Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Tài liệu Lý luận về giá trị thặng dư doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.26 KB, 10 trang )

PHẦN I : MỞ ĐẦU

Theo danh giá của VI LêNin thì lý luận giá trị thặng dư là hòn đá tảng của
học thuyết kinh tế của C.Mac. Các nhà tư bản để đạt được mục đích tối đa của
mình họ đã mua sức lao động của người công nhân kết hợp với tư liệu sản xuất để
sản xuất ra sản phẩm và thu về giá trị thặng dư.
Các nhà kinh tế học thường cho rằng mọi công cụ lao động, mọi tư liệu sản
xuất đều là tư bản. Thực ra bản thân tư liệu sản xuất không phải là tư bản, nó chỉ là
yếu tố cơ bản của sản xuất trong bất cứ xã hội nào. Tư liệu sản xuất chỉ trở thành
tư bản khi nó trở thành tài sản của các nhà tư bản và được dùng để bót lột lao động
làm thuê. Ta có thể định nghĩa chính xác tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư
bằng cách bóc lột công nhân làm thuê. Giá trị thặng dư , phần giá trị do lao động
của công nhân làm thuê sáng tạo ra ngoài sức lao động và tư bản chiếm không.
Chính vì vậy mà sản xuất giá trị thặng dư tối đa cho nhà tư bản là nội dung
chính của quy luật thặng dư. Nó quyết định đến sự phát triển của chủ nghĩa tư bản
và sự thay thế nó bằng một xã hội khác cao hơn là quy luật vận động của phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Việc nghiên cứu phạm trù giá trị thặng dư có vai trò rất quan trọng , nó có ý
nghĩa rất quan trọng trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Vì vậy mà tôi
đã chọn đề tài “Bản chất và các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư” cho bài
tiểu luận của mình





PHẦN II: LÍ LUẬN VỀ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ

I. PHẠM TRÙ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ

1


1 Sự chuyển hoá tiền tệ thành tư bản
Tiền tệ ra đời là kết quả lâu dài và tất yếu của quá trình sản xuất và trao đổi
hàng hoá. đồng thời tìên tệ cũng là khởi điểm của tư bản. Nhưng bản thân tiền tệ
không phải là tư bản. Tiền chỉ biến thành tư bản trong những điều kiện nhất định ,
khi chúng được sử dụng để bóc lột sức lao động của người khác.
Tiền được coi là tiền thông thườg thì vận đông theo công thức sau H-T-H
(hàng - tiền – hàng) nghĩa là sự chuyển hoá của hàng hoá thành tiền , rồi tiền lại
chuyển hoá thành hàng hoá. Còn tiền với tư cách là tư bản thì vận động theo công
thức T-H-T (tiền – hàng – tiền ) tức là sự chuyển hoá của tiền thành hàng hoá rồi
hàng hoá lại chuyển hoá ngược lại thành tiền. Bất cứ biến động nào vận động theo
công thức T-H-T đều chuyển hoá thành tư bản.
Mục đích của lưu thông hàng hoá giản đơn là giá trị sử dụng để thoả mãn nhu
cầu nên hàng hoá trao đổi phải có giá trị sử dụng khác nhau. Sự vận động sẽ kết
thúc ở giai đoạn hai khi những người trao đổi có được giá trị sử dụng mà người đó
cần đến. Còn mục đích lưu thông tư bản không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị
, hơn nữa là giá trị tăng thêm. Vì vậy số tiền thu về bằng số tiền ứng ra thì sự vận
động trở nên vô nghĩa. Do vậy mà số tiền thu về phải lớn hơn số tiền ứng ra nên
công thức vận động đầy đủ của tư bản là T-H-T’ trong đó T’= T + ∆T. Số tiền trội
hơn so với số tiền ứng ra C Mac gọi là giá trị thặng dư. Vạy tư bản là giá trị mang
lại giá trị thặng dư , nên sự vận động tư bản không có giới hạn vì sự lớn lên của
giá trị là không có giới hạn.
Tiền ứng trước tức là tiền đưa vào lưu thông , khi trở về tay người chủ của nó
thì thêm một lượng nhất định. Vạy có phải do bản chất của lưu thông đã làm cho
tiền tăng thêm và do đó mà hình thành giá trị thặng dư hay không ? các nhà kinh tế
học tư sản đã cho rằng sự tăng thêm đó là do lưu thông hàng hoá sinh ra. Nhưng
sự quả quyết của các nhà tư sản đều không có căn cứ.
Trong lưu thông hàng hoá được thay đổi ngang giá thì chỉ có sự thay hình thái
giá trị , còn tổng số giá trị cũng như phần giá trị thuộc về mỗi bên trao đổi là
không đổi.


2
Theo quan điểm của C Mac thì trong xã hội tư bản không có bất kỳ một nhà tư
bản nào chỉ đóng vai trò người bán sản phẩm mà lại không phải là người mua các
yếu tố sản xuất. Vì vậy khi anh ta bán hàng hoá cao hơn giá trị vốn của nó thì khi
mua các yếu tố sản xuất ở đầu vào các nhà tư bản khác cũng bán cao hơn giá trị và
như vậy cái được lợi khi bán sẽ bù cho cái thiệt hại khi mua. Cuối cùng vẫn không
tìm thấy nguồn gốc sinh ra ∆T.
Nếu hàng hoá được bán thấp hơn giá trị thì số tiền mà người đó sẽ được lợi khi
là người mua cũng chính là số tiền mà người đó sẽ mất đi khi là người bán. như
vậy, việc sinh ra ∆T không thể là kết quả của việc mua hàng thấp hơn giá trị của
nó. Giả định có một số người nhờ mánh khoé mà chuyên mua được rẻ bán được
đắt thì như C Mac nói điều đó chỉ có thể là giải thích được sự làm giầu của những
thương nhân cá biệt chứ không thể giải thích được sự làm giầu của toàn bộ giai
cấp các nhà tư bản. Bởi vì tổng số giá trị trước lúc trao đổi cũng như trong và sau
khi trao đổi không thay đổi mà chỉ có phần giá trị nằm trong tay mỗi bên trao đổi
là thay đổi.
Như vậy, nếu người ta thay đổi những vật ngang giá thì không sinh ra giá trị
thặng dư, và nếu người ta trao đổi những vật không ngang giá thì cũng không sinh
ra giá trị thặng dư. Lưu thông không tạo ra giá trị mới.
Nhưng nếu người có tiền không tiếp xúc gì với lưu thông tức là đứng ngoài lưu
thông thì không thể làm cho tiền của mình lớn lên được.
“vậy thì tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện ở
bên ngoài lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông” (C Mac: TB,NXB sự thật,
HN, 1987 Q1, tập 1, trang 216). Đó là mâu thuẫn chung của công thức tư bản.
2. Hàng hoá sức lao động
Sự chuyển hoá của tiền thành tư bản, không thể phát sinh từ bản thân số tiền
đó. Trong việc mua bán hàng hoá tiền chỉ là phương tiện lưu thông để thực hiện
giá cả hàng hoá, nên trước sau giá trị của nó vẫn không thay đổi. Sự chuyển hoá
đó xẩy ra trong quá trình vận động của tư bản.Nhưng sự chuyển hoá đó không sảy
ra ở giá trị trao đổi hàng hoá vì trong trao đổi người ta trao đổi nhưng vật ngang


3
giá mà chỉ có thể ở giá trị sử dụng hàng hoá. Do đó hàng hoá đó phải là một thứ
hàng hoá đặc biệt mà giá trị sử dụng của nó có đặc tính là nguồn gốc sinh ra giá
trị. Thứ hàng hoá đó là sức lao động mà nhà tư bản đã tìm thấy trên thị trường.
Như vậy, sức lao động là toàn bộ thể lực và trí lực và trí lực tồn tại trong cơ thể
con người, thể lực và trí lực mà người đó đem ra vận dụng trong quá trình tái sản
xuất ra một giá sử dụng.
Không phải bao giờ sức lao động cũng là hàng hoá, mà sức lao động chỉ biến
thành hàng hoá trong điều kiện lịch sử nhất định.
C Mác đã nhấn mạnh sức lao động chỉ trở thành hàng hoá khi có đủ hai điều
kiện sau:
Một là người lao động phải tự do về thân thể, phải làm chủ được sức lao động
của mình và có quyền đem bán cho người khác.Vậy người có sức lao động phải có
quyền sở hữu sức lao động của mình.
Hai là người lao động phải tước hết tư liệu tư liệu sản xuất để trở thành người
vô sản và bắt buộc phải bán sức lao động, vì không còn cách nào khác để sinh
sống.
Sự tồn tại đồng thời hai điều kiện nói trên tất yếu biến sức lao động thành hàng
hoá. Sức lao động biến thành hàng hoá là điều kiện quyết định để biến thành tư
bản.
Cũng như những hàng hoá khác, hàng hoá sức lao động có hai thuộc tính là
giá trị và giá trị sử dụng.
Giá trị hàng hoá sức lao động do thời gian lao động cần thiết để sản xuất và tái
sản xuất sức lao động.
Giá trị hàng hoá sức lao động là giá trị của tư liệu sinh hoạt cần thiết để nuôi
sống người công nhân, vợ con anh ta, những yếu tố tinh thần, dân tộc, tôn giáo của
những người công nhân, những chi phí đào tạo người công nhân.
Giá trị hàng hoá sức lao động giống giá trị hàng hoá thông thường ở chỗ: nó
phản ánh một lượng lao động hao phí nhất định để tạo ra nó. Nhưng giữa chúng ta

có sự khác nhau căn bản, giá trị hàng hoá hàng hoá thông thường biểu thị hao phí

4
lao động trực tiếp để sản xuất hàng hoá nhưng hàng hoá sức lao động lại là sự hao
phí lao động gián tiếp thông qua việc sản xuất ra những vật phẩm tiêu dùng để
nuôi sống người công nhân. còn hàng hoá sức lao động ngoài yếu tố vật chất nó
còn có yếu tố tinh thần lịch sử, dân tộc, yếu tố gia đình và truyền thống nghề
nghiệp mà hàng hoá thông thường đó không có.
Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động chỉ thể hiện ra trong quá trình tiêu
dùng sức lao động, tức là quá trình lao động của người công nhân. Quá trình đó là
quá trình sản xuất ra hàng hoá, đồng thời là quá trình tạo ra giá trị mới lớn hơn giá
trị hàng hoá sức lao động. Phần lớn hơn đó là giá trị thặng dư mà nhà tư bản chiếm
đoạt. Như vậy giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động có tính chất đặc biệt là
nguồn gốc sinh ra giá trị, tức là giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó.
3 Bản chất giá trị thặng dư
Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là giá trị sử dụng mà là giá
trị, hơn không phải là giá trị đơn thuần mà là giá trị thặng dư. để sản xuất giá trị
thặng dư.
Nhà tư bản muốn sản xuất ra 1 giá trị sử dụng có một giá trị trao đổi nghĩa là
một hàng hoá. Hơn nữa, nhà tư bản muốn sản xuất ra một hàng hoá có giá trị lớn
hơn tổng giá trị những tư liệu sản xuất và giá trị sức lao động mà tư bản đó bỏ ra
để mua, nghĩa là muốn sản xuất ra một giá trị thặng dư.
Vậy quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất giữa các quá trình sả
xuất ra giá trị sử dụng và quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư. C Mac viết: “với tư
cách là sự thống nhất giữa hai quá trình lao động và quá trình tạo ra giá trị thì quá
trình sản xuất là một quá trình sản xuất hàng hoá; với tư cách là sự thống nhất giữa
quá trình lao động và quá trình làm tăng giá trị thì quá trình sản xuất là một quá
trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, là hình thái tư bản chủ nghĩa của nền sản xuất
hàng hoá”.
Quá trình lao động với tư cách là quá trình tư bản tiêu dùng sức lao động có hai

đặc trưng:

5

×