Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Luận văn thạc sĩ trách nhiệm của người quản lý doanh nghiệp kinh nghiệm ở một số quốc gia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (612.3 KB, 72 trang )

A

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM

NGUYỄN THỊ DIỄM PHƯỢNG

TRÁCH NHIỆM
CỦA NGƯỜI QUẢN LÝ DOANH NGHIỆP
KINH NGHIỆM Ở MỘT SỐ QUỐC GIA
VÀ ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN CHO VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Tp. Hồ Chí Minh - Năm 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM

NGUYỄN THỊ DIỄM PHƯỢNG

TRÁCH NHIỆM
CỦA NGƯỜI QUẢN LÝ DOANH NGHIỆP
KINH NGHIỆM Ở MỘT SỐ QUỐC GIA
VÀ ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN CHO VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số : 8380107

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. TRẦN HUỲNH THANH NGHỊ

Tp. Hồ Chí Minh - Năm 2018



MỤC LỤC
Trang

TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
TÓM TẮT LUẬN VĂN
TỪ KHÓA
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................................. 1
2. Giả thuyết, câu hỏi nghiên cứu .......................................................................................... 2
3. Tình hình nghiên cứu.......................................................................................................... 3
4. Mục đích nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu.................................................................. 5
5. Phương pháp nghiên cứu ...............................................................................................556
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài.............................................................. 6
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGƯỜI QUẢN LÝ DOANH
NGHIỆP VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI QUẢN LÝ DOANH NGHIỆP... 7
1.1. Khái niệm người quản lý doanh nghiệp ................................................... 7
1.1.1. Lý thuyết về quản trị doanh nghiệp, quản lý doanh nghiệp và người quản lý ....... 7
1.1.2. Định nghĩa NQLDN theo pháp luật các nước ........................................................... 8

1.2. Trách nhiệm của người quản lý doanh nghiệp ............................. 141415
1.2.1 Lịch sử hình thành chế định về trách nhiệm của người quản lý doanh nghiệp tại
Việt Nam ....................................................................................................................... 141415
1.2.2Trách nhiệm NQLDN theo Luật Doanh nghiệp 2014.............................................. 17
1.3. Trách nhiệm pháp lý của NQLDN và khởi kiện NQLDN .................... 20
1.3.1. Trách nhiệm pháp lý của NQLDN ........................................................................... 20
1.3.2. Khởi kiện NQLDN..................................................................................................... 23
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
VIỆT NAM LIÊN QUAN ĐẾN TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI QUẢN LÝ
DOANH NGHIỆP VÀ QUY ĐỊNH TẠI MỘT SỐ QUỐC GIA............................ 29


2.1.Thực trạng áp dụng các quy định của Việt Nam liên quan đến trách
nhiệm NQLDN................................................................................................. 29
2.1.1. Trách nhiệm trung thực, cẩn trọng, tốt nhất nhằm đảm bảo lợi ích hợp pháp tối đa
của công ty ............................................................................................................................. 29
2.1.2. Trách nhiệm trung thành với lợi ích của cơng ty, khơng sử dụng thơng tin, bí
quyết, cơ hội kinh doanh của cơng ty, không lạm dụng địa vị, chức vụ và sử dụng tài
sản của công ty để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác.............. 353534
2.1.3. Thơng báo kịp thời, đầy đủ, chính xác cho cơng ty về doanh nghiệp mà họ làm
chủ sở hữu hoặc có cổ phần, phần vốn góp chi phối ......................................................... 38
2.2. Quy định về trách nhiệm của người quản lý doanh nghiệp tại một số
quốc gia ............................................................................................................ 39
2.2.1 Pháp luật Singapore ..................................................................................................... 39
2.2.2 Pháp luật Úc ................................................................................................................. 43
2.2.3 Pháp luật Trung Quốc ........................................................................................ 454546
2.2.4. Nhận xét....................................................................................................................... 47
CHƯƠNG 3: ĐỀ XUẤT HƯỚNG HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ
TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI QUẢN LÝ DOANH NGHIỆP............................ 50
3.1 Sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định về trách nhiệm của NQLDN ................ 50

3.2. Các đề xuất hoàn thiện các quy định về trách nhiệm của NQLDN .... 51
3.2.1. Thay đổi cách định nghĩa về NQLDN ..................................................................... 51
3.2.2. Hướng dẫn và giải thích cụ thể về các trách nhiệm trung thực, cần trọng, trung
thành ....................................................................................................................................... 52
3.2.3. Cho phép NQLDN cân nhắc đến quyền lợi của chủ nợ......................................... 53
3.2.4. Cho phép thành viên, cổ đông quyền tiếp cận hồ sơ cơng ty và hồn thiện quy
định của tố tụng dân sự về quyền khởi kiện phái sinh....................................................... 53
KẾT LUẬN .......................................................................................................................... 56
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT


LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên là Nguyễn Thị Diễm Phượng - mã số học viên:7701241375A, là
học viên lớp Cao học Luật năm 2014, chuyên ngành Luật kinh tế, Khoa Luật,
Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh, là tác giả của Luận văn thạc sĩ luật
học với đề tài “Trách nhiệm của người quản lý doanh nghiệp, kinh nghiệm ở
một số quốc gia và đề xuất hoàn thiện cho Việt Nam” (Sau đây gọi tắt là “Luận
văn”).
Tôi xin cam đoan tất cả các nội dung được trình bày trong Luận văn này
là kết quả nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của người
hướng dẫn khoa học. Trong Luận văn có sử dụng, trích dẫn một số ý kiến, quan
điểm khoa học của một số tác giả. Các thơng tin này đều được trích dẫn nguồn
cụ thể, chính xác và có thể kiểm chứng. Các số liệu, thơng tin được sử dụng
trong Luận văn là hồn toàn khách quan và trung thực.
Học viên thực hiện

Nguyễn Thị Diễm Phượng.



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Ký hiệu và chữ viết tắt

Nội dung

NQLDN

Người quản lý doanh nghiệp

HĐQT

Hội đồng Quản trị

ĐHĐCĐ

Đại hội đồng cổ đông

HĐTV

Hội đồng thành viên

Công ty trách nhiệm hữu hạn

Công ty TNHH

Công ty cổ phần

Công ty CP



TÓM TẮT LUẬN VĂN
Các khái niệm về trách nhiệm trung thực, cẩn trọng, trung thành của người
quản lý doanh nghiệp có nguồn gốc từ thơng luật, được giới thiệu lần đầu tiên tại
Luật Doanh nghiệp 1999. Sau 15 năm, đến Luật Doanh nghiệp 2014, mặc dù đã có
những nỗ lực trong việc quy định chi tiết về bổn phận người quản lý, luật hóa thủ
tục khởi kiện người quản lý nhằm tạo thuận lợi hơn cho các thành viên, cổ đông
công ty, nhưng mức độ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư ở nước ta
vẫn liên tục bị Ngân hàng Thế giới (World Bank) xếp hạng rất thấp1. Theo Báo cáo
Doing Business năm 20182, Việt Nam ở vị trí thứ 81, so với các quốc gia trong khu
vực như Singapore, Malaysia xếp ở vị trí thứ 4.
Các trách nhiệm trung thực, cẩn trọng, trung thành trong hệ thống pháp luật
Anh - Mỹ từ lâu đã được hình thành thơng qua q trình rút tỉa, đúc kết kinh
nghiệm từ hoạt động thực tiễn khách quan của các công ty trong nền kinh tế, với
nhiều án lệ để giải thích ý nghĩa của chúng, nên có vai trò quan trọng trong việc xác
định trách nhiệm của người quản lý tại các nước theo hệ thống common-law như
Úc, Singapore.
Ở Việt Nam, tuy là một quốc gia áp dụng luật thành văn và án lệ mới chỉ
được thừa nhận như là một nguồn để giải thích luật trong thời gian gần đây
(28.10.2015); thế nhưng, các trách nhiệm “trung thực, cẩn trọng, trung thành” của
NQLDN đến nay vẫn không được xác định cụ thể trong những văn bản quy phạm
pháp luật, nên khơng có cơ sở pháp lý để quy các trách nhiệm này cho NQLDN khi
họ vi phạm, dẫn đến nhiều hạn chế trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

Bộ kế hoạch đầu tư, Thuyết minh chi tiết nội dung Dự án Luật doanh nghiệp (sửa đổi), trang 25, wem
website:
1

2


Xem website: , Báo cáo Doingbussiness 2018.


thành viên, cổ đông công ty khi người quản lý vi phạm các trách nhiệm trung thực,
cẩn trọng, trung thành của mình. Theo tác giả, có ba ngun nhân chính như sau:
Thứ nhất, các khái niệm trung thực, cẩn trọng, trung thành là những khái
niệm mang tính chung chung, khơng có hướng dẫn cụ thể, dẫn đến việc khó có thể
thi hành trên thực tế. Thứ hai, truyền thống dĩ hòa vi quý của người Việt Nam khiến
các thành viên, cổ đơng cơng ty ít chọn lựa giải pháp khởi kiện người quản lý, mà
đa số chọn những cách giải quyết khác như bán phần vốn góp hoặc bán cổ phần của
mình. Thứ ba, các vụ khởi kiện chống lại NQLDN do thành viên, cổ đông tiến hành
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình rất khó thực hiện trong thực tế vì
những khó khăn trong q trình thu thập chứng cứ cho yêu cầu khởi kiện và mặt
khác pháp luật về tố tụng dân sự của Việt Nam cũng chưa có quy định về kiện phái
sinh khi thành viên, cổ đông nhân danh công ty để khởi kiện người quản lý.
Trên cơ sở nhận định rằng, môi trường pháp lý cho hoạt động của doanh
nghiệp và sự phát triển của ngành kinh tế có mối quan hệ biện chứng, môi trường
pháp lý thuận lợi sẽ tạo tiền đề cho doanh nghiệp phát triển, và khi doanh nghiệp
phát triển sẽ tác động tích cực đến tiến trình phát triển kinh tế của quốc gia. Luận
văn này nhằm nghiên cứu và so sánh các quy định của pháp luật các nước Úc,
Singapore và Trung Quốc với các quy định của pháp luật Việt Nam như là một tiền
đề cho việc đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện và đảm bảo thi hành trách nhiệm của
người quản lý doanh nghiệp trên thực tế.


TỪ KHÓA

Người quản lý doanh nghiệp; trách nhiệm của NQLDN; trách nhiệm trung thực;
trách nhiệm cẩn trọng; trách nhiệm trung thành; trách nhiệm không tư lợi; trách
nhiệm công khai lợi ích; khởi kiện người quản lý.



1

PHẦN MỞ ĐẦU

Lý do chọn đề tài

1.

Doanh nghiệp là một công cụ để thực hiện hoạt động kinh doanh và tạo ra sự
giàu có, khơng chỉ đối với chủ sở hữu doanh nghiệp, mà cịn góp phần quan trọng
trong việc phát triển kinh tế của quốc gia và thậm chí là của thế giới. Quản trị doanh
nghiệp vì thế trở nên ngày càng được chú trọng hơn trong bất kỳ hệ thống pháp luật
nào. Trách nhiệm của NQLDN vì thế cũng trở thành một phần không thể tách rời
của hoạt động quản trị doanh nghiệp.
Tại Việt Nam, những năm gần đây, trách nhiệm của NQLDN ngày càng thu
hút nhiều sự quan tâm của cộng đồng doanh nghiệp và xã hội. Bởi lẽ, tính cẩn
trọng, sự trung thành và tinh thần trách nhiệm của những NQLDN chính là điều
kiện tiên quyết để cho chất lượng của hoạt động quản trị doanh nghiệp cũng như
quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp và chủ sở hữu được bảo đảm tối đa.
Chính vì thế, mà trách nhiệm “trung thực, mẫn cán, cẩn trọng, tốt nhất nhằm bảo
đảm lợi ích hợp pháp tối đa” của công ty và chủ sở hữu; và trách nhiệm “trung
thành với lợi ích” của cơng ty và chủ sở hữu đều đã được đồng loạt đề cập đến, với
những cấp độ khác nhau, tại các Luật Doanh nghiệp năm 1999 3, năm 20054 và năm
20145.
Tuy nhiên, các quy định về trách nhiệm của NQLDN vẫn chỉ mang tính hình
thức và khơng được thi hành trên thực tế do thiếu hướng dẫn, giải thích về những
thuật ngữ trung thực, cẩn trọng, trung thành. Do vậy, dựa vào kẽ hở của pháp luật
hiện hành, những NQLDN có gian ý, thiếu trung thực có thể an tồn tư lợi từ

doanh nghiệp mà mình quản lý, thậm chí có thể bằng những cách thức được xem là
hợp pháp (vì chưa bị pháp luật hiện hành minh thị nghiêm cấm), chẳng hạn thông

3
4
5

Điều 86.1 của Luật Doanh nghiệp 1999.
Điều 119.1.b và Điều 119.1.c của Luật Doanh nghiệp 2005.
Điều 160.1.b và Điều 160.1.c của Luật Doanh nghiệp 2014.


2

qua các giao dịch, hợp đồng với những người không có liên quan hay tiết lộ thơng
tin cần bảo mật của công ty cho người khác. Hoặc thông qua mối quan hệ mang
tính chất đổi chác (có đi có lại) mà người quản lý cơng ty có thể sử dụng để tư lợi,
có thể là vật chất hay phi vật chất, mặc dù họ khơng hề có mối quan hệ chính thức
về nhân thân hay góp vốn6.
So với Luật Doanh Nghiệp 2005, Luật Doanh nghiệp năm 2014 có hiệu lực
từ ngày 01.7.2015 tuy đã quy định rõ hơn về quyền của thành viên, cổ đơng có
quyền tự mình hoặc nhân danh công ty khởi kiện trách nhiệm dân sự đối với
NQLDN7, nhưng các quy định về tố tụng dân sự của Việt Nam lại chưa có các quy
định để hướng dẫn cụ thể hơn về quyền khởi kiện của thành viên và cổ đông, nhất
là đối với quyền khởi kiện phái sinh khi cổ đông, thành viên nhân danh công ty để
khởi kiện.
Trong một bối cảnh như vậy, việc nghiên cứu về “Trách nhiệm của người
quản lý doanh nghiệp, kinh nghiệm ở một số quốc gia và bài học cho Việt Nam”
để từ đó tìm ra những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật hiện hành thực sự trở
nên rất có ý nghĩa và khơng thể trì hỗn trong giai đoạn hiện nay.

2.

Giả thuyết, câu hỏi nghiên cứu
2.1

Giả thuyết nghiên cứu

Các giả thuyết được sử dụng để nghiên cứu bao gồm:
Thứ nhất, khái niệm NQLDN theo luật Việt Nam tương đương với khái niệm
giám đốc (director) của pháp luật nước ngồi.

Theo Ts Bùi Xn Hải: “… các lợi ích này có thể là việc nhận tiền hoa hồng từ các hợp đồng, hay việc
cùng đi ăn nhậu, đi du lịch, thậm chí quan hệ tình cảm, trao đổi việc làm cho người thân, cấp học bổng du
học cho người thân...vv”, Luật Doanh Nghiệp – Bảo vệ cổ đông pháp luật và thực tiễn 2011, NXB Chính trị
QG, tr-149.
7
Các Điều 72 và Điều 161 Luật Doanh nghiệp 2014.
6


3

Thứ hai, các khái niệm về trách nhiệm trung thực, cẩn trọng, trung thành,
khơng tư lợi, cơng khai lợi ích của NQLDN của Việt Nam có cùng ý nghĩa và cách
hiểu như các khái niệm tương tự được quy định trong pháp luật nước ngoài.
Thứ ba, NQLDN khi thực hiện đúng các trách nhiệm của mình sẽ đảm bảo
quyền lợi của công ty, quyền lợi của các thành viên, cổ đông của công ty, các chủ
nợ và các bên liên quan.
2.2


Câu hỏi nghiên cứu

Luận văn này sau khi được hoàn thành sẽ giải quyết được các câu hỏi nghiên
cứu sau đây:
Câu hỏi 1: Trách nhiệm của NQLDN được quy định như thế nào theo pháp
luật Việt Nam? Các khái niệm này có nguồn gốc từ đâu?
Câu hỏi 2: Những bất cập trong các chế định của pháp luật hiện hành về
trách nhiệm NQLDN là gì? Nguyên nhân của những bất cập này do đâu? Và làm
thế nào để khắc phục chúng?
Câu hỏi 3: Pháp luật các nước có gặp các bất cập tương tự hay khơng? Tại
sao? Việt Nam có thể học hỏi gì từ kinh nghiệm các nước về trách nhiệm của
NQLDN? Đề xuất hướng hoàn thiện như thế nào là phù hợp với Việt Nam?
3.

Tình hình nghiên cứu
Đã có một số nghiên cứu về đề tài này, có thể kể đến một vài cơng trình

nghiên cứu sau:
Luận án tiến sỹ “Corporate Governance in Vietnam company law: A
proposal to reform” của tác giả Bùi Xuân Hải năm 2007. Luận án nghiên cứu về các
vấn đề quản trị công ty theo Luật doanh nghiệp Việt Nam và so sánh với pháp luật
Úc, trong đó có một phần nói về trách nhiệm của NQLDN.


4

Luận án tiến sỹ “Director’s Powers and Duties in Vietnam” của tác giả
Jeremy Seymour Pearce năm 2009. Luận án nghiên cứu về quyền hạn và nghĩa vụ
của giám đốc công ty, và so sánh các quyền và nghĩa vụ này với pháp luật Úc.
Luận văn thạc sỹ “Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo Luật doanh

nghiệp 2005 – Thực trạng và hướng hoàn thiện” của tác giả Nguyễn Thị Thái Vân
năm 2010. Luận văn nghiên cứu về các nghĩa vụ của người quản lý công ty, nhưng
luận văn chỉ tập trung phân tích khái niệm người quản lý và nêu các thực trạng về
việc vi phạm nghĩa vụ của người quản lý thông qua các vụ kiện/vụ án liên quan đến
người quản lý cơng ty.
Khóa luận tốt nghiệp “Nghĩa vụ của người quản lý công ty trong pháp luật
Anh và kinh nghiệp cho Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Hồi Thương năm
2017. Khóa luận so sánh các khái niệm trung thành, trung thực và cẩn trọng với các
khái niệm tương tự của pháp luật Anh.
Qua quá trình nghiên cứu, tác giả nhận thấy hầu hết các nghiên cứu nêu trên
đều ít nhiều đề cập đến trách nhiệm của giám đốc công ty, người quản lý công ty và
đều so sánh các trách nhiệm này với pháp luật Anh, Mỹ, Úc và nêu ra các án lệ tại
các nước này để chứng minh sự cần thiết của việc công nhận án lệ Việt Nam trong
các vụ kiện liên quan đến trách nhiệm giám đốc hoặc người quản lý cơng ty. Nhưng
chưa có cơng trình nghiên cứu nào dùng đúng luật ngữ NQLDN khi nghiên cứu về
trách nhiệm NQLDN và so sánh thêm các quy định của pháp luật Singapore và
Trung Quốc để tìm hiểu các quốc gia lân cận chúng ta, với những giá trị văn hóa
tương tự Việt Nam, họ quy định về trách nhiệm của NQLDN như thế nào, và các
chế tài khi NQLDN vi phạm trách nhiệm của mình được giải quyết ra sao.
Tuy nhiên, tất cả những cơng trình nghiên cứu nêu trên và các bài viết có liên
quan đến trách nhiệm của NQLDN được đăng trên báo và các tạp chí chuyên ngành
mà tác giả đã nghiên cứu, trích dẫn và tham khảo đều là nguồn nghiên cứu quan
trọng về lý luận và thực tiễn để tác giả dùng làm nền tảng cho nghiên cứu này của
mình để luận văn này.


5

4.


Mục đích nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1.

Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu đề tài nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về trách
nhiệm của NQLDN, phân tích những bất cập của các quy định pháp luật hiện hành
về trách nhiệm NQLDN, so sánh kinh nghiệm ở một số quốc gia để đề xuất hướng
hoàn thiện các quy định về trách nhiệm NQLDN.
Ngoài ra, để đảm bảo việc thi hành các nghĩa vụ này, luận văn cũng sẽ tìm
hiểu các khung pháp lý và trách nhiệm pháp lý khi NQLDN vi phạm trách nhiệm
theo luật định của mình, hy vọng có thể đóng góp thêm một ý kiến nhỏ nhằm hoàn
thiện các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực này.
4.2.

Phạm vi nghiên cứu

Với mục đích phân tích về trách nhiệm NQLDN và những bất cập của các
quy định hiện hành, đề tài không chú trọng vào phân tích sự khác biệt về trách
nhiệm của NQLDN trong từng loại hình doanh nghiệp, chủ sở hữu doanh nghiệp,
cũng như khơng phân tích về mối tương quan và vai trò giữa những NQLDN với
nhau trong cùng một công ty.
Đề tài này giới hạn phạm vi nghiên cứu trách nhiệm của NQLDN trong công
ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần, do vậy tác giả không đi sâu phân tích
trách nhiệm của NQLDN trong doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, doanh
nghiệp nhà nước, và nhóm cơng ty. Các vấn đề khác liên quan đến tiêu chuẩn, điều
kiện để trở thành NQLDN, cũng như việc bổ nhiệm và bãi miễn tư cách NQLDN
cũng không thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài này.
5.


Phương pháp nghiên cứu
Do đặc thù ngành Luật học, các phương pháp chủ yếu được sử dụng trong đề

tài này đều là các phương pháp nghiên cứu định tính.


6

Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng để xác định, bình luận và
giải thích các vấn đề liên quan đến quy định của pháp luật về trách nhiệm của
NQLDN.
Phương pháp nghiên cứu học thuyết pháp lý mà chủ yếu là phân tích luật viết
để làm sáng tỏ những hạn chế, thiếu sót trong quy định pháp luật hiện hành về trách
nhiệm NQLDN.
Phương pháp so sánh pháp luật: thông qua việc trình bày các quy định pháp
luật về trách nhiệm NQLDN ở một số quốc gia phát triển (Anh, Mỹ, Úc) và các
nước lân cận (Singapore, Trung Quốc), tiến hành so sánh với các quy định pháp luật
hiện hành của Việt Nam để làm sáng tỏ những hạn chế, thiếu sót của quy định pháp
luật hiện tại, học hỏi cách giải quyết đã có để đưa ra đề xuất, kiến nghị phù hợp
nhằm hoàn thiện khung pháp lý về trách nhiệm NQLDN ở nước ta.
6.

Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Luận văn nghiên cứu về trách nhiệm của NQLDN trong quá trình thực hiện

các nghĩa vụ của mình khi quản trị doanh nghiệp theo pháp luật hiện hành; và các
biện pháp pháp lý khả thi nhằm khắc phục tệ trạng NQLDN cố tình vận dụng các kẽ
hở của pháp luật hiện hành để lạm dụng địa vị, chức vụ và tài sản của doanh nghiệp
nhằm tư lợi hoặc phục vụ lợi ích cho bản thân, tổ chức, cá nhân khác và gây thiệt
hại cho các thành viên, cổ đông của doanh nghiệp cũng như các chủ nợ, khách hàng

và các bên liên quan ngay tình khác. Cơng việc này nhằm mục đích cung cấp một
vài sự hiểu biết sâu hơn về đề tài, cùng các thông tin và một số đề xuất liên quan,
nhằm đưa thêm một góc nhìn nghiên cứu về đề tài trách nhiệm của NQLDN ở Việt
Nam cho những ai quan tâm.


7

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGƯỜI QUẢN
LÝ DOANH NGHIỆP VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI
QUẢN LÝ DOANH NGHIỆP

1.1.

Khái niệm người quản lý doanh nghiệp

1.1.1. Lý thuyết về quản trị doanh nghiệp, quản lý doanh nghiệp và người
quản lý
1.1.1.1. Quản trị doanh nghiệp
Quản trị công ty (doanh nghiệp) là hệ thống được xây dựng để điều khiển và
kiểm soát các doanh nghiệp. Cấu trúc quản trị công ty chỉ ra cách thức phân phối
quyền và trách nhiệm trong số những thành phần khác nhau có liên quan tới cơng ty
như Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị, Giám đốc
(Tổng giám đốc), cổ đông, và những chủ thể khác có liên quan. Quản trị cơng ty
cũng giải thích rõ quy tắc và thủ tục để ra các quyết định liên quan tới vận hành
công ty. Bằng cách này, quản trị công ty cũng đưa ra cấu trúc thơng qua đó người ta
thiết lập các mục tiêu công ty, và cả phương tiện để đạt được mục tiêu hay giám sát
hiệu quả công việc. Quản trị cơng ty chỉ được cho là có hiệu quả khi khích lệ được
ban giám đốc và hội đồng quản trị theo đuổi các mục tiêu vì lợi ích của cơng ty và
của các cổ đông, cũng như phải tạo điều kiện thuận lợi cho việc giám sát hoạt động

của công ty một cách hiệu quả, từ đó khuyến khích cơng ty sử dụng các nguồn lực
một cách tốt hơn8.
Quản trị doanh nghiệp rất quan trọng trong việc cố gắng cải thiện các quy
trình mà các cơng ty sử dụng để phát triển thịnh vượng 9. Khi các công ty phát triển,

8

OECD (1999,2004), Principal of Corporate Governance, Paris, OECD
Patfield FM, The Response to the Report of the Committee on the Financial Aspects of Corporate
Governance” in Patfield FM, Perspective on Company Law: 1 (Kluwer Law, 1995), trang 25
9


8

thì theo đó nền kinh kế và quốc gia cũng phát triển. Hiện tại, Việt Nam đang có
những sự thay đổi rõ nét về mặt kinh tế và xã hội, nên vấn đề quản trị doanh nghiệp
trở nên quan trọng hơn bao giờ.
1.1.1.2. Quản lý doanh nghiệp
Quản lý doanh nghiệp hay quản lý bất cứ cơ quan tổ chức nào cũng là một
quá trình phức tạp và quan trọng ảnh hưởng đến q trình hoạt động của tổ chức đó.
Có thể hiểu đơn giản quản lý doanh nghiệp là quá trình làm việc cùng với và thơng
qua các cá nhân, các nhóm và các nguồn lực khác (thiết bị, vốn, công nghệ) để đạt
được những mục tiêu của doanh nghiệp đó10.
Theo cách hiểu đơn giản nhất, quản lý cơng ty (doanh nghiệp) là một quá
trình người quản lý thực hiện các giai đoạn từ khâu lập kế hoạch, thực thi kế hoạch,
kiểm tra kế hoạch, cho đến đánh giá kế hoạch hoạt động của cơng ty.
1.1.1.3. Người quản lý
Dưới góc độ quản trị, người quản lý hay còn gọi là nhà quản trị là người điều
khiển và có trách nhiệm trơng coi, kiểm sốt cơng việc của những người khác11.

Hoặc có thể hiểu, nhà quản trị là những người đứng đầu một tổ chức hoặc
những bộ phận khác trong tổ chức, chi phối hoạt động của những người dưới quyền
bằng các chức năng quản trị, được thể hiện thông qua các quyết định, để thực hiện
công việc quản trị trong một tổ chức12.
1.1.2. Định nghĩa NQLDN theo pháp luật các nước

10
11
12

“Tìm hiểu: Quản lý doanh nghiệp là gì?”, website: nguồn từ
Quỳnh Hân, Minh Bùi, “Nhà quản lý, ông là ai?”, nguồn từ htpp://www.doanhnha6n360.com
Phan Thị Ngọc Thuận (2005), Quản trị học đại cương, NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội, trang 8


9

Công ty/doanh nghiệp với tư cách là một pháp nhân – một thực thể pháp lý
độc lập, tự bản thân nó khơng thể hành động cho chính mình mà chỉ có thể hành
động thơng qua con người cụ thể-những người quản lý công ty13.
Xác định đúng ai là NQLDN và áp đặt hợp lý các nghĩa vụ pháp lý cho họ sẽ
góp phần cho quản trị cơng ty (corporate governance) có hiệu quả, bảo vệ tốt hơn
quyền lợi của cổ đông cũng như các bên liên quan khác như chủ nợ, người lao động
và khách hàng của công ty14.
Định nghĩa/khái niệm về NQLDN hoặc giám đốc (director) được quy định
khác nhau trong hệ thống pháp luật các quốc gia trên thế giới.
1.1.2.1. Theo luật Việt Nam
Luật Doanh nghiệp 2014 không đưa ra định nghĩa về NQLDN, mà chỉ đưa ra
khái niệm “NQLDN là người quản lý công ty và là người quản lý doanh nghiệp tư
nhân, bao gồm chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh, Chủ tịch Hội đồng

thành viên, thành viên Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, Chủ tịch Hội đồng
quản trị, thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và cá nhân
giữ chức danh quản lý khác có thẩm quyền nhân danh công ty ký kết giao dịch của
công ty theo quy định tại Điều lệ công ty15”.
Theo khái niệm nêu trên, thì một cá nhân được xem là NQLDN cần đáp ứng
hai điều kiện cơ bản là (i) giữ chức danh quản lý trong doanh nghiệp và/hoặc (ii) có
thẩm quyền nhân danh công ty ký kết giao dịch (hợp đồng) theo quy định tại điều lệ
công ty16.

Bùi Xuân Hải, Học thuyết về đại diện và mấy vấn đề của pháp luật công ty Việt Nam, Khoa học pháp lý,
Đại học Luật TP.HCM,số 4(41), 2007, trang 21.
14
Bùi Xuân Hải, Người quản lý công ty theo luật doanh nghiệp 1999 – Nhìn từ góc độ luật so sánh, Tạp chí
khoa học pháp lý, Đại học luật TP.HCM, số 04(29), 2005, trang 14
15
Điều 4.18 – Luật Doanh nghiệp 2014
16
Trương Nhật Quang (2016), Pháp luật về doanh nghiệp các vấn đề pháp lý cơ bản, NXB Dân trí, trang
350.
13


10

Như vậy, ngoài các chức danh quản lý như được liệt kê tại Điều 4.18 Luật
Doanh nghiệp 2014 sẽ được mặc nhiên xem là NQLDN, thì các chức danh quản lý
khác được điều lệ quy định là có thẩm quyền nhân danh công ty để ký kết hợp
đồng, giao dịch của cơng ty thì đều là NQLDN. Có thể nói rằng, pháp luật Việt
Nam xác định một cá nhân có phải là NQLDN hay không dựa vào chức danh và
thẩm quyền ký kết hợp đồng của họ trong công ty.

Vậy, pháp luật các nước phát triển có cách tiếp cận khác để xác định ai là
NQLDN hay không?
1.1.2.2. Theo pháp luật Úc
Điều 9, Đạo luật công ty Úc 2001 quy định: giám đốc nghĩa là (i) một người
được bổ nhiệm hợp lệ là giám đốc hoặc giám đốc luân phiên, (ii) một người, mặc dù
không được bổ nhiệm là giám đốc, nhưng người đó hành động trong vị trí của một
giám đốc (giám đốc thực tế - ‘de facto’ director); (iii) một người, mặc dù không
được bổ nhiệm hợp lệ là giám đốc, nhưng các giám đốc đều quen với việc hành
động theo sự chỉ thị hoặc theo mong muốn của người này17 (giám đốc giấu mặt –
‘shadow’ director)18.
Như vậy, luật của Úc không liệt kê các chức danh quản lý nào sẽ được xem
là giám đốc/NQLDN như Việt Nam, mà đưa ra định nghĩa về vai trị và cơng việc
của một người để xác định ai là giám đốc/NQLDN.

Ghi chú: Đạo luật Công ty Úc loại trừ việc giám đốc hoặc các giám đốc làm theo lời khuyên của những
chuyên gia tư vấn.
18
Dịch từ Điều 9, Corporations Act 2001 (Australia), như sau:
director of a company or other body means
(a) a person who:
(i) is appointed to the position of a director; or
(ii) is appointed to the position of an alternate director and is acting in that capacity;
regardless of the name that is given to their position; and
(b) unless the contrary intention appears, a person who is not validly appointed as a director if:
(i) they act in the position of a director; or
(ii) the directors of the company or body are accustomed to act in accordance with the person’s instructions
or wishes.
17



11

1.1.2.3 Theo pháp luật Singapore
Tương tự như pháp luật Úc, Điều 4, Luật Công ty Singapore 2006 quy định:
giám đốc bao gồm bất kỳ người nào nắm giữ vị trí giám đốc một công ty dù dưới
bất kỳ chức danh gì, và bao gồm người mà những chỉ đạo hoặc chỉ thị của người
này19, các giám đốc hoặc đa số các giám đốc của công ty phải làm theo và giám đốc
luân phiên hoặc giám đốc thay thế20.
Giám đốc luân phiên hoặc giám đốc thay thế (alternate director/substitute
director) là một giám đốc tạm thời có thể thay thế cho một giám đốc hiện tại trong
một cuộc họp của ban giám đốc, miễn là điều lệ công ty cho phép sự sắp xếp này và
các giám đốc được chọn khác của cơng ty khơng có ý kiến phản đối21.
1.1.2.4. Theo pháp luật Trung Quốc
Luật Công ty Trung Quốc 2014 không đưa ra định nghĩa về NQLDN, giám
đốc (tổng giám đốc), mà chỉ đề cập đến người đại diện theo pháp luật của công ty.
Điều 13, Luật công ty 2014 của Trung Quốc quy định: “người đại diện theo
pháp luật của công ty sẽ, theo điều lệ công ty, được thừa nhận là chủ tịch hội đồng
quản trị (hội đồng các giám đốc), giám đốc điều hành hoặc một quản lư, và sẽ được
đăng kư phù hợp với quy định của pháp luật. Việc thay đổi người đại diện theo
pháp luật sẽ phải làm thủ tục đăng ký thay đổi22.

Ghi chú: Luật Singapore loại trừ việc giám đốc hoặc các giám đốc làm theo lời khuyên của những chuyên
gia tư vấn.
20
Dịch từ Điều 9, Companies Act 2006 (Singapore), như sau:
“director” includes any person occupying the position of director of a corporation by whatever name called
and includes a person in accordance with whose directions or instructions the directors or the majority of the
directors of a corporation are accustomed to act and an alternate or substitute director;
19


Được dịch từ định nghĩa Alternate director, , như sau: “a temporary
director who can represent and elected director at a meeting of the board of directors, provided the article of
association (or bylaws) of the firm allow for such arrangement, and the other elected directors of the firm do
not object”.
22
Dịch từ Điều 13, Company Law of the People’s Republic of China (2014), như sau:
“The legal representative of a company shall, pursuant to the company’s articles of association, be
assumed by the chairman of the board of directors, an executive director or a manager, and shall be registered
21


12

1.1.2.5. Nhận xét
Như vậy, có sự khác biệt rất lớn về yếu tố để xác định một người có phải là
NQLDN hay không giữa Luật Doanh nghiệp 2014 và luật của các quốc gia khác.
Nếu như Luật Việt Nam dựa vào chức danh (mặc định hay được quy định
trong điều lệ công ty) và thẩm quyền nhân danh công ty ký kết giao dịch/hợp đồng
của một cá nhân để xác định người đó có phải là NQLDN hay khơng, thì các nước
Úc và Singapore lại dựa vào vai trò thực tế của cá nhân trong công ty để xác định
người đó có phải là giám đốc/NQLDN hay khơng. Và vì vậy, việc được bổ nhiệm
không phải là yếu tố duy nhất để xác định vai trò quản lý doanh nghiệp của một cá
nhân, mà chính là sự quản lý, điều hành thực tế của người đó trong cơng ty hoặc sức
ảnh hưởng của một người đó đối với các giám đốc/NQLDN khác. Hay nói khác,
chính chức năng, cơng việc mà một cá nhân thật sự đảm nhiệm mới chính là yếu tố
để xác định vai trò quản lý của người đó trong cơng ty, để từ đó xác định được trách
nhiệm của họ đối với cơng ty. Đây chính là điểm khác biệt với phương pháp xác
định NQLDN giữa luật Việt Nam và luật các nước Úc, Singapore.
Trên thực tế, trong quản trị điều hành cơng ty, có thể có những trường hợp
phát sinh như sau: (i) một cá nhân được bổ nhiệm là NQLDN, nhưng người đó

khơng biết hoặc không đồng ý về việc bổ nhiệm này; (ii) một cá nhân được chỉ định
là NQLDN nhưng chỉ quản lý trên danh nghĩa; (iii) cá nhân không phải là NQLDN
nhưng lại thật sự quản lý công ty; và (iv) cá nhân là NQLDN đã hết nhiệm kỳ
nhưng công ty chưa bổ nhiệm NQLDN mới. Trong các trường hợp trên, câu hỏi đặt
ra là các cá nhân này có phải chịu trách nhiệm của NQLDN theo Luật Doanh
nghiệp 2014 hay không23?

in accordance with the law. Change of the legal representative of the company shall be subject to the
formalities for change of registration.
23

Trương Nhật Quang (2016), tlđd 16, trang 354.


13

Khơng khó để tìm ra câu trả lời, vì Luật Doanh nghiệp 2014 hiện hành không
quy định về việc NQLDN phải có ý kiến đồng ý của NQLDN khi cơng ty bổ nhiệm
một chức danh quản lý cho một cá nhân, nên dù người đó khơng biết hoặc khơng
đồng ý về việc bổ nhiệm thì người đó vẫn sẽ là NQLDN cho đến khi họ được bãi
miễn. Đối với trường hợp quản lý trên danh nghĩa hoặc người quản lý đã hết nhiệm
kỳ thì vẫn phải chịu trách nhiệm vì yếu tố chức năng, công việc không phải là yếu
tố để xác định người đó có phải/cịn là NQLDN hay không. Luật Doanh nghiệp
2014 cũng quy định trường hợp tất các thành viên hội đồng quản trị (“HĐQT”) kết
thúc nhiệm kỳ cùng một lúc thì các thành viên đó tiếp tục là thành viên HĐQT cho
đến khi có thành viên mới được bầu thay thế và tiếp quản công việc24. Và trường
hợp sau cùng, một người không phải là NQLDN nhưng thật sự quản lý, chỉ đạo hoạt
động của công ty thì cũng khơng được xem là NQLDN theo Luật Doanh nghiệp và
vì vậy họ khơng phải chịu trách nhiệm của một NQLDN.
Những câu trả lời trên dường như không cơng bằng và hợp lý đối với

NQLDN vì họ phải chịu tồn bộ mọi rủi ro trong khi họ khơng thật sự là người
quản lý và chính những câu trả lời này đã bộc lộ những điểm bất cập trong việc xác
định ai là NQLDN của Luật Doanh nghiệp 2014 khi chủ yếu dựa vào chức danh của
một cá nhân người đó. Với cùng những câu hỏi trên, nhưng nếu chúng ta áp dụng
luật các nước Úc và Singapore để trả lời thì sẽ có các câu trả lời rất khác nhau.
Luật pháp Úc quy định phải có sự đồng ý ký tên bằng văn bản của một cá
nhân để đồng ý hành động như là giám đốc của công ty đó trước khi được bổ nhiệm
người đó trở thành giám đốc công ty25. Do vậy, nếu một người không biết hoặc
không đồng ý với việc bổ nhiệm họ làm giám đốc cơng ty thì việc bổ nhiệm khơng

Điều 150.3, Luật Doanh nghiệp 2014
Điều 201D, Companies Act 2001 (Australia), như sau:
“Consent to act as director: (1) A company contravenes this subsection of a person does not give the
company a signed consent to act as a director of the company before being appointed. (2) The company must
keep the consent. An offence based on subsection (1) or (2) is an offence of strict liability. Note: For strick
liability, see section 6.1 of the Criminal Code.
24
25


14

có hiệu lực. Luật của Úc và Singapore dùng vai trị và cơng việc của một người để
làm cơ sở xác định người đó có phải là giám đốc cơng ty hay khơng để từ đó buộc
họ phải chịu trách nhiệm của một giám đốc, nên đối với trường hợp giám đốc danh
nghĩa thì họ sẽ khơng chịu trách nhiệm một mình mà giám đốc giấu mặt cũng phải
cùng liên đới chịu trách nhiệm hoặc giám đốc đã hết nhiệm kỳ và khơng quản lý
cơng ty trên thực tế thì họ không phải chịu các trách nhiệm của một giám đốc, dù
rằng đối với giám đốc danh nghĩa thì vẫn phải chịu những trách nhiệm nhất định vì
đã để cơng ty sử dụng danh nghĩa của mình. Cịn đối với cá nhân thật sự quản lý,

chỉ đạo hoạt động của cơng ty thì người này vẫn phải chịu trách nhiệm của một
người quản lý dù không được bổ nhiệm.
Dường như việc dùng tiêu chí chức năng, cơng việc để xác định một người
có phải là NQLDN hay khơng xem ra là hợp lý và công bằng hơn với đối với cả
NQLDN và công ty. Mặt khác, các phạm trù, khái niệm như giám đốc thực tế, giám
đốc giấu mặt (hay giám đốc trong bóng tối), gi ám đốc luân phiên (hoặc giám đốc
thay thế), được đưa ra cũng đã bảo vệ quyền lợi của cổ đông, chủ nợ và các người
liên quan tốt hơn, vì đã buộc những người dù khơng được chính thức bổ nhiệm làm
giám đốc cơng ty vẫn phải chịu trách nhiệm pháp lý của một giám đốc nếu như họ
là người thực tế quản lý công ty.
1.2. Trách nhiệm của người quản lý doanh nghiệp
1.2.1. Lịch sử hình thành chế định về trách nhiệm của người quản lý doanh
nghiệp tại Việt Nam
Các hình thức cơng ty và luật công ty đã không tồn tại ở Việt Nam cho đến
thời Pháp thuộc vào cuối thế kỷ 1926. Theo truyền thống pháp luật Pháp, các chế
định về công ty trong giai đoạn này xuất hiện trong các bộ dân luật và bộ luật
thương mại. Vì thế, các hình thức công ty và các quy tắc quản trị công ty được đề
cập đến lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp Việt Nam trong Bộ dân luật thi hành tại

26

Vũ Quốc Thông, Pháp chế sử Việt Nam (1971), phần Đặc điểm các định chế Việt Nam, trang 18 đến 45


15

các Tịa Nam Án Bắc Kỳ 193127 và Hồng Việt Trung Kỳ Hộ Luật 193628, dưới
hình thức hội người và hội vốn29.
Cùng với việc quy định về việc lập hội (thành lập công ty), hai bộ luật
nêu trên cũng đã lần đầu tiên đề cập đến trách nhiệm của người quản lý công ty,

như sau:
“Hội-viên nào, bất-cứ là trị-sự hay khơng mà đã làm thiệt-hại cho hội vì sự
lầm-lỗi hoặc sự trể-nãi của mình, thì đều phải bồi-thường cho hội. Dù người hộiviên ấy có làm lợi cho hội về công việc khác, cũng không thể lấy lợi nọ mà bù vào
hại kia được, trừ ra khi cơng việc có liên-can với nhau thì khơng kể30; và
Những hội-viên đứng quản-lý cho hội vì trong khế-ước của hội khơng cử
người trị-sự, thời chỉ khi nào làm việc cho hội không được cẩn-thận như chính việc
của mình mới phải chịu trách nhiệm về lỗi của y mà thôi31”.
Sau Hiệp định Genève 1954, Việt Nam tạm thời chia đôi thành hai miền
Nam, Bắc bằng vĩ tuyến 17. Tại miền Bắc, với đặc điểm của nền kinh tế theo chủ
nghĩa cộng sản, theo đó thì kinh tế tư nhân dần bị xóa bỏ, nhường chỗ cho kinh tế
do nhà nước chỉ huy, vì vậy khơng có bất kỳ hình thức cơng ty nào và cũng khơng
có luật cơng ty nào tồn tại ở Miền Bắc Việt Nam trong giai đoạn này32.
Tại Miền Nam, ngược lại với miền Bắc, nền kinh tế thị trường được khuyến
khích phát triển, các chế định về cơng ty được ban hành trước đó được tiếp tục thi
hành cho đến khi ban hành Bộ luật thương mại 1973. Tại Bộ luật này, trách nhiệm
của người quản lý được quy định như sau:

Bộ dân luật thi hành tại các Tòa Nam Án Bắc Kỳ 1931, Nói về khế ước lập hội, Chương thứ IX, trang
206.
28
Hồng Việt Trung Kỳ Hộ Luật, Nói về khoán ước lập hội, Chương thứ X, trang 161.
29
Điều 1238, Bộ dân luật thi hành tại các Tòa Nam Án Bắc Kỳ 1931
30
Điều 1214, Bộ dân luật thi hành tại các Tòa Nam Án Bắc Kỳ 1931 và Điều 1453, Hoàng Việt Trung Kỳ
Hộ Luật
31
Điều 1454, Hoàng Việt Trung Kỳ Hộ Luật và Điều 1215, Bộ dân luật thi hành tại các Tòa Nam Án Bắc
Kỳ 1931
32

Bùi Xuân Hải và Chihiro Nunoi, Corporate governance in Vietnam: a system in transition, Hitosubashi
Journal of Commerce and Management 42 (2008), trang 46.
27


×