DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT VÀ SƠ ĐỒ BẢNG BIỂU
KTV Kiểm toán viên
ISA International standards on Auditing -Chuẩn mực
kiểm toán quốc tế
GAAS General Aceepted Auditing Standards –Chuẩn mực
kiểm toán được chấp nhận rộng rãi
SAS Statement on Auditing Standards –Văn bản về chuẩn
mực kiểm toán
VSA Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam
BCTC Báo cáo tài chính
KSNB Kiểm soát nội bộ
Sơ đồ 1 Lập kế hoạch và thiết kế phương pháp kiểm toán
Bảng 1 Thư hợp đồng
Sơ đồ 2 Quy trình đánh giá hệ thống KSNB và rủi ro kiểm
soát của khách hàng
Sơ đồ 3 Phương pháp luận thiết kế các khảo sát chi tiết số dư
LỜI MỞ ĐẦU
1
Ngày nay trong xu thế hội nhập quốc tế, cùng với sự đổi mới phát triển của
nền Tài chính quốc gia, việc hình thành và phát triển hoạt động Kiểm toán độc lập
vừa là đòi hỏi của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và
cũng là bộ phận cấu thành quan trọng của hệ thống công cụ quản lý vĩ mô nền
kinh tế -tài chính góp phần tích cực vào công cuộc phát triển kinh tế xã hội. Trong
môi trường kinh tế đầy thuận lợi nhưng cũng không ít cạnh tranh và thách thức,
các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các công ty kiểm toán nói riêng không
ngừng khẳng định uy tín và nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ cung cấp. Lập
kế hoạch một cách khoa học, hiệu quả là một yếu tố quan trọng góp phần nâng
cao chất lượng của cuộc kiểm toán giúp cho các công ty kiểm toán nâng cao uy tín
của mình trên thị trường.
Hiện nay các công ty kiểm toán hàng đầu thế giới hầu hết xây dựng cho
mình một quy chuẩn về lập kế hoạch kiểm toán giúp kiểm toán viên thực hiện
việc kiểm toán một cách hiệu quả tránh được những rủi ro không mong muốn,
giảm được chi phí kiểm toán. Tuy nhiên ở Việt Nam việc lập kế hoạch chưa được
quan tâm đúng mức vì thế tìm hiểu và hoàn thiện quy trình lập kế hoạch kiểm toán
là một vần đề cần được các cán bộ, các ban ngành, các công ty kiểm toán quan
tâm. Nhận rõ được tầm quan trọng của lập kế hoạch trong quá trình kiểm toán em
đã chọn đề tài “Bàn về lập kế hoạch kiểm toán trong quy trình kiểm toán”
Mục đích nghiên cứu của đề tài này là nghiên cứu lí thuyết kiểm toán về lập
kế hoạch kiểm toán từ đó rút ra những nhận xét về thực trạng lập kế hoạch kiểm
toán trong công tác kiểm toán tại Việt Nam và đưa ra những kiến nghị hoàn thiện
lập kế hoạch trong công tác kiểm toán.
Đề án này được trình bày các phần cụ thể sau:
Lời mở đầu
Chưong I : Cơ sở lập kế hoạch
Chương II : Hoàn thiện lập kế hoạch kiểm toán trong công tác kiểm
toán
Kết luận
2
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LẬP KẾ HOẠCH KIỂM TOÁN
1.1 Khái niệm và vai trò của lập kế hoạch kiểm toán trong quá trình
kiểm toán
1.1.1 Khái niệm lập kế hoạch kiểm toán
Lập kế hoạch kiểm toán là giai đoạn đầu tiên mà người kiểm toán viên cần
thực hiện trong mỗi cuộc kiểm toán nhằm tạo ra các điều kiện cần thiết khác cho
kiểm toán.
Theo chuần mực kiểm toán số 300 (ISA 300) quy định trách nhiệm của
kiểm toán viên về lập kế hoạch kiểm toán báo cáo tài chính. ISA 300 chỉ rõ lập kế
hoạch kiểm toán là nội dung của cuộc kiểm toán “Lập kế hoạch là công việc có ý
nghĩa chiến lược tổng thể và là một phương pháp tiếp cận với các chi tiết có tính
chất thời gian dự tính và nội dung của một cuộc kiểm toán. Mục tiêu lập kế hoạch
là để có thể thực hiện một cuộc kiểm toán một cách có hiệu quả”
Lập kế hoạch kiểm toán là giai đoạn đầu tiên của một cuộc kiểm toán có vai
trò quan trọng, chi phối tới chất lượng và hiệu quả chung của toàn bộ cuộc kiểm
toán. Ý nghĩa của giai đoạn này được thể hiện qua một số điểm sau:
• Kế hoạch kiểm toán giúp KTV thu thập được các bằng chứng kiểm toán
đầy đủ và có giá trị làm cơ sở để đưa ra các ý kiến xác đáng về các báo
cáo tài chính, từ đó giúp các KTV hạn chế các sai sót, giảm thiểu trách
nhiệm pháp lý, nâng cao hiệu quả công việc và giữ vững được uy tín
nghề nghiệp đối với khách hàng.
• Kế hoạch kiểm toán giúp KTV phối hợp hiệu quả với nhau cũng như
phối hợp hiệu quả với các bộ phận có liên quan như kiểm toán nội bộ,
các chuyên gia nước ngoài… Đồng thời qua sự phối hợp hiệu quả đó,
KTV có thể tiến hành cuộc kiểm toán theo đúng chương trình đã lập với
3
các chi phí ở mức hợp lý, tăng cường sức mạnh cạnh tranh cho công ty
kiểm toán và giữ uy tín với khách hàng trong mối quan hệ làm ăn lâu
dài.
• Kế hoạch kiểm toán thích hợp là căn cứ để công ty kiểm toán tránh xa
những bất đồng đối với khách hàng. Trên cơ sở lập kế hoạch kiểm toán
đã lập, KTV thống nhất với khách hàng về nội dung công việc sẽ thực
hiện, thời gian tiến hành kiểm toán cũng như trách nhiệm của mỗi bên…
Điều này tránh xảy ra những hiểu lầm đáng tiếc giữa hai bên.
• Ngoài ra, căn cứ vào kế hoạch kiểm toán đã được lập, KTV có thể kiểm
soát và đánh giá chất lượng công việc kiểm toán đã và đang thực hiện,
góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của cuộc kiểm toán, từ đó
càng thắt chặt hơn mối quan hệ giữa công ty kiểm toán với khách hàng.
Việc lập kế hoạch kiểm toán đã được quy định rõ trong chuẩn các chuẩn
mực kiểm toán như chuẩn mực kiểm toán được chấp nhận rộng rãi (GAAS),
chuẩn mực kiểm toán quốc tế (ISA), chuẩn mực kiểm toán Việt Nam (VSA)
Kế hoạch kiểm toán gồm ba (3) bộ phận:
+ Kế hoạch chiến lược;
+ Kế hoạch kiểm toán tổng thể;
+ Chương trình kiểm toán
Kế hoạch chiến lược: Là định hướng cơ bản, nội dung trọng tâm và phương
pháp tiếp cận chung của cuộc kiểm toán do cấp chỉ đạo vạch ra dựa trên hiểu biết
về tình hình hoạt động và môi trường kinh doanh của đơn vị kiểm toán.
Kế hoạch chiến lược phải được lập cho các cuộc kiểm toán lớn về quy mô,
tính chất phức tạp, địa bàn rộng hoặc kiểm toán báo cáo tài chính của nhiều năm
Kế hoạch chiến lược vạch ra mục tiêu, định hướng cơ bản, nội dung trọng
tâm, phương pháp tiếp cận và tiến trình của cuộc kiểm toán. Kế hoạch chiến lược
do người phụ trách cuộc kiểm toán lập và được Giám đốc (hoặc người đứng đầu)
4
công ty kiểm toán phê duyệt. Kế hoạch chiến lược là cơ sở lập kế hoạch kiểm toán
tổng thể, là cơ sở chỉ đạo thực hiện và kiểm soát xét kết quả cuộc kiểm toán.
Kế hoạch chiến lược được lập thành một văn bản riêng hoặc được lập thành
một phần riêng trong kế hoạch kiểm toán tổng thể.
Kế hoạch kiểm toán tổng thể: Là việc cụ thể hóa kế hoạch chiến lược và
phương pháp tiếp cận chi tiết về nội dung, lịch trình và phạm vi dự kiến của các
thủ tục kiểm toán. Mục tiêu của việc lập kế hoạch kiểm toán tổng thể là để có thể
thực hiện công việc kiểm toán một cách có hiệu quả và theo đúng thời gian dự
kiến.
Lập chương trình kiểm toán
Chương trình kiểm toán phải được lập và thực hiện cho mọi cuộc kiểm
toán, trong đó xác định nội dung, lịch trình và phạm vi của các thủ tục kiểm toán
cần thiết để thực hiện kế hoạch kiểm toán tổng thể.
1.2 Trình tự lập kế hoạch kiểm toán và thiết kế các phương pháp kiểm toán
Lập kế hoạch kiểm toán bao gồm kế hoạch kiểm toán tổng quát và kế hoạch
kiểm toán cụ thể, gồm sáu bước công việc như sau:
Sơ đồ 1: Lập kế hoạch và thiết kế phương pháp kiểm toán
5
1.2.1 Chuẩn bị kế hoạch kiểm toán
Qui trình kiểm toán bắt đầu khi kiểm toán viên và công ty kiểm toán thu
nhận một khách hàng. Thu nhận khách hàng là một quá trình gồm hai bước: thứ
nhất, phải có sự liên lạc giữa KTV với khách hàng tiềm năng mà khách hàng này
yêu cầu được kiểm toán và khi có yêu cầu kiểm toán, KTV phải đánh giá liệu có
chấp nhận yêu cầu đó hay không. Còn đối với những khách hàng hiện tại, KTV
phải quyết định liệu có tiếp tục kiểm toán hay không? Trên cơ sở đã xác định
được đối tượng khách hàng có thể phục vụ trong tương lai, công ty kiểm toán bao
gồm: đánh giá khả năng chấp nhận kiểm toán, nhận diện các lý do kiểm toán, lựa
chọn đội ngũ nhân viên kiểm toán và đạt được một hợp đồng kiểm toán.
1.2.1.1 Đánh giá khả năng chấp nhận kiểm toán
Cho dù việc nhận được và giữ được khách hàng không phải là điều dễ dàng
trong một nghề nghiệp có tính cạnh tranh như kiểm toán độc lập, một công ty
kiểm toán phải thận trọng trong việc quyết định khách hàng nào sẽ được chấp
nhận. Trách nhiệm pháp lý và trách nhiệm nghề nghiệp của công ty chỉ rõ những
Chuẩn bị kế hoạch kiểm toán
Thu thập thông tin cơ sở
Thu thập về thông tin nghĩa
vụ pháp lý của khách hàng
Đánh giá trọng yếu, rủi ro
kiểm toán
Tìm hiểu thông tin kiểm soát
nội bộ và đánh giá rủi ro
kiểm soát
Lập kế hoạch kiểm toán toàn
diện và soạn thảo chương
trình kiểm toán
6
khách hàng không trung thực hoặc thường xuyên tranh cãi về cách điều hành đúng
đắn của cuộc kiểm toán và tiền thù lao có thể gây ra nhiều vấn đề hơn là chúng có
Quá trình điều tra đối với khách hàng mới
Trước khi chấp nhận một khách hàng mới, hầu hết các công ty kiểm toán
đều điều tra công ty khách hàng để xác định khả năng chấp nhận nó. Nếu có thể,
phải đánh giá vị trí tương lai của công ty khách hàng trong giới kinh doanh, trạng
thái ổn định về mặt tài chính, các mối quan hệ của công ty với các công ty kiểm
toán trước kia.
Đối với những khách hàng hàng trong tương lai mà trước đây đã được kiểm
toán bởi một công ty kiểm toán khác, KTV mới (người kế tục) theo quy định của
SAS7 (AU 315), phải liên lạc với kiểm toán viên tiền nhiệm. Mục đích của quy
định này là để giúp kiểm toán viên kế tục đánh giá liệu có nên chấp nhận hợp
đồng không. Ví dụ, việc liên lạc có thể thông báo cho kiểm toán viên kế tục biết là
khách hàng Trách nhiệm khởi xướng mối liên lạc thuộc về kiểm toán viên kế tục.
Cần phải được phép của khách hàng trước khi thành lập mối liên lạc vì đó là quy
định về tính bảo mật trong bộ điều lệ đạo đức nghề nghiệp. Trong trường hợp có
các vấn đề pháp lý hoặc tranh cãi giữa những khách hàng và người tiền nhiệm có
thể được hạn chế ở việc nói rằng không có thông tin nào sẽ được cung cấp. Người
kế tục phải xem xét một cách nghiêm túc khả năng thỏa đáng của việc chấp nhận
một hợp đồng xắp tới, mà không cần việc điều tra đáng kể khác, nếu khách hàng
không cho phép sự liên lạc hoặc người tiền nhiệm không đáp ứng toàn diện.
Khi một khách hàng tương lai chưa được kiểm toán bởi công ty kiểm toán
khác thì cần có các cuộc điều tra khác. Cách tương tự có thể được tuân theo khi
kiểm toán viên tiền nhiệm không cung cấp thông tin mong muốn hoặc nếu có bất
kỳ dấu hiệu nào về vấn đề sẽ phát sinh từ mối liên lạc.
Sự tiếp tục đối với khách hàng cũ
Nhiều công ty kiểm toán đánh giá số khách hàng hiện có hàng năm để xác
định liệu có những lý do nào để không tiếp tục thực hiện kiểm toán hay không.
7
Những mâu thuẫn trước đây về những điều như phạm vi thích hợp của cuộc kiểm
toán, loại báo cáo kiểm toán phải công bố, hoặc tiền thù lao có thể khiến cho kiểm
toán viên phải đình chỉ hợp tác. KTV cũng có thể xác định liệu khách hàng có
thiếu tính liêm chính cơ bản hay không để từ đó không còn là khách hàng nữa.
Nếu có một vụ kiện công ty kiểm toán về phía khách hàng hoặc một vụ kiện
khách hàng về phía công ty kiểm toán, công ty không thể thực hiện cuộc kiểm
toán.
Ngoài ra, đối với cả khách hàng cũ và mới, khi đánh giá khả năng chấp
nhận kiểm toán, KTV phải xem xét hệ thống kiểm soát chất lượng và xem xét tính
liêm chính của chính Ban giám đốc công ty khách hàng.
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 220 Kiểm soát chất lượng đối với việc
thực hiện một hợp đồng kiểm toán của một công ty kiểm toán cho rằng KTV phải
xem xét hệ thống kiểm soát chất lượng khi đánh giá khả năng chấp nhận khách
hàng. Một trong 5 bộ phận của hệ thống kiểm soát chất lượng được xác định trong
chuẩn mực này là việc thiết lập các chính sách và thủ tục về khả năng chấp nhận
và tiếp tục khách hàng cũng như chấp nhận và tiếp tục hợp đồng kiểm toán. Đoạn
14 của chuẩn mực hướng dẫn: Các chính sách và thủ tục nên được thiết lập để
quyết định có hay không việc chấp nhận khách hàng.
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 400 Đánh giá rủi ro và kiểm soát
nội bộ, tính liêm chính của ban quản trị là bộ phận cấu thành then chốt của môi
trường kiểm soát, đây là nền tảng cho tất cả các bộ phận khác của hệ thống kiểm
soát nội bộ. Vì vậy tính liêm chính của ban quản trị có thể phản ánh sai các nghiệp
vụ hoặc dấu diếm các thông tin dẫn tới các sai sót trọng yếu trên BCTC. Những
ghi ngại về tính liêm chính của ban quản trị có thể nghiêm trọng đến nỗi KTV kết
luận rằng cuộc kiểm toán không thể thực hiện được.
Điều cân nhắc cuối cùng nhưng quan trọng nhất của KTV khi đánh giá có
chấp nhận khách hàng hay không chính là việc xác định khả năng có thể kiểm
toán của khách hàng. Mặc dù khách hàng tiềm năng và người sử dụng BCTC có
8
thể tiến hành kiểm toán và đưa ra ý kiến đánh giá, ví dụ: một vụ hỏa hoạn (có thể)
đã phá những chứng từ kiểm toán cần thiết đối với KTV hay hệ thống kế toán của
khách hàng không thể cung cấp đầy đủ bằng chứng chứng minh cho các nghiệp vụ
phát sinh.
1.2.1.2 Nhận diện lý do kiểm toán của công ty khách hàng
Thực chất của việc nhận diện các lý do kiểm toán của công ty khách hàng là
việc xác định người sử dụng báo cáo tài chính và mục đích sử dụng báo cáo của
họ.
Để biết được điều đó, KTV có thể phỏng vấn trực tiếp ban giám đốc kế
khách hàng (đối với khách hàng mới) hoặc dựa trên kinh nghiệm của cuộc kiểm
toán đã được thực hiện trước đó (đối với khách hàng cũ). Và trong suốt quá trình
thực hiện kiểm toán sau này, KTV sẽ thu thêm thông tin để hiểu biết thêm về lý
do kiểm toán của công ty khách hàng.
Việc xác định người sử dụng báo cáo tài chính và mục đích sử dụng báo
cáo của họ là hai yếu tố chính ảnh hưởng đến số lượng bằng chứng phải thu thập
và mứa độ chính xác của các ý kiến mà các KTV đưa ra trong báo cáo kiểm toán.
Cụ thể, nếu các báo cáo tài chính được đòi hỏi càng cao và do số lượng bằng
chứng kiểm toán cần thu thập cũng như quy mô và độ phức tạp của cuộc kiểm
toán sẽ càng tăng lên. Điều này càng đòi hỏi phải có một số lượng và cơ cấu KTV
thích hợp để thực hiện cuộc kiểm toán.
Ở Việt Nam hiện nay, theo Thông tư số 22 (Ngày 19/03/1994) của bộ Tài
chính hướng dẫn việc thực hiện quy chế về kiểm toán độc lập trong nền kinh tế
quốc dân chỉ có các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (doanh nghiệp liên
doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài) và các đồng hợp tác kinh
doanh với nước ngoài là phải kiểm toán trước khi công khai báo cáo tài chính, và
gửi báo cáo tài chính này tới các bộ ngành chức năng, Tổng cục thuế và các cổ
đông… Tuy nhiên trong thực tế, do sự phát triển rộng rãi và thị trường chứng
khoán phát triển thì số lượng người sử dụng báo cáo tài chính tăng lên rất nhiều.
9
Do vậy công ty kiểm toán cần xác định lý do kiểm toán của khách hàng; căn cứ
vào tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như dựa trên khả năng của công
ty để đề ra quyết định hợp lý trong việc ký kết hợp đồng kiểm toán cũng như thiết
kế phương pháp kiểm toán.
Như vậy thông qua lý do kiểm toán của khách hàng công ty kiểm toán cần
ước lượng được quy mô của công việc kiểm toán cần thực hiện từ đó tạo điều kiện
thuận lợi cho việc lựa chọn đội ngũ nhân viên thích hợp để thực hiện cuộc kiểm
toán ở bước tiếp theo trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán.
1.2.1.3 Lựa chọn đội ngũ nhân viên kiểm toán
Lựa chọn đội ngũ nhân viên kiểm toán thích hợp cho hợp đồng kiểm toán
không những đạt hiệu quả của cuộc kiểm toán mà còn tuân thủ các chuẩn mực
kiểm toán chung được thừa nhận. Chuẩn mực kiểm toán chung đầu tiên đã nêu rõ
“quá trình kiểm toán phải được thực hiện bởi một hoặc nhiều người đã được đào
tạo đầy đủ thành thạo như một kiểm toán viên” Việc lựa chọn này được tiến hành
trên yêu cầu về số người, trình độ khả năng và yêu cầu chuyên môn kỹ thuật và
thường do ban giám đốc công ty kiểm toán trực tiếp chỉ đạo (thông thường nhóm
kiểm toán có một hoặc hai trợ lý kiểm toán, một KTV cao cấp và một chủ nhiệm
kiểm toán). Với các hợp đồng lớn đội ngũ kiểm toán viên thường ở mức kinh
nghiệm khác nhau và có sự tham gia của các chuyên gia trong lĩnh vực thống kê,
vi tính… còn đối với những hợp đồng nhỏ thì chỉ cần một hoặc hai thành viên
trong nhóm kiểm toán.
Trong quá trình lựa chọn đội ngũ nhân viên, công ty kiểm toán cần quan
tâm tới 3 vấn đề:
Thứ nhất: Nhóm kiểm toán có những người có khả năng giám sát thích
đáng các nhân viên chưa có nhiều kinh nghiệm trong nghề, và điều này cũng được
chuẩn mực đầu tiên cho việc kiểm toán tại khách hàng đòi hỏi.
Thứ hai: Công ty kiểm toán cần tránh thay đổi KTV trong các cuộc kiểm
toán cho một khách hàng trong nhiều năm
10
Thứ ba: Khi phân công KTV thực hiện cuộc kiểm toán cần chú ý lựa chọn
những KTV có kiến thức và kinh nghiệm về ngành nghề kinh doanh của khách
hàng.
Việc quan tâm đầy đủ các vấn đề trên khi lựa chọn đội ngũ kiểm toán sẽ
góp phần giúp công ty kiểm toán thực hiện cuộc kiểm toán có chất lượng và hiệu
quả.
1.2.1.4 Hợp đồng kiểm toán
Khi đã quyết định chấp nhận kiểm toán cho khách hàng và xem xét các vấn
đề trên, bước cuối cùng trong giai đoạn chuẩn bị kiểm toán mà công ty kiểm toán
phải đạt được là một hợp đồng kiểm toán. Đây là sự thỏa thuận chính thức giữa
công ty kiểm toán và dịch vụ liên quan khác.
Ở nhiều nước, thư hẹn kiểm toán thường do KTV soạn thảo và gửi cho
khách hàng, nếu khách hàng chấp thuận các điều khoản trong hợp đồng thì họ sẽ
ký vào thư hợp đồng và gửi trả lại một bản sao đã ký cho công ty kiểm toán. Thư
hợp đồng là một thỏa hiệp giữa công ty kiểm toán và khách hàng về sự điều hành
cuộc kiểm toán và các dịch vụ liên quan. Nó phải chỉ rõ là KTV sẽ thực hiện một
cuộc kiểm toán, một cuộc xem xét lại, hoặc một cuộc soạn thảo, cùng với những
dịch vụ khác như dịch vụ lập bản khai thuế hay thời hạn cuối cùng để hoàn thành
cuộc kiểm toán, sự giúp đỡ của công ty khách hàng trong quá trình thu thập số
liệu và chứng từ, và các bảng kê phải lập cho KTV. Thông thường trong thư hợp
đồng cũng đề cập đến thỏa thuận về tiền thù lao. Thư hợp đồng cũng là một
phương tiện để thông báo cho khách hàng là KTV sẽ không chịu trách nhiệm đối
với việc phát hiện tất cả các hành vi gian lận. Thư hợp đồng không ảnh hưởng đến
trách nhiệm của công ty kiểm toán, đối với những người bên ngoài sử dụng các
báo cáo tài chính đã được kiểm toán, nhưng nó có thể ảnh hưởng
11
Bảng 1: Thư hợp đồng
Công ty kiểm toán độc lập
Berger and Wild Gary, Indiana 46405
Ông Virgil Hocking, chủ tịch
Kinh doanh thép
2146 Willow St
Gary, Indiana 4605
Kính thưa Ông Hocking,
Thư này xác nhận quá trình xắp xếp của chúng tôi đối với công tác kiểm toán công ty kinh
doanh thép cho năm kết thúc vào ngày 31/12/N
Mục đích hợp đồng của chúng tôi là kiểm tra các báo cáo tài chính của công ty năm N kết
thúc vào ngày 31/12/N và đánh giá tính trung thực của cách trình bày các báo cáo tài chính có
phù hợp với các nguyên tắc kế toán đã được thừa nhận hay không.
Quá trình kiểm tra của chúng tôi sẽ được điều hành phù hợp với những chuẩn mực kiểm toán
đã được thừa nhận, sẽ gồm một sự xem xét lại cơ cấu kiểm toán nội bộ và các cuộc khảo sát các
quá trình kiểm soát đến mức độ mà chúng tôi thấy là cần thiết. Do đó, quá trình kiểm tra của
chúng tôi sẽ không bao gồm cuộc kiểm toán chi tiết các nghiệp vụ kinh tế đến mức độ cần cố
nếu nhằm phát hiện những gian lận hoặc các sai quy tắc khác mà không có tính nghiêm trọng
đối với các báo cáo tài chính,dù sự phát hiện chúng có thể có.
Chúng tôi quan tâm chủ yếu vào sự kiện Ban Quản trị có trách nhiệm đối với việc ghi các
nghiệp vụ kế toán vào tài khoản trên các sổ sách kế toán, đối với việc bảo vệ tài sản và đối với
tính chính xác thực sự của các báo cáo tài chính. Những báo cáo này thuộc trách nhiệm của Ban
quản trị.
12
Thời gian của cuộc kiểm tra được lên lịch thực hiện và hoàn thành như sau:
Bắt đầu Hoàn thành
Các khảo sát mở đầu 11/9 24/9/N
Thu về cơ cấu kiểm soát nội bộ 3/10/N
Quá trình khóa sổ cuối năm 3/2/N 18/12/N
Giao báo cáo và bản khai thuế 10/3/N
Sự giúp đỡ từ phía nhân viên của quý công ty, gồm quá trình chuẩn bị các bảng kê và bảng
phân tích các khoản, được trình bày trong một bản đính kèm riêng. Sự hoàn thành đúng lúc các
công việc này sẽ làm dễ dàng cho quá trình kết luận về cuộc kiểm tra của chúng tôi.
Thù lao của chúng tôi dựa vào số lượng thời gian cần thiết theo các cấp bậc trách nhiệm khác
nhau, cộng với các phí tổn cá nhân thực tế (đi lại, đánh máy, điện thoại….) phản ánh trên hóa
đơn. Chúng tôi sẽ lập tức thông báo cho quý ông về mọi tình huống chúng tôi gặp phải mà có
thể ảnh hưởng đáng kể đến tổng mức thù lao dự kiến ban đầu là 23.000USD.
Nếu những điều trình bày ở trên được quý ông chấp thuận, xin ông vui lòng ký vào dưới đây
cho chúng tôi bản sao của thư này
Trân trọng
John Wild (Kí tên)
Chấp thuận:
Do: Virgil Hocking
Ngày: 21/6/N
Ở Việt Nam, theo Chuẩn mực kiểm toán số 210 thì hợp đồng kiểm toán
phải được lập và kí chính thức trước khi tiến hành công việc kiểm toán nhằm bảo
vệ quyền lợi của khách hang và của công ty kiểm toán. Trong một số trường hợp
đặc biệt, “nếu khách hàng và công ty kiểm toán sử dụng văn bản cam kết phải
đảm bảo các điều khoản về điều kiện cơ bản của hợp đồng kiểm toán”.
Trong chuẩn mực kiểm toán 210 cũng quy định việc kí kết hợp đồng kiểm
toán phải tuân thủ các quy định của pháp luật ban hành về hợp đồng kinh tế mà cụ
thế là Pháp lệnh hợp đồng kinh tế (ban hành ngày 25/09/1989) và Nghị định số
17/ HĐBT (nay là Chính phủ) ban hành ngày 16/01/1990 quy định chi tiết về việc
thi hành pháp lệnh hợp đồng kinh tế. Điều này phù hợp với thực tế Việt Nam khi
hoạt động kiểm toán chưa được hiểu biết rộng rãi và môi trường pháp lý cho hoạt
động kiểm toán chưa ổn định. Để tạo điều kiện cho hoạt động kiểm toán của các
hãng quốc tế tại Việt Nam và sự liên kết giữa các hãng này với các công ty kiểm
toán Việt Nam trong quá trình kiểm toán các công ty, các dự án có vốn đầu tư
13
nước ngoài… Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 210 đã cho pháp sử dụng cam
kết khác thay vì sử dụng hợp đồng kiểm toán do các hãng kiểm toán này và các
khách hàng của họ đã quen với hình thức thư hẹn kiểm toán.
Nội dung của hợp đồng kiểm toán bao gồm:
- Mục đích và phạm vi kiểm toán: Mục tiêu của cuộc kiểm toán là cái đích
cần đạt tới đồng thời là thước đo kết quả của mỗi cuộc kiểm toán cụ thể.
Trong một cuộc kiểm toán BCTC do kiểm toán độc lập tiến hành, mục
tiêu của kiểm toán thường là xác định tính trung thực và hợp lý của các
thông tin trên BCTC. Phạm vi kiểm toán là sự giới hạn về không gian,
thời gian của đối tượng kiểm toán, thường được xác định cùng với việc
xác định mục tiêu của cuộc kiểm toán. Trong cuộc kiểm toán BCTC,
phạm vi kiểm toán thường là toàn bộ BCTC của năm kết thúc.
- Trách nhiệm Ban giám đốc công ty khách hàng và KTV; ban giám đốc
có trách nhiệm trong việc lập và trình bày trung thực các thông tin trên
BCTC, KTV có trách nhiệm đưa ra ý kiến độc lập về BCTC dựa trên kết
quả của cuộc kiểm toán. Và trách nhiệm của công ty khách hàng trong
việc cung cấp các tài liệu và thông tin liên quan đến công việc kiểm
toán.
- Hình thức thông báo kết quả kiểm toán: Kết quả kiểm toán thường được
biểu hiện cụ thể dưới một báo cáo kiểm toán có đính kèm theo một thư
quản lý trong đó nêu rõ những khiếm khuyết của hệ thống kiểm soát nội
bộ hoặc những gợi ý sửa chữa những khiếm khuyết này.
- Thời gian tiến hành cuộc kiểm toán, thời gian thực hiện kiểm toán sơ bộ,
kiểm toán chính thức, thời điểm kết thúc kiểm toán và phát hành báo cáo
kiểm toán.
- Căn cứ tính giá phí cuộc kiểm toán và hình thức thanh toán phí kiểm
toán thường được BCTC xác định căn cứ vào thời gian làm việc của các
cấp KTV khác nhau trong cuộc kiểm toán.
14
- Xác định rằng KTV không chịu trách nhiệm những sai sót do bản chất
và hạn chế vốn có của hệ thống kế toán, kiểm soát nội bộ và kiểm toán.
Thư hợp đồng hoặc hợp đồng kiểm toán là cơ sở pháp lý để KTV thực hiện
các bước tiếp theo của cuộc kiểm toán và có thể ảnh hưởng đến trách nhiệm pháp
lý của KTV đối với khách hàng, nó đảm bảo cho một kiểm toán thực thi.
1.2.2 Thu thập thông tin cơ sở:
1.2.2.1 Tìm hiểu ngành nghề hoạt động kinh doanh của khách hàng
Theo Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 300 đòi hỏi KTV phải tìm hiểu
ngành nghề và hoạt động kinh doanh của khách hàng “Khi lập kế hoạch kiểm
toán, KTV phải hiểu biết hoạt động của đơn vị được kiểm toán để nhận biết được
các sự kiện, nghiệp vụ có thể ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài chính.”
Những hiểu biết về ngành nghề hoạt động kinh doanh bao gồm những hiểu
biết chung về nền kinh tế, lĩnh vực hoạt động của đơn vị kiểm toán. Chuẩn mực
kiểm toán số 300 cũng chỉ rõ nội dung:
Hiểu biết về hoạt động của đơn vị được kiểm toán
- Hiểu biết chung về kinh tế và đặc điểm của lĩnh vực kinh doanh có tác
động đến đơn vị được kiểm toán;
- Các đặc điểm cơ bản của khách hàng như: Lĩnh vực hoạt động, kết quả
tài chính và nghĩa vụ cung cấp thông tin kể cả những thay đổi từ lần
kiểm toán trước
- Năng lực quản lý của Ban giám đốc
Hiểu biết về hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ
- Các chính sách kế toán mà đơn vị được kiểm toán áp dụng và những
thay đổi trong các chính sách đó
- Ảnh hưởng của các chính sách mới về kế toán và kiểm toán
- Hiểu biết của KTV về hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ và
những điểm quan trọng mà KTV dự kiến thực hiện trong thử nghiệm
kiểm soát và thử nghiệm cơ bản
15