Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Luận văn thạc sĩ tổ chức và hoạt động của hội đồng nhân dân cấp huyện từ thực tiễn thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1020.93 KB, 76 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ HỒNG NGA

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
CẤP HUYỆN TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

TP. HỒ CHÍ MINH - 2020


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT
ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP HUYỆN ................................ 9
1.1. Khái quát về Hội đồng nhân dân cấp huyện .............................................. 9
1.2. Tổ chức của Hội đồng nhân dân cấp huyện ............................................. 16
1.3. Hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp huyện ......................................... 19
1.4. Điều kiện bảo đảm tổ chức, hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp huyện
......................................................................................................................... 25
Chương 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI
ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ
CHÍ MINH ..................................................................................................... 29
2.1. Đặc điểm kinh tế - xã hội thành phố Hồ Chí Minh ảnh hưởng đến tổ chức,
hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp huyện ................................................. 29
2.2. Thực trạng tổ chức của Hội đồng nhân dân cấp huyện trên địa bàn thành
phố Hồ Chí Minh ............................................................................................ 30
2.3. Thực trạng hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp huyện trên địa bàn


thành phố Hồ Chí Minh................................................................................... 33
2.4. Đánh giá chung ........................................................................................ 40
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN TỔ
CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP HUYỆN
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ...................................... 55
3.1. Nhu cầu hồn thiện về tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội
đồng nhân dân cấp huyện trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh .................... 55
3.2. Phương hướng nhằm hồn thiện về tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt
động của Hội đồng nhân dân cấp huyện trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
......................................................................................................................... 58
3.3. Giải pháp nhằm hồn thiện về tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động
của Hội đồng nhân dân cấp huyện trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh ....... 60
KẾT LUẬN .................................................................................................... 69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau cách mạng tháng 8 năm 1945 chính quyền nhà nước ta dưới sự
lãnh đạo của Đảng cộng sản được thành lập theo hình thức chính thể cộng hịa
dân chủ, một chính quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân và
nguyên tắc này tồn tại cho đến tận ngày nay. Trải qua gần 75 năm hình thành
và phát triển; với vai trò và nhiệm vụ trong từng giai đoạn lịch sử khác nhau,
chính quyền nhân dân mà cụ thể là Hội đồng nhân dân (HĐND) luôn xứng
đáng là người đại biểu trung thành của nhân dân, luôn giữ được bản chất cách
mạng tiến bộ, góp phần khơng nhỏ tới cơng cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Trong những năm gần đây cùng với xu thế và chủ trương chung của
Đảng và Nhà nước, hoạt động của HĐND các cấp đã có nhiều chuyển biến
tích cực. Trước hết đó là vai trò kiểm tra giám sát của HĐND với UBND và
các cơ quan đơn vị ở địa phương liên quan đến nhiều lĩnh vực quan trọng

như: Đầu tư, xây dựng và phát triển các dự án, các vấn đề y tế, giáo dục, an
sinh xã hội… Vai trò và trách nhiệm của HĐND ngày càng đi vào thực chất,
khơng khí hoạt động dân chủ công khai của cơ quan dân cử cũng dần được
tạo lập. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu thì vẫn cịn bộc lộ nhiều bất cập
thể hiện chủ yếu trong hiệu quả hoạt động của nó, hoạt động quyết định và
giám sát của HĐND vẫn còn nhiều hạn chế, một số vấn đề về tổ chức của
HĐND vẫn chưa được làm rõ, chưa có định hướng đổi mới một cách cơ bản
lâu dài. Hoạt động kiểm tra giám sát của HĐND nhìn chung vẫn cịn hình
thức và chất lượng chưa cao. HĐND các cấp chưa thể hiện được đầy đủ vai
trò là cơ quan đại diện của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước ở địa
phương; các Đại biểu HĐND chưa phát huy được hết tinh thần làm chủ, thể
hiện ý chí của cử tri, mối liên hệ giữa cử tri và đại biểu vẫn còn lỏng lẻo.

1


Từ khi thành lập đến nay, Đảng ta rất quan tâm đến đổi mới phương
thức lãnh đạo để phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong tham gia kiểm
soát, giám sát quyền lực. Đại hội XII của Đảng cụ thể hóa cơ chế “Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” bằng nội dung “Đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng ở tất cả các cấp” với những quy chế, quy định, quy
trình cụ thể; quy định rõ hơn Đảng phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của
nhân dân về những quyết định của mình. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4
khóa XII nhấn mạnh: “Phải siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng, thực hiện
nghiêm các quy tắc tổ chức của Đảng; cán bộ, đảng viên vi phạm phải có hình
thức xử lý kịp thời, chính xác, bảo đảm cơng khai, minh bạch, cơng bằng”.
Đảng có nhiều chủ trương đúng đắn để phát huy quyền làm chủ của
nhân dân. Sau hơn 30 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới đất nước trong tất cả
các mặt của đời sống xã hội, Đảng ta rút ra bài học quan trọng: Đổi mới phải
luôn luôn quán triệt quan điểm “dân là gốc”, vì lợi ích của nhân dân, dựa vào

nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi
nguồn lực của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy, những ý kiến, nguyện vọng
chính đáng và sáng kiến của nhân dân nảy sinh từ thực tiễn là một nguồn gốc
hình thành đường lối của Đảng và nhân dân chính là người làm nên những
thành tựu của công cuộc đổi mới. Quyền làm chủ của nhân dân được tổng kết
thành phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Nhân dân làm
chủ thơng qua các hình thức tự quản, thực hiện dân chủ trực tiếp và dân chủ
đại diện. Hiến pháp và nhiều văn bản quy phạm pháp luật, như Luật Bầu cử
đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, Luật Tổ chức Quốc hội,
Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Luật Khiếu
nại, Luật Tố cáo, Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Trưng cầu ý dân,....
Các luật khác, như Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Luật Cơng đồn, Luật
2


Thanh niên... đều cụ thể hóa quy định của Hiến pháp về vai trị của các đồn
thể chính trị - xã hội tham gia quản lý nhà nước và xã hội.
Mặc dù đã có nhiều văn bản quy định về vấn đề này, đặc biệt là tại
Hiến pháp 2013; Luật Tổ chức Chính quyền địa phương được Quốc hội thơng
qua ngày 19/6/2015 (có hiệu lực ngày 01/01/2016), Nghị quyết 18-NQ/TW
ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương Đảng
khóa XII một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ
thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; Nghị quyết
56/2017/QH14 ngày 24/11/2017 về tiếp tục cải cách tổ chức bộ máy hành
chính nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; Nghị quyết số
629/2019/UBTVQH14 ngày 30/01/2019 về hướng dẫn một số hoạt động của
Hội đồng nhân dân... Tuy nhiên, vẫn cịn đó những hạn chế gây ảnh hưởng
lớn đến chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND các cấp. Đặc biệt, trong
bối cảnh thực hiện thí điểm tổ chức mơ hình chính quyền đơ thị tại Thành phố

Hà Nội theo Nghị quyết số 97/2019/QH14 ngày 27/11/2019. Theo mơ hình
này, chính quyền địa phương ở thành phố Hà Nội, huyện, quận, thị xã, xã, thị
trấn là cấp chính quyền địa phương gồm có hội đồng nhân dân và ủy ban nhân
dân. Chính quyền địa phương ở các phường thuộc quận, thị xã tại thành phố
Hà Nội là ủy ban nhân dân phường. Theo nghị quyết này thì từ giữa năm
2021, thành phố Hà Nội sẽ không tổ chức hội đồng nhân dân cấp phường. Khi
đó, hội đồng nhân dân quận, thị xã có thêm nhiệm vụ, quyền hạn: quyết định,
phân bổ, điều chỉnh dự toán thu, chi ngân sách; phê chuẩn quyết toán thu, chi
ngân sách quận, thị xã, trong đó bao gồm ngân sách của các phường trực
thuộc, theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước. Với chủ trương trên thì
Thành phố Hồ Chí Minh có thể học hỏi kinh nghiệm, xem xét thực tiễn tổ
chức chính quyền tại thành phố để có những đề xuất đổi mới tổ chức, hoạt
động của HĐND các cấp trên địa bàn thành phố.
3


Trong cơ cấu tổ chức của HĐND theo Luật Tổ chức chính quyền địa
phương năm 2019, HĐND được chia thành 3 cấp: HĐND cấp tỉnh, HĐND
cấp huyện, HĐND cấp xã. Cũng nằm trong hệ thống tổ chức của HĐND, thì
HĐND cấp huyện trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trong quá trình hoạt
động của mình đã đạt được nhiều thành tựu nhất định, nắm bắt được tâm tư
nguyện vọng của nhân dân góp ý và đưa ý kiến và nguyện vọng của nhân dân
trong xây dựng chính quyền đơ thị góp phần vào cơng cuộc đổi mới và xây
dựng đất nước. Trong thời gian qua bên cạnh những thành tựu đạt được, hoạt
động của HĐND cấp huyện, thành phố Hồ Chí Minh vẫn cịn gặp phải nhiều
tồn tại, vướng mắc được thể hiện như: thông qua các kỳ họp, hoạt động của
thường trực và các ban còn nhiều hạn chế khi còn một số vấn đề chưa phản
ánh được nguyện vọng của nhân dân, kiến nghị của cử tri hay trong một số
trường hợp chưa bảo vệ được quyền lợi hợp pháp của nhân dân; công tác
giám sát và thẩm tra chưa cao, công tác tiếp xúc cử tri của các đại biểu chưa

thường xuyên,… những nguyên nhân này gây ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu
quả hoạt động của HĐND cả nước nói chung và của thành phố Hồ Chí Minh
nói riêng.
Trong những năm qua, hoạt động của chính quyền cấp huyện trên địa
bàn thành phố Hồ Chí Minh đã đạt được những thành tựu nhất định như ban
hành chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, các cơ chế cải cách
hành chính, thực hiện giao dịch “một cửa”, “một cửa liên thơng”… góp phần
từng bước phát triển kinh tế - xã hội của thành phố.
Trong phạm vi của một luận văn không thể đi vào tìm hiểu hết thực
trạng tổ chức và hoạt động của HĐND cấp huyện trên phạm vi cả nước, đồng
thời xuất phát từ mong muốn tìm hiểu một cách cụ thể và đưa ra giải pháp
thiết thực trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, nên trong khn khổ luận văn
tốt nghiệp của mình bản thân tơi lựa chọn nghiên cứu đề tài “Tổ chức và hoạt
4


động của Hội đồng nhân dân cấp huyện từ thực tiễn thành phố Hồ Chí
Minh” việc tìm hiểu nghiên cứu này vừa góp phần nâng cao chất lượng tổ
chức và hoạt động của HĐND tại địa phương nói riêng, vừa có thể đưa ra
những giải pháp thiết thực cho việc tăng cường hiệu quả hoạt động của
HĐND trên cả nước nói chung.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tổ chức và hoạt động của HĐND không phải là vấn đề nghiên cứu mới
ở Việt Nam. Từ trước đến nay đã có nhiều cơng trình nghiên cứu đề cập đến
vấn đề này, nhưng việc nghiên cứu thực trạng hoạt động tổ chức và đưa ra các
giải pháp đổi mới hoạt động của HĐND ln là vấn đề có tính thời sự và cấp
thiết. Các cơng trình nghiên cứu của các nhà khoa học đều quan tâm tập trung
theo một góc độ nhất định, giá trị mà các cơng trình nghiên cứu đó mang lại
rất cao và hướng tới sự hoàn thiện tổng thể, trong đó tiêu biểu có những đề tài
liên quan như sau:

Nguyễn Quốc Tuấn, Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của
Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân các cấp, Tạp chí quản lý Nhà nước, số
6/2002; Trương Đắc Linh, Tổ chức và hoạt động các ban của Hội động nhân
dân, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 2/2003; Đinh Ngọc Quang, Về đổi mới
tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2004 – 2009,
tạp chí quản lý Nhà nước số 02/2005; Bùi Huyền Mai, Đổi mới tổ chức và
hoạt động của Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội,
Luận văn Thạc sỹ Luật học, Viện Nhà nước và pháp luật, năm 2004.
Nguyễn Phú Bình (2016), Giám sát của Hội đồng nhân dân phường từ
thực tiễn quận Đống Đa, thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ Luật, Học viện
khoa học xã hội, Hà Nội; Hoàng Thị Tú Oanh (2017), “Tiếp tục hoàn thiện
việc tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân ở chính quyền đơ thị theo

5


Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015”, Tạp chí Quản lý nhà nước,
Học viện Hành chính Quốc gia, số 262, tr. 20–25.
Các cơng trình nghiên cứu trên đã cung cấp một lượng kiến thức và
thông tin khá lớn về HĐND từ góc độ tổ chức và hoạt động. Các cơng trình
nghiên cứu trên đã phần nào đưa ra được thực trạng về tổ chức và hoạt động
của HĐND cấp huyện. Đặc biệt, chưa có cơng trình nghiên cứu nào đề cập
đến tổ chức và hoạt động của HĐND cấp huyện trên địa bàn thành phố Hồ
Chí Minh. Thơng qua đề tài này, tác giả sẽ phân tích tồn diện cả về cấu trúc
tổ chức và thực tiễn hoạt động, đồng thời nêu ra những nhận xét đánh giá và
đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của HĐND cấp
huyện trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Góp phần tìm hiểu làm rõ thêm cơ sở pháp lý và thực tiễn, qua đó đề

xuất giải pháp nhằm hồn thiện khn khổ pháp lý về tổ chức và hoạt động
của hệ thống Hội đồng nhân dân trên cả nước nói chung và Hội đồng nhân
dân cấp huyện nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích khơn khổ pháp lý hiện hành về tổ chức, hoạt động của hệ
thống HĐND trên cả nước nói chung và HĐND cấp huyện nói riêng.
- Phân tích thực tiễn hoạt động của HĐND cấp huyện trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh trong những năm gần đây từ đó đưa ra một số nhận
xét, đánh giá và đề xuất một số giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của
HĐND nói chung và của HĐND cấp huyện trên địa bàn thành phố Hồ Chí
Minh nói riêng trong những năm tới.

6


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Quy định pháp luật và thực tiễn tổ chức và hoạt động của HĐND cấp
huyện.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi của một luận văn tốt nghiệp đề tài đi sâu vào tìm hiểu
đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của HĐND cấp huyện trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian qua. Dữ liệu được thu thập từ năm
2016 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê
Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về tổ chức và hoạt động
của HĐND, trên cơ sở các quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động của
HĐND cấp huyện trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng trong luận văn là

phương pháp logic - lịch sử, khảo sát thực tế, phân tích - tổng hợp, so sánh,
đặc biệt coi trọng phương pháp tổng kết thực tiễn nhằm liên kết các vấn đề
được chặt chẽ hơn
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Thông qua việc trình bày một cách cụ thể, tồn diện và có hệ thống về
tổ chức và hoạt động của HĐND cấp huyện trên địa bàn thành phố Hồ Chí
Minh, luận văn góp phần làm rõ về khái niệm, vị trí, vai trị của HĐND cấp
huyện, tổ chức và hoạt động của HĐND cấp huyện.
Kết quả đánh giá của luận văn đã phân tích, đánh giá và làm rõ được
những điểm tích cực và hạn chế về cách thức tổ chức và hoạt động của
7


HĐND cấp huyện trong giai đoạn hiện nay trên một địa bàn cụ thể. Qua đó
rút ra những yếu tố hợp lý cũng như khắc phục những điểm hạn chế trong tổ
chức và hoạt động của HĐND cấp huyện từ đó đưa ra những giải pháp góp
phần hồn thiện tổ chức và hoạt động của HĐND cấp huyện.
7. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được
kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động của Hội đồng
nhân dân cấp huyện;
Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp
huyện trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh;
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện tổ chức và hoạt động
của Hội đồng nhân dân cấp huyện trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.

8



Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA
HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP HUYỆN
1.1. Khái quát về Hội đồng nhân dân cấp huyện
1.1.1. Chính quyền cấp huyện trong bộ máy chính quyền nhà nước ở Việt Nam
Cấp huyện ở Việt Nam hiện nay được quy định trong Luật Tổ chức
chính quyền địa phương 2015 bao gồm: huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương. Theo quy định của
pháp luật, cấp huyện chia thành 3 loại (I, II, III).
Tuy nhiên, ngồi chia thành 3 loại trên, cịn có chia theo:
- Huyện gắn với khu vực nông thôn;
- Quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực
thuộc Trung ương gắn với khu vực đô thị.
Mỗi đơn vị hành chính cấp huyện đều được tổ chức chính quyền tương
ứng. Chính quyền cấp huyện gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân.
Cấp huyện là đơn vị hành chính lãnh thổ trung gian nằm giữa tỉnh và
xã. Chính quyền địa phương cấp huyện chịu sự quản lý nhà nước trực tiếp của
chính quyền địa phương cấp tỉnh và trực tiếp quản lý nhà nước đối với chính
quyền địa phương cấp xã.
Mối quan hệ giữa chính quyền địa phương cấp tỉnh với chính quyền địa
phương cấp huyện và giữa chính quyền địa phương cấp huyện với chính
quyền địa phương cấp xã được xem xét dưới hai góc độ:
- Quan hệ trong hoạt động quản lý nhà nước,
- Quan hệ trong việc cung cấp dịch vụ (kể cả dịch vụ hành chính cơng).

9


Chính quyền địa phương cấp huyện ở Việt Nam bao gồm:
- Hội đồng nhân dân thực hiện quản lý nhà nước mang tính chất lãnh

thổ, gắn với ý chí, nguyện vọng của người dân trên địa bàn đơn vị hành chính
lãnh thổ được phân cơng quản lý.
- Ủy ban nhân dân thực hiện quản lý nhà nước theo địa phương các vấn
đề của địa phương thông qua chấp hành Nghị quyết của Hội đồng nhân dân
cùng cấp.
Như trên đã nêu, có 5 loại chính quyền địa phương cấp huyện, trong đó
4 loại gắn với đơ thị; huyện gắn với quản lý vùng nơng thơn. Chính quyền
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và thành phố thuộc thành phố trực thuộc
trung ương có nhiệm vụ và quyền hạn phân biệt với nhiệm vụ, quyền hạn của
chính quyền huyện ở nơng thơn.
Hiến pháp 2013 kế thừa những thành tựu của các bản Hiến pháp trước
đó, nhưng sự thay đổi những nội dung trong Hiến pháp 2013 thể hiện tư duy
đổi mới về hoạt động của nhà nước Việt Nam, đặc biệt là chính quyền địa
phương các cấp.
Điều này đã tạo cơ sở pháp lý cho việc hình thành một đơn vị hành
chính trong thành phố trực thuộc trung ương, đó là “thành phố” thuộc “thành
phố trực thuộc trung ương”. Điều thay đổi lớn nhất khi xây dựng Luật Tổ
chức chính quyền địa phương 2015 dựa vào Hiến pháp 2013 chính là xác định
rõ ràng, cụ thể cơ cấu tổ chức Ủy ban nhân dân cấp huyện và nhiệm vụ, quyền
hạn của không chỉ đối với Ủy ban nhân dân cấp huyện mà cịn đối với chính
chức danh Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện. Đây là một thay đổi cơ bản
nhằm xác định cụ thể nhiệm vụ và quyền hạn cũng như cơ cấu tổ chức bộ
máy Ủy ban nhân dân tránh việc sau này các văn bản dưới luật đưa ra quy
định riêng.
10


Cụ thể, chính quyền địa phương có 2 loại nhiệm vụ riêng biệt:
- Tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp, pháp luật tại địa
phương;

- Quyết định các vấn đề của địa phương theo luật định.
Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2015 đã xác định rõ hơn chức
năng, nhiệm vụ và quyền hạn của chính quyền đơ thị và chính quyền nơng
thơn. Chi tiết về quy định chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn cũng như cơ cấu
tổ chức bộ máy xem Luật Tổ chức chính quyền địa phương.
1.1.2. Khái niệm, vị trí, vai trị của Hội đồng nhân dân cấp huyện
1.1.2.1. Khái niệm
Để tổ chức quyền lực Nhà nước tại địa phương, Nhà nước ta cũng như
mọi quốc gia khác đều phân chia lãnh thổ ra các đơn vị hành chính và tổ chức
cơ quan quản lý ở đó để bảo đảm mối liên hệ giữa Trung ương và địa phương,
thực hiện chính sách của Nhà nước tại địa phương và quản lý địa phương.
Tính quyền lực Nhà nước của Hội đồng nhân dân biểu hiện ở chỗ: nó
thể hiện quyền làm chủ của nhân dân trên địa bàn lãnh thổ đồng thời thực
hiện những nhiệm vụ, quyền hạn do cấp trên phân giao. Quyết định của Hội
đồng nhân dân có tính bắt buộc chung đối với các cơ quan, tổ chức và công
dân ở địa phương.
Hội đồng nhân dân với tính cách là cơ quan đại diện, cơ quan tập thể có
phương thức hoạt động theo kỳ họp, ra nghị quyết về các vấn đề xây dựng địa
phương và giám sát (giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước khác ở địa
phương, giám sát việc thực hiện các nghị quyết của Hội đồng nhân dân và
giám sát việc tuân theo pháp luật ở địa phương). Cịn Ủy ban nhân dân có
nhiệm vụ tổ chức thi hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân, quyết định, chỉ

11


thị của cấp trên và cùng với Thường trực Hội đồng nhân dân thực hiện các
nhiệm vụ tổ chức hoạt động của Hội đồng nhân dân (như chuẩn bị kỳ họp).
Giữa Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân khơng có sự tách biệt. Với cách
hiểu đó, Hội đồng nhân dân ngoài ý nghĩa là cơ quan đại diện bao gồm các

đại biểu có thẩm quyền do dân bầu lên ở từng địa phương - cơ quan quyền lực
Nhà nước ở địa phương - còn bao hàm ý nghĩa là cơ quan quản lý Nhà nước
tại địa phương, trong đó có cả Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân và các bộ
phận hợp thành khác.
1.1.2.2. Vị trí, vai trị
Vị trí pháp lí của HĐND thể hiện ở 2 phương diện:
Một là, cơ quan đại diện cho nhân dân ở địa phương
HĐND là cơ quan duy nhất ở địa phương do cử tri địa phương bầu ra
theo nguyên tắc phổ thơng, bình đẳng và bỏ phiếu kín (dân cử). Do đó, đại
biểu HĐND là những người đại diện cho tất cả các tầng lớp nhân dân ở địa
phương. Mục đích của HĐND là phục vụ cho lợi ích của nhân dân địa phương
Hai là, cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương: HĐND thay mặt cho
nhân dân địa phương quyết định các vấn đề quan trọng ở địa phương.
1.1.3. Chức năng của Hội đồng nhân dân cấp huyện
Chức năng của HĐND là một thuật ngữ khoa học, tuy nhiên thuật ngữ
này được nhắc nhiều trong văn bản pháp luật cũng như trong đời sống nhân
dân. Trong khoa học pháp lý và lý luận chung Nhà nước và pháp luật hiện nay
thì chức năng thường được gọi là phương diện hoạt động chủ yếu của cơ quan
nhà nước, nhưng đứng về phương diện xã hội học thì chức năng chính là vai
trị xã hội của các cơ quan, tổ chức. Khi xuất hiện nhu cầu xã hội, đòi hỏi phải

12


có một tổ chức, một cơ quan đáp ứng nhu cầu xã hội đó, chức năng chính là vị
trí, vai trị của tổ chức được hình thành ra để đáp ứng nhu cầu xã hội đó.
HĐND cấp huyện được xác định là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện
vọng, quyền làm chủ của nhân dân địa phương cấp huyện, do nhân dân huyện
bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân trong huyện và các cơ quan nhà nước
khác ở cấp trên quản lý. Từ vị trí này HĐND cấp huyện có chức năng rất quan

trọng là: “quyết định những chủ trương, biện pháp quan trọng để phát huy
tiềm năng của địa phương, xây dựng phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc
phịng an ninh, khơng ngừng cải thiện, nâng cao đời sống tinh thần, vật chất
của nhân dân địa phương, làm tròn nghĩa vụ đối với cả nước”.
Theo quy định trên thì chức năng quyết định của HĐND cấp huyện có
phạm vi tương đối rộng, bao quát tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội tại
địa phương. Điều này khẳng định được vị trí, vai trị ln gắn liền với chức
năng của HĐND cấp huyện và một lần nữa khẳng định lại tầm quan trọng của
HĐND trong chính quyền địa phương, đây cũng là cơ sở để HĐND thực hiện
tốt nhiệm vụ của cấp trên giao phó và sự tin tưởng của cử tri địa phương. Mặt
khác với chức năng quan trọng như vậy việc ban hành chính sách có tác động
rất lớn tới đời sống, kinh tế - xã hội của địa phương nên khi quyết định thông
qua nghị quyết phải đảm bảo được tính dân chủ, tính khả thi trong thực tế
nhằm tránh tình trạng nghị quyết đã thơng qua nhưng khơng thể triển khai
thực hiện, làm mất đi vai trò quan trọng của HĐND.
Cùng với chức năng được phân tích ở trên, HĐND cấp huyện thực hiện
quyền giám sát đối với hoạt động của Thường trực HĐND, UBND, Tòa án
nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, giám sát việc thực hiện các Nghị
quyết của mình ban hành, giám sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan
nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của

13


công dân ở địa phương trong phạm vị thẩm quyền được giao. Với quy định
này đã đánh dấu bước phát triển mới về hoạt động giám sát của HĐND, nâng
cao được vị thế vai trò của HĐND về mọi mặt.
Hai chức năng này có mối quan hệ biện chứng tương trợ lẫn nhau, nên
không thể coi trọng hay xem nhẹ hơn một chức năng nào, vì có thực hiện tốt
chức năng giám sát thì sẽ tạo điều kiện cho HĐND tiến hành kiểm tra, đánh

giá hoạt động của các cơ quan khác tại địa phương trong việc tuân thủ, chấp
hành tốt Hiến pháp, Luật, văn bản của cơ quan nhà nước trung ương. Đồng
thời giúp HĐND phát hiện ra những điểm bất hợp lý, thiếu tính thực tiễn của
các nghị quyết đã ban hành nhằm kịp thời sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ cho phù
hợp. Việc thực hiện tốt chức năng quyết định sẽ tạo điều kiện cho việc giám
sát được tốt hơn, qua đó tạo cơ sở để HĐND tiến hành bầu, bãi miễn, miễn
nhiệm các chức danh trong HĐND, UBND, ban hành những nghị quyết có
chất lượng tạo điều kiện cho HĐND thực hiện tốt vai trò của mình, đưa nền
kinh tế - xã hội địa phương phát triển, xứng đáng với sự kỳ vọng, tin tưởng
của nhân dân địa phương.
Chức năng của HĐND được pháp luật quy định như trên là xuất phát từ
vị trí, vai trị của HĐND, với tính cách là cơ quan nhà nước trong hệ thống bộ
máy nhà nước thống nhất, với tinh thần nhà nước ta là nhà nước pháp quyền,
mọi vấn đề liên quan đến địa phương do HĐND tự quyết định và tự chịu trách
nhiệm về quyết định của mình. Bởi điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của
mỗi tỉnh là không giống nhau nên không thể áp dụng một chính sách cho tất
cả các địa phương trên cả nước được. Vì vậy HĐND trên cơ sở chủ trương,
đường lối và pháp luật của nhà nước mà có những quyết định cụ thể áp dụng
riêng cho từng địa phương mình. Chức năng này gần giống với chức năng lập
pháp của Quốc hội, vì vậy khơng ít người đã gọi HĐND là cơ quan lập pháp ở
địa phương, bên cạnh chức năng quyết định và tự chịu trách nhiệm thì HĐND
14


còn thực hiện chức năng giám sát các hoạt động chấp hành và điều hành của
UBND trong việc thực hiện các quyết định của HĐND và các quyết định khác
của cơ quan nhà nước cấp trên trong việc thực hiện Hiến pháp, luật
1.1.4. Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân cấp huyện
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân được pháp
luật quy định là xuất phát từ vị trí, vai trị của Hội đồng nhân dân với tính

cách là cơ quan chính quyền Nhà nước trong hệ thống bộ máy Nhà nước
thống nhất. Hội đồng nhân dân cấp huyện thực hiện những nhiệm vụ và sử
dụng những quyền hạn theo phân cấp quản lý của chính quyền cấp trên theo
quy định của luật tổ chức chính quyền địa phương, đảm bảo sự lãnh đạo thống
nhất của Trung ương đồng thời phát huy quyền chủ động sáng tạo của địa
phương trong trong triển khai chức năng, nhiệm vụ của mình.
Nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Hội đồng nhân dân cấp huyện
được quy định tại Điều 26 - Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân
huyện; Điều 47 - Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân quận; Điều 54
- Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân thị xã, thành phố thuộc tỉnh,
thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương của pháp luật về tổ chức
chính quyền địa phương. Tuy nhiên, do địa bàn nguyên cứu của luận văn tại
thành phố Hồ Chí Minh nên tác giả tập trung vào các nhiệm vụ, quyền hạn cụ
thể sau:
Thứ nhất, trong tổ chức và bảo đảm thi hành Hiến pháp và pháp luật,
gồm: Ban hành nghị quyết về những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của
HĐND quận, huyện; Quyết định các biện pháp để thực hiện các nhiệm vụ do
cơ quan nhà nước cấp trên phân cấp; quyết định việc phân cấp cho chính
quyền địa phương, cơ quan nhà nước cấp dưới thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của chính quyền địa phương ở quận; Bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản

15


trái pháp luật của UBND, Chủ tịch UBND Quận; bãi bỏ một phần hoặc toàn
bộ văn bản trái pháp luật của HĐND phường; Giải tán HĐND phường trong
trường hợp HĐND đó làm thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của Nhân dân và
trình HĐND thành phố trực thuộc trung ương phê chuẩn [20].
Thứ hai, trong xây dựng chính quyền, gồm có: Bầu, miễn nhiệm, bãi
nhiệm Chủ tịch HĐND quận, huyện, Phó Chủ tịch HĐND quận, huyện,

Trưởng ban, Phó Trưởng ban của HĐND quận, huyện; bầu, miễn nhiệm, bãi
nhiệm Chủ tịch UBND Quận, Phó Chủ tịch UBND Quận và các Ủy viên
UBND Quận…
Thứ ba, quyết định, thông qua các nội dung trong lĩnh vực kinh tế, tài
nguyên, môi trường, giáo dục, đào tạo, khoa học, cơng nghệ, văn hóa, thơng
tin, thể dục, thể thao, y tế, lao động và thực hiện chính sách xã hội…
Thứ tư, Giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương,
việc thực hiện nghị quyết của HĐND quận, huyện; giám sát hoạt động của
Thường trực HĐND quận, huyện, UBND Quận, Tòa án nhân dân Quận, Viện
kiểm sát nhân dân Quận….
1.2. Tổ chức của Hội đồng nhân dân cấp huyện
1.2.1. Thường trực Hội đồng nhân dân cấp huyện
Hội đồng nhân dân có chức năng hết sức quan trọng là quyết định
những vấn đề quan trọng ở địa phương và thực hiện việc giám sát liên tục
thường xuyên đối với các cơ quan khác trong tỉnh. Tuy nhiên, hoạt động của
HĐND chỉ diễn ra một năm hai kỳ, có thể có cuộc họp bất thường, nhưng
cũng khơng thể tự mình thực hiện được hết chức năng, nhiệm vụ được giao
theo quy định của pháp luật, khơng thể hiện được vai trị là người đại diện của
nhân dân. Do đó phải có một bộ phận đứng ra thực hiện nhiệm vụ đó một

16


cách liên tục và thường xuyên nên việc thành lập Thường trực hội đồng nhân
dân là hết sức cần thiết.
Khi Thường trực HĐND được thành lập sẽ đảm bảo duy trì liên tục sự
hiện diện của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương bằng hoạt động tiếp
nhận, truyền tải và đảm bảo thực thi các văn bản của cơ quan nhà nước trung
ương, đồng thời thực hiện việc giám sát toàn bộ các hoạt động của các cơ
quan nhà nước khác trong phạm vi cấp tỉnh. Bên cạnh đó cịn duy trì thực

hiện hoạt động của HĐND thơng qua một số nhiệm vụ ngắn hạn của HĐND.
Theo quy định của pháp luật hiện hành Thường trực HĐND có ở cả ba
cấp. Thường trực HĐND do HĐND cùng cấp bầu ra, Thường trực HĐND cấp
tỉnh gồm Chủ tịch, phó Chủ tịch và ủy viên thường trực. Thành viên của
thường trực HĐND không thể đồng thời là thành viên của UBND cùng cấp.
1.2.2. Các ban Hội đồng nhân dân cấp huyện
HĐND với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương nên
phải giải quyết rất nhiều vấn đề phức tạp liên quan đến đời sống của nhân dân
địa phương với rất nhiều lĩnh vực khác nhau, để HĐND giải quyết được tất cả
các vấn đề nói trên thì buộc phải có những bộ phận chun mơn giải quyết
những cơng việc thuộc lĩnh vực mà HĐND có thẩm quyền quyết định. Đó là
lý do để ra đời các ban giúp việc cho HĐND.
Khi nghiên cứu các quy định về tổ chức các Ban của HĐND, chúng ta
biết rằng việc tổ chức ra các Ban của HĐND đã được quy định từ rất sớm
(Luật tổ chức HĐND và UBND năm 1962, 1983, 1989, 2003). Tuy nhiên,
những văn bản này không quy định cụ thể về việc thành lập các Ban (số Ban,
tên gọi, số lượng thành viên các Ban) nên khơng có sự đồng đều thống nhất
giữa các địa phương gây khó khăn cho cơng tác hướng dẫn hoạt động của các

17


Ban đã làm cho hiệu quả đạt được không cao, bên cạnh đó hầu hết các thành
viên của các ban không phải là chuyên trách mà chủ yếu là kiêm nhiệm.
Theo quy định của Luật Tổ chức CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG
năm 2015 thì HĐND cấp huyện phải thành lập Ban pháp chế và Ban kinh tế xã hội; ở những nơi có đơng đồng bào dân tộc thiểu số theo quy định tại Nghị
quyết số 1130/2016/UBTVQH13 thì thành lập thêm Ban dân tộc.
Các ban của HĐND làm việc theo chế độ tập thể, Trưởng ban điều
hành việc thực hiện chương trình cơng tác của các Ban, chuẩn bị, triệu tập và
chủ tọa của các phiên họp của ban. Phó trưởng ban giúp Trưởng ban thực hiện

nhiệm vụ và được phân công phụ trách một số công việc của Trưởng ban.
1.2.3. Địa vị pháp lý của Đại biểu Hội đồng nhân dân cấp huyện
Địa vị pháp lý của người đại biểu HĐND được quy định lần đầu tiên
trong Hiến pháp 1992 và đây có thể được xem là thành cơng lớn nhất của
Hiến pháp 1992 và tiếp tục được ghi nhận tại Điều 115 Hiến pháp 2013 khi
quy định về vai trò của đại biểu HĐND là “người đại diện cho ý chí nguyện
vọng của nhân dân địa phương”, vì vậy để trở thành một người đại điện cho
nhân dân thì yêu cầu đặt ra đối với người đại biểu cũng hết sức đặc biệt,
không giống như những quan chức làm việc trong cơ quan nhà nước. Đại biểu
HĐND phải thể hiện được là một người luôn gương mẫu chấp hành chính
sách, pháp luật của nhà nước và tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước;
tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện chính sách pháp luật, tham gia một
cách tích cực vào việc chỉnh sửa, thơng qua các chủ trương chính sách pháp
luật của địa phương. Việc ghi nhận vai trị, vị trí của đại biểu HĐND trong
Hiến pháp, một văn bản có giá trị pháp lý cao nhất sẽ khẳng định sự tồn
tại vững bền của đơn vị hành chính lãnh thổ. Với vai trị là người đại diện của
nhân dân trong cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, thời gian qua với
18


những thành cơng đạt được của HĐND các cấp thì đại biểu HĐND đã có
những đóng góp quan trọng vào sự phát triển tồn diện của các địa phương.
Nói tóm lại, những quy định mang tính nguyên tắc của Hiến pháp 2013
về tổ chức và hoạt động của HĐND được cụ thể hóa bằng luật Luật Tổ chức
Chính quyền địa phương năm 2015 là sự thừa kế có chọn lọc của các bản
Hiến pháp trước đó và sự đúc kết lâu dài những kinh nghiệm thực tiễn trong
suốt quá trình tổ chức và hoạt động của HĐND các cấp. Đây là những quy
định cụ thể, rõ ràng, chặt chẽ nhằm giúp cho HĐND thực hiện tốt chức năng
quyết định và giám sát của mình góp phần xây dựng và đổi mới chính quyền
địa phương vững mạnh.

1.3. Hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp huyện
1.3.1. Ban hành văn bản liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng
nhân dân cấp huyện
Theo quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương và các văn
bản pháp luật trên các lĩnh vực khác, thì quyền hạn của HĐND được thể hiện
ở những hình thức và cấp độ khác nhau. Cụ thể đó là: quyền quyết định
(quyết định và quy định), quyền thơng qua và quyền phê chuẩn.
Quyền quyết định đó là quyền giải quyết về một vấn đề cụ thể mà pháp
luật quy định hoặc quyền quy định - đặt ra, thay đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ các
quy phạm pháp luật (quy tắc xử sự chung) bắt buộc các chủ thể (cá nhân, cơ
quan, tổ chức) phải thực hiện. Quyền quyết định được thể hiện ở hai dạng:
Dạng thứ nhất đó là quyết định về một vấn đề cụ thể được thể hiện trong các
nghị quyết cá biệt (nghị quyết áp dụng pháp luật); chẳng hạn như, nghị quyết
về thành lập các cơ quan chuyên môn thuộc UBND, nghị quyết về đặt tên
đường phố,… Dạng thứ hai đó là quy định, đặt ra các quy tắc xử sự chung
được áp dụng nhiều lần đối với mọi đối tượng hoặc một nhóm đối tượng và
19


có hiệu lực trong phạm vi địa phương; dạng này được thể hiện trong các nghị
quyết quy phạm pháp luật, như nghị quyết về quy định mức thu các loại phí,
lệ phí; nghị quyết quy định số lượng và mức phụ cấp đối với những người
hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, bản, tiểu khu;…
Quyền thông qua đó là quyền cho ý kiến thể hiện sự đồng ý về một vấn
đề (thường là các quy hoạch, kế hoạch, đề án) do UBND cùng cấp trình xin ý
kiến trước khi UBND quyết định hoặc trình cấp trên quyết định, phê duyệt
theo thẩm quyền trên cơ sở góp ý và giám sát của cơ quan có thẩm quyền.
Chẳng hạn như, tại khoản 2 Điều 45 Luật Đất đai năm 2013 quy định:
“UBND cấp tỉnh trình HĐND cùng cấp thơng qua quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất cấp tỉnh trước khi trình Chính phủ phê duyệt”. Ngồi ý nghĩa là một

dạng quyền hạn của HĐND thì thuật ngữ “thơng qua” còn được sử dụng với ý
nghĩa để chỉ một hoạt động tại kỳ họp của HĐND, đó là việc biểu quyết nhất
trí đối với các dự thảo nghị quyết. Khoản 2 Điều 126 Luật ban hành văn bản
QPPL năm 2015 quy định: “Dự thảo nghị quyết được thông qua khi có quá
nửa tổng số đại biểu HĐND biểu quyết tán thành”.
Như vậy, sự khác nhau giữa thông qua với phê chuẩn đó là: Thơng qua
là cho ý kiến trước khi quyết định (tiền kiểm – thể hiện vai trò tư vấn của tập
thể HĐND đối với các đề án, quy hoạch, kế hoạch), còn phê chuẩn là cho ý
kiến sau khi đã thực hiện (hậu kiểm – thể hiện chức năng giám sát của HĐND
đối với kết quả thực hiện).
Tóm lại, mặc dù Luật Tổ chức chính quyền địa phương khơng có điều
luật giải thích cụ thể, nhưng căn cứ vào các quy định cụ thể của văn bản pháp
luật chun ngành trong các lĩnh vực thì có thể xác định được các dấu hiệu
chung để phân biệt các dạng quyền hạn của HĐND trong việc ban hành nghị
quyết, đó là: Đối với những vấn đề theo quy định của pháp luật thuộc thẩm

20


quyền “phán quyết” của HĐND thì quyền hạn đó là quyết định hoặc quy định
(tương ứng với văn bản chủ đạo, cá biệt hoặc văn bản QPPL). Đối với những
vấn đề thuộc thẩm quyền quyết định của UBND cùng cấp hoặc của cấp trên
mà UBND xin ý kiến trước khi quyết định hoặc trình cơ quan cấp trên quyết
định thì quyền hạn của HĐND là quyền thông qua. Đối với những vấn đề đã
được thực hiện nhưng theo quy định của pháp luật sau khi thực hiện phải có ý
kiến của HĐND thì quyền hạn đó là quyền phê chuẩn.
Tuy nhiên, trên thực tế do chưa phân biệt được các dạng quyền hạn nêu
trên nên việc ban hành nghị quyết của HĐND trong thời gian qua ở một số địa
phương đã xác định không đúng về các dạng quyền hạn. Có những vấn đề
thuộc thẩm quyền quyết định của mình thì HĐND lại ban hành nghị quyết

dưới dạng thơng qua (như thơng qua dự tốn thu, chi ngân sách, thơng qua
chương trình xây dựng nghị quyết và hoạt động giám sát,...). Ngược lại, có
những vấn đề thuộc thẩm quyền quyết định của UBND thì lại ban hành nghị
quyết dưới dạng quyết định. Chẳng hạn như, theo quy định tại Điều 144 Luật
Đất đai năm 2013, thì “UBND cấp tỉnh xây dựng và trình HĐND cùng cấp
thơng qua bảng giá đất trước khi ban hành”. Với quy định này thì HĐND cấp
tỉnh chỉ có thẩm quyền thơng qua bảng giá đất, còn thẩm quyền quyết định về
giá đất cụ thể thuộc về UBND cấp tỉnh. Tuy nhiên, hiện nay Nghị quyết của
HĐND nhiều tỉnh, thành lại ban hành dưới dạng quy định giá đất rồi giao cho
UBND triển khai thực hiện. Thậm chí về cùng một vấn đề nhưng nghị quyết
của HĐND cấp huyện này thì “thơng qua” nghị quyết của HĐND cấp huyện
khác thì lại “quy định”. Chẳng hạn như triển khai thi hành Nghị định số
92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 (quy định về chức danh, số lượng những
người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã và ở thôn, tổ dân phố) mặc dù
Nghị định này đã quy định cụ thể là HĐND cấp tỉnh quy định về chức danh,
mức phụ cấp của từng chức danh, thế nhưng có tỉnh thì ban hành nghị quyết
21


“quy định số lượng, chức danh,...”, có tỉnh thì ban hành nghị quyết “thông qua
số lượng, chức danh,...”. Thực tế có những địa phương hầu hết các nghị quyết
ban hành đều theo dạng “thông qua”. Sở dĩ như vậy là do đã có sự lẫn lộn,
đồng nhất khái niệm thơng qua với hàm nghĩa là một dạng quyền hạn (tính từ)
với khái niệm thông qua dùng để chỉ một hoạt động tại kỳ họp (động từ). Việc
chưa xác định rõ các dạng quyền hạn của HĐND là một trong những yếu tố
dẫn đến việc xác định khơng chính xác văn bản QPPL và văn bản cá biệt.
1.3.2. Thực hiện công tác bầu, miễn nhiệm đối với các chức danh theo quy
định
(1) Đối với chức danh của Hội đồng nhân dân:
Theo quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương, các chức

danh của Hội đồng nhân dân các cấp đối với chính quyền đơ thị và chính
quyền nơng thơn, gồm: Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chánh
Văn phịng, Trưởng ban, Phó Trưởng ban và Ủy viên của các Ban của Hội
đồng nhân dân. Thường trực Hội đồng nhân dân gồm: Chủ tịch, Phó Chủ tịch
Hội đồng nhân dân, các Ủy viên là Trưởng ban của Hội đồng nhân dân và
Chánh Văn phòng Hội đồng nhân dân. Thành viên của Thường trực Hội đồng
nhân dân không thể đồng thời là thành viên của Ủy ban nhân dân cùng cấp
(Điều 6, Luật Tổ chức chính quyền địa phương).
(2) Quy trình bầu cử, miễn nhiệm, bãi nhiệm các chức danh của Hội
đồng nhân dân
Quy trình bầu cử các chức danh của Hội đồng nhân dân thực hiện theo
Điều 83, Luật Tổ chức chính quyền địa phương; kết quả bầu cử Chủ tịch Hội
đồng nhân dân, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân phải được Thường trực Hội
đồng nhân dân cấp trên trực tiếp phê chuẩn; Thường trực Hội đồng nhân dân
phê chuẩn danh sách Ủy viên của các Ban của Hội đồng nhân dân cùng cấp
22


trong số đại biểu Hội đồng nhân dân và việc cho thôi làm Ủy viên của các
Ban của Hội đồng nhân dân theo đề nghị của Trưởng ban của Hội đồng nhân
dân (quy định tại Khoản 6, Điều 104, Luật Tổ chức chính quyền địa phương).
Quy trình từ chức, miễn nhiệm, bãi nhiệm đối với người giữ các chức vụ của
Hội đồng nhân dân thực hiện theo Điều 84, Luật Tổ chức chính quyền địa
phương; thơi làm nhiệm vụ và bãi nhiệm đại biểu Hội đồng nhân dân thực
hiện theo Điều 101, Điều 102, Luật Tổ chức chính quyền địa phương; kết quả
miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân phải dược
phê chuẩn theo quy định tại Khoản 4, Điều 84, Luật Tổ chức chính quyền địa
phương.
(3) Trình tự bầu cử, miễn nhiệm, bãi nhiệm tại kỳ họp Hội đồng nhân
dân:

Chủ tọa kỳ họp, Thường trực Hội đồng nhân dân giới thiệu Hội đồng
nhân dân bầu và đề nghị miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch Hội đồng nhân dân;
Chủ tịch Hội đồng nhân dân giới thiệu với kỳ họp Hội đồng nhân dân bầu và
đề nghị miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch Ủy ban nhân dân và Phó Chủ tịch
Hội đồng nhân dân, Trưởng ban, Phó Trưởng ban của Hội đồng nhân dân và
Chánh Văn phòng Hội đồng nhân dân tỉnh (đối với Hội đồng nhân dân tỉnh);
Chủ tịch Ủy ban nhân dân trình, giới thiệu Hội đồng nhân dân bầu, miễn
nhiệm, bãi nhiệm Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân và Ủy viên Ủy ban nhân
dân;
Hội đồng nhân dân thảo luận, quyết định bằng hình thức biểu quyết giơ
tay thơng qua Tờ trình của Chủ tọa kỳ họp (hoặc của Thường trực Hội đồng
nhân dân, Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân);
Kỳ họp tiến hành ứng cử, đề cử các chức danh do Hội đồng nhân dân
bầu (đối với bầu cử);

23


×