Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

BTN asean “Bình luận mô hình cơ cấu tổ chức của ASEAN qua các giai đoạn phát triển của ASEAN”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (287.42 KB, 16 trang )

BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BÀI TẬP NHĨM
MƠN: PHÁP LUẬT CỘNG ĐỒNG ASEAN
ĐỀ BÀI 03:
“Bình luận mơ hình cơ cấu tổ chức của ASEAN qua các giai
đoạn phát triển của ASEAN”

HỌ VÀ TÊN
MSSV
LỚP
NHÓM

HÀ NỘI, 2021


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
Sau hơn 4 thập kỷ tồn tại và phát triển, ASEAN đã lớn mạnh, trở thành thực
thể chính trị - kinh tế gắn kết, có vai trị quan trọng, đóng góp cho hồ bình, ổn định
và hợp tác ở khu vực. Vì vậy, để tổ chức quốc tế này hoạt động tốt và hiệu quả thì
hệ thống cơ cấu tổ chức đóng vai trị khơng thể thiếu nhằm góp phần thúc đẩy sức
mạnh của các quốc gia Đơng Nam Á. Vì vậy, nhóm 03 chúng em xin chọn đề bài
03. “Bình luận mơ hình cơ cấu tổ chức của ASEAN qua các giai đoạn phát triển
của ASEAN” làm đề bài tập cho bài tập nhóm.
NỘI DUNG
I – Một số vấn đề khái quát về Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN)
1. Sự ra đời của ASEAN
Thập niên 60 của thế kỉ XX đánh dấu thời kì đầy biến động trên thế giới và


khu vực. Tại Đông Nam Á xuất hiện một số tổ chức quốc tế như Hiệp hội Đông
Nam Á (ASA) thành lập năm 1961 với thành viên là Thái Lan, Malaysia,
Philippines và MAPHILINDO với thành viên là Malaysia, Philippines và Indonesia
thành lập năm 1963. Vì nhiều lí do khác nhau nên những tổ chức này chỉ tồn tại
trong thời gian ngắn.
ASEAN ra đời vào ngày 08/08/1967 trên cơ sở Tuyên bố Bangkok được thông qua
tại Hội nghị bộ trưởng ngoại giao 5 quốc gia là Thái Lan, Malaysia, Indonesia,
2


Singapore và Philippines. Có thể nói, đây là sự kiện tất yếu trong bối cảnh lịch sử
của khu vực lúc đó cũng như của từng quốc gia ASEAN 5. Nhằm trực tiếp đảm bảo
an ninh và các lợi ích chính trị cho các quốc gia ASEAN khi đó, trong các tiền đề
hình thành như: chính trị; kinh tế, văn hố-xã hội tác động đến sự ra đời của
ASEAN thì yếu tố cơ bản và chủ yếu là chính trị.
Hiện nay, ASEAN bao gồm 10 quốc gia thành viên: Brunay, Campuchia,
Indonexia, Lào, Malaixia, Mianma, Philippin, Singapore, Thái Lan và Việt Nam 1.
ASEAN đã và đang hướng tới mục tiêu trở thành khu vực hồ bình, ổn định và
thịnh vượng, liên kết khu vực bền vững và hiệu quả nhằm góp phần thúc đẩy sức
mạnh của các quốc gia Đông Nam Á.
2. Ý nghĩa của sự hình thành của ASEAN

ASEAN ra đời đánh dấu sự trưởng thành về chính trị của các quốc gia Đông
Nam Á, thể hiện quyết tâm tự gánh vác trách nhiệm đối với sự phát triển của đất
nước cũng như khu vực, đặc biệt trong vấn đề an ninh mà khơng dựa vào ngoại lực
bên ngồi. Sự ra đời của ASEAN là thắng lợi của tinh thần hoà giải, hoà hợp giữa
các quốc gia trong khu vực, đặt nền móng cho sự hợp tác và phát triển trong mọi
lĩnh vực của các quốc Đông Nam Á trong những năm sau này.
3. Các giai đoạn phát triển của ASEAN


Giai đoạn hình thành và định hướng phát triển từ 1967 – 1976, ASEAN còn
là một tổ chức khu vực non yếu, hợp tác giữa các quốc gia thành viên trong khu vực
còn rời rạc.
Đến tháng 2/1976, cột mốc quan trọng khi các nước ASEAN đã kí “Hiệp
ước thân thiện và hợp tác Đông Nam Á” tại Indonexia. Từ năm 1976 Hiệp ước Bali
được ký kết đến trước Hội nghị thượng đỉnh lần thứ tư năm 1992 đây là giai đoạn
củng cố cơ cấu tổ chức và tiến lên hợp tác toàn diện nội khối và bước đầu phát triển
hợp tác ngoại khối;
Giai đoạn trở thành ASEAN 10 và hợp tác toàn diện mà trọng tâm là hợp tác
kinh tế (Từ Hội nghị thượng đỉnh lần thứ 4 năm 1992 - trước thời điểm thành lập
Cộng đồng ASEAN năm 2003);
Giai đoạn xây dựng Cộng đồng ASEAN (Từ thời điểm thành lập Cộng đồng
ASEAN năm 2003 đến nay);
II – Cơ cấu tổ chức của ASEAN qua các giai đoạn phát triển
1 />
3


1. Giai đoạn từ khi thành lập đến Hội nghị thượng Bali năm 1976

Đây là giai đoạn phát triển đầu tiên của ASEAN. Ở giai đoạn này, cơ cấu tổ
chức của ASEAN cịn chưa hồn chỉnh, thậm chí Ban thư ký – cơ quan thường trực
mà bất kỳ tổ chức quốc tế nào cũng có cịn chưa được thành lập. Đây là một trong
những lý do mà thời kỳ này, ASEAN bị giới quan sát quốc tế chỉ coi là “liên minh
chính trị lỏng lẻo”.
Trong giai đoạn đầu tiên, cơ cấu tổ chức của ASEAN được thiết kế một cách
đơn giản và gọn nhẹ. Theo Điều 7 Tuyên bố Băng Cốc 1967, cơ cấu tổ chức của
ASEAN trong giai đoạn này bao gồm các cơ quan2:
- Hội nghị ngoại trưởng (ANM);
- Ủy ban thường trực;

- Ban Thư ký quốc gia;
Để nhằm phục vụ cho hoạt động hợp tác của mình, các thành viên ASEAN đã thoả
thuận thành lập nên các ủy ban thường trực khác, ủy ban đặc biệt hoặc ad hoc về
các lĩnh vực hoặc vấn đề hợp tác cụ thể. Trong thực tế, đến năm 1976, ASEAN đã
thành lập 11 Ủy ban thường trực và 9 ủy ban đặc biệt.
Do nhiều nguyên nhân khác quan và chủ quan khác nhau nên trong giai đoạn
này, ASEAN hầu như chưa có hoạt động nào đáng kể. Chỉ có một số hoạt động
đáng lưu ý như: Thông qua Tuyên bố ZOPFAN về khu vực hồ bình, tự do, trung
lập tại Kuala Lumpur ngày 17/11/2971; thực hiện một số hoạt động ngoại giao, kinh
tế đơn lẻ: đồng loạt công nhận quan hệ ngoại giao với Việt Nam và Bangladesh,
cùng thoả thuận ý kiến trước khi biểu quyết những vấn đề cụ thể ở Liên hợp quốc
hoặc cùng phối hợp lên tiếng phản đối một cách có kết quả chống lại việc cao su
tổng hợp của Nhật Bản cạnh tranh với cao su tự nhiên vốn là sản phẩm xuất khẩu
chủ lực của nhiều quốc gia trong khối… Tóm lại, ở giai đoạn đầu sau khi thành lập,
các hoạt động của ASEAN mới chỉ dừng lại ở mức độ tạo ra nền tảng hợp tác lâu
dài và khởi động các hoạt động hợp tác bằng một số hoạt động chung (chủ yếu
nhằm giải quyết các vấn đề chính trị trong và ngồi nước) nhằm tăng cường hiểu
biết lẫn nhau.
Vì vậy, trong gần 10 năm đầu thành lập với một số hoạt động ít ỏi kể trên, cơ
cấu của ASEAN còn khá lỏng lẻo, chỉ đủ để duy trì hoạt động hợp tác giữa các quốc
gia khi cần thiết. Lúc này chỉ có Ban thư ký của các quốc gia thành viên chứ chưa
có Ban thư ký chung của ASEAN. Trong giai đoạn hình thành và định hướng phát
2 “Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN)”, Vụ ASEAN, Bộ Ngoại giao, nxb.Chính trị quốc gia, H.1995,
tr.22

4


triển này, cơ cấu tổ chức của ASEAN còn khá đơn giản, bộ máy hoạt động còn non
yếu, cần thiết phải cải tổ để hoàn thiện hơn trong các giai đoạn tiếp theo, đáp ứng

được yêu cầu, đòi hỏi của xu thế phát triển chung trên thế giới.
2. Giai đoạn từ năm 1976 đến Hội nghị thượng đỉnh Singapore năm 1992
Để tăng cường hợp tác về chính trị và nâng cao hiệu quả hoạt động của
ASEAN, trong Tuyên bố về sự hồ hợp ASEAN năm 1976 được thơng qua tại Hội
nghị thượng đỉnh lần thứ nhất ở Bali ngày 24/02/1976, các quốc gia ASEAN đã
nhất trí về việc cải tiến cơ cấu tổ chức của ASEAN. Sau Tuyên bố trên, việc củng cố
cơ cấu tổ chức đã có những thay đổi lớn: Hình thành cơ chế Hội nghị bộ trưởng,
thành lập các uỷ ban và ban thư kí3.
Mặc dù Hội nghị ngoại trưởng vẫn được coi là cơ quan hoạch định chính
sách cao nhất nhưng 5 hội nghị bộ trưởng khác cũng đã được thiết lập để thảo luận
và thông qua các chương trình hợp tác khác của ASEAN, gồm: Hội nghị bộ trưởng
kinh tế (AEM); Hội nghị bộ trưởng lao động (ALM); Hội nghị bộ trưởng phụ trách
phúc lợi xã hội (ASWM); Hội nghị bộ trưởng giáo dục (AEM); Hội nghị bộ trưởng
thông tin (AIM). Trong số 5 hội nghị trên, Hội nghị bộ trưởng kinh tế có tầm quan
trọng lớn nhất. Tất cả các ủy ban thường trực và ủy ban Ad-hoc trước đó đã được tổ
chức lại thành 9 ủy ban như: Ủy ban về công nghiệp, khoáng sản và năng lượng; Ủy
ban về thương mại và du lịch; Ủy ban về lương thực, nông nghiệp và lâm nghiệp;
Ủy ban về tài chính và ngân hàng; Ủy ban về vận tải và liên lạc; Ủy ban về ngân
sách...Các cơ quan này thực hiện chức năng trong lĩnh vực kinh tế, văn hố-xã hội.
Ngồi ra, cịn có một số tiểu ban đã được thành lập nhằm hỗ trợ cho các ủy ban nói
trên để giải quyết các vấn đề cụ thể.
Có thể thấy rằng, cơ chế Hội nghị bộ trưởng theo cơ cấu mới này rất hợp lý,
thuận tiện trong việc áp dụng trên thực tế. Bởi, với mỗi một lĩnh vực thì tương ứng
lại có cơ quan chuyên trách. Như vậy, để giải quyết bất kỳ một vấn đề nào liên quan
đến một hoạt động cụ thể thì sẽ có cơ quan đặc biệt cho từng lĩnh vực phụ trách phù
hợp với mơ hình cơ cấu thay đổi mới.
Ban thư kí ASEAN là cơ quan hành chính của ASEAN và đã được thành lập
năm 1978 theo Hiệp định về Ban thư kí ASEAN (Bali, 1976). Mặc dù mới được cơ
cấu lại nhưng với vai trị của mình, Ban thư ký đang ngày ngày khẳng định rõ vị thế
điều phối các hoạt động của ASEAN ngày một hiệu quả hơn.

3 “Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN)”, Sđd, tr.22-23.

5


Như vậy, sau 9 năm hoạt động, cơ cấu tổ chức của ASEAN đã có những cải
tiến quan trọng, phản ánh sự trưởng thành của ASEAN nhằm tăng cường hợp tác về
chính trị và nâng cao hiệu quả hoạt động của ASEAN, đặc biệt là đã bắt đầu có Ban
thư kí chung của Hiệp hội. Việc thay đổi cơ cấu này được những người đứng đầu
chính phủ ASEAN 5 đánh giá trong Tuyên bố Kuala Lumpur là “những điều chỉnh
cần thiết được thực hiện đối với cơ cấu tổ chức ASEAN đã làm cho bộ máy đó có
thể thực hiện được những hoạt động ngày càng tăng trong Chương trình hành động
được vạch ra trong tuyên bố về sự hoà hợp ASEAN”4.
3. Giai đoạn từ năm 1992 đến trước thời điểm Hiến chương có hiệu lực

năm 2008
Từ đầu thập niên của thế kỷ XX, thế giới bước sang đà phát triển vũ bão theo
xu hướng tồn cầu hố và khu vực hoá. Mức độ liên kết của các tổ chức quốc tế khu
vực ngày càng cao. Cùng với xu thế đó, ASEAN cũng phải có những điều chỉnh
thích hợp về mọi mặt để đáp ứng nhu cầu hợp tác trong điều kiện mới, nhất là đối
với các hoạt động trong hợp tác kinh tế, khi lúc này đã trở thành linh hồn hợp tác
trong khối.
Về cơ cấu tổ chức, Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ tư họp tại
Singapore vào năm 1992 được đánh giá là dấu mốc quan trọng trong con đường
phát triển của ASEAN cả về cơ cấu tổ chức và mức độ hợp tác. Theo Điểm 8 Tuyên
bố Singapore năm 1992, bộ máy tổ chức của ASEAN trong giai đoạn này được cơ
cấu lại như sau5:
Các cơ quan hoạch địch chính sách gồm:
- Hội nghị cấp cao ASEAN (ASEAN Summit). Hội nghị này bao gồm những người
đứng đầu nhà nước hoặc chính phủ của các quốc gia thành viên. Hội nghị cấp cao

tiến hành họp 2 lần một năm và do quốc gia thành viên giữ chức Chủ tịch ASEAN
chủ trì và tổ chức. Đây là cơ quan hoạch định chính sách tối cao của ASEAN, xem
xét, đưa ra các chỉ đạo và quyết định các vấn đề then chốt liên quan đến việc thực
hiện các mục tiêu của ASEAN và lợi ích của các quốc gia thành viên ASEAN. Hội
nghị cấp cao ASEAN chủ trì tổ chức và có thể được triệu tập khi cần thiết như là
các cuộc họp đặc biệt hoặc bất thường tại thời điểm được tất cả các quốc gia thành
viên nhất trí.
4 Điểm 53
5 “Hiệp hội các nước Đơng Nam Á (ASEAN)”, Sđd, tr.23-29

6


Hội nghị ngoại trưởng (ASEAN Ministerial Meeting);
Hội nghị bộ trưởng kinh tế (ASEAN Economic Ministers);
Hội nghị bộ trưởng các ngành;
Hội nghị liên Bộ trưởng – JMM (Joint Ministerial Meeting).
Các cơ quan chấp hành gồm:
- Uỷ ban thường trực ASEAN – ASC (ASEAN Standing Committee);
Uỷ ban thường trực ASEAN được thành lập năm 1987 6, bao gồm chủ tịch là bộ
-

trưởng ngoại giao của nước đăng cai AMM tiếp theo, Tổng thư kí ASEAN và tổng
vụ trưởng các ban thư kí ASEAN quốc gia.
- Các uỷ ban hợp tác chuyên ngành;
- Cuộc họp các quan chức cấp cao – SOM (Senior Economic Officials
Meeting);
- Các cuộc họp quan chức cao cấp khác
Ngoài các cuộc họp trên, cịn có các cuộc họp của các quan chức cao cấp về môi
trường, ma tuý, khoa học và cơng nghệ, văn hố và thơng tin… (tương tự như các

lĩnh vực phụ trách của các uỷ ban phi kinh tế).
- Cuộc họp tư vấn chung – JCM (Joint Consultative Meeting)
- Ban thư kí ASEAN
Tuyên bố Singapore 1992 sau Hội nghị thượng đỉnh lần thứ 4 tại Singapore đã có
những sửa đổi nhất định đối với cơ cấu và chức năng, quyền hạn cảu Ban thư kí 7.
- Ban thư ký ASEAN quốc gia
Ngoài các cơ quan trên, để thực hiện cơ chế hợp tác đối với bên thứ ba, ASEAN cịn
có hội nghị sau hội nghị ngoại trưởng, các cuộc họp của ASEAN với các bên đối
thoại và Uỷ ban ASEAN ở các nước thứ ba.
Để tăng cường hợp tác và phát huy thành tựu đạt được trong 25 năm, không
chỉ kế thừa một số thiết chế từ giai đoạn trước đó là các thiết chế: Hội nghị ngoại
trưởng, các hội nghị ngoại trưởng khác, ban thư ký ASEAN. Cùng với đó, trong giai
đoạn này Hội nghị cấp cao ASEAN trở thành một thiết chế quan trọng, đánh dấu
mốc đặc biệt trong cơ cấu ASEAN. Đến năm 2001, Hội nghị chính thức được tổ
chức thường niên. Thơng qua hội nghị này, các thành viên của ASEAN đã thông
qua và ký kết nhiều văn kiện quan trọng như: Khu vực mậu dịch ASEAN (AFTA) –
tiến trình thúc đẩy hợp tác kinh tế thương mại (1992), đánh dấu bước tiến lịch sử về
chất trong hợp tác kinh tế của ASEAN; Tầm nhìn ASEAN 2020 (12/1997) đánh dấu
quan hệ hợp tác phát triển giữa các thành viên.

6 “35 năm ASEAN hợp tác và phát triển”, Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia/Viện kinh tế thế
giới, Nxb.Khoa học xã hội,H.203.
7 “Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN)”, Sđd, tr.28

7


Như vậy, trong giai đoạn này, cơ cấu ASEAN đang ngày càng củng cố hơn
thể chế hoá cụ thể, rõ ràng chức năng nhiệm vụ của hội nghị cấp cao để thích nghi
với tình hình kinh tế - chính trị khu vực cũng như nhu cầu hợp tác, kết nối giữa các

nước thành viên. Cơ cấu trên của ASEAN phù hợp với xu hướng chung của thế giới
sau chiến trạnh lạnh (1947 – 1991) đó là xích lại gần nhau hơn, tăng cường hợp tác
quốc tế, liên minh chính trị - kinh tế - xã hội với các nước cùng khu vực.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, phải chăng cơ cấu bộ máy của ASEAN trong giai
đoạn này còn chưa rõ ràng, thiết chế vẫn cịn chưa chặt chẽ. Vì có thể thấy, bộ máy
của ASEAN chưa được pháp điển hoá, nên các cơ quan còn chưa vận hành một
cách ổn định và chủ động. Khi chưa được pháp điển hoá, khi muốn tổ chức các
phiên họp bàn bạc về các vấn đề cần giải quyết sẽ lâu hơn, phức tạp hơn. Hệ thống
các cơ quan của ASEAN còn hoạt động phân tán, chưa có sự liên kết.
4. Giai đoạn từ khi Hiến chương có hiệu lực đến nay
Hiến chương ASEAN là nhu cầu tất yếu khách quan và là bước chuyển giai
đoạn quan trọng của Hiệp hội sau 40 năm tồn tại và phát triển, phản ánh sự trưởng
thành của ASEAN, thể hiện tầm nhìn và quyết tâm chính trị của các nước ASEAN,
đặc biệt là mục tiêu xây dựng một ASEAN liên kết chặt chẽ hơn, hiệu quả hơn và
vững mạnh hơn. Văn bản pháp lí hợp nhất này của ASEAN sẽ tạo ra khn khổ
pháp lí và thể chế mới cho hợp tác ASEAN trong tương lai, qua đó hỗ trợ thiết thực
khơng chỉ cho q trình hướng tới Cộng đồng ASEAN mà còn nâng cao vị thế của
Hiệp hội với các đối tác và các tiến trình khác ở khu vực hiện nay cũng như sau này.
Cùng với sự ràng buộc pháp lí với tư cách là hiến chương của một tổ chức
quốc tế liên chính phủ, sự đổi mới về phương thức hoạt động thì sự cải tổ về cơ cấu
tổ chức trong Hiến chương sẽ giúp ASEAN thực hiện các thỏa thuận nghiêm túc,
kịp thời, nâng cao chất lượng và hiệu quả hợp tác. Chương IX của Hiến chương quy
định về cơ cấu tổ chức của ASEAN8, cụ thể 9 cơ quan là:
- Hội đồng cấp cao – Summit (Điều 7). So với các giai đoạn trước thì Summit vẫn là
cơ quan quyền lực cao nhất của ASEAN nhưng điểm mới của Hiến chương là thể
chế hoá cụ thể, rõ ràng chức năng nhiệm vụ của hội nghị cấp cao từ điểm a đến
điểm g Khoản 2 Điều 7 của Hiến chương.
8 Xem Phụ lục

8



- Hội đồng điều phối – Coordinating Council (Điều 8). Hội đồng này bao gồm các
ngoại trưởng ASEAN, họp ít nhất 2 lần 1 năm và sẽ được các quan chức cao cấp
liên quan hỗ trợ.
- Các hội đồng cộng đồng – Community Council (Điều 9). Mỗi quốc gia thành viên
sẽ chỉ định một đại diện quốc gia tham dự cuộc họp của hội đồng Cộng đồng
ASEAN.
- Các cơ quan chuyên ngành cấp bộ trưởng – Sectoral Ministerial Bodies (Điều 10)
là các thiết chế trực thuộc các hội đồng cộng đồng9.
- Tổng thư kí và Ban thư kí ASEAN-Secretary-General of ASEAN/ASEAN
Secretariat (Điều 11) là cơ quan thường trực nhất, có nhiệm vụ triển khai thực hiện
các quyết định, thỏa thuận và hỗ trợ và theo dõi tiến độ thực hiện các thỏa thuận đó,
đệ trình báo cáo hàng năm về các hoạt động của ASEAN lên Hội nghị Cấp cao.
Tổng thư ký có nhiệm vụ phát ngơn quan điểm của ASEAN, phục vụ mục tiêu
chung của ASEAN, không phục vụ riêng quốc gia ASEAN nào. Ban thư ký là lâu
đời nhất, là nơi lưu trữ tất cả các tài liệu liên quan tới hợp tác ASEAN qua các thời
kỳ. Trên thực tế, Ban thư kí cịn bảo đảm các hoạt động của ASEAN được diễn ra
liên tục, nhất là giữa các kỳ hội nghị, bảo đảm thông tin trong ASEAN được thơng
suốt và chính xác, khách quan giữa các cơ chế hợp tác.
- Uỷ ban đại diện thường trực bên cạnh ASEAN – Committee of Permanent
Representatives to ASEAN (Điều 12) có nhiệm vụ đại diện cho các nước thành viên
điều hành công việc hằng ngày của ASEAN.
- Ban thư ký ASEAN quốc gia – ASEAN National Secretariats (Điều 13) là đầu mối
điều phối và phối hợp hoạt động hợp tác ASEAN trong phạm vi mỗi quốc gia.
- Cơ quan nhân quyền ASEAN – ASEAN Human Rights Body. Mục đích để thúc
đẩy và bảo vệ nhân quyền và các quyền tự do cơ bản, tăng cường hợp tác giữa chính
phủ các nước thành viên ASEAN với mục tiêu bảo vệ các quyền con người.
- Quỹ ASEAN - ASEAN Foundation có nhiệm vụ hỗ trợ Tổng thư ký ASEAN và
hợp tác với các cơ quan liên quan để phục vụ xây dựng cộng đồng ASEAN, thông

qua việc nâng cao nhận thức về bản sắc ASEAN, quan hệ tương tác giữa người dân
với người dân, hợp tác chặt chẽ trong giới doanh nghiệp, các nhà nghiên cứu và các
nhóm đối tượng khác trong ASEAN.
9 Xem Phụ lục 1 của Hiến chương

9


Về cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan đều được quy định
rõ ràng trong các điều khoản tương ứng trong Hiến chương. Theo mơ hình này, hệ
thống các cơ quan sẽ được cơ cấu bám sát các mục tiêu đặt ra, khắc phục đáng kể sự
phân tán của thời kỳ trước đây. Một mặt Hiến chương ASEAN tiếp tục kế thừa
khung cơ cấu hiện hành của ASEAN và ngày càng đảm bảo cho bộ máy của
ASEAN thực hiện có hiệu quả các tơn chỉ, mục đích đã đề ra trong Hiến chương.
Điểm mới ở đây là vai trị của các cơ quan hiện hành đó được tăng cường hơn hoặc
xác định cụ thể hơn. Điển hình như các quy định của Hội nghị cấp cao, Tổng thư kí
và Ban thư kí. So với quy định về cơ cấu của ASEAN trong các văn kiện hữu quan,
hệ thống các cơ quan của ASEAN cũng như chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan
theo Hiến chương đã được kiện tồn đáng kể 10. Ngồi ra, ASEAN có thể đặt quan
hệ với các thể chế có liên quan được liệt kê trong Phụ lục 2 của Hiến chương. Danh
sách các thể chế này có thể được cập nhật theo khuyến nghị của Uỷ ban các đại diện
thường trực11. Vai trị của Tổng thư kí ASEAN và các quốc gia Chủ tịch ASEAN
cũng có những nét mới, như Tổng thư kí và Chủ tịch ASEAN có thể thực hiện chức
năng hịa giải, mơi giới, trung gian khi các thành viên ASEAN có tranh chấp u
cầu, Tổng thư kí được giao chức năng giám sát việc tuân thủ các khuyến nghị, quyết
định của các cơ chế giải quyết tranh chấp của ASEAN.
Hệ thống các cơ quan của ASEAN theo Hiến chương được cơ cấu bám sát
các mục tiêu của tổ chức, khắc phục đáng kể sự phân tán của các thời kì trước đây.
Điều này thể hiện rõ nét :
- Hội đồng cộng đồng chính trị - an ninh bao gồm: các cơ quan chuyên ngành cấp

Bộ trưởng bao gồm 6 cơ quan: Ủy ban về khu vực Đông Nam Á khơng có vũ khí
hạt nhân, Hội nghị Bộ trưởng quốc phòng của các nước ASEAN, Hội nghị Bộ
trưởng Tư pháp của các nước ASEAN, Hội nghị Bộ trưởng ASEAN về tội phạm
xuyên quốc gia, diễn đàn khu vực ASEAN và các cơ quan giúp việc trực thuộc.
- Hội đồng cộng đồng kinh tế bao gồm: các cơ quan chuyên ngành cấp Bộ trưởng
(14 cơ quan) và các cơ quan giúp việc trực thuộc.
- Hội đồng cộng đồng văn hóa – xã hội bao gồm: các cơ quan chuyên ngành cấp bộ
trưởng (17 cơ quan) và các cơ quan giúp việc trực thuộc.
10 Xem Điều 12,14,15 Hiến chương ASEAN
11 ThS.Nguyễn Thị Thuận, “Tuyên bố Băng Cốc năm 1967 và Hiến chương ASEAN năm 2007 – Cơ sở pháp
lý cho sự ra đời và phát triển của ASEAN”, Bài viết Tạp chí Luật học = Jurisprudence journal, Trường Đại
học Luật Hà Nội, số 9/2009, tr.3-7

10


Quy định của mỗi cơ quan thuộc bộ máy của ASEAN cũng được thiết kế
đảm bảo tính thường xuyên, liên tục nhằm đáp ứng kịp thời nhằm đáp ứng các yêu
cầu hợp tác trong các lĩnh vực. Cụ thể: ngoài các cơ quan thường trực của ASEAN
như Ban thư kí ASEAN, thời gian làm việc của các cơ quan không thường trực như
Cấp cao ASEAN, Hội đồng điều phối ASEAN, Hội đồng cộng đồng chính trị - an
ninh, Hội đồng cộng đồng kinh tế và Hội đồng cộng đồng văn hóa – xã hội đã được
gia tăng đáng kể, các phiên họp định kì đều được tổ chức một năm hai lần.
ASEAN đang hướng đến sự hợp tác sâu rộng giữa các nước thành viên, tuy
nhiên trong cơ cấu tổ chức của ASEAN các cơ quan không thường trực lại chiếm số
lượng tối đa, hoạt động theo kỳ họp vẫn chưa có nhiều các cơ quan hoạt động
thường kì (chỉ có 2 cơ quan là Ủy ban đại diện thường trực và Ban thư kí so với các
cơ quan cịn lại chỉ tiến hành họp theo định kì hoặc khi cần thiết). Điều này, một
mặt khiến cho mối liên kết giữa các cơ quan của hiệp hội còn lỏng lẻo, mặt khác do
chỉ hoạt động theo cơ chế kì họp nên có thể sẽ làm hạn chế khả năng chỉ đạo, khó

khăn khi điều hành của các cơ quan này trước những biến động, thay đổi kịp thời
với tình hình thực tiễn. Trong khi đó, yêu cầu về một sự hợp tác sâu rộng và những
thách thức mới từ tình hình khu vực và thế giới địi hỏi trong khn khổ của
ASEAN phải có nhiều cơ quan hoạt động một cách thường xuyên hơn để kịp thời
giải quyết những vấn đề phát sinh.
III – Một số đánh giá và nhận xét về cơ cấu tổ chức của ASEAN
ASEAN là tổ chức quốc tế có sự cải tổ thường xuyên cơ cấu tổ chức của
mình trong quá trình tồn tại và phát triển. Chính sự thay đổi về cơ cấu tổ chức của
ASEAN cũng thể hiện tiến trình, mức độ và phạm vi hợp tác trong từng giai đoạn
phát triển cũng như tính mềm dẻo, linh hoạt của ASEAN. Với định hướng phát triển
đặc thù, “thống nhất trong đa dạng” và “linh hoạt” trong các thời kỳ hoạt động, cơ
cấu tổ chức của ASEAN đã được linh hoạt thay đổi. Từ khi ra đời cho đến nay, cơ
cấu tổ chức của ASEAN hoàn thiện dần qua từng giai đoạn phù hợp với tình hình và
yêu cầu hợp tác đặt ra trong bối cảnh mới.
Mơ hình cơ cấu tổ chức phù hợp với mỗi giai đoạn trong từng lĩnh vực cụ
thể, đặt nền móng cho sự hợp tác và phát triển trong các yêu cầu chung của các
quốc gia Đông Nam Á trong tương lai. Từ việc giai đoạn khi thành lập chập chững
mới chỉ dừng lại ở việc tạo ra nền tảng hợp tác lâu dài cho đến khi cải tiến cơ cấu
thành các Hội nghị Liên bộ trưởng liên quan đến từng lĩnh vực phụ trách đã cùng
11


nhau phối hợp hoạt động trong các lĩnh vực cụ thể, ràng buộc với nhau như: Lĩnh
vực môi trường, kinh tế-xã hội, hay các nguồn nhân lực xã hội,… và thành lập ra
ban thư ký chung đảm nhiệm hoạt động điều phối của ASEAN. Có thể thấy, qua
từng giai đoạn thì bộ máy của ASEAN ngày càng trưởng thành và dần hoàn thiện
hơn. Đến năm 1992, trong Tuyên bố Singapore thì tổ chức của ASEAN được cơ cấu
lại thành các cơ quan hoạch định chính sách và các cơ quan chấp hành. Mơ hình cơ
cấu tổ chức của ASEAN gần đây nhất là theo Hiến chương đã có những cải cách lớn
so với trước đây nhằm đảm bảo cho bộ máy của ASEAN thực hiện có hiệu quả các

tơn chỉ, mục đích đã đề ra trong Hiến chương. Bởi, với tư cách là văn bản gốc và
hợp nhất của một tổ chức thì tất cả các thiết chế pháp lý của ASEAN đều đã được
thể chế hóa ngay tại Hiến chương mà khơng cịn được quy định rải rác ở các văn
kiện khác nhau như trước đây.
Thứ nhất, chức năng nhiệm vụ của từng cơ quan này cũng được quy định chi
tiết và cụ thể ở ngay trong Hiến chương chứ không cần các thỏa thuận khác như
trước đây.
Thứ hai, Hiến chương đã thiết kế, sắp xếp và cơ cấu lại bộ máy của ASEAN
theo mơ hình “hình chóp quyền lực” vừa đảm bảo sự tập trung, (bên cạnh hội nghị
cấp cao là cơ quan quyền lực cao nhất, Hiến chương đã thành lập các cơ quan điều
phối của ASEAN như: Hội đồng điều phối để phối hợp một cách thống nhất và
đồng bộ tất cả các hoạt động của ASEAN trong mọi lĩnh vực, thành lập 3 hội đồng
cộng đồng chịu trách nhiệm vừa triển khai, vừa điều phối các hoạt động của các
ngành chuyên môn trong 3 trụ cột của ASEAN; đồng thời chức năng và thẩm quyền
của các cơ quan hoạch định chính sách cũng đã thể hiện sự tập trung hơn so với
trước đây), vừa đảm bảo sự chuyên sâu, chuyên trách (như trong mỗi hội đồng cộng
đồng lại có các cơ quan chuyên ngành cấp bộ trưởng trực thuộc, mỗi cơ quan
chuyên ngành này lại có các cơ quan chuyên trách cấp dưới giúp việc). Điều này
giúp cho bộ máy của ASEAN vận hành nhịp nhàng hơn, không dàn trải và chồng
chéo như trước đây.
Thứ ba, sự phân công và mối quan hệ giữa các cơ quan trong bộ máy cũng
được xác định rõ ràng, chặt chẽ hơn trước; đặc biệt là mối quan hệ giữa cơ quan
hoạch định chính sách với các cơ quan chấp hành, giữa cơ quan điều phối với cơ
quan thực hiện, giữa cơ quan trụ cột với cơ quan chuyên ngành và giữa cơ quan cấp
12


trên với cơ quan trực thuộc. Trong tất cả các cơ quan của ASEAN chỉ duy nhất Hội
nghị cấp cao là cơ quan hoạch định chính sách, các cơ quan còn lại đều là các cơ
quan điều phối, điều hành và chấp hành. Điều này chắc chắn sẽ làm tăng hiệu quả

trong thực tế triển khai các quyết định, chính sách của ASEAN.
Thứ tư, nếu so sánh với Liên minh châu Âu thì trong các cơ quan của
ASEAN được thể chế hố tại Hiến chương vẫn chưa có nhiều các cơ quan hoạt
động thường kì (chỉ có 2 cơ quan là Ủy ban đại diện thường trực và Ban thư kí so
với các cơ quan cịn lại chỉ tiến hành họp theo định kì hoặc khi cần thiết). Điều này
một mặt khiến cho mối liên kết giữa các cơ quan của Hiệp hội còn lỏng lẻo, mặt
khác, do chỉ hoạt động theo cơ chế kì họp nên có thể sẽ làm hạn chế khả năng chỉ
đạo, điều hành của các cơ quan này trước những biến động, khó khăn bất thường
cần được phối hợp giải quyết ở cấp độ Hiệp hội.
Tuy nhiên, nếu so với trước đây thì tương quan về mặt số lượng giữa các cơ
quan hoạch định chính sách và cơ quan chấp hành đã có những cải tổ lớn. Nghiên
cứu chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của từng cơ quan theo quy định của Hiến
chương cho thấy rằng trong tất cả các cơ quan của ASEAN chỉ duy nhất hội nghị
cấp cao là cơ quan hoạch định chính sách, các cơ quan cịn lại đều là các cơ quan
điều phối, điều hành và chấp hành. Điều này chắc chắn sẽ làm tăng hiệu quả, hiệu
lực trong thực tế triển khai các quyết định, chính sách của ASEAN.
Thứ năm, khoảng cách giữa các kì họp của các hội đồng đã được rút ngắn
hơn rất nhiều so với trước. Hội nghị cấp cao, Hội đồng điều phối, 3 Hội đồng cộng
đồng đều họp ít nhất 2 lần trong 1 năm so với trước đây là 3 năm một lần của hội
nghị cấp cao và mỗi năm một lần của các Hội nghị bộ trưởng. Vì vậy, sẽ giúp cho
các cơ quan này (nhất là hội nghị cấp cao với tư cách là cơ quan hoạch định chính
sách cao nhất) có khả năng phản ứng nhanh nhạy, kịp thời và thường xuyên hơn đối
với các vấn đề đặt ra cho Hiệp hội.
Thứ sáu, nhằm tránh sự “lệch pha” giữa chức chủ tịch của các cơ quan khác
nhau trong bộ máy như trước đây, Hiến chương ASEAN đã đồng bộ hoá chức chủ
tịch của các cơ quan theo chức Chủ tịch ASEAN. Theo Điều 31, chức Chủ tịch
ASEAN sẽ được luân phiên hàng năm, theo thứ tự chữ cái tên của các quốc gia
13



thành viên bằng tiếng Anh. ASEAN sẽ áp dụng quy chế Chủ tịch thống nhất trong 1
năm tính theo dương lịch, theo đó quốc gia thành viên đảm nhiệm chức Chủ tịch sẽ:
- Chủ trì hội nghị cấp cao ASEAN và các cấp cao liên quan;
- Các cuộc họp của Hội đồng điều phối ASEAN;
- 3 Hội đồng cộng đồng ASEAN;
- Cơ quan chuyên ngành cấp bộ trưởng và các cuộc họp quan chức cao cấp (nếu phù
hợp);
- Ủy ban đại diện thường trực ASEAN.
Thứ bảy, nhấn mạnh vị trí của Tổng thư kí, các phó Tổng thư kí và Ban thư
kí trong bộ máy hoạt động của ASEAN. Hiến chương đã chuẩn hố quy chế pháp lí
của từng thành phần trong Ban thư kí, tăng cường hơn nữa vai trị của Tổng thư kí
và Ban thư kí - cơ quan hành chính thường trực của ASEAN nhằm thúc đẩy việc
xây dựng Cộng đồng ASEAN và các hoạt động khác của ASEAN đi vào thiết thực
và hiệu quả hơn.
Hiến chương ASEAN được xây dựng rất khẩn trương – trong 13 vòng đàm
phán lần lượt tổ chức ở các nước thành viên. Đó là thành quả chung mang tính tập
thể, đã tính đến ý kiến và nhận thức của cả 10 quốc gia. Với những cải tổ toàn diện
và đồng bộ này, Hiến chương ASEAN đã đánh dấu một bước tiến mới về khuôn khổ
thể chế và bộ máy hoạt động của ASEAN theo hướng rõ ràng và khoa học hơn,
trong đó nhấn mạnh đến vai trị của Tổng thư kí và Ban thư ký ASEAN. Khuôn khổ
thể chế đầy đủ và chặt chẽ hơn với quy chế phân công, phân nhiệm vụ rõ ràng nêu
trong Hiến chương ASEAN sẽ góp phần tăng cường hiệu quả và hiệu lực của các
chương trình hợp tác trong ASEAN trong thời gian tới.
Trong hơn 40 năm hình thành và phát triển, ASEAN đã tiến hành những cải
cách nhất định về cơ cấu tổ chức. Tuy nhiên, với những thay đổi của đời sống chính
trị, kinh tế của thế giới và khu vực, để đạt được mục tiêu, tơn chỉ của mình trong
tình hình mới, ASEAN phải tiếp tục cơ cấu lại bộ máy theo hướng tăng cường hiệu
quả hoạt động của tổ chức. Pháp điển hóa các quy định về bộ máy của ASEAN vào
Hiến chương. Bằng cách này, ASEAN sẽ được vận hành ổn định và chủ động hơn.
14



Việc phải có những quy định ngồi Hiến chương về cơ cấu và chức năng quyền hạn
của các cơ quan sẽ chỉ đặt ra trong những trường hợp đặc biệt cần thiết hoặc khi
những quy định liên quan trong Hiến chương mới chỉ dừng ở mức độ mang tính
nguyên tắc (ví dụ như quy định về Cơ quan nhân quyền ASEAN12.
KẾT LUẬN
Với hơn 50 năm hình thành và phát triển cùng với sự thay đổi của các mơ
hình cơ cấu tổ chức, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á – ASEAN đã thực hiện tốt
các mục đích, nguyên tắc hoạt động của mình một cách linh hoạt, phù hợp với từng
giai đoạn phát triển. Với tính chất là tổ chức quốc tế chung, có phạm vi hoạt động
bao trùm các lĩnh vực hợp tác khác nhau ASEAN đã có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau để cùng hướng tới mục tiêu đưa Đông Nam Á trở thành khu vực hồ bình và
phát triển.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
*Văn bản pháp luật
Hiến chương của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN)
*Giáo trình, sách chuyên khảo
1. Giáo trình Pháp luật Cộng đồng ASEAN, Trường Đại học Luật Hà Nội,
Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội, năm 2018
2. Giáo trình Luật quốc tế, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nhà xuất bản
Công an nhân dân, Hà Nội, năm 2019
1.

12 Theo Điều 14 Hiến chương

15



Ths.Nguyễn Thị Thuận, “Luật Quốc tế - Những điều cần biết”, Sách
chuyên khảo, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội, năm 2010
4. “Một trăm năm mươi câu hỏi và đáp về ASEAN: Hiến chương ASEAN
và Cộng đồng ASEAN”, Học viện Ngoại giao, Hà Nội, 2010
*Bài viết đăng trên các tạp chí, hội thảo
1. Ths.Nguyễn Thị Thuận, “Tuyên bố Băng Cốc năm 1967 và Hiến
chương ASEAN năm 2007 – Cơ sở pháp lý cho sự ra đời và phát triển
của ASEAN”, Bài viết Tạp chí Luật học = Jurisprudence journal,
Trường Đại học Luật Hà Nội, Số 9/2008, tr.3-7
2. Ths.Lê Minh Tuấn, “Cơ cấu tổ chức của ASEAN – Từ tuyên bố Băng
Cốc đến Hiến chương”, Bài viết Tạp chí Luật học = Jurisprudence
journal, Trường Đại học Luật Hà Nội, Số 9/2008, tr.8-16
*Các trang web
1. />%95-ch%E1%BB%A9c-c%E1%BB%A7a-asean
2. />3. />4. />5. />6. />31033_2642012949528.pdf
3.

16



×