiên tai, bảo tồn nguồn nước và làm giảm
mức ô nhiễm không khí. Vấn đề quản lý, bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng hiện
nay được coi là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong sự nghiệp phát triển
kinh tế-xã hội Việt Nam. Một trong những đòi hỏi để thực hiện thành công nhiệm
vụ này là phải có những cơ chế thích hợp thu hút sự tham gia tích cực của cộng
đồng dân cư vào công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng.
Trong những năm gần đây, Nhà nước đã ban hành và áp dụng nhiều chính
sách có tác động mạnh đến đời sống của nhân dân như: giao đất lâm nghiệp khoán

quản lý bảo vệ rừng quy chế quản lý rừng phòng hộ, quy chế hưởng lợi…Tuy
Ngày 28/10/2015

Trang 3


Đề tài: Sự suy giảm tự nhiên rừng ở Việt Nam - Nhóm 5

nhiên, có một số nguyên nhân làm cho tài nguyên rừng ngày càng thu hẹp đó là: áp
lực về dân số ở các vùng có rừng tăng nhanh, nghèo đói hoàn cảnh kinh tế khó
khăn, người dân sinh kế chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên rừng, trình độ dân trí
vùng sâu vùng xa còn thấp, kiến thức bản địa chưa được phát huy, hoạt động
khuyến nông, khuyến lâm chưa phát triển, chính sách Nhà nước về quản lý rừng
cộng đồng còn nhiều bất cập, cơ cấu xã hội truyền thống có nhiều thay đổi.
Hơn nữa, ngày nay do dân số tăng nhanh, nhu cầu về tài nguyên ngày càng
lớn nên đã gây sức ép đối với các loại tài nguyên nói chung và tài nguyên rừng nói
riêng. Tài nguyên rừng đã được huy động ngày càng nhiều nhằm đáp ứng nhu cầu
tăng nhanh về lương thực, thực phẩm, gỗ củi và các nguyên liệu về sự phát triển
kinh tế xã hội và con người. Vì vậy, vấn đề suy giảm tài nguyên rừng đã và đang
trở thành vấn đề chung, cấp bách của toàn thế giới đặc biệt là ở các nước đang
phát triển trong đó có Việt Nam.
II. Nội dung:
1. Khái quát chung về tài nguyên rừng:
- Rừng là gì ?
→ Rừng là một tổng thể cây gỗ, có mối liên hệ lẫn nhau, nó chiếm một phạm vi
không gian nhất định ở mặt đất và trong khí quyển (Morozov 1930).
Rừng chiếm phần lớn bề mặt Trái Đất và là một bộ phận của cảnh quan địa lý,
trong đó bao gồm một tổng thể các cây gỗ, cây bụi, cây cỏ, động vật và vi sinh vật.
Trong quá trình phát triển của mình chúng có mối quan hệ sinh học và ảnh hưởng
lẫn nhau và với hoàn cảnh bên ngoài (M.E. Tcachenco 1952).

Rừng là sự hình thành phức tạp của tự nhiên, là thành phần cơ bản của sinh
quyển địa cầu.
- Tài nguyên rừng bao gồm những gì?
→ Nguồn gỗ quý, củi đốt…
Điều hoà khí hậu, tạo nguồn Oxi cung cấp cho trái đất.
Điều hoà nước.
Là nơi cư trú của động- thực vật và tàng trữ các nguồn gen quý hiếm.
2. Vai trò của rừng.

Ngày 28/10/2015

Trang 4


Đề tài: Sự suy giảm tự nhiên rừng ở Việt Nam - Nhóm 5

Rừng là nguồn tài nguyên quý giá có vai trò đặc biệt quan trọng đối với môi
trường cũng như phát triển kinh tế xã hội.
- Đối với môi trường:
+ Rừng góp phần quan trọng trong việc điều hòa khí hậu, đảm bảo cân bằng
sinh thái, làm giảm nhẹ sức tàn phá khốc liệt của các thiên tai.
+ Ngăn chặn xói mòn đất, bảo vệ mực nước ngầm.
+ Là đối tượng nghiên cứu của nhiều lĩnh vực khoa học, đặc biệt là nơi lưu giữ
các nguồn gien động thực vật quý hiếm.
- Đối với sự phát triển kinh tế xã hội:
+ Rừng là nguồn cung cấp gỗ và lâm sản phục vụ cho nhu cầu đời sống và sản
xuất.
+ Cung cấp các mặt hàng lâm sản có giá trị xuất khẩu góp phần thu ngoại tệ
phục vụ qua trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
+ Cung cấp các dược liệu quý có tác dụng chữa bệnh, nâng cao sức khỏe cho

con người .
+ Đối với các vùng núi nước ta, rừng còn là nguồn sống chủ yếu của các đồng
bào dân tộc ít người.
3. Hiện trạng suy giảm tài nguyên rừng Việt Nam.
Việt Nam là đất nước nhiều đồi núi, diện tích đồi núi chiếm tới ¾ diện tích
lãnh thổ nên phần lớn diện tích lãnh thổ được rừng che phủ. Diện tích đất lâm
nghiệp nước ta năm 2005 là 14,43 triệu ha chiếm 43,6% diện tích đất tự nhiên. Đất
nước Việt Nam trải dài trên nhiều vĩ tuyến và đai cao, với địa hình rất đa dạng, hơn
2/3 lãnh thổ là đồi núi, lại có khí hậu thay đổi từ nhiệt đới ẩm phía Nam, đến á
nhiệt đới ở vùng cao phía Bắc, đã tạo nên sự đa dạng về hệ sinh thái tự nhiên và sự
phong phú về các loài sinh vật. Những hệ sinh thái đó bao gồm nhiều loại rừng như
rừng cây lá rộng thường xanh, rừng nửa rụng lá, rừng rụng lá, rừng trên núi đá vôi,
rừng hỗn giao lá rộng và lá kim, rừng lá kim, rừng tre nứa, rừng ngập mặn, rừng
tràm, rừng ngập nước ngọt,... Tuy nhiên trong những năm qua, do tác động của
nhiều nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan nên rừng của nước ta đã bị suy giảm
nghiêm trọng cả về số lượng và chất lượng rừng.
3.1 Về trữ lượng (diện tích ) rừng.
Sự suy giảm tài nguyên rừng biểu hiện trước hết và rõ nét thông qua việc
suy giảm diện tích. Trước đây phần lớn đất nước Việt Nam có rừng che phủ, nhưng
chỉ khoảng một thế kỷ qua, rừng bị suy thoái nặng nề. Trong thời kỳ Pháp thuộc,
nhiều vùng đất rộng lớn ở phía Nam đã bị khai phá để trồng cà phê, cao su, chè và
một số cây công nghiệp khác. Vào khoảng giữa thế kỷ XX, hầu như các khu rừng
thuộc châu thổ sông Hồng, một phần lớn châu thổ sông Cửu Long cùng với các
khu rừng trên đất thấp ven biển đã bị khai phá để trồng trọt và xây dựng xóm làng.
Vào lúc này độ che phủ của rừng còn lại 43% diện tích đất tự nhiên.

Ngày 28/10/2015

Trang 5



Đề tài: Sự suy giảm tự nhiên rừng ở Việt Nam - Nhóm 5

Ba mươi năm chiến tranh tiếp theo là giai đoạn mà rừng Việt Nam bị thu hẹp
lại khá nhanh. Hơn 80 triệu lít chất diệt cỏ cùng 13 triệu tấn bom đạn với hơn 25
triệu hố bom đạn, bom cháy cùng với đội xe ủi đất khổng lồ đã tiêu hủy hơn 2 triệu
ha rừng nhiệt đới các loại.
Bảng 1: Sự biến động diện tích rừng Việt Nam giai đoạn 1943-2009
( triệu ha )
Năm
Loại rừng
Tổng diện tích
Rừng tự nhiên
Rừng trồng
Độ che phủ (%)

1945

1976

1985

1995

2005

2009

14.3
14.3

0
43.0

11.2
11.1
0.1
33.8

9.9
9.3
0.6
30.0

9.3
8.3
1.0
28.2

12.7
10.2
2.5
38

13.2
10.3
2.9
39.1

Qua bảng số liệu 1 ta có thể thấy, từ năm 1945 đến năm 1995 tổng diện tích
rừng của nước ta liên tục giảm xuống (giảm 5 triệu ha trong vòng 50 năm, trung

bình mỗi năm giảm 0.1 triệu ha), trong đó đặc biệt giảm nhanh ở giai đoạn 1976 –
1985, trung bình mỗi năm mất khoảng 0.14 triệu ha. Nguyên nhân chính làm mất
rừng trong giai đoạn này là do dân số tăng nhanh, nạn đốt nương làm rẫy tràn
lan, quá trình khai hoang lấy đất trồng các cây công nghiệp như cà phê, chè,
cao su…và khai thác gỗ xuất khẩu. Từ những năm 1990 – 1995, do công tác
trồng rừng được đẩy mạnh đã phần nào làm cho diện tích rừng tăng lên, từ 9.3
triệu ha lên 13.2 triệu ha (trung bình mỗi năm tăng 0.21 triệu ha). Tuy nhiên, nhìn
chung diện tích rừng vẫn chưa thể phục hồi.
+ Trong tổng diện tích rừng thì rừng tự nhiên có xu hướng giảm đi rõ rệt và
đang dần bị thay thế bởi rừng trồng. Diện tích rừng tự nhiên liên tục giảm từ năm
1945 đến năm 1995 đặc biệt giảm nhanh trong giai đoạn 1976-1995 (giảm từ 11.1
triệu ha xuống còn 8.3 triệu ha tức là giảm 2.8 triệu ha trong vòng 19 năm, trung
bình mỗi năm giảm 0.11 triệu ha). Đặc biệt nghiêm trọng ở một số vùng, như Tây
Nguyên mất 440.000ha, vùng Đông Nam Bộ mất 308.000ha, vùng Bắc Khu IV cũ
mất 243.000ha, vùng Bắc Bộ mất 242.500ha. Nguyên nhân là do sau thời kỳ chiến
tranh, dân địa phương tranh thủ chặt gỗ làm nhà và lấy đất trồng trọt. Tình trạng đó
vẫn còn đang tiếp diễn cho đến ngày nay. Tuy nhiên từ năm 1995 đến nay diện tích
rừng tự nhiên đang có xu hướng tăng trở lại, năm 1995 là 8.3 triệu ha đến năm
2009 đạt 10.3 triệu ha ( trung bình mỗi năm tăng 0.5 triệu ha). Điều này được lí
giải là chủ yếu do sự phát triển của rừng tái sinh và rừng tre nứa mặc dù trong một
thời gian ngắn các loại rừng đó chưa thể thành rừng tự nhiên tốt được.
Trong 7 kiểu rừng tự nhiên chủ yếu ở nước ta thì trừ rừng lá rộng rụng lá và
rừng hỗn giao giữa gỗ và tre nứa tất cả các kiểu rừng còn lại đều giảm về diện tích.
Trong số này, rừng lá rộng thường xanh và nửa rụng lá là loại rừng bị giảm nhiều
Ngày 28/10/2015

Trang 6


Đề tài: Sự suy giảm tự nhiên rừng ở Việt Nam - Nhóm 5


nhất mà tiêu biểu là Đăc Lắc và Gia Lai ở Tây Nguyên. Cùng với đó, diện tích
rừng tre nứa cũng giảm tương đối nhanh nhất là ở Tây Nguyên, Bắc Trung Bộ và
Đông Bắc do việc đốt rừng làm rẫy và phá rừng để lấy đất trồng cây công nghiệp.
Diện tích rừng ngập mặn và rừng chua phèn cũng giảm mạnh do phá rừng để nuôi
trồng thủy sản đặc biệt ở vùng đồng bằng sông Cửu Long.
+ Trong những năm qua diện tích rừng trồng có xu hướng tăng lên rõ rệt đặc
biệt là từ năm 1995 trở lại đây. Năm 1995, diện tích rừng trồng nước ta mới có 1
triệu ha thì đến năm 2009 đã tăng lên 2.9 triệu ha, trung bình mỗi năm tăng 0.1
triệu ha. Sự gia tăng diện tích rừng trồng gắn liền với các chính sách khuyến lâm
đặc biệt là việc giao đất giao rừng cho các hộ nông dân. Ngoài ra còn có các
chương trình trồng rừng được sự hỗ trợ về vốn và kĩ thuật nhà nước của các tổ
chức quốc tế. Tuy nhiên, trên thực tế diện tích rừng trồng vẫn chưa bù đắp lại được
số diện tích rừng của nước ta đã bị mất đi trong những năm qua, đặc biệt là về chất
lượng rừng.
Cùng với sự biến động của diện tích rừng, độ che phủ rừng cũng biến động
thất thường qua các năm. Từ năm 1945 đến 1995 diện tích rừng liên tục giảm kéo
theo sự suy giảm của độ che phủ rừng từ 43% xuống còn 28.2% (giảm 14.8%). Từ
năm 1995 trở lại đây do diện tích rừng trồng tăng lên nên tỉ lệ che phủ rừng cũng
tăng đạt 39,1% năm 2009. Tuy nhiên, vẫn thấp hơn rất nhiều so với mức an toàn
sinh thái (45%).
Bảng 2: Bình quân diện tích rừng theo đầu người của Việt Nam giai đoạn
1943-2009
(Đơn vị: ha/người)
Năm
Ha/ngườ
i

1943
0.63


1976
0.23

1985
0.17

1995
0.13

1999
0.14

2005
0.15

2009
0.15

Bình quân diện tích rừng theo đầu người của nước ta vào loại thấp nhất thế
giới. Giai đoạn 1943-1995 diện tích rừng theo đầu người liên tục giảm mạnh từ
0.63 ha/người xuống còn 0.13 ha/người tức giảm tới 0.5 ha/người. Từ năm 1995
đến nay tuy có tăng lên nhưng không đáng kể. Năm 2009 chỉ số này là 0.15
ha/người thấp hơn nhiều so với trung bình của thế giới ( Diện tích rừng bình quân
đầu người của thế giới là 0.93 ha/người). Nguyên nhân là dân số nước ta tăng
nhanh trong khi diện tích rừng trồng bổ sung hàng năm là không đáng kể.
Bảng 3: Diện tích rừng bị chặt phá phân theo các vùng giai đoạn 1995-2009
( Đơn vị: ha )
Năm
Cả nước

Ngày 28/10/2015

1995
18914.0

1998

2001

2004

2007

7503.4

2819.7

2254.0

1348.1

Trang 7

Sơ bộ
2009
1563.0


Đề tài: Sự suy giảm tự nhiên rừng ở Việt Nam - Nhóm 5


Đồng bằng sông Hồng
Trung du miền núi
phía Bắc
Duyên hải miền Trung
Tây Nguyên
Đông Nam Bộ

115.0
2199.0

517.5
2116.1

505.0
218.2

393.7
208.2

3.2
229.0

8.5
309.3

2487.0
10134.0
1387.0

713.4

3092.7
751.0

199.7
1305.2
481.5

268.6
457.2
886.7

124.6
481.3
483.9

84.4
714.8
428.0

312.7

110.1

39.6

26.1

18.0

Đồng bằng sông Cửu 2592.0

Long

Một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự suy giảm diện tích rừng là
do nạn chặt phá rừng bừa bãi của người dân. Năm 1995 cả nước mất tới 18 914 ha,
từ đó đến nay tuy đã giảm nhưng trung bình mỗi năm diện tích rừng bị chặt phá
vẫn lên tới 1 239.3 ha. Trong phạm vi cả nước thì Tây Nguyên là vùng có diện tích
rừng bị chặt phá lớn nhất cả nước, năm 1995 là 10134 ha đến năm 2009 có giảm
mạnh nhưng vẫn bị mất tới 714.8 ha và trung bình mỗi năm diện tích rừng bị chặt
phá của vùng là 672.8 ha. Diện tích rừng bị chặt phá của vùng lớn nhất trong cả
nước là do tập quán đốt nương làm rẫy của các dân tộc thiểu số, mặt khác do chính
sách phá rừng để lấy đất trồng các cây công nghiệp dài ngày và ngắn ngày như:
cao cu, hồ tiêu, cà phê…( đây là vùng chuyên canh cây công nghiệp lớn nhất trong
cả nước).
Đồng bằng sông Hồng là vùng có diện tích rừng bị chặt phá thấp nhất cả nước
(năm 2009 diện tích bị chặt phá là 8.5 ha) do diện tích rừng ở khu vực này ít và
chính sách bảo vệ rừng được thực hiện nghiêm ngặt hơn. Đồng bằng sông Cửu
Long thời gian đầu tức năm 1995 diện tích rừng bị chặt phá lớn 2595 ha chủ yếu là
do phá rừng ngập mặn để nuôi trồng thủy sản, giai đoạn sau diện tích rừng bị chặt
phá đã giảm đáng kể chỉ còn 18 ha năm 2009.
Bảng 4: Diện tích rừng bị cháy phân theo các vùng giai đoạn 1995-2009
( Đơn vị: ha )
Năm

1995

Cả nước
7457.0
Đồng bằng sông 0.0
Hồng
Trung du và miền 679.0

núi phía Bắc
Duyên hải miền 1842.0
Trung
Ngày 28/10/2015

1998

2001

2004

2007

Sơ bộ
2009

19943.3 1523.4
170.1
48.5

4787.0
460.1

5136.4
979.2

1658.0
216.6

5051.0


270.0

1590.2

3059.0

1124.2

1195.1

488.1

503.6

328.9

222.0

Trang 8


Đề tài: Sự suy giảm tự nhiên rừng ở Việt Nam - Nhóm 5

Tây Nguyên
2344.0
Đông Nam Bộ
520.0
Đồng bằng sông 2072.0
Cửu Long


1246.1 301.5
2067.7 127.7
10213.3 287.7

367.6
97.6
1611.5

420.7
22.2
326.4

25.3
6.2
63.5

Bên cạnh việc chặt phá rừng thì cháy rừng cũng là nguyên nhân quan trọng
khiến diện tích rừng bị suy giảm nghiêm trọng trong những năm qua. Diện tích
rừng bị cháy của nước ta diễn biến thất thường qua các năm phụ thuộc vào điều
kiện thời tiết, khí hậu. Trung bình mỗi năm nước ta mất khoảng 414.2 ha rừng do
bị cháy, riêng năm 1998 là 1 trong những năm hạn hán nhất trong lịch sử diện tích
rừng bị cháy đạt tới con số kỉ lục 19 943,3 ha. Nhìn chung, trong cả nước thì đồng
bằng sông Cửu Long là vùng có diện tích rừng bị cháy lớn nhất cả nước năm 1995
là 2072 ha, năm 1998 là 10213.3 ha do đặc điểm khí hậu của khu vực này là có
một mùa khô kéo dài.
3.2. Về chất lượng rừng
Trước năm 1945 rừng nước ta có trữ lượng gỗ vào khoảng 200 – 300m3/ha,
trong đó các loài gỗ quí như đinh, lim, sến, táu, nghiến, trai, gụ là rất phổ biến.
Những cây gỗ có đường kính 40 – 50cm chiếm tới 40 – 50% trữ lượng của rừng.

Rừng tre nứa với những cây tre có đường kính 18 – 20cm, nứa 4 – 6cm và vầu 8 –
12cm rất phổ biến (Hoàng Hòe, 1998). Nhưng hiện nay chất lượng rừng đã giảm
sút đáng kể, chỉ còn chủ yếu là rừng nghèo có giá trị kinh tế không cao. Trữ lượng
gỗ rừng năm 1993 ước tính khoảng 525 triệu m3 (trung bình 76 m3/ha). Tốc
độ tăng trưởng trung bình của rừng Việt Nam hiện nay là 1 – 3m3/ha/năm, đối
với rừng trồng có thể đạt 5 – 10 m3/ha/năm.
Trong giai đoạn 1990-1995, tuy tổng diện tích rừng có tăng lên nhưng chất
lượng rừng thì giảm đi đáng kể. Diện tích rừng giàu (>150m3 gỗ/ha) và trung bình
(80-150 m3/ha) giảm từ 2458,7 nghìn ha xuống còn 2165,3 nghìn ha, trong khi
rừng nghèo (< 80 m3/ha) và rừng phục hồi tăng từ 4389.8 nghìn ha lên 4621.7
nghìn ha cũng trong thời gian trên.
Chất lượng, trữ lượng và giá trị đa dạng sinh học được duy trì, bảo tồn tốt
hơn ở những khu rừng đặc dụng đã được thành lập và có ban quản lý. Tuy nhiên,
tình trạng phổ biến là rừng tự nhiên vẫn bị suy giảm về chất lượng, những khu
rừng nguyên sinh, rừng giàu chủ yếu chỉ còn ở những khu rừng đặc dụng và phòng
hộ thuộc vùng sâu, vùng xa. Rừng tự nhiên thuộc quy hoạch rừng sản xuất hiện có
3.105.647ha, trong đó rừng giàu và trung bình chỉ còn 652.645 ha chiếm 21%,
rừng nghèo và rừng non 2.453.002ha chiếm 79% đa số là rừng tự nhiên tái sinh và
rừng phục hồi sau khai thác, sau canh tác nương rẫy.
Rừng trồng tăng nhanh cả về diện tích và trữ lượng trong những năm qua,
góp phần nâng cao độ che phủ rừng trong cả nước. Tuy nhiên, chất lượng rừng
trồng còn thấp, cấu trúc thiếu ổn định, giá trị về đa dạng sinh học, khả năng cung
Ngày 28/10/2015

Trang 9


Đề tài: Sự suy giảm tự nhiên rừng ở Việt Nam - Nhóm 5

cấp gỗ, tác dụng phòng hộ và bảo vệ môi trường chưa cao. Chất lượng rừng chưa

được cải thiện, vẫn tiếp tục bị suy giảm, rừng tự nhiên đầu nguồn và rừng ngập
mặn vẫn còn bị tàn phá nghiêm trọng. Rừng giầu, rừng kín, rừng nguyên sinh chỉ
còn chiếm khoảng 13% trong khi rừng nghèo và rừng tái sinh chiếm tới 55% tổng
diện tích rừng.
4. Nguyên nhân của hiện trạng suy giảm tài nguyên rừng Việt Nam.
Có thể nêu ra các nguyên nhân chính gây nên sự mất rừng và làm suy thoái
rừng ở nước ta là:
a) Nguyên nhân khách quan:
- Áp lực về dân số ở các vùng có rừng tăng nhanh do tăng cơ học, di cư tự do
từ nơi khác, đòi hỏi cao về đất ở và đất canh tác (những đối tượng này chủ yếu là
những hộ nghèo, đời sống gặp nhiều khó khăn, sinh kế chủ yếu dựa vào khai thác
tài nguyên rừng)  Đốt nương làm rẫy

Trong tổng số diện tích rừng bị mất hàng năm thì khoảng 40 – 50% là do đốt
nương làm rẫy. Ở Đắc Lắc trong thời gian từ 1991 – 1996 mất trung bình 3.000
đến 3.500 ha rừng/ năm, trong đó trên 1/2 diện tích rừng bị mất do làm nương rẫy.
- Nhận thức về bảo vệ rừng còn hạn chế, do đó vẫn tiếp tục phá rừng kiếm kế
sinh nhai, lấy đất canh tác hoặc làm thuê cho bọn đầu nậu, kẻ có tiền để phá rừng
hoặc khai thác gỗ, lâm sản trái phép.

Ngày 28/10/2015

Trang 10


Đề tài: Sự suy giảm tự nhiên rừng ở Việt Nam - Nhóm 5

- Do cơ chế thị trường, giá cả một số mặt hàng nông, lâm sản tăng cao, nhu cầu
về đất canh tác các mặt hàng này cũng tăng theo, nên đã kích thích người dân phá
rừng để lấy đất trồng các loại cây có giá trị cao hoặc buôn bán đất, sang nhượng

trái phép.

Ngày 28/10/2015

Trang 11


Đề tài: Sự suy giảm tự nhiên rừng ở Việt Nam - Nhóm 5

- Để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội trong tình hình mới, nhiều công
trình xây dựng, đường xá và cơ sở hạ tầng khác được xây dựng gây áp lực lớn đối
với rừng và đất lâm nghiệp, tạo môi trường thuận lợi cho các hoạt động phá rừng,
khai thác và vận chuyển lâm sản trái phép.

- Tình hình thời tiết diễn biễn ngày càng phức tạp, khô hạn kéo dài, bão lũ xảy
ra thường xuyên gây thiệt hại không nhỏ tới tài nguyên rừng. Diện tích rừng
khoanh nuôi phục hồi và rừng trồng tăng lên, dẫn đến nguy cơ xảy ra cháy rừng

Ngày 28/10/2015

Trang 12


Đề tài: Sự suy giảm tự nhiên rừng ở Việt Nam - Nhóm 5

- Dân số đông và tăng nhanh trong điều kiện cuộc sống ngày càng nâng cao
dẫn đến nhu cầu về tài nguyên rừng ngày càng lớn -> Khai thác quá mức vượt khả
năng phục hồi tự nhiên của rừng.

- Do khai thác không có kế hoạch, kỹ thuật khai thác lạc hậu làm lãng phí tài

nguyên rừng.

Ngày 28/10/2015

Trang 13


Đề tài: Sự suy giảm tự nhiên rừng ở Việt Nam - Nhóm 5

- Do ảnh hưởng của bom đạn và các chất độc hóa học trong chiến tranh, riêng
ở miền Nam đã phá hủy khoảng 2 triệu ha rừng tự nhiên.

b) Nguyên nhân chủ quan.
- Một là, công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật và cơ chế chính
sách về lâm nghiệp chưa được thực hiện có hiệu quả. Người dân, nhất là ở vùng
sâu, vùng xa chưa nhận thức đầy đủ tính cấp thiết của việc bảo vệ và phát triển
rừng, nên vẫn tiếp tục phá rừng, có nơi còn tiếp tay, làm thuê cho bọn đầu nậu, kẻ
có tiền.
- Hai là, các ngành, các cấp chính quyền, đặc biệt là cấp xã nhận thức chưa đầy
đủ, tổ chức thực hiện thiếu nghiêm túc trách nhiệm quản lý nhà nước về rừng và
đất lâm nghiệp. ở những điểm nóng phá rừng, do lợi ích cục bộ, đã làm ngơ, thậm
chí có biểu hiện tiếp tay cho các hành vi phá rừng, khai thác, tiêu thụ lâm sản, sang
nhượng đất đai trái phép, nhưng không bị xử lý nghiêm túc. Sau một thời gian thực
hiện các biện pháp kiên quyết ngăn chặn tình trạng phá rừng theo chỉ đạo của Thủ
tướng, một số nơi có biểu hiện thỏa mãn với thành tích, không duy trì hoạt động
thường xuyên, do vậy tình trạng phá rừng và các hành vi vi phạm pháp luật tiếp tục
tái xuất hiện.
- Ba là, chủ rừng là các lâm trường quốc doanh, Ban quản lý rừng phòng hộ và
rừng đặc dụng không đủ năng lực để quản lý, bảo vệ diện tích rừng được giao. Một
số đơn vị có biểu hiện thiếu trách nhiệm, thông đồng, tiếp tay cho hành vi phá rừng

(Đắk Nông, Kon Tum, Gia Lai, Bình Thuận,...). Các chủ rừng là hộ gia đình, cá
nhân và các tổ chức khác có diện tích quy mô nhỏ nên không thể tự tổ chức lực
lượng bảo vệ rừng được giao, vì vậy Nhà nước đang phải hỗ trợ bảo vệ rừng cho
Ngày 28/10/2015

Trang 14


Đề tài: Sự suy giảm tự nhiên rừng ở Việt Nam - Nhóm 5

những đối tượng này. Gần 3 triệu hécta rừng chưa có chủ, thuộc trách nhiệm quản
lý của Uỷ ban nhân dân xã, nhưng chưa có cơ chế để chính quyền cấp xã thực hiện
công tác quản lý, bảo vệ rừng có hiệu quả.
- Bốn là, cơ chế chính sách chậm đổi mới chưa tạo động lực thu hút các nguồn
lực cho bảo vệ rừng. Quyền và nghĩa vụ của chủ rừng thiếu rõ ràng, khi rừng bị
mất, chủ rừng (nhất là các chủ rừng thuộc Nhà nước) không phải chịu trách nhiệm
trực tiếp. Chính sách quyền hưởng lợi từ rừng chưa phù hợp với thực tiễn, lại chưa
được các địa phương thực hiện nghiêm túc. Công tác quy hoạch, kế hoạch thiếu
tính khoa học, chưa đồng bộ với các quy hoạch khác như quy hoạch phát triển kinh
tế xã hội, sử dụng đất đai,... nên quy hoạch không được thực hiện nghiêm túc,
thường xuyên bị phá vỡ. Công tác giao, cho thuê rừng, đất rừng, khoán bảo vệ
rừng đã đạt được những thành tựu đáng kể, nhưng việc cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất còn rất chậm, theo dõi việc sử dụng đất rừng sau khi giao, cho thuê
chưa thường xuyên. Thiếu sự đồng bộ, gắn kết trong tổ chức thực hiện các chương
trình, dự án (chương trình quốc gia về xóa đói giảm nghèo; các chương trình 135;
132 và 134; 120; 661). Việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn
thực hiện Luật chậm, chưa kịp thời quy định các biện pháp phối hợp để xử lý
nghiêm các hành vi vi phạm của lâm tặc và người có trách nhiệm quản lý Nhà
nước. Chưa có chiến lược hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, do
vậy việc ban hành các văn bản đơn hành còn mang tính giải quyết tình thế cấp

thiết.
- Năm là, chưa huy động được các lực lượng của xã hội cho bảo vệ rừng. Phối
hợp giữa các lực lượng Công an, Quân đội, Kiểm lâm ở nhiều địa phương chưa
thật sự có hiệu quả, còn mang tính hình thức, nhiều tụ điểm phá rừng trái phép
chưa có phương án giải quyết của liên ngành. Việc xử lý các vi phạm chưa kịp
thời, thiếu kiên quyết, còn có những quan điểm khác nhau của các cơ quan chức
năng ở một số địa phương. Trong khi lâm tặc phá rừng, khai thác gỗ trái phép với
thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt; chống trả người thi hành công vụ ngày càng
hung hãn; không xử lý kiên quyết, nghiêm minh, lâm tặc sẽ coi thường pháp luật
và tiếp tục chống người thi hành công vụ với mức độ phổ biến hơn.
- Sáu là, lực lượng kiểm lâm mỏng, địa vị pháp lý chưa rõ ràng, trang thiết bị,
phương tiện thiếu thốn, lạc hậu. Chế độ chính sách cho lực lượng kiểm lâm chưa
tương xứng với nhiệm vụ được giao. Vì vậy, ở những vùng trọng điểm phá rừng
nếu chỉ có lực lượng kiểm lâm không thể giải quyết dứt điểm. Trình độ chuyên
môn nghiệp vụ còn hạn chế (nhất là nghiệp vụ vận động quần chúng), một số công
chức kiểm lâm dao động trước khó khăn, thậm chí có biểu hiện tiêu cực. Công tác
đào tạo, huấn luyện nghiệp vụ, giáo dục đạo đức phẩm chất cho đội ngũ bảo vệ
rừng nhất là kiểm lâm chưa được coi trọng đúng mức, nên chưa có cơ sở vật chất
cho việc đào tạo, huấn luyện.

Ngày 28/10/2015

Trang 15


Đề tài: Sự suy giảm tự nhiên rừng ở Việt Nam - Nhóm 5

- Bảy là, cơ sở vật chất cho công tác bảo vệ rừng hết sức khó khăn. Những năm
qua nguồn đầu tư cho bảo vệ rừng chủ yếu từ chương trình 661, nhưng chỉ được
5% cho xây dựng cơ sở hạ tầng, vì vậy các công trình phòng cháy, chữa cháy rừng,

công trình nghiệp vụ khác được xây dựng không đáp ứng được yêu cầu bảo vệ
rừng bền vững. Tỷ trọng vốn đầu tư của xã hội cho công tác bảo vệ rừng không
đáng kể.
5. Một số giải pháp khắc phục.
Đây là vấn đề mang tính xã hội cao, để giải quyết vấn nạn này không đơn
thuần là giải pháp riêng biệt của một ngành, một lĩnh vực mà cần có những giải
pháp tổng hợp với sự tham gia của nhiều ngành chức năng
* Giải pháp về chính sách:
+ Những năm qua, chúng ta đã thực hiện một số chính sách về xây dựng cơ sở
hạ tầng, khuyến lâm, giao đất giao rừng và thực hiện các chính sách hưởng lợi từ
rừng cho người dân miền núi.
+ Tạo công ăn việc làm, đào tạo nghề, nâng cao năng lực quản lý kinh tế hộ gia
đình cho đồng bào dân tộc, tạo đầu ra cho các sản phẩm nông lâm kết hợp, chế
biến và bảo quản nông sản...
+ Tiếp tục đổi mới hệ thống quản lý ngành lâm nghiệp để đáp ứng nhu cầu cho
công tác quản lý và bảo vệ tài nguyên rừng, nhanh chóng xã hội hóa hoạt động lâm
nghiệp
+ Chấm dứt tình trạng tự do di cư - di canh bừa bãi đã tồn tại mấy chục năm
nay bằng cách quản lý chặt chẽ các đồng bào dân tộc chuyên sống du canh du mục
từ trước đến nay tại các địa phương.
* Về phía chính quyền:
- Các ngành chức năng phải làm tốt công tác truyền thông, cung cấp cho người
dân những hiểu biết, thông tin thiết thực phục vụ quá trình sản xuất, hướng dẫn để
người dân áp dụng có hiệu quả các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
- Đổi mới phương pháp tuyên truyền phù hợp với từng đối tượng tiếp nhận
thông tin, nhất là đối với đồng bào dân tộc sống ở vùng sâu, vùng xa.
- Đưa kiến thức cơ bản về bảo vệ tài nguyên rừng vào chương trình giảng dạy
ở cấp tiểu học và trung học. In ấn, phát hành các tài liệu tuyên truyền để phân phát
cho các cộng đồng, xây dựng các bảng tuyên truyền ở những khu vực công cộng,
trên giao lộ, cửa rừng...

- Vận động các hộ gia đình sống trong và gần rừng ký cam kết bảo vệ rừng;
xây dựng và thực hiện các quy ước bảo vệ rừng ở cấp xã.
* Giải pháp về tổ chức thực hiện:
+ Các cấp chính quyền, các chủ rừng phải xây dựng và tổ chức thực hiện có
hiệu quả các kế hoạch hoạt động và phương án bảo vệ rừng từng năm, từng giai
đoạn trên phạm vi địa phương mình quản lý.
Ngày 28/10/2015

Trang 16


Đề tài: Sự suy giảm tự nhiên rừng ở Việt Nam - Nhóm 5

+ Chú trọng tăng cường lực lượng và trang thiết bị đủ mạnh để bảo vệ rừng,
đồng thời có biện pháp quản lý hiệu quả đối với diện tích rừng đã được giao
+ Duy trì và tổ chức hoạt động của các tổ đội quần chúng bảo vệ rừng có hiệu
quả.. Các biện pháp bảo vệ rừng phải được xây dựng trên cơ sở gắn với các hoạt
động phát triển rừng và hướng tới cộng đồng.
+ Thực hiện những quy định về nguyên tắc quản lí, sử dụng và phát triển đối
với 3 loại rừng:
Đối với rừng phòng hộ: có kế hoạch, biện pháp bảo vệ, nuôi dưỡng rừng hiện
có, trồng rừng trên đất trống, đồi trọc.
Đối với rừng đặc dụng: bảo vệ cảnh quan, đa dạng về sinh vật của các vườn
quốc gia và các khu bảo tồn thiên nhiên.
Đối với rừng sản xuất đảm bảo duy trì phát triển diện tích và chất lượng rừng,
duy trì và phát triển hoàn cảnh rừng, độ phì và chất lượng đât rừng.
KẾT LUẬN
Tài nguyên rừng của nước ta có vai trò đặc biệt quan trọng đối với môi
trường cũng như đời sống sản xuất nhất là trong điều kiện nước ta ¾ diện tích là
đồi núi và dân số đông lại liên tục tăng nhanh. Tuy nhiên, hiện nay nguồn tài

nguyên này đã và đang bị suy giảm nghiêm trọng cả về trữ lượng lẫn chất lượng do
một loạt các nguyên nhân khách quan và chủ quan. Do vậy, bảo vệ tài nguyên rừng
đang là vấn đề đặt ra hàng đầu đối với nước ta hiện nay. Đây là vấn đề mang tính
xã hội cao, để giải quyết vấn nạn này không đơn thuần là giải pháp riêng biệt của
một ngành, một lĩnh vực mà cần có những giải pháp tổng hợp với sự tham gia của
nhiều ngành chức năng.

Ngày 28/10/2015

Trang 17


Đề tài: Sự suy giảm tự nhiên rừng ở Việt Nam - Nhóm 5

Ngày 28/10/2015

Trang 18



×