Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Luận văn thạc sĩ tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn huyện đức hòa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (652.87 KB, 91 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ LAN PHƯƠNG

TỘI TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ LAN PHƯƠNG

TỘI TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN ĐỨC HỊA, TỈNH LONG AN
Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. HOÀNG THỊ MINH SƠN

HÀ NỘI, năm 2019




LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tác giả.
Các số liệu ghi trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn
chưa từng được công bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Thị Lan Phương


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀTỘI
TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM ................................................. 7
1.1. Những vấn đề lý luận về tội tàng trữ, vận chuyển hành cấm ................. 7
1.2. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự về tội tàng trữ, vận chuyển hàng
cấm ............................................................................................................... 15
1.3. Quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội tàng trữ, vận chuyển
hàng cấm ...................................................................................................... 20
Chương 2: THỰC TIỄN VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ TỘI TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN
HÀNG CẤM TẠI HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN ...................... 50
2.1. Các yếu tố có liên quan đến hoạt động áp dụng pháp luật về tội tàng
trữ, vận chuyển hàng cấm trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An ...... 50
2.2. Thực tiễn định tội danh đối với tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm trên
địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An ........................................................ 52
2.3. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội tàng trữ, vận chuyển hàng

cấm trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An ......................................... 55
2.4. Đánh giá việc thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về tội tàng trữ,
vận chuyển hàng cấm trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An ............ 58
2.5. Giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật về tội tàng
trữ, vận chuyển hàng cấm ............................................................................ 67
KẾT LUẬN .................................................................................................... 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

BLTTHSVN

Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam

KSV

Kiểm sát viên

TAND

Tịa án nhân dân


THQCT

Thực hành quyền cơng tố

TTHS

Tố tụng hình sự

VAHS

Vụ án hình sự

VKS

Viện kiểm sát

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Thống kê thụ lý điều tra VAHS về tội phạm tàng trữ, vận chuyển hàng
cấm trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An từ2014-2018.................................53
Bảng 2.2. Thống kê số vụ án đã xét xử hình sự về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm
trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An từ năm 2014 -2018 ............................. 54
Bảng 2.3. Thống kê mức án TAND huyện Đức Hòa, tỉnh Long An xét xử trong giai
đoạn từ 2014 - 2018 ........................................................................................... 56



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đang trên con đường xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại với nhiều nước trên thế giới.
Đường lối của Đảng và Nhà nước ta là đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa
đất nước, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân. Sự vận hành của nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế định
hướng xã hội chủ nghĩa đã đạt được nhiều thành tựu đáng tự hào. Tuy nhiên, đi
cùng với sự phát triển là những mặt trái của nó, đặc biệt là tình hình tội phạm trong
vài năm gần đây có xu hướng phát triển mạnh, diễn biến ngày càng phức tạp và
mang tính thời sự cấp bách. Hoạt động kinh tế với nhiệm vụ chính là sản xuất hàng
hóa, tạo điều kiện cho xã hội phát triển, kinh tế mang ý nghĩa quan trọng đối với đất
nước nhưng hiện nay các loại tội phạm về kinh tế lại xuất hiện càng nhiều và ngày
càng tinh vi, nguy hiểm. Do đặc thù của nền kinh tế thị trường, sức ép cạnh tranh và
những sơ hở, yếu kém trong quản lý kinh tế nên nhiều tệ nạn xã hội và tội phạm
kinh tế ngày càng có mơi trường phát sinh, phát triển, trong đó tội tàng trữ, vận
chuyển hàng cấm đang ngày càng tăng về số lượng với nhiều mặt hàng cấm nguy
hiểm, gây thiệt hại nặng nề về kinh tế, hơn hết là tác động tiêu cực tới con người,
môi trường và xã hội, nó đã trở thành một vấn đề nhức nhối của xã hội. Cơng tác
đấu tranh phịng chống loại tội phạm này cần phải quyết liệt mạnh mẽ, để làm được
điều đó cần có sự đánh giá chính xác, chi tiết, đầy đủ về tội phạm này.
Điều 33 Hiến pháp 2013 quy định: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh
trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”. Như vậy, việc chống lại các
hoạt động kinh doanh bất hợp pháp đã được Nhà nước thể chế thành nguyên tắc
hiến định. Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách và văn bản pháp luật nhằm
phòng chống các tội phạm kinh tế nói chung, tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm nói
riêng.
Bộ luật hình sự (BLHS) Việt Nam do Quốc hội thông qua ngày 17/6/1985 đã
được sửa đổi, bổ sung bốn lần vào năm 1989, 1990, 1992, 1997 có quy định về tội

1


buôn bán, tàng trữ hàng cấm trong chương “Các tội phạm kinh tế”. BLHS 1999 đã
đưa ra quy định điều chỉnh hành vi liên quan đến hàng cấm rải rác ở các chương
khác nhau quy định về các hành vi liên quan đến hàng cấm và một số hàng cấm cụ
thể khác như chất ma túy, vũ khí quân dụng, vật liệu nổ, vũ khí hoặc cơng cụ hỗ trợ,
chất phóng xạ, chất cháy, chất độc. BLHS 2015 và Luật sửa đổi bổ sung một số
điều BLHS 2015 (ban hành năm 2017) ngoài những nội dung cấu thành tội phạm
trong BLHS 1999, bộ luật cịn có nhiều thay đổi về việc xây dựng cấu thành tội
phạm tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm nên cần thiết phải có cách hiểu thống nhất
để áp dụng pháp luật đối với tội phạm này.
Bên cạnh các quy định của Luật hình sự đối với hành vi tàng trữ, vận chuyển
hàng cấm, cịn có các quy định của các văn bản pháp luật thuộc Ngành và lĩnh vực
khác cũng điều chỉnh các quan hệ và hành vi liên quan đến hàng cấm. Trong thời
gian vừa qua, đang tồn tại những cách hiểu không thống nhất giữa Luật thương mại
và luật đầu tư giữa các ngành, các cơ quan và các địa phương khác nhau. Vì thế,
hoạt động xử lý đối với tội phạm này cịn chưa cao, chưa đáp ứng được u cầu
trước tình hình thực tế tại địa phương, làm ảnh hưởng tới tình hình an ninh trật tự và
sự phát triển tồn diện các mặt kinh tế xã hội.
Đức Hòa, Long An là khu vực xuất hiện tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm
từ lâu, chiếm tỷ lệ cao về tội phạm này trong tỉnh và có chiều hướng tăng về số
lượng, chủng loại hàng cấm, diễn biến phức tạp với sự mở rộng quy mơ và tính chất
nguy hiểm. Cơng tác đấu tranh tại địa bàn trở nên khó khăn khi đối tượng phạm tội
có nhiều phương thức thủ đoạn tinh vi đồng thời ln tìm cách trốn tội và chống trả
quyết liệt.
Chính vì vậy, vấn đề bức thiết là phải có hành lang pháp lý thống nhất, và có
những giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phịng chống tội tàng
trữ, vận chuyển hàng cấm có hiệu quả. Do đó, việc nghiên cứu đề tài: “Tội tàng
trữ, vận chuyển hàng cấm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện

Đức Hòa, tỉnh Long An” là một vấn đề cần thiết, góp phần quan trọng vào cuộc
đấu tranh chung của Đảng, Nhà nước và nhân dân đối với loại tội phạm này.
2


2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Những năm trước thời kỳ đổi mới hầu như chưa có cơng trình nào nghiên
cứu về pháp luật xử lý đối với tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm. Theo đường lối
đổi mới, việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về pháp luật, về cơ chế thực hiện
pháp luật nói chung, pháp luật hình sự về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm nói
riêng đã có sự phát triển mạnh. Trong thời gian vừa qua, đã có một số cơng trình,
bài viết nghiên cứu về tình hình tội phạm này. Có thể nói tới một số cơng trình sau:
- Luận án tiến sĩ luật học: “Phòng ngừa tội phạm tàng trữ, vận chuyển hàng
cấm của lực lượng cảnh sát kinh tế trên địa bàn miền Đông Nam Bộ” của Lê Trung
Kiên, 2015.
- Luận văn thạc sỹ luật học: “Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm trong luật
hình sự Việt Nam (Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Quảng Ninh" của Nguyễn Thị
Huyền Trang, 2016 [45].
- Luận văn thạc sỹ luật học: “Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm trong luật
hình sự Việt Nam (Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Cao Bằng)” của Lục Thị Út,
2014 [52].
- Luận văn thạc sỹ luật học: “Điều tra tội phạm tàng trữ, vận chuyển, buôn
bán hàng cấm trên địa bàn tỉnh An Giang của Lực lượng cảnh sát điều tra tội phạm
về TTQLKT&CV” của Nguyễn Nhật Trường, 2007 [47].
Bên cạnh đó, cịn một số bài viết đăng trong các báo Pháp Luật, các tạp chí
TAND, VKSND, bài nghiên cứu trao đổi trên website của Bộ Tư Pháp, TAND tối
cao, VKSND tối cao. Ngoài ra, cịn một số sách tham khảo, chun khảo có đề cập
nội dung rất nhỏ liên quan đến đề tài luận văn như: Bình luận khoa học Bộ luật
Hình sự 1999 (phần các tội phạm), của TS. Phùng Thế Vắc, TS. Trần Văn Luyện,
LS.ThS. Phạm Thanh Bình, TS. Nguyễn Đức Mai, ThS. Nguyễn Sĩ Đại, ThS.

Nguyễn Mai Bộ, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu mặc dù đã nghiên cứu sâu và đề cập
ở một số góc độ khác nhau nhưng mới dừng lại ở một phạm vi hẹp, chủ yếu tập cận
dưới góc độ tội phạm học, chưa đề cập một cách trực tiếp, tồn diện, có hệ thống và
3


trên cơ sở đó đề ra phương hướng và các giải pháp nhằm hồn thiện pháp luật hình
sự về tội loại tội phạm này. Chính vì vậy, đề tài: “Tội tàng trữ, vận chuyển hàng
cấm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An”
mang tính cấp thiết cả từ lý luận lẫn thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài: “Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm theo pháp
luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An"thể hiện các quy
định của pháp luật về loại tội phạm này và qua đó đề xuất những giải pháp bảo đảm
áp dụng đúng quy định của BLHS và nâng cao chất lượng giải quyết các vụ án về
tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.
- Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ làm rõ những vấn đề sau
đây:
+ Nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận như bản chất kinh tế, pháp lý về
tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm;
+ Phân tích, làm sáng tỏ quy định của pháp luật về tội tàng trữ, vận chuyển
hàng cấm;
+ Làm rõ thực trạng áp dụng quy định của pháp luật về tội tàng trữ, vận
chuyển hàng cấm tại huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.
+ Đánh giá những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng quy định này, qua đó
đưa ra một số kiến nghị, biện pháp góp phần tháo gỡ những hạn chế của pháp luật
hình sự về tội phạm này; đồng thời kiến nghị tiếp tục sửa đổi, bổ sung hồn thiện

Bộ luật hình sự 2015, tháo gỡ những vướng mắc trong thực tiễn, nâng cao hiệu quả
của cơng tác đấu tranh, phịng chống loại tội phạm này.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận, pháp lý và thực
tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm tàng trữ, vận chuyển hàng cấm ở Việt Nam
4


hiện nay, trong đó trực tiếp là những hoạt động điều tra, truy tố, xét xử liên quan
đến tội phạm này từ thực tiễn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Đồng thời nghiên cứu
các quy định của pháp luật hình sự nước ta qua các giai đoạn để làm rõ những ưu
điểm, hạn chế, tồn tại trong BLHS và các Luật dẫn chiếu, các văn bản hướng dẫn,
áp dụng BLHS. Trên cơ sở khoa học đó đề xuất quan điểm của mình nhằm sửa đổi,
hồn thiện pháp luật nói chung, pháp luật hình sự nói riêng liên quan đến tội phạm
này.
- Phạm vi nghiên cứu
Đây là một đề tài tương đối rộng, thực tiễn đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết
một cách thấu đáo. Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, người viết nghiên cứu
trong phạm vi tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm theo Điều 155 BLHS 1999 (Sửa
đổi, bổ sung năm 2009) và Điều 191 BLHS năm 2015; tìm hiểu những hành vi
thường xảy ra và những khó khăn trong cơng tác điều tra, truy tố, xét xử của các cơ
quan chức năng có thẩm quyền tại huyện Đức Hòa, tỉnh Long An trong thời gian từ
năm 2014 đến năm 2018.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và
pháp luật; quan điểm của Đảng và nhà nước về Nhà nước pháp quyền, về đấu tranh
phòng chống tội phạm.

- Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành được luận văn này người viết đã sử dụng linh hoạt và hợp lý
các phương pháp nghiên cứu khác nhau như: phương pháp luật học so sánh, phương
pháp sưu tầm và nghiên cứu tài liệu, phương pháp tổng hợp và thống kê số liệu,
phương pháp phân tích luận viết, phương pháp xã hội học, phương pháp logic.

5


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Luận văn đã hệ thống hóa cơ sở lý luận và các quy định của pháp luật về tội
tàng trữ, vận chuyển hàng cấm một cách tồn diện, có hệ thống, đưa ra bức tranh
tồn cảnh về loại tội phạm này dưới góc độ pháp luật hình sự; chỉ ra các yếu tố cấu
thành của loại tội phạm này. Qua đó, đề xuất hệ thống giải pháp có tính khả thi
nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định của pháp luật hình sự về tội sản
xuất, tàng trữ, bn bán, vận chuyển hàng cấm.
Luận văn đã chỉ ra những hạn chế trong công tác xây dựng và thi hành pháp
luật, đưa ra phương hướng giải quyết khó khăn vướng mắc trong thực tiễn áp dụng
cũng như trong việc sửa đổi, bổ sung bộ luật hình sự về loại tội phạm này, những
kiến nghị hoàn thiện và các biện pháp đấu tranh phịng chống tội tàng trữ, vận
chuyển hàng cấm, góp phần vào việc phát triển khoa học luật hình sự.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2
chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội tàng trữ, vận chuyển
hàng cấm
Chương 2: Thực trạng và giải pháp áp dụng đúng quy định của pháp luật về
tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An

6



Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ
TỘI TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM
1.1. Những vấn đề lý luận về tội tàng trữ, vận chuyển hành cấm
1.1.1. Khái niệm tội tàng trữ, vận chuyển hành cấm
- Khái niệm hàng cấm
Hàng cấm được rất nhiều người sử dụng trong đời sống kinh tế. Tuy nhiên,
hiểu một cách chính xác về bản chất của từ này trong khoa học pháp luật hình sự thì
chưa có cách hiểu và giải thích thống nhất. Để tìm hiểu khái niệm hàng cấm chúng
ta tìm hiểu thơng qua ngữ nghĩa của hai từ cụ thể: - “hàng” là sản phẩm để bán, “cấm” là khơng cho phép làm việc gì đó hoặc khơng cho phép tồn tại [54]. Từ đó
hàng cấm được hiểu là những sản phẩm không cho phép tồn tại. Theo từ điển Luật
học giải thích: “hàng cấm là hàng hố bị Nhà nước cấm kinh doanh [54, tr.319].
Một số từ điển hoặc các văn bản có liên quan có đề cập đến hàng cấm là hàng hóa
mà Nhà nước cấm bn bán, kinh doanh [55, tr.16]. Hàng cấm còn được nhắc đến
trong giải thích tội bn lậu: bn lậu là bn bán trốn thuế hoặc hàng cấm [56].
Tuy được nhắc đến nhiều nhưng chưa có cách hiểu thống nhất về thuật ngữ này.
Hiện nay, nhiều tác giả đồng tình với cách giải thích: Hàng cấm là hàng hố Nhà
nước cấm kinh doanh [15, tr.110].
Hàng cấm theo nghĩa rộng là loại hàng hố bị cấm kinh doanh dưới mọi hình
thức. Bản chất của hàng cấm có thể được nhìn nhận ở nhiều góc độ khác nhau.
Dưới góc độ xã hội, hàng cấm được hiểu phổ biến nhất là những mặt hàng
đặc biệt do Nhà nước trực tiếp quản lý độc quyền, cấm sản xuất, kinh doanh. Theo
triết học Mác - Lê nin hàng hố là sản phẩm của lao động thơng qua hoạt động trao
đổi, mua bán. Hàng hố có thể là hữu hình hoặc vơ hình mà nhờ vào tính chất của
nó thoả mãn nhu cầu của con người. Trong nền kinh tế thị trường, hàng hoá ngày
càng trở nên đa dạng phong phú. Việc quản lý đối với các loại hàng hoá và các hoạt
động kinh doanh liên quan đến hàng hố ngày càng phức tạp, khó khăn hơn bởi sự
xuất hiện ngày càng nhiều của các loại hàng hoá gây ảnh hưởng xấu tới con người,

7


môi trường và xã hội. Từ sự phát triển của tự do thương mại mà Nhà nước thống
nhất quản lý những mặt hàng có tính chất đặc biệt, có những đặc tính riêng cần phải
hạn chế cách ly các hoạt động sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán những mặt
hàng đó trong xã hội. Pháp luật quy định cấm tuyệt đối với những mặt hàng khi lưu
thông hoặc sử dụng có thể gây nguy hại cho an ninh, quốc phịng, trật tự an tồn xã
hội, truyền thống văn hóa, mơi trường và sức khỏe nhân dân, vì vậy Nhà nước cần
phải độc quyền quản lý loại hàng hố đó. Trong xã hội gọi những hàng hoá này là
“hàng cấm” hay “hàng quốc cấm”.
Dưới góc độ kinh tế thì hàng cấm là hàng hoá nhưng thuộc loại do Nhà nước
thống nhất quản lý cấm các tổ chức, cá nhân thực hiện các hoạt động sản xuất, tàng
trữ, vận chuyển và bn bán. Hàng hóa và sản xuất, bn bán hàng hóa gắn liền với
hoạt động kinh doanh, phản ánh mối quan hệ giữa người với người trong quá trình
kinh doanh như: phân phối, trao đổi tiêu dùng của cải vật chất xã hội nhằm mục
đích thu về một giá trị lớn hơn giá trị đã bỏ ra ban đầu. Việc sản xuất hàng hóa là
bắt nguồn từ yêu cầu khách quan của sự phát triển kinh tế, đồng thời nó cũng phù
hợp với xu thế vận động của quá trình hoạt động kinh doanh. Qua các thời kỳ phát
triển kinh tế, xã hội lượng hàng hóa sản xuất ngày một nhiều và đa dạng. Có hàng
hố được tự do sản xuất, kinh doanh; có những mặt hàng do tính chất đặc thù của
nó mà Nhà nước phải cấm thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên,
do những lợi nhuận mà các mặt hàng này đem lại, các cá nhân, tổ chức lén lút sản
xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán, nếu đủ yếu tố cấu thành tội phạm (CTTP) sẽ
bị truy cứu trách nhiệm hình sự (TNHS) về tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn
bán hàng cấm. Mặc dù vậy, cho đến nay khái niệm hàng cấm vẫn chưa có bất cứ
văn bản pháp luật nào đưa ra một cách hiểu thống nhất. Trong quá trình giải quyết
về loại vụ việc liên quan đến hàng cấm, một vấn đề đặt ra đối với các cơ quan chức
năng là phải hiểu rõ thế nào là hàng cấm và các loại hàng cấm để từ đó mới ra được
những quyết định phù hợp, đúng đắn phục vụ tốt cho cơng tác đấu tranh phịng

chống tội phạm về trật tự kinh tế nói chung, tội phạm về tàng trữ, vận chuyển hàng
cấm nói riêng.
8


Dưới góc độ pháp lý, hàng cấm là đối tượng đặc biệt, được Nhà nước quản lý
và xử lý đối với hành vi liên quan đến nó. Trong pháp luật thương mại, đầu tư đều
có quy định những đối tượng cấm hoạt động kinh doanh đầu tư và có các chế tài xử
phạt đối với hành vi liên quan đến hàng cấm. Khoản 1 Điều 25 Luật thương mại xác
định: “Căn cứ vào điều kiện kinh tế - xã hội của từng thời kỳ và điều ước quốc tế
mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, Chính phủ quy định cụ thể
danh mục hàng hố cấm kinh doanh, hàng hoá hạn chế kinh doanh, hàng hoá kinh
doanh có điều kiện và điều kiện để được kinh doanh hàng hố đó”. Đối với pháp
luật về thương mại đầu tư, các nhà làm luật không định nghĩa hàng cấm là gì mà
được quy định thành danh mục cụ thể những mặt hàng cấm kinh doanh. Danh mục
này do Chính phủ quy định và từng thời kỳ khác nhau thì danh mục hàng hố cấm
kinh doanh cũng thay đổi. Nghị định 185/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15
tháng 11 năm 2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương
mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có
giải thích: “Hàng cấm” gồm hàng hóa cấm kinh doanh; hàng hóa cấm lưu hành, sử
dụng; hàng hóa chưa được phép lưu hành, sử dụng tại Việt Nam. Dưới góc độ pháp
lý hình sự, hàng cấm được xác định là đối tượng của tội phạm về kinh tế, bị xem là
đối tượng: “bất hợp pháp”. Việc lưu thông và kinh doanh đối với đối tượng này ở
mức độ nhất định là hành vi tội phạm, bị pháp luật hình sự nghiêm cấm. Để hiểu rõ
về hàng cấm, ngoài việc xem xét khái niệm hàng hóa nói chung, chúng ta cần thiết
phải tìm hiểu các văn bản pháp luật quy định về hàng cấm và dấu hiệu nhận biết
hàng cấm. Tuy nhiên, cho trước khi BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017
được ban hành, các quy định pháp lý về hàng cấm còn chưa chỉ ra khái niệm hàng
cấm và chưa quy định cụ thể dấu hiệu nhận biết đối tượng hàng cấm đã được điều
chỉnh tại các điều luật khác với Điều 155 BLHS năm 1999. Điều này đã gây những

khó khăn nhất định cho việc nghiên cứu, tìm hiểu để nhận thức cho đúng về hàng
cấm dưới góc độ pháp lý.
Trong các văn bản pháp luật hiện hành của Việt Nam chưa đưa ra khái niệm
về hàng cấm mà hàng cấm chỉ được nhắc đến một cách chung chung. Để đưa ra
9


khái niệm đầy đủ nhất về hàng cấm dưới góc độ pháp luật hình sự cần chú ý một số
nội dung cơ bản sau: một là hàng cấm là loại hàng hoá đặc biệt do nhà nước thống
nhất quản lý và quy định cụ thể danh mục hàng hoá thuộc loại này. Hai là danh mục
hàng cấm không cố định mà có sự thay đổi theo từng thời kỳ khác nhau. Có nhiều
loại hàng hố có tính chất cấm vĩnh viễn, cũng có những hàng hố chỉ cấm tạm thời.
Ba là hàng cấm có tác hại về kinh tế, có khả năng gây hại cho tính mạng, sức khoẻ
con người và ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế, văn hố, chính trị của mỗi quốc
gia. Bốn là tuỳ thuộc vào chế độ quản lý của mỗi quốc gia mà việc quy định các mặt
hàng cấm sản xuất kinh doanh khác nhau.
BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 có nhiều điều luật quy định
hành vi phạm tội liên quan đến hàng cấm ở các chương khác nhau, là đối tượng tác
động của nhiều tội phạm khác nhau như: hàng cấm là chất ma tuý, vũ khí quân dụng,
vật liệu nổ, chất phóng xạ, chất độc, văn hố phẩm đồi truỵ...Những hàng cấm còn
lại chưa quy định cụ thể ở Điều luật nào khác thì được quy định tại Điều 191 BLHS
năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định về tội tàng trữ, vận chuyển hàng
cấm. Như vậy, diện hàng cấm nói chung rộng hơn diện hàng cấm là đối tượng tác
động của Điều 191 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Nhìn nhận diện
hàng cấm theo nghĩa rộng chúng ta cần nhìn nhận diện hàng cấm trên tất cả các lĩnh
vực và có sự liên hệ với diện hàng cấm là đối tượng tác động của các tội phạm cụ
thể về hàng cấm kể trên. Vì vậy, từ những phân tích nêu trên và thực tiễn áp dụng
pháp luật chúng ta nhận thức: “Hàng cấm gồm hàng hóa cấm kinh doanh; hàng hóa
cấm lưu hành, sử dụng; hàng hóa chưa được phép lưu hành, sử dụng tại Việt Nam”.
- Khái niệm tàng trữ, vận chuyển hàng cấm

Tàng trữ, vận chuyển hàng cấm là hành vi cất giữ, chuyển dịch hàng hoá mà
Nhà nước cấm kinh doanh.
Tàng trữ hàng cấm là hành vi cất giữ hàng cấm ở bất kỳ chỗ nào một cách
trái phép. Nơi tàng trữ có thể là nơi ở, nơi làm việc, mang theo trong người, trong
hành lý hoặc cách giấu bất kỳ một vị trí nào khác mà người tàng trữ đã chọn, khơng
nhằm mục đích mua bán hay sản xuất ra hàng cấm khác hoặc vận chuyển từ này
10


đến nơi khác. Thời gian tàng trữ dài hay ngắn khơng có ý nghĩa đối với việc truy
cứu trách nhiệm pháp lý. Nếu tàng trữ hàng cấm cho người mà khác biết rõ người
này bn bán hàng cấm thì hành vi cất giữ hàng cấm không phải là hành vi tàng trữ
mà là hành vi giúp sức người buôn bán hàng cấm và bị truy cứu trách nhiệm hình sự
về tội bn bán hàng cấm với vai trị đồng phạm. Tuy nhiên, hành vi buôn bán, vận
chuyển đã được quy định trong cùng một điều luật nên việc xác định chính xác
hành vi tàng trữ, hành vi vận chuyển hay hành vi bn bán chỉ có ý nghĩa trong việc
định tội theo hành vi (một hoặc một số hành vi hay định tội theo hành vi đầy đủ),
nếu cùng một loại hàng cấm.
Khi xác định hành vi tàng trữ hàng cấm, cần phân biệt với hành vi chứa chấp
hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Nếu tài sản do người khác
phạm tội mà có là hàng cấm, người đó chứa chấp thì hành vi chứa chấp sẽ bị truy
cứu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ hàng cấm hoặc hành vi tiêu thụ sẽ bị truy
cứu trách nhiệm hình sự về tội bn bán hàng cấm.
Vận chuyển hàng cấm là hành vi đưa hàng cấm từ nơi này đến nơi khác một
cách trái phép. Hình thức vận chuyển có thể là trực tiếp mang hoặc gửi hàng cấm từ
địa điểm này đến địa điểm khác bằng bất cứ đường nào (đường bộ, đường thủy,
đường sắt, đường hàng không, đường bưu điện) bằng bất kỳ phuơng thức nào (trừ
hình thức chiếm đoạt), nhưng đều khơng nhằm mục đích bn bán, tàng trữ. Tuy
nhiên nếu vận chuyển hàng cấm qua biên giới thì thuộc trường hợp quy định tại
Điều 189 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Nếu vận chuyển hàng

cấm hộ cho người khác mà biết rõ mục đích bn bán hàng cấm của người mà mình
nhận vận chuyển hộ thì người có hành vi vận chuyển sẽ bị truy cứu trách nhiệm
hình sự về tội bn bán hàng cấm với vai trò giúp sức.
Nguyên nhân cũng do việc sản xuất, tàng trữ, vận chuyển và buôn bán hàng
cấm mang lại nguồn lợi kinh tế rất lớn nên nhiều người, nhiều cá nhân, tổ chức hám
lợi mà bất chấp những quy định của pháp luật để thực hiện. Đó đều là những hành
vi gây nguy hiểm cho xã hội không chỉ vi phạm luật xử lý vi phạm hành chính mà
cịn bị coi là tội phạm và buộc phải xử lý, áp dụng chế tài hình sự. Tuy nhiên, pháp
11


luật hình sự Việt Nam chỉ xem hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán
hàng cấm là tội phạm khi hành vi đó ở mức độ nguy hiểm đáng kể cho xã hội, cụ
thể như: phải thực hiện hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm
với số lượng lớn, thu lợi bất chính lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính, hoặc bị kết án
về một số hành vi xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế được quy định trong Bộ luật
hình sự như trong phần nghiên cứu dưới đây.
Khái niệm tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm
Tội phạm nói chung, tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm nói riêng đều là hiện
tượng tiêu cực của xã hội có nguồn gốc từ sự phát triển của xã hội. Mỗi quốc gia, để
bảo vệ lợi ích của đất nước mình và phù hợp với tập quán thương mại quốc tế đều
đưa ra những chính sách nhằm đấu tranh, phịng ngừa và giảm bớt tác hại của loại
tội phạm này.
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình
sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện
một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hố, quốc phịng,
an ninh, trật tự, an tồn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm
quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân, xâm phạm những lĩnh vực
khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị

xử lý hình sự. Hành vi thoả mãn các yếu tố nêu trên mới được coi là tội phạm. Hành
vi tàng trữ, vận chuyển hàng cấm để được coi là tội phạm cũng phải thoả mãn các
yếu tố theo quy định của pháp luật.
Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm được quy định tại Điều 191 thuộc chương
XVIII - Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế của BLHS năm 2015. Để tìm ra
khái niệm chính xác về tội này, cần tìm hiểu khái niệm của các cụm từ, thuật ngữ
tạo nên tội danh và nguồn gốc, bản chất của hành vi tàng trữ, vận chuyển hàng cấm.
Từ trước đến nay các văn bản có liên quan hay các Từ điển tiếng Việt có đề
cập đến khái niệm hoặc giải thích các cụm từ: vận chuyển hàng cấm, tàng trữ hàng
cấm. Tổng kết lại người nghiên cứu hiểu một cách ngắn gọn: Tàng trữ, vận chuyển
12


hàng cấm trong BLHS là các hành vi cất giữ hàng cấm bằng bất kỳ hình thức nào,
di chuyển hàng cấm từ nơi này đến nơi khác bằng bấy kỳ hình thức nào [53].
Để tìm ra khái niệm chính xác về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm, bên
cạnh việc tìm hiểu những cụm thuật ngữ tạo nên tội danh, người nghiên cứu cũng
cần tìm hiểu nguồn gốc và bản chất của tội danh này.
Các hoạt động sản xuất, kinh doanh liên quan đến hàng cấm xuất hiện trước
hết là do sự phát triển kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội dẫn đến sự phát triển của
những hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hố trong nội địa khơng đồng nhất cả
về sức sản xuất (nguồn cung), nhu cầu tiêu dùng (nguồn cầu). Một số mặt hàng với
tính chất đặc biệt có nguy cơ gây nguy hại cho nền kinh tế và cho sức khoẻ con
người. Các loại hàng hoá này mang lại lợi nhuận lớn khiến các cá nhân, tổ chức bất
chấp sự quản lý của Nhà nước để lưu thơng hàng hố loại này. Đây chính là nguyên
nhân sâu xa khiến hành vi tàng trữ, vận chuyển hàng cấm tồn tại và phát triển như
một tất yếu khách quan.
Với bản chất là hoạt động kinh tế mang tính xã hội, hoạt động lưu thơng
hàng cấm ln chịu sự tác động của các quy luật kinh tế. Việc quan niệm về tội tàng
trữ, vận chuyển hàng cấm của từng quốc gia trong từng giai đoạn và điều kiện kinh

tế, chính trị, văn hố xã hội cũng vì thế mà khác nhau. Những quốc gia có nền kinh
tế phát triển có hệ thống quy phạm pháp luật về thương mại, đầu tư, kinh doanh
trong nước rất chặt chẽ, do đó hệ thống mặt hàng lưu thơng nội địa quy định nghiêm
ngặt, chế tài xử phạt đối với những hoạt động lưu thơng hàng hố kém chất lượng,
hàng hố khơng được kinh doanh rất nghiêm khắc, do đó những mặt hàng cấm vĩnh
viễn mới được áp dụng trong chế tài của luật hình sự theo hướng quy định đối với
hành vi lưu thơng loại hàng hố cụ thể như ma tuý, chất phóng xạ...Đối với các
quốc gia khác, các quốc gia có nền kinh tế kém phát triển hơn, ý thức chấp hành
pháp luật của người dân còn hạn chế hơn, các hành vi lưu thông hàng cấm phức tạp
và tinh vi hơn, do đó các quốc gia này áp dụng biện pháp nghiêm khắc nhất là hình
phạt đối với các hành vi lưu thơng hàng hố thuộc danh mục hàng cấm do Chính
phủ quy định.
13


Với những đặc điểm nêu trên, BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017
quy định tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm tại Điều 191: “Người nào tàng trữ, vận
chuyển hàng cấm thuộc một trong các trường hợp sau đây, nếu không thuộc trường
hợp quy định tại các điều 232, 234, 239, 244, 246, 249, 250, 253, 254, 304, 305,
306, 309 và 311 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến
300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm...”.
Từ những phân tích ở trên có thể đưa ra khái niệm về tội tàng trữ, vận
chuyển hàng cấm như sau:
Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm là những hành vi cất giữ trái phép, vận
chuyển trái phép những mặt hàng Nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử
dụng, chưa được phép lưu hành, chưa được phép sử dụng với số lượng, trọng lượng
hoặc giá trị cụ thể mà pháp luật quy định, do người có năng lực trách nhiệm hình
sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện với lỗi cố ý, xâm phạm chế độ của nhà
nước trong quản lý, sản xuất, kinh doanh một số loại hàng hóa nhất định.
1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm

- Khách thể của tội phạm là một trong những vấn đề trung tâm của khoa học
pháp lý hình sự. Luật hình sự Việt Nam khẳng định: Khách thể của tội phạm là
quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại [50, tr.86]. Một
hành vi chỉ bị coi là tội phạm khi xâm hại đến một trong các quan hệ xã hội được
Luật hình sự bảo vệ quy định tại Điều 8 BLHS. Khách thể của tội phạm có ý nghĩa
quan trọng trong việc xác định tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội
cũng như đối với việc định tội danh và quyết định hình phạt trên thực tế.
Khách thể của tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm là trật tự quản lý kinh tế,
chế độ độc quyền của nhà nước trong quản lý, sản xuất, kinh doanh một số loại
hàng cẩm mà pháp luật quy định.
- Hành vi khách quan của tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm bao gồm hành
vi tàng trữ hàng cấm và hành vi vận chuyển hàng cấm.
Tàng trữ hàng cấm như đã phân tích ở trên là hành vi cất giữ trái phép những
mặt hàng Nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử dụng, chưa được phép
14


lưu hành, chưa được phép sử dụng...trong người, trong nhà hoặc ở bất kỳ nơi nào
không phụ thuộc và thời gian cất giữ dài hay ngắn [6, tr.301].
Vận chuyển hàng cấm là hành vi đưa những mặt hàng Nhà nước cấm kinh
doanh, cấm lưu hành, cấm sử dụng, chưa được phép lưu hành, chưa được phép sử
dụng...dưới bất kỳ hình thức nào từ địa điểm này đến địa điểm khác mà khơng
nhằm mục đích bán [6, tr.301].
- Chủ thể của tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm là người từ đủ 16 tuổi trở
lên có năng lực trách nhiệm hình sự và pháp nhân thương mại.
- Mặt chủ quan của tội phạm: Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm được thực
hiện với lỗi cố ý.
1.2. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự về tội tàng trữ, vận chuyển hàng
cấm
1.2.1.Giai đoạn từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước khi ban hành

Bộ luật hình sự năm 1985
Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm với tính chất là hiện tượng tiêu cực của
xã hội đã gây những thiệt hại nghiêm trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước, khiến cho Nhà nước khơng kiểm sốt được hàng hoá cấm kinh doanh, làm
cho thị trường hàng hoá rối loạn, cạnh tranh trên thị trường thiếu lành mạnh. Nhà
nước ta đã thực hiện nhiều biện pháp đấu tranh nhằm ngăn chặn, đẩy lùi hiện tượng
tiêu cực này.
Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước ta đã quan tâm ban hành nhiều
văn bản liên quan đến đấu tranh chống lại tội buôn lậu và vận chuyển, tàng trữ, bn
bán hàng cấm. Văn bản pháp luật hình sự đầu tiên phải kể đến là Sắc lệnh số 50 ngày
9/10/1945 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký, quy định cấm xuất khẩu kho thóc, gạo, ngơ,
đỗ hoặc các chế phẩm thuộc về ngũ cốc, nhằm góp phần đẩy lùi nạn đói năm 1945.
Tiếp đến ngày 21/8/1946 Nhà nước ban hành Sắc lệnh số 160 về cấm nhập cảng xe
hơi, phụ tùng xe hơi, các máy móc và đồ vật bằng kim khí. Ngày 22/12/1952 Chính
phủ ban hành Nghị định số 225 quy định tịch thu thuốc phiện tàng trữ hoặc vận
chuyển buôn bán trái phép, phạt tiền từ 1 đến 5 lần trị giá hàng hóa.
15


Sau giải phóng miền Bắc, Chính phủ đặc biệt quan tâm đến vấn đề ngăn chặn
chống buôn lậu, đầu cơ, bn bán hàng cấm. Ngày 03/7/1966, Thủ tướng Chính phủ
ra Chỉ thị số 118/TTg về tăng cường quản lý thị trường, đấu tranh chống đầu cơ,
bn lậu trong tình hình mới. Khi đất nước được giải phóng thống nhất năm 1975,
ngày 30/6/1982, Nhà nước lần đầu tiên ban hành Pháp lệnh trừng trị các tội đầu cơ,
buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép (sau đây viết tắt là pháp lệnh
30/6/1982). Khác với các văn bản trước đó, pháp lệnh ngày 30/6/1982 quy định tội
danh với dấu hiệu pháp lý đặc trưng của nó, lần đầu tiên chính thức ghi nhận tội
buôn lậu, tàng trữ hàng cấm trong pháp luật hình sự của Nhà nước tại Điều 3 Pháp
lệnh: “Người nào bn lậu, tàng trữ vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, ngoại tệ, vật tư
kỹ thuật hoặc các loại hàng hố khác mà Nhà nước cấm bn bán, tàng trữ thì bị

phạt tù từ sáu tháng đến năm năm và bị phạt tiền gấp ba lần giá hàng phạm pháp
[16]. Bên cạnh đó, Điều 4 Pháp lệnh quy định về tội buôn lậu hoặc tội vận chuyển
trái phép hàng hố qua biên giới trong đó hàng hố được hiểu là mọi loại hàng hố
trong đó có cả hàng cấm. Ở thời kỳ này, chưa tách riêng hành vi buôn lậu với hành
vi liên quan đến hàng cấm và được quan niệm là những tội phạm về kinh tế.
Như vậy, chế định xử lý đối với hàng cấm của Việt Nam giai đoạn từ sau
cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước khi ban hành BLHS 1985 còn mang tính sơ
khai, các quy định chủ yếu tập trung xử lý hành vi lưu thơng với một số ít hàng hóa
đặc biệt có vai trị quan trọng trong việc Nhà nước quản lý kinh tế và dần dần phục
hồi nền kinh tế sau chiến tranh để lại, bắt đầu xây dựng kinh tế.
1.2.2. Giai đoạn từ năm 1985 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm
1999
Trong bối cảnh kinh tế đất nước ngày càng phát triển, đời sống nhân dân dần
được nâng cao nhưng kéo theo đó là tình hình tội phạm có xu hướng tăng nhanh và
diễn biến ngày càng phức tạp. Để đáp ứng tình hình mới và xây dựng hành lang
pháp lý để xử lý kịp thời tội phạm thời kỳ này, Nhà nước ta đã ban hành BLHS năm
1985 quy định cụ thể thống nhất về tội phạm và hình phạt, đáp ứng cơng cuộc đấu
tranh phịng chống tội phạm nói chung, tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
16


nói riêng, trong đó có tội bn bán, tàng trữ hàng cấm. Sự ra đời của BLHS năm
1985 đã đánh dấu bước phát triển mới của hoạt động lập pháp hình sự nước ta.
BLHS 1985 đã quy định riêng biệt về tội buôn bán hàng cấm theo Điều 166 với tên
gọi: “Tội buôn bán hàng cấm” và được quy định như sau:
“1. Người nào bn bán hàng hóa mà Nhà nước cấm kinh doanh, ngoại tệ
hoặc bn bán kim khí quý, đá quý thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 5 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ ba năm
đến mười hai năm:
a) Có tổ chức;

b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan Nhà nước,
tổ chức xã hội;
c) Hàng phạm pháp có số lượng lớn; thu lợi bất chính lớn;
d) Lợi dụng thiên tai hoặc chiến tranh;
đ) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ mười
năm đến hai mươi năm”.
Trong thời gian này, Nhà nước cấm tư nhân và các cơ quan, tổ chức kinh
doanh các mặt hàng như: thuốc phiện, hoạt chất thuốc phiện; vũ khí và một số quân
trang, quân dụng; hiện vật thuộc di tích lịch sử, văn hóa và các sản phẩm văn hóa
đồi trụy, phản động; thuốc lá điếu của nước ngoài, ngoại tệ (theo Quyết định số
193-HĐBT 23 ngày 23/12/1988 của Hội đồng Bộ trưởng về kinh doanh thương mại
và du lịch ở thị trường trong nước; Chỉ thị số 278/CT ngày 03/8/1990 của Chủ tịch
Hội đồng Bộ trưởng về việc cấm nhập khẩu và lưu thông thuốc lá điếu của nước
ngoài trên thị trường trong nước; Chỉ thị số 330/CT-HĐBT ngày 13/9/1990 của Chủ
tịch Hội đồng Bộ trưởng về tăng cường quản lý ngoại hối; Quyết định số
337/HĐBT ngày 25/10/1991 về một số biện pháp quản lý ngoại tệ trong thời gian
trước mắt). Tại Thông tư liên ngành số 11/TTLN ngày 20/11/1990 của TAND tối
cao (TANDTC) - VKSND tối cao - Bộ Tư pháp - Bộ Nội vụ quy định: Lần đầu
nhập khẩu trái phép, buôn bán thuốc lá điếu nước ngoài với số lượng dưới 500 bao
17


thì chưa coi là tội phạm nhưng phải bị xử lý hành chính. Trong trường hợp bn
bán thuốc lá ngoại với số lượng từ 500 bao trở lên hoặc dưới 500 bao nhưng đã bị
xử phạt vi phạm hành chính mà còn vi phạm, tái phạm, thực hiện nhiều lần, có tổ
chức, có tính chất chun nghiệp hoặc chống lại người thi hành cơng vụ thì bị xử lý
hình sự. Nếu số lượng hàng hóa phạm pháp từ 1.500 bao đến dưới 4.500 bao thì coi
là phạm tội trong trường hợp hàng phạm pháp có số lượng lớn. Nếu số lượng hàng
hóa phạm pháp từ 4.500 bao trở lên thì coi là phạm tội trong trường hợp đặc biệt

nghiêm trọng. Bn bán ngoại tệ với số lượng có giá trị từ 3 triệu đồng Việt Nam
trở lên hoặc dưới 3 triệu đồng Việt Nam nhưng đã bị xử lý hành chính mà cịn vi
phạm, tái phạm, thực hiện nhiều lần, có tổ chức, có tính chất chun nghiệp thì bị
xử lý về tội buôn bán hàng cấm. BLHS năm 1985 với bốn lần sửa đổi, bổ sung các
năm 1989, 1991, 1992 và 1997 vẫn tiếp tục quy định tội buôn bán hàng cấm là tội
phạm kinh tế và được sửa đổi bổ sung cho phù hợp với tình hình kinh tế, chính trị
đất nước.
Như vậy, kể từ khi BLHS 1985 được công bố và áp dụng đến trước khi ban
hành BLHS 1999 tội phạm về hàng cấm đã được quy định thành Điều luật riêng
biệt để đáp ứng yêu cầu phòng chống tội phạm về kinh tế. Mặc dù, lần đầu tiên quy
định tội: “buôn bán hàng cấm”, chưa quy định về tàng trữ, vận chuyển hàng cấm
nhưng nhận thức trong hoạt động lập pháp với tội phạm về hàng cấm đã có nhiều
chuyển biến so với thời kỳ trước. Tuy nhiên, kỹ thuật lập pháp khi mô tả cấu thành
tội phạm cơ bản của tội này còn chung chung, chưa xác định yếu tố định lượng dẫn
đến cách hiểu mọi hành vi buôn bán hàng cấm đều bị xử lý hình sự khiến cho việc
áp dụng pháp luật đối với tội phạm này còn dàn trải, tràn lan.
1.2.3. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự 1999 đến trước khi ban
hành Bộ luật hình sự 2015.
Sau thời gian dài áp dụng trong thực tế, BLHS 1985 đã bộc lộ nhiều vấn đề
cần phải sửa đổi, bổ sung mới đáp ứng được yêu cầu đổi mới liên tục về kinh tế,
văn hóa, xã hội. Cho tới kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa X đã thơng qua BLHS năm
1999, có hiệu lực thi hành từ 01/7/2000, thay thế BLHS 1985. BLHS 1999 (sửa đổi,
18


bổ sung ngày 19/6/2009) quy định cụ thể về nhóm các tội phạm xâm phạm trật tự
quản lý kinh tế nói chung tại Chương XVI và tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển,
bn bán hàng cấm nói riêng tại Điều 155 BLHS 1999 đã bổ sung 03 loại hành vi
phạm tội mới so với BLHS 1985 đó là hành vi sản xuất hàng cấm, hành vi tàng trữ
hàng cấm, hành vi vận chuyển hàng cấm bởi thực tế không chỉ có hành vi bn bán

hàng cấm mà việc sản xuất, tàng trữ, vận chuyển hàng cấm cũng được coi là tội
phạm và cần quy định trong BLHS.
Ngoài ra, các hành vi liên quan đến chất ma túy được quy định thành chương
riêng, Chương XVIII "các tội phạm về ma túy" từ Điều 192 đến Điều 201, góp phần
tăng cường cơng tác đấu tranh phịng chống ma túy. Bên cạnh đó, Điều 155 của
BLHS năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009) cịn có một số điểm bổ sung sau:
- Quy định tình tiết: Có số lượng lớn, thu lợi bất chính lớn hoặc đã bị xử phạt
hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc tại các điều 153, 154, 156, 157,
158, 159 và 161 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa
được xóa án tích mà cịn vi phạm [29, Đ.155] vừa là yếu tố định tội, vừa là dấu hiệu
làm ranh giới giữa hành vi phạm tội với hành vi vi phạm hành chính.
- Quy định tình tiết: "Nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 193,
194, 195, 196, 230, 232, 233, 236 và 238 của Bộ luật này" giới hạn việc áp dụng
điều 155 và là dấu hiệu để phân biệt tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán
hàng cấm với một số tội phạm khác trong BLHS mà đối tượng phạm tội cũng là các
loại hàng hóa, vật dụng mà Nhà nước cấm tàng trữ, vận chuyển. Từ quy định này,
khái niệm hàng cấm là đối tượng tác động của Điều 155 BLHS 1999 đã thu hẹp
phạm vi so với khái niệm hàng cấm trong Điều 166 BLHS 1985.
- Quy định thêm một số tình tiết mới là yếu tố định khung hình phạt như:
hàng phạm pháp có số lượng rất lớn hoặc thu lợi bất chính rất lớn; hàng phạm pháp
có số lượng đặc biệt lớn hoặc thu lợi bất chính đặc biệt lớn. So với điều 166 của
BLHS 1985, Điều 155 BLHS 1999 bổ sung hình phạt tiền là hình phạt chính; các
mức phạt tù quy định trong từng khung hình phạt tại Điều 155 BLHS 1999 đều nhẹ
hơn mức phạt quy định tại Điều 166 BLHS 1985. Hình phạt bổ sung cũng được quy
19


×