Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

Tài liệu Đề án kinh tế chính trị: Một số biện pháp nhằm tiếp tục đẩy mạnh cổ phần hóa trong một bộ phận doanh nghiệp nhà nước ở nước ta trong giai đoạn hiện nay pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (511.19 KB, 32 trang )

------


Đề án kinh tế chính trị

Một số biện pháp nhằm tiếp
tục đẩy mạnh cổ phần hóa
trong một bộ phận doanh
nghiệp nhà nước ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay












§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ

LỜI MỞ ĐẦU


Sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả Doanh nghiệp nhà nước là
một trong những yêu cầu bức thiết của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Thực tiễn
hoạt động của Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hàng chục năm qua cho thấy
mặc dù Doanh nghiệp nhà nước được giao phó vai trò chủ đạo song hoạt động của


chúng có nhiều điểm bất cập. Doanh nghiệp nhà nước chiếm phần vốn đầu tư chủ
yếu từ ngân sách. Đội ngũ cán bộ có đào tạo, cán bộ quản lý có năng lực cũng tập
trung chủ yếu trong các Doanh nghiệp nhà nước. Các Doanh nghiệp nhà nước
chiếm lĩnh những lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế như dầu khí, vận tải, bưu
chính, điện, khai khoáng và nhiều ngành, lĩnh vực khác như bảo hiểm, ngân hàng…
Tuy nhiên, với nhiều thế mạnh như vậy song Doanh nghiệp nhà nước vẫn chưa thực
sự phát huy tốt vai trò của nòng cốt của chúng trong việc làm cho kinh tế Nhà nước
thực sự đóng vai trò chủ đạo. Đa số các Doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ, gây
thất thoát tài sản của Nhà nước một cách nghiêm trọng. Những vụ tham nhũng điển
hình đều trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến Doanh nghiệp nhà nước. Chính vì
vậy, từ trước đến nay, vấn đề sắp xếp, đổi mới Doanh nghiệp nhà nước để loại hình
doanh nghiệp này trở thành động lực chủ yếu của nền kinh tế luôn luôn được Đảng
và Nhà nước ta chú trọng. Sắp xếp, đổi mới Doanh nghiệp nhà nước càng trở nên
cấp bách khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và chủ động hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Một trong những
giải pháp đổi mới Doanh nghiệp nhà nước được thực hiện có hiệu quả và mang lại
nhiều thay đổi triệt để trong cấu trúc tổ chức và hoạt động của Doanh nghiệp nhà
nước là cổ phần hoá. Cổ phần hoá được bắt đầu triển khai cách đây 15 năm với
những bước đi thử nghiệm và sau đó là sự triển khai rộng khắp trên cả nước. Tuy
nhiên, do nhiều lý do khác nhau, cổ phần hoá vẫn chưa mang lại những kết quả
mong muốn.
Mặc dù hoạt động của các Doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá đã chứng
tỏ tác dụng to lớn của nó song thực tế số Doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá
ít hơn nhiều so với yêu cầu đặt ra. Chính vì vậy, việc nghiên cứu cổ phần hoá
Doanh nghiệp nhà nước, tìm được những hạn chế của nó, để đưa ra các giải pháp
SV: Hoμng ThÞ Trang

§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ

nhằm đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước là việc làm cần

thiết. Đó cũng chính là lý do mà em chọn đề tài “Một số biện pháp nhằm tiếp tục
đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá trong một bộ phận Doanh nghiệp nhà nước ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài nghiên cứu môn học Kinh tế chính trị
với mong muốn sẽ hiểu hơn về tiến trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở
nước ta. Từ đó thấy được trách nhiệm và nghĩa vụ của bản thân cần phải làm gì để
góp phần thúc đẩy quá trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam.
Là một sinh viên còn ngồi trên ghế nhà trường, với vốn kiến thức còn hạn chế,
chắc chắn bài viết của em còn nhiều sai sót. Vì thế em rất mong được sự chỉ bảo,
hướng dẫn tận tình của thầy giáo Nguyễn An Ninh để đề án của em được hoàn thiện
hơn. Em xin chân thành cảm ơn thầy.














NỘI DUNG

I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC CỔ PHÂN HOÁ MỘT BỘ PHẬN DOANH NGHIỆP NHÀ
NƯỚC Ở NƯỚC TA.
1. Tính tất yếu phải cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp nhà nước ở nước
ta.

1.1. Doanh nghiệp nhà nước và yêu cầu đổi mới Doanh nghiệp nhà nước.
SV: Hoμng ThÞ Trang

§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ

Dưới góc độ chủ sở hữu, doanh nghiệp được gọi là Doanh nghiệp nhà nước
khi Nhà nước là chủ sở hữu. Theo mô hình chủ nghĩa xã hội truyền thống, sở hữu
Nhà nước (sở hữu toàn dân) được thiết lập ngoài ý nghĩa chính trị là xoá bỏ bóc lột,
về mặt kinh tế nó được dựa trên dự báo có hiệu quả cao hơn so với sở hữu tư nhân.
Trên nền tảng sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất, Nhà nước tổ chức nền kinh tế có
kế hoạch, hiệu quả hơn nền kinh tế thị trường hỗn loạn, mất cân đối.
Nhưng trên thực tế, nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung đã vận hành không tốt
như mong đợi. Cơ chế kinh tế này có nhiều khuyết tật và điều nan giải nhất là các
Doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả.
Ở Việt Nam, việc xoá bỏ quá vội vàng sở hữu tư nhân, thiết lập sở hữu Nhà
nước và tập thể dựa trên các biện pháp hành chính, đã đẩy nền kinh tế rơi vào tình
trạng khủng hoảng trầm trọng kéo dài. Từ khi chuyển sang kinh tế thị trường, trong
điều kiện nền kinh tế tăng trưởng nhanh, bất chấp mọi nỗ lực đổi mới, hoạt động
của các Doanh nghiệp nhà nước có khá hơn nhưng hiệu quả vẫn rất thấp. Bên cạnh
đó việc sử dụng các nguồn lực kém hiệu quả, khả năng cạnh tranh thấp đòi hỏi các
Doanh nghiệp nhà nước phải có những đổi mới một cách căn bản. Nếu không chúng
sẽ thất bại trong cạnh tranh, trong điều kiện hội nhập hiện nay.
1.2. Yêu cầu đổi mới Doanh nghiệp nhà nước.
- Phát triển kinh tế và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực khan hiếm. Doanh
nghiệp nhà nước nắm trong tay phần lớn những nguồn lực của nền kinh tế như tài
nguyên thiên nhiên, vốn và nhân lực. Tuy nhiên hầu hết các doanh nghiệp lại sử
dụng lãng phí không hiệu quả các nguồn lực khan hiếm. Điều này chỉ ra trước
tương lai không sảng sủa của nền kinh tế. Tốc độ tăng trưởng cao của nền kinh tế
trong những năm qua không có nghĩa là mọi việc của chúng ta đang tiến triển tốt
đẹp. Các tổ chức kinh tế thế giới đã cảnh báo không ít lần là tốc độ tăng trưởng cao

của chúng ta có một nguyên nhân quan trọng là nền kinh tế có điểm xuất phát thấp.
- Phát triển kinh tế đòi hỏi xoá bỏ bao cấp đổi với Doanh nghiệp nhà nước.
Hiện nay mối quan hệ giữa Nhà nước và các Doanh nghiệp nhà nước hoàn toàn
không rõ ràng. Nhà nước không nắm rõ ở mỗi thời điểm tổng số doanh nghiệp của
mình là bao nhiêu, chứ chưa nói đến các chỉ tiêu phức tạp như vốn nằm ở đâu, tăng
giảm như thế nào, hiệu quả sử dụng ra sao? Để duy trì doanh nghiệp kém hiệu quả,
SV: Hoμng ThÞ Trang

§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ

Nhà nước đã sử dụng hàng loạt các biện pháp bao cấp trực tiếp và gián tiếp như :
xoá nợ, khoanh nợ, tăng vốn, ưu đãi tín dụng, tính chi phí không đầy đủ… và cuối
cùng, không ai biết Doanh nghiệp nhà nước nuôi xã hội hay xã hội phải nuôi Doanh
nghiệp nhà nước. Không nên quên rằng Doanh nghiệp nhà nước là phương tiện chứ
không phải mục đích. Không thể lấy tiền của dân chúng để nuôi một vài doanh
nghiệp thua lỗ triền miên, nhưng đã được các cơ quan chủ quản hà hơi tiếp sức hết
đợt này đến đợt khác, với lý do cố vực dậy, lý do bảo vệ người lao động. Nhưng
tiền bao cấp cho doanh nghiệp chính là thuế mà dân chúng đóng góp, trong đó có
không ít người còn sống trong cảnh đói nghèo. Nhà nước phải là của toàn dân chứ
không phải của riêng các Doanh nghiệp nhà nước, và Nhà nước cần hành động vì
lợi ích của toàn dân chứ không phải chỉ riêng lợi ích của những người trong Doanh
nghiệp nhà nước.
- Cạnh tranh với khu vực tư nhân. Yêu cầu đổi mới còn xuất phát từ việc
cạnh tranh với khu vực tư nhân đang hồi sinh nhanh chóng. Mặt khác, trong quá
trình hội nhập, Doanh nghiệp nhà nước không phải chỉ cạnh tranh với các doanh
nghiệp tư nhân trong nước mà với cả các doanh nghiệp tư nhân rất mạnh của nước
ngoài. Cạnh tranh trong nước và quốc tế không chấp nhận việc Nhà nước giữ độc
quyền cho các doanh nghiệp của mình. Cạnh tranh bình đẳng đòi hỏi không chỉ xoá
bỏ độc quyền mà cả bao cấp.
Tóm lại, áp lực phát triển kinh tế thị trường đặt dấu chấm hỏi lớn đối với các

tương lai của các Doanh nghiệp nhà nước nếu chúng không đổi mới.
1.3. Cổ phần hoá - giải pháp cải cách Doanh nghiệp nhà nước tối ưu
1.3.1. Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước là gì?
1.3.1.1. Khái niệm về Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước.
Phải nói rằng nhân dân ta không còn xa lạ gì với khái niệm cổ phần. Cụm từ
“cổ phần” đã rất quen thuộc từ trên 40 năm nay, kể từ khi Đảng ta vận động nhân
dân lập hợp tác xã mua bán, hợp tác xã tín dụng, lập cửa hàng, xí nghiệp, công ty
hợp danh.
Vậy Cổ phần hoá là gì? “Cổ phần hoá là quá trình chuyển Doanh nghiệp
nhà nước từ chỗ chỉ có một chủ sở hữu là Nhà nước thành lập doanh nghiệp có
nhiều chủ sở hữu”.
SV: Hoμng ThÞ Trang

§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ

Người chủ sở hữu của doanh nghiệp là các cổ đông tự do bầu chọn ra Hội
đồng quản trị là người đại diện chính thức cho mình.
1.3.1.2. Bản chất và các hình thức Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở
nước ta.
Xét ở bản chất pháp lý, cổ phần hoá là biến doanh nghiệp một chủ thành
doanh nghiệp nhiều chủ tức là chuyển từ hình thức sở hữu đơn nhất sang sở hữu
chung thông qua việc chuyển một phần tài sản của doanh nghiệp cho những người
khác. Những người này trở thành sở hữu doanh nghiệp theo tỷ lệ tài sản mà họ sở
hữu trong doanh nghiệp cổ phần hoá. Xét dưới góc độ này thì cổ phần hoá dẫn tới
sự xuất hiện không chỉ của công ty cổ phần trên nền tảng của doanh nghiệp được cổ
phần hoá. Bản chất của cổ phần hoá như đã nêu ở trên không phải cũng được hiểu
đúng trong thực tiễn xây dựng và thực hiện pháp luật về cổ phần hoá. Có quan điểm
đồng nhất cổ phần hoá với tư nhân hoá hay có quan điểm cho rằng cổ phần hoá chỉ
liên quân đến Doanh nghiệp nhà nước.
Nhìn bề ngoài, cổ phần hoá là quá trình xác định lại mục tiêu phương hướng

kinh doanh, nhu cầu vốn điều lệ và chia ra thành cổ phần. Đánh giá lại tài sản của
doanh nghiệp, quyết định mức vốn Nhà nước giữ cần nắm giữ và rao bán rộng rãi
phần còn lại. Qua đó làm thay đổi cơ cấu sở hữu, huy động tiền vốn, xác lập cụ thể
những người tham gia làm chủ, được chia lợi nhuận và chuyển Doanh nghiệp nhà
nước thành Công ty cổ phần, thuộc sở hữu của tập thể cổ đông và chuyển sang hoạt
động theo Luật của doanh nghiệp.
Song để hiểu rõ thực chất của cổ phần hoá, cần thấy rằng trong công ty cổ
phần, trên cơ sở vốn điều lệ được chia ra thành nhiều phần, thì quyền lợi và trách
nhiệm đối với kết quả sản xuất kinh doanh cũng được phân ra thành những đơn vị
có cơ cấu sở hữu. Sở dĩ cổ phần hoá có thể nâng cao hiệu quả hoạt động của các
Doanh nghiệp nhà nước là do qua cổ phần hoá, cơ cấu sở hữu của doanh nghiệp đã
thay đổi, dẫn tới cơ cấu và cơ chế thực hiện quyền lợi và trách nhiệm đối với kết
quả sản xuất kinh doanh cũng thay đổi theo, từ đó tạo ra một cơ cấu động lực có chủ
thể rõ ràng và hợp lực mới mạnh mẽ hơn; đồng thời chuyển doanh nghiệp sang vận
hành theo cơ chế quản lý mới, tự chủ, năng động hơn, nhưng có sự giám sát rộng rãi
và chặt chẽ hơn.
SV: Hoμng ThÞ Trang

§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ

Cho nên, thực chất cổ phần hoá nói chung là giải pháp tài chính và tổ chức,
dực trên chế độ cổ phần nhằm đổi mới cơ chế và cơ cấu phân chia quyền lợi và
trách nhiệm gắn chặt với kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Cổ phần
hoá theo phương thức hiện hành là giải pháp nhằm làm thay đổi cơ cấu sở hữu, dẫn
tới thay đổi cơ cấu và cơ chế thực hiện quyền lợi và trách nhiệm từ chỗ chỉ có Nhà
nước nắm quyền và chịu trách nhiệm chuyển sang chia sẻ kết quả kinh doanh, cả
quyền lợi và trách nhiệm, lợi nhuận và rủi ro cho những người tham gia góp vốn, do
đó tạo ra động lực, trách nhiệm và hiệu quả doanh nghiệp.
Trên cơ sở mục đích của cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước là nhằm chuyển
doanh nghiệp từ một chủ sở hữu sang doanh nghiệp nhiều chủ sở hữu, cổ phần hoá

ở nước ta bao gồm nhiều hình thức khác nhau:
- Giữ nguyến giá trị doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu để thu hút thêm vốn.
- Bán một phần giá trị doanh nghiệp cho các cổ đông.
- Cổ phần hoá đơn vị phụ thuộc của công ty.
- Chuyển toàn bộ doanh nghiệp thành công ty cổ phần.
Như vậy, thực chất cổ phần hoá là làm giảm bớt vai trò trực tiếp làm chủ sở
hữu các doanh nghiệp, giảm bớt đầu tư của Nhà nước, tăng thêm nguồn vốn từ dân
cư, các tổ chức kinh tế - xã hội trong và ngoài nước để tạo thêm sức mạnh kinh tế
cho doanh nghiệp.
1.3.2. Cổ phần hoá là giải pháp cải cách doanh nghiệp tối ưu ở nước ta trong
giai đoạn hiện nay.
Từ yêu cầu đòi hỏi phải đổi mới các Doanh nghiệp nhà nước, vấn đề cải cách
Doanh nghiệp nhà nước từ lâu là mối quan tâm của Đảng và Nhà nước ta. Đã có
nhiều giải pháp cải cách được thực hiện. Trong thời gian từ 1960 đến 1990, tức là
trước thời điểm thực hiện cổ phần hoá, Đảng và Nhà nước ta đã triển khai nhiều
biện pháp nhằm cải tiến quản lý xí nghiệp quốc doanh (Doanh nghiệp nhà nước
theo tên gọi lúc đó). Tuy nhiên thực tế cho thấy các giải pháp cải cách Doanh
nghiệp nhà nước được thực hiện trước năm 1990 ít mang lại hiệu quả. Vai trò, hiệu
quả của Doanh nghiệp nhà nước hầu như không được cải thiện. Tình trạng kém hiệu
quả, thua lỗ, tình trạng lãng phí tài sản vẫn là căn bệnh cố hữu của Doanh nghiệp
nhà nước ở nước ta. Nhiều Doanh nghiệp nhà nước đã trở thành bình phong cho
SV: Hoμng ThÞ Trang

§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ

những hoạt động kinh tế phi pháp, trốn thuế, lậu thuế, buôn lậu. Có khá nhiều ý kiến
khác nhau về những kết quả hạn chế của các biện pháp cải cách Doanh nghiệp nhà
nước đã thực hiện trước đây. Tuy nhiên có thể nhận thấy dễ dàng được thừa nhận
khá rộng rãi là Doanh nghiệp nhà nước thực tế không có chủ nhân thực sự. Nhà
nước cũng là thực thể trừu tượng. Các cán bộ, công nhân trong Doanh nghiệp nhà

nước ít quan tâm đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp nhà nước nơi
mình đang làm việc. Lý do đơn giản là họ vẫn có lương ngay cả khi Doanh nghiệp
nhà nước đã bên bờ phá sản. Rõ ràng, vấn đề lợi ích, đặc biệt là lợic ích sở hữu
trong Doanh nghiệp nhà nước chính là cội nguồn của những căn bệnh mà chúng gặp
phải.
Cải cách Doanh nghiệp nhà nước có thể tiến hành bằng nhiều cách khác nhau
như: bán Doanh nghiệp nhà nước, cho thuê Doanh nghiệp nhà nước, cải cách cơ chế
quản lý Doanh nghiệp nhà nước… Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước chỉ là một
trong những giải pháp sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả Doanh nghiệp nhà nước.
Tuy nhiên thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của nước ta trong thập kỷ vừa qua cho
thấy cổ phần hoá là giải pháp phù hợp với nền kinh tế nước ta trong giai đoạn phát
triển hiện nay.
Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam bắt đầu được thực hiện thí
điểm thí điểm từ năm 1990. Cơ sở pháp lý cho việc thực hiện chương trình này là
Quyết định số 143/HĐBT ngày 10-5-1990 của Hội đồng bộ trưởng và sau đó được
thực hiện với quy mô rộng hơn. Việc chuyển sang nền kinh tế thị trường được Đại
hội Đảng lần thứ VI (1986) khởi xướng đã tạo ra những điều kiện để cải cách triệt
để hơn đối với Doanh nghiệp nhà nước, thông qua việc cổ phần hoá chúng. Sở dĩ cổ
phần hoá được coi là giải pháp triệt để vì nó giải quyết được căn nguyên của những
yếu kém trong tổ chức quản lý và hoạt động của Doanh nghiệp nhà nước – đó là vấn
đề sở hữu. Những giải pháp cải cách Doanh nghiệp nhà nước khác chỉ động chạm
đến cơ chế quản lý theo hướng tăng cường quyền tự chủ của của Doanh nghiệp nhà
nước trong một hoặc một số lĩnh vực cụ thể. Cổ phần hoá doanh nghiệp chấp nhận
sự dung hoà của nhiều thành phần kinh tế khác nhau trong bản thân các thực thể
kinh tế vĩ mô mà trước hết là trong các doanh nghiệp. Cổ phần hoá Doanh nghiệp
SV: Hoμng ThÞ Trang

§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ

nhà nước là giải pháp làm thay đổi kết cấu sở hữu của chúng, điều mà trước đổi mới

ít ai dám nghĩ đến chứ chưa nói là triển khai nó.
2. Đối tượng của cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở nước ta.
Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước là biện pháp cải cách Doanh nghiệp nhà
nước tối ưu của nước ta. Tuy nhiên, không phải tất cả các doanh nghiệp đều có thể
đổi mới bằng phương thức này. Có những doanh nghiệp mà Nhà nước cần duy trì
100% vốn Nhà nước. Đó là khu vực kinh tế quốc doanh đóng vai trò chủ đạo trong
nền kinh tế trên các lĩnh vực sau:
- Các doanh nghiệp hoạt động nhằm phục vụ cho công tác an ninh và quốc
phòng : sản xuất vũ khí, đạn dược, sản xuất thuốc nổ, sản xuất phương tiện phát
sóng, truyền tin…
- Các doanh nghiệp đóng vai trò then chốt của nền kinh tế quốc dân, bao
gồm các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực : năng lượng, dầu khí, khai thác
vàng và đá quý, xây dựng sân bay, bến cảng, đường sắt…
- Các doanh nghiệp thuộc hạ tầng cơ sở như : giao thông, bưu chính, viễn
thông, điện, thuỷ nông…
- Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thường bị thua lỗ, lãi ít hoặc
gặp rất nhiều khó khăn.
Theo nguyên tác hạch toán thương mại thì các thành phần kinh tế tập thể, tư
nhân không đầu tư vào các lĩnh vực như : vận tải đường sắt, vận tải hàng hoá lên
miền núi, ra biên giới, hải đảo, đến vùng kinh tế mới, sản xuất phương tiện cho
người tàn tật, đồ chơi cho trẻ em…
Để khắc phục nhược điểm đó của cơ chế thị trường, Nhà nước phải tổ chức
các Doanh nghiệp nhà nước để duy trì và phát triển các hoạt động này. Có thể làm
việc đó nhờ vào việc tài trợ của Ngân sách Nhà nước cho các doanh nghiệp thua lỗ.
Trong trường hợp này, sự tài trợ cho doanh nghiệp là cần thiết, nên không thể coi
đó là bao cấp.
Tóm lại, trong nền kinh tế thị trường, không chỉ ở Việt Nam mà dù ở bất kỳ
nước nào, sự tồn tại của Doanh nghiệp nhà nước là một tất yếu khách quan.
Như vậy, không phải tất cả các Doanh nghiệp nhà nước cần phải đổi mới bằng
giải pháp cổ phần hoá, mà chỉ có một bộ phận doanh nghiệp. Bộ phận doanh nghiệp

SV: Hoμng ThÞ Trang

§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ

ấy là gì? Căn cứ vào tình hình thực tế ở Việt Nam, Doanh nghiệp nhà nước được
chọn lựa cổ phần hoá phải có đủ ba điều kiện sau đây:
- Là những doanh nghiệp vừa và nhỏ
- Không thuộc diện những doanh nghiệp cần thiết giữ 100% vốn đầu tư
Nhà nước.
- Có phương án kinh doanh hiệu quả.
Ngoài ra, đối với các doanh nghiệp lớn (Tổng công ty Nhà nước) cũng có thể
thực hiện cổ phần hoá theo phương thức phát hành cổ phiếu theo quy định nhằm thu
hút thêm vốn để phát triển sản xuất trong khi vẫn giữ nguyên giá trị tài sản hiện có
của doanh nghiệp. Theo tinh thần nghị quyết 28/CP các doanh nghiệp vừa và nhỏ là
những doanh nghiệp có tổng số vốn từ 300 tỷ đồng trở xuống và có số lao động
dưới 1000 người, không kể số lao động làm hợp đồng theo thời vụ. Các doanh
nghiệp vừa và nhỏ không chỉ dễ xác định giá trị tài sản hơn các doanh nghiệp có
quy mô lớn mà còn phù hợp với sức mua của cán bộ công nhân viên tại nhiệm sở và
trong ngành.
3. Mục tiêu cổ phần hoá một bộ phận Doanh nghiệp nhà nước
Đại hội Đảng lần thứ VIII (1986) đã khẳng định “Triển khai tích cực và vững
chắc việc cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước để huy động vốn, tạo thêm động lực
thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả làm cho tài sản Nhà nước ngày càng tăng
lên chứ không phải tư nhân hoá”
Nghị định 44/1998/NĐ-CP ngày 29/6/1998 của Chính Phủ về việc chuyển
một số Doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần đã nêu rõ: chuyển Doanh
nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần nhằm các mục tiêu:
- Huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội trong nước và nước ngoài để đầu tư đổi mới công nghệ tạo thêm việc
làm, phát triển doanh nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh, thay đổi cơ cấu Doanh

nghiệp nhà nước.
- Tạo điều kiện để người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần và
những người đã góp vốn được làm chủ thực sự; thay đổi phương thức quản lý tạo
động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tăng cường phát triển đất
SV: Hoμng ThÞ Trang

§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ

nước, nâng cao thu nhập của người lao động, góp phần tăng trưởng kinh tế của đất
nước.
Qua những văn bản cơ bản đó có thể khẳng định các mục tiêu của cổ phần hoá
đã được xác định một cách rõ ràng và nhất quán. Song phải chăng huy động vốn để
phát triển doanh nghiệp là mục tiêu hàng đầu, nâng cao vai trò làm chủ thực sự, tạo
động lực thúc đẩy kinh doanh có hiệu quả là mục tiêu hàng thứ, hay hai mục tiêu ở
vị trí ngang nhau.
Huy động vốn và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn là một trong những điều
kiện quan trọng hàng đầu để thúc đẩy nhanh công cuộc công nghiệp hoá- hiện đại
hoá đất nước, đó cũng là điều kiện tối quan trọng để nâng cao khả năng cạnh tranh,
mở rộng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Hiện nay vốn kinh doanh là
một trong những vấn đề nan giải của các doanh nghiệp. Để huy động vốn, doanh
nghiệp phải đảm bảo nhiều điều kiện, trong đó khả năng kinh doanh có hiệu quả
được coi là diều kiện tiên quyết. Đặt việc huy động vốn cho phát triển doanh nghiệp
như một mục tiêu hàng đầu sẽ gây cảm nhận việc cổ phần hoá xuất phát từ yêu cầu
giải quyết khó khăn của Nhà nước trong việc đảm bảo vốn doanh nghiệp. Điều đó
đến lượt mình, có thể gây trở ngại cho việc thực hiện chính mục tiêu ấy, người lao
động không thấy được động lực kinh tế trực tiếp trong việc góp vốn của mình.
Trong cơ chế thị trường, để thúc đẩy nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp nằm ở sự gắn bó mật thiết giữa quyền sở hữu với quyền quản lý và sử
dụng tài sản của doanh nghiệp, xác định rõ người chủ đích thực của các tài sản đó.
Việc huy động thêm vốn từ cổ phần hoá là điều kiện xác lập người chủ một bộ phận

tài sản của doanh nghiệp, người chủ ấy cùng với người đại diện Nhà nước ở doanh
nghiệp quản lý điều hành hoạt động kinh doanh một cách có hiệu quả nhất. Hơn
nữa, việc huy động thêm vốn chỉ là phương tiện thiết yếu để đạt tới mục tiêu nâng
cao hiệu quả kinh tế mà thôi. Nếu không được quản lý sử dụng tốt số vốn được huy
động đó cũng không thể mang lại hiệu quả mong đợi.
Theo những lập luận trên, mục tiêu hàng đầu có là thúc đẩy nâng cao hiệu quả
sản xuất kinh doanh trên cơ sở đảm bảo vai trò làm chủ thực sự của những người sở
hữu tài sản. Huy động thêm vốn bằng cổ phần và phát hành cổ phần là điều kiện cần
SV: Hoμng ThÞ Trang

§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ

thiết để tạo thành những người chủ đích thực của doanh nghiệp phụ thuộc chủ yếu
vào sử dụng vốn hiện có và huy động vốn thêm.
Cổ phần hoá một bộ phận Doanh nghiệp nhà nước chỉ là một chủ trương lớn
của Đảng va Nhà nước. Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương
khoá VII đã nêu rõ: “Chuyển một số doanh nghiệp quốc doanh có điều kiện thành
công ty cổ phần và thành lập một số công ty quốc doanh cổ phần mới”.
Nghị quyết 10-NQ/TW ngày 17/3/1995 của Bộ chính trị đã nêu “thực hiện
từng bước vững chắc việc cổ phần hoá một bộ phần doanh nghiệp không cần Nhà
nước đầu tư 100% vốn. Tuỳ tính chất, loại hình doanh nghiệp mà tiến hành bán một
tỉ lệ cổ phần cho công nhân viên chức làm việc tại doanh nghiệp để tạo động lực
bên trong trực tiếp thúc đẩy phát triển và bán cổ phần cho tổ chức hay cá nhân ngoài
quốc doanh để thu hút vốn, mở rộng quy mô kinh doanh”. Như vậy, Nghị quyết của
Đảng chỉ ra mục tiêu, đồng thời cũng nêu khái quát hình thức, mức độ cổ phần hoá
Doanh nghiệp nhà nước.
4. Tiền đề để cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước.
- Điều kiện và môi trường pháp lý về cơ bản đã được xác lập đặt tất cả các
doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường. Việc thực hiện “thương mại hoá”
các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế là tiền đề

cơ bản và cần thiết để từng bước thực hiện cổ phần hoá các Doanh nghiệp nhà
nước.
- Chính Phủ đã nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề cổ phần hoá các
Doanh nghiệp nhà nước và quyết tâm thực hiện. Điều này thể hiện ở việc ban hành
các văn bản luật và dưới luật nhăm thực hiện chương trình cổ phần hoá Doanh
nghiệp nhà nước như luật công ty, quyết định 315 và 330 về sắp xếp lại sản xuất
trong khu vực kinh tế Nhà nước. Chỉ thị 84-TTg của Thủ tướng Chính phủ về thí
điểm cổ phần hoá một số Doanh nghiệp nhà nước… Ngoài ra còn có các quyết
định, thông tư của các Bộ và các liên Bộ để cụ thể hoá việc thực hiện vấn đề này.
Điều này góp phần xác định rõ quan điểm và phương hướng chỉ đạo thống nhất ở
mọi cấp, mọi ngành cho đến từng doanh nghiệp triển khai thực hiện.
- Tình hình kinh tế đất nước đã có nhiều biến đổi theo hướng tích cực: giá
cả thị trường đã được duy trì tương đối ổn định, mức lạm phát đã được kiềm chế,
SV: Hoμng ThÞ Trang

×