Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

De tai khoa hoc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 25 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>A. ĐẶT VẤN ĐỀ I. Lý do chọn đề tài 1. Tầm quan trọng của vấn đề Trong những năm qua, cùng với việc thực hiện một cách đồng bộ đổi mới nội dung, chương trình, sách giáo khoa, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học(PPDH) nói chung, trong đó có đổi mới PPDH môn Ngữ văn luôn được các nhà khoa học giáo dục đầu ngành của nước ta quan tâm, nghiên cứu và tìm cách cải tiến. Có thể nói, đây là một bước đột phá của ngành Giáo dục nước nhà. Vì vậy, vấn đề này đã được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Thực hiện nghiêm túc tinh thần Nghị quyết 40/2000-QH10 của Quốc hội khóa 10 và Chỉ thị số14/2001/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Bộ GD&ĐT đã đặc biệt chú trọng đến việc bồi dưỡng cho đội ngũ giáo viên từng bước nâng cao trình độ, đổi mới PPDH, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh; xem đây là một nhiệm vụ vừa bức thiết lại vừa trọng tâm xuyên suốt cả quá trình đổi mới. Trong những năm qua, hầu hết đội ngũ giáo viên THCS trong cả nước nói chung, ở các trường trong tỉnh, trong huyện đã được tham dự các lớp tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ về đổi mới PPDH do Sở, Phòng GD&ĐT tổ chức, nội dung triển khai một số phương pháp, kĩ thuật dạy học mới. Trong đó có việc sử dụng sơ đồ tư duy(SĐTD). Có thể khẳng định rằng đây là một trong những PPDH rất quan trọng, vừa rất mới, rất hiện đại, lại rất khả thi, đang được nhiều nước trên thế giới áp dụng. Qua việc tìm hiểu và vận dụng PPDH bằng SĐTD trong quá trình dạy học, tôi nhận thấy PPDH này đã thật sự đem lại “luồng sinh khí mới” cho học sinh trong quá trình dạy học bộ môn Ngữ văn. Bước đầu đã giảm bớt được tâm lý chán học Văn, khơi gợi trong học sinh tình yêu đối với môn học, đồng thời đem đến cho các em cái nhìn mới, cách tư duy mới, sự hưng phấn, lôi cuốn đối với môn học Ngữ văn. Tuy nhiên, việc ứng dụng SĐTD trong quá trình dạy học là vấn đề còn khó khăn, lúng túng đối với nhiều giáo viên, trong đó có giáo viên dạy môn Ngữ văn. Họ tỏ ra băn khoăn không biết sử dụng SĐTD vào khâu nào trong quá trình dạy học? Phương pháp thiết kế SĐTD, hướng dẫn cách thức sử dụng cho học sinh ra.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> sao?...Nhất là đối với những giáo viên cao tuổi và những giáo viên chưa quen với việc ứng dụng Công nghệ thông tin, trình độ Tin học còn hạn chế. Bản thân tôi thật sự tâm đắc với phương pháp Sử dụng sơ đồ tư duy trong quá trình dạy học. Bởi vì không chỉ lôi cuốn, hấp dẫn với học sinh, mà nó còn là một PPDH rất hiệu quả, rất khoa học, rất dễ sử dụng và có thể sử dụng rộng rãi ở tất cả các khâu trong quá trình dạy học mà nhất là rất cần thiết trong việc giảng dạy môn Ngữ văn. Vì vậy, tôi viết đề tài đề tài khoa học: “Sử dụng Bản đồ tư duy trong dạy học Ngữ văn” để cùng trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm với đồng nghiệp. 2. Cơ sở lí luận Ngày 05/5/2006, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã ban hành Quyết định số 16/2006/BGDĐT nêu rõ những định hướng đổi mới phương pháp giáo dục, tạo điều kiện thuận lợi để giáo viên thực hiện việc đổi mới PPDH. Trong những năm qua, Bộ GD&ĐT đã trực tiếp chỉ đạo việc thực hiện đổi mới PPDH, đổi mới kiểm tra, đánh giá theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Trong đó, yêu cầu giáo viên tăng cường tổ chức các hoạt động nhận thức cho học sinh, hướng dẫn phương pháp tự học cho các em. Năm học 2011 - 2012 là năm học mà toàn ngành Giáo dục và Đào tạo đang tiếp tục nỗ lực đổi mới phương pháp giảng dạy, để đào tạo ra những con người năng động, sớm thích ứng với đời sống xã hội, đẩy nhanh sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước. Trước tình hình đó, đòi hỏi đội ngũ giáo viên chúng ta phải không ngừng đổi mới, cải tiến nội dung, phương pháp soạn giảng để trong mỗi tiết dạy, học sinh sẽ được hoạt động nhiều hơn, thảo luận nhiều hơn và quan trọng là được suy nghĩ nhiều hơn trên con đường chủ động chiếm lĩnh kiến thức. Vì vậy, đòi hỏi mỗi giáo viên phải triệt để thực hiện theo nguyên tắc lấy học sinh làm trung tâm nhằm phát huy tính chủ động, tích cực, tự giác và sáng tạo của học sinh trong hoạt động dạy học. Mặt khác, nói đến phương pháp dạy học là nói đến cách dạy của người thầy. Trong chương trình giáo dục phổ thông, Ngữ văn là một môn học có vị trí quan trọng. Vì đây là môn học vừa mang tính công cụ, vừa là môn học mang tính nghệ thuật, lại là môn học mang tính nhân văn rất cao. Bởi vậy, để học sinh học tốt môn.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> Ngữ Văn ở trường phổ thông nói chung, người giáo viên phải chú trọng đến phương pháp dạy học, phải tìm tòi, sáng tạo, nghiên cứu và áp dụng những hình thức, biện pháp tổ chức dạy học mới, hiện đại, sinh động, đưa học sinh đến với môn học này một cách tự giác, bằng niềm say mê thật sự. Có như thế mới đáp ứng được yêu cầu của môn học mang đậm tính nhân văn này. Sơ đồ tư duy kế thừa, mở rộng hình thức ghi chép, sử dụng bảng biểu, sơ đồ nhưng ở mức độ cao hơn. Nó là một công cụ tổ chức tư duy được tác giả Tony Buzan (người Anh) nghiên cứu kỹ lưỡng và phổ biến rộng khắp trên thế giới. Có thể khẳng định rằng PPDH bằng SĐTD là một trong những PPDH hiện đại. Nó giúp học sinh dễ ghi nhớ, phát triển nhận thức, khả năng tư duy, óc tưởng tượng và khả năng sáng tạo...Đây là một công cụ hữu hiệu trong quá trình dạy học hiện nay. 3. Cơ sở thực tiễn Năm học 2012 - 2013 là năm học Bộ giáo dục và đào tạo tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy và học ngữ văn trong các nhà trường phổ thông. Một trong những phương pháp dạy học mới và hiện đại nhất được đưa vào là phương pháp dạy học bằng bản đồ tư duy (BĐTD) - một phương pháp dạy học mới đang được rất nhiều nước trên thế giới áp dụng. Qua việc tìm hiểu và vận dụng phương pháp dạy học bằng bản đồ tư duy, tôi nhận thấy phương pháp dạy học này rất có hiệu quả trong công tác giảng dạy và học tập của học sinh. Bước đầu đã giảm bớt được tâm lý ngại học văn, khơi gợi trong học sinh tình yêu đối với môn học, đồng thời đem đến cho các em cái nhìn mới, tư duy mới về môn học Ngữ văn. Vậy thế nào là phương pháp dạy học bằng bản đồ tư duy? Cần sử dụng bản đồ tư duy như thế nào để nâng cao chất lượng trong các giờ học văn? Đó là những vấn đề tôi muốn cùng được chia sẻ với các đồng nghiệp trong sáng kiến kinh nghiệm này . Bản đồ tư duy là hình thức ghi chép sử dụng màu sắc, hình ảnh để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. BĐTD một công cụ tổ chức tư duy nền tảng, có thể miêu tả nó là một kĩ thuật hình họa với sự kết hợp giữa từ ngữ, hình ảnh, đường nét, màu sắc phù hợp với cấu trúc, hoạt động và chức năng của bộ não, giúp con người khai thác tiềm năng vô tận của bộ não..

<span class='text_page_counter'>(4)</span> BĐTD giúp học sinh có được phương pháp học hiệu quả hơn: Việc rèn luyện phương pháp học tập cho HS không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là mục tiêu dạy học. Thực tế cho thấy một số học sinh học rất chăm chỉ nhưng vẫn học kém, các em thường học bài nào biết bài đấy, học phần sau đã quên phần trước và không biết liên kết các kiến thức với nhau, không biết vận dụng kiến thức đã học trước đó vào những phần sau. Phần lớn số học sinh khi đọc sách hoặc nghe giảng trên lớp không biết cách tự ghi chép để lưu thông tin, lưu kiến thức trọng tâm vào trí nhớ của mình. Sử dụng thành thạo BĐTD trong dạy học sẽ gúp học sinh có được phương pháp học, tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy. BĐTD - giúp học sinh học tập một cách tích cực. Một số kết quả nghiên cứu cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của mình vì vậy việc sử dụng BĐTD giúp học sinh học tập một cách tích cực, huy động tối đa tiềm năng của bộ não. II. Phương pháp nhiên cứu - Nghiên cứu lí luận. - Thực nghiệm sư phạm. - Dự giờ, tham khảo ý kiến đồng nghiệp. III. Đối tượng nghiên cứu - Môn ngữ văn 8. - HS lớp 8A1, 8A2 trường THCS Yên lãng. IV. Thời gian nghiên cứu Từ tháng 9 năm 2012 đến tháng 4 năm 2013. B. NỘI DUNG I. Thực trạng của việc học văn hiện nay.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> - Nhà văn hoá lớn của nhân loại Lê-nin từng nói:"Văn học là nhân học" vậy mà một thực trạng đáng lo ngại là học sinh bây giờ không còn thích học văn. Thực trạng này lâu nay đã được báo động. Ban đầu chỉ đơn thuần là những lời than thở với nhau của những người trực tiếp giảng dạy môn văn và nay đã trở thành vấn đề của báo chí và dư luận. Ai đã trực tiếp dạy và chấm bài làm văn của học sinh trong những năm gần đây mới thấy cần thiết phải có những thay đổi về phương pháp dạy văn và học văn hiện nay. Qua công tác giảng dạy cũng như chấm trả các bài kiểm tra Ngữ văn, tôi nhận thấy có rất nhiều những biểu hiện thể hiện tâm lý chán học văn của học sinh , cụ thể là: - Học sinh thờ ơ với Văn: Những năm gần đây, nhiều người quan tâm đến công tác giáo dục không khỏi lo ngại trước một thực trạng, đó là tâm lý thờ ơ với việc học văn ở các trường phổ thông. Điều đáng buồn nhất cho các giáo viên dạy văn là nhiều học sinh có năng khiếu văn cũng không muốn tham gia đội tuyển văn. Các em còn phải dành thời gian học các môn khác. Phần lớn phụ huynh khi đã định hướng cho con mình sẽ thi khối A thì chỉ chủ yếu chú trọng ba môn: Toán, Lý, Hóa. Điều đáng lo ngại hơn nữa, là có không ít phụ huynh đã chọn hướng cho con thi khối A từ khi học tiểu học. Một bậc học mà học sinh còn đang được rèn nói, viết, mới bắt đầu làm quen với những khái niệm về từ ngữ mà đã định hướng khối A thì thật là nguy hại. - Khả năng trình bày: Khi HS tạo lập một văn bản giáo viên có thể dễ dàng nhận ra những lỗi sai cơ bản của học sinh như: dùng từ sai, viết câu sai, viết chính tả sai, bố cục và lời văn hết sức lủng củng, thiếu logic. Đặc biệt có những bài văn diễn đạt ngô nghê, tối nghĩa, lủng củng ...Đây là một tình trạng đã trở nên phổ biến và thậm chí là đáng báo động trong xã hội ta. - Mục tiêu của bậc học phổ thông là đào tạo con người toàn diện, nhưng thực tế hiện nay cho thấy, các bộ môn khoa học xã hội thường bị học sinh xem nhẹ, mặc dù kiến thức của các bộ môn này vô cùng quan trọng cho tất cả mọi người. Muốn khôi phục sự quan tâm của xã hội đối với các bộ môn khoa học xã hội, không thể chỉ bằng biện pháp kêu gọi mà chúng ta phải tích cực đổi mới.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> phương pháp dạy học văn, khơi gợi lại hứng thú học văn của học sinh, hình thành cho các em phương pháp học II. Nguyên nhân a. Đối với người dạy - Đa số giáo viên đều có tình yêu nghề, mến trẻ, tận tụy với công tác giảng dạy, chăm lo quan tâm đến học sinh. Tuy nhiên, vẫn còn những mặt hạn chế sau : - Phương pháp giảng dạy chưa thực sự phù hợp với một bộ phận không nhỏ học sinh yếu kém dẫn đến chất lượng chưa cao . - Do điều kiện khách quan nên việc sử dụng đồ dùng dạy học, phương pháp trực quan vào tiết học hạn chế, ảnh hưởng đến chất lượng tiếp thu bài của học sinh. - Một số giáo viên chưa thực sự tâm huyết với nghề, chưa khơi gợi được mạch nguồn cảm xúc ẩn sau mỗi trái tim người học. b. Đối với học sinh - Một số học sinh vì lười học, chán học mải chơi, hổng kiến thức nên không chuẩn bị tốt tâm thế cho giờ học Ngữ văn - Đời sống văn hóa tinh thần ngày một nâng cao, một số nhu cầu giải trí như xem ti vi, chơi game . . . ngày càng nhiều làm cho một số em chưa có ý thức học bị lôi cuốn, sao nhãng việc học tập. III. Giải pháp 1. Bản chất phương pháp dạy học bằng bản đồ tư duy (BĐTD) * Để sử dụng một cách có hiệu quả SĐTD trong quá trình dạy học, trước hết, ta cần nắm vững những tri thức về nó: a. Khái niệm - Bản đồ tư duy hay còn gọi là Lược đồ tư duy, Bản đồ tư duy (Mind Map) là phương pháp dạy học chú trọng đến cơ chế ghi nhớ, dạy cách học, cách tự học nhằm tìm tòi, đào sâu, mở rộng một ý tưởng, hệ thống hóa một chủ đề hay một mạch kiến thức,...bằng cách kết hợp việc sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với sự tư duy tích cực. Đặc biệt, đây là một dạng sơ đồ mở,.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> không yêu cầu tỉ lệ, chi tiết chặt chẽ như bản đồ địa lí, các em có thể vẽ thêm hoặc bớt các nhánh, mỗi em có thể vẽ một kiểu khác nhau, dùng những màu sắc, hình ảnh, chữ viết và các cụm từ diễn đạt khác nhau,... Tuy cùng một chủ đề nhưng mỗi em có thể “thể hiện” nó dưới dạng bản đồ tư duy theo cách riêng của mình. Do đó, việc lập bản đồ tư duy phát huy tối đa khả năng sáng tạo của mỗi người. b. Cấu tạo - Ở giữa Bản đồ là một hình ảnh trung tâm (hay một cụm từ) khái quát chủ đề. - Gắn liền với hình ảnh trung tâm là các nhánh cấp 1 mang các ý chính làm rõ chủ đề. - Phát triển các nhánh cấp 1 là các nhánh cấp 2 mang các ý phụ làm rõ mỗi ý chính. - Sự phân nhánh cứ thế tiếp tục để cụ thể hóa chủ đề, nhánh càng xa trung tâm thì ý càng cụ thể, chi tiết. Có thể nói, BĐTD là một bức tranh tổng thể, một mạng lưới tổ chức, liên kết khá chặt chẽ theo cấp độ để thể hiện một nội dung, một đơn vị kiến thức nào đó..

<span class='text_page_counter'>(8)</span> Ảnh minh họa cấu tạo Sơ đồ tư duy. c. Các bước thiết kế một BĐTD Để thiết kế một BĐTD dù vẽ thủ công trên bảng, trên giấy..., hay trên phần mềm Mind Map, chúng ta đều thực hiện theo thứ tự các bước sau đây: Bước 1: Bắt đầu từ trung tâm với từ, cụm từ thể hiện chủ đề (có thể vẽ hình ảnh minh họa cho chủ đề - nếu hình dung được) Bước 2: Từ hình ảnh trung tâm (chủ đề) chúng ta cần xác định: để làm rõ chủ đề, thì ta đưa ra những ý chính nào. Sau đó, ta phân chia ra những ý chính, đặt tiêu đề các nhánh chính, nối chúng với trung tâm. Bước 3: Ở mỗi ý chính, ta lại xác định cần đưa ra những ý nhỏ nào để làm rõ mỗi ý chính ấy. Sau đó, nối chúng vào mỗi nhánh chính. Cứ thế ta triển khai thành mạng lưới liên kết chặt chẽ. Bước 4: Cuối cùng, ta dùng hình ảnh (vẽ hoặc chèn) để minh họa cho các ý, tạo tác động trực quan, dễ nhớ. *Lưu ý - Nên chọn hướng giấy ngang để khổ giấy rộng, thuận lợi cho việc vẽ các nhánh con. - Nên dùng các nét vẽ cong, mềm mại thay vì vẽ các đường thẳng để thu hút sự chú ý của mắt, như vậy BĐTD sẽ lôi cuốn, hấp dẫn hơn. - Các nhánh càng ở gần trung tâm thì càng được tô đậm hơn, dày hơn..

<span class='text_page_counter'>(9)</span> - Chú ý dùng màu sắc, đường nét hợp lý để vừa làm rõ các ý trong sơ đồ đồng thời tạo sự cân đối, hài hòa cho sơ đồ. - Không ghi quá dài dòng, hoặc ghi những ý rời rạc, không cần thiết, nên dùng các từ, cụm từ một cách ngắn gọn. - Không dùng quá nhiều hình ảnh, nên chọn lọc những hình ảnh thật cần thiết góp phần làm rõ các ý, chủ đề. - Có thể đánh số thứ tự ở các ý chính cùng cấp. - Không đầu tư quá nhiều thời gian vào việc “làm đẹp” sơ đồ bằng vẽ, viết, tô màu... - Không vẽ quá chi tiết, cũng không vẽ quá sơ sài. - Người lập sơ đồ được phép vẽ và trang trí theo cách riêng của mình. d. Quy trình tổ chức hoạt động vẽ BĐTD trên lớp Hoạt động 1: Cho học sinh lập BĐTD theo nhóm hay cá nhân thông qua gợi ý của giáo viên. Hoạt động 2: Học sinh hoặc đại diện của các nhóm học sinh lên báo cáo, thuyết minh về BĐTD mà nhóm mình đã thiết lập. Hoạt động 3: Học sinh thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện BĐTD về kiến thức của bài học đó. Giáo viên sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp học sinh hoàn chỉnh BĐTD, từ đó dẫn dắt đến kiến thức của bài học. Hoạt động 4: Củng cố kiến thức bằng một BĐTD mà giáo viên đã chuẩn bị sẵn hoặc một BĐTD mà cả lớp đã tham gia chỉnh sửa hoàn chỉnh, cho học sinh lên trình bày, thuyết minh về kiến thức đó. e. Những tiện ích của việc sử dụng Bản đồ tư duy trong dạy học Ngữ Văn - Dạy học bằng BĐTD giúp học sinh có được phương pháp học hiệu quả. Chúng ta biết rằng việc rèn luyện phương pháp học tập cho HS không chỉ đơn thuần là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là mục tiêu dạy học. Trong thực tế hiện nay, còn nhiều học sinh học tập một cách thụ động, chỉ đơn.

<span class='text_page_counter'>(10)</span> thuần là nhớ kiến thức một cách máy móc theo thói quen học vẹt, các em chưa có ý thức hoặc chưa biết rèn luyện kỹ năng tư duy. Học sinh chỉ học bài nào biết bài ấy, nắm kiến thức một cách đơn lẻ, rời rạc, chưa biết tích hợp, liên hệ kiến thức với nhau giữa các bài học, giữa các phân môn, vì vậy mà chưa phát triển được tư duy lô-gic và tư duy hệ thống. Do đó, dù các em học rất chăm chỉ nhưng vẫn học kém. Vì học phần sau đã quên phần trước, không biết vận dụng kiến thức đã học trước đó vào những phần sau. Lại có nhiều học sinh khi đọc sách hoặc nghe giảng trên lớp không biết cách tự ghi chép để lưu thông tin, hay kiến thức trọng tâm vào trí nhớ của mình. Bởi vậy, rèn kuyện cho các em có thói quen và kĩ năng sử dụng thành thạo BĐTD trong quá trình dạy học sẽ gúp học sinh có được phương pháp học tốt, phát huy tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy. - BĐTD giúp học sinh học tập một cách tích cực. Một số kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của mình. Vì vậy sử dụng BĐTD giúp học sinh học tập một cách tích cực, huy động tối đa tiềm năng của bộ não. Việc học sinh trực tiếp vẽ SĐTD vừa lôi cuốn, hấp dẫn các em, đồng thời còn phát triển khiếu thẩm mĩ, óc hội họa, bởi đó là “sản phẩm kiến thức hội họa”do chính các em tự làm ra, lại vừa phát huy được tối đa khả năng sáng tạo của các em trong học tập, không rập khuôn một cách máy móc như khi lập các bảng biểu, sơ đồ, vì các em dễ dàng vẽ thêm các nhánh để phát triển ý tưởng riêng của mình. Vì thế, tạo một không khí sôi nổi, hào hứng, say mê cho học sinh trong học tập. Đây cũng là một trong những nội dung quan trọng của phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” mà Bộ GD&ĐT đang triển khai thực hiện. - Bản đồ tư duy chú trọng tới hình ảnh, màu sắc, với các mạng lưới liên tưởng (các nhánh). Do đó, chúng ta có thể vận dụng Bản đồ tư duy vào tất cả các khâu trong quá trình dạy học. Từ khâu kiểm tra bài cũ, đến khâu dạy học kiến thức mới, hay khâu củng cố kiến thức sau mỗi tiết học, rồi ôn tập hệ thống hóa kiến thức sau mỗi chương, mỗi học kì, kể cả việc kiểm tra bài cũ, kiểm tra 15 phút..

<span class='text_page_counter'>(11)</span> - Bản đồ tư duy, một công cụ có tính khả thi cao. Ta có thể vận dụng được với bất kì điều kiện cơ sở vật chất nào của các nhà trường hiện nay nói chung. Bởi vì ta có thể thiết kế Bản đồ tư duy trên giấy, bìa, tờ lịch cũ, bảng phụ,… bằng cách sử dụng bút chì màu, phấn màu, tẩy…hoặc cũng có thể thiết kế trên phần mềm Sơ đồ tư duy (Mind Map). Với trường THCS Yên Lãng đủ điều kiện về cơ sở vật chất như Máy chiếu Projecto, phòng máy vi tính đảm bảo, thầy cô giáo sử dụng phần mềm (Mind Map) để phục vụ cho việc dạy học có ứng dụng CNTT. Tóm lại, việc sử dụng Bản đồ tư duy trong quá trình dạy học sẽ giúp HS: 1. Tăng sự hứng thú trong học tập. 2. Phát huy khả năng sáng tạo, năng lực tư duy của các em. 3. Tiết kiệm thời gian rất nhiều. 4. Nhìn thấy được bức tranh tổng thể. 5. Ghi nhớ tốt hơn. 6. Thể hiện phong cách cá nhân, dấu ấn riêng của mỗi em. 2. Vận dụng BĐTD trong quá trình dạy học Ngữ văn a. Giáo viên sử dụng BĐTD để hỗ trợ quá trình dạy học - Dùng BĐTD để dạy bài mới: Giáo viên đưa ra một từ khoá để nêu kiến thức của bài mới rồi yêu cầu học sinh vẽ BĐTD bằng cách đặt câu hỏi, gợi ý cho các em để các em tìm ra các tự liên quan đến từ khoá đó và hoàn thiện BĐTD. Qua BĐTD đó học sinh sẽ nắm được kiến thức bài học một cáhc dễ dàng. - Ví dụ 1: Với văn bản: Thầy bói xem voi (Môn Ngữ văn lớp 6), sau phần đọc và tìm hiểu chung, giáo viên có thể vẽ mô hình BĐTD lên bảng. BĐTD gồm 5 nhánh chính, ở mỗi nhánh có thể phân thành nhiều nhánh nhỏ tuỳ thuộc vào nội dung bài học. Để có thể hoàn thiện được mô hình BĐTD của bài học, giáo viên sử dụng hệ thồng câu hỏi định hướng để khai thác kiến thức:.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> + Bố cục của văn bản: học sinh sẽ dựa vào văn bản để xác định các ý chính ( Hoàn cảnh các thầy bói xem voi, cách xem voi, các thầy nhận xét về con voi, hậu quả.) + Tiếp tục hoàn thành các nhánh của BĐTD bằng hệ thống câu hỏi nhỏ có tính gợi mở (các thầy xem voi trong hoàn cảnh nào, cách xem voi của các thầy ra sao, ...) Sơ đồ minh hoạ. Bản đồ tư duy văn bản: Thầy bói xem voi - Ngữ văn 6 - Ví dụ 2: Khi học bài “ So sánh” ( Môn Ngữ văn lớp 6), đầu giờ giáo viên cho từ khoá “ So sánh” rồi yêu cầu học sinh vẽ BĐTD bằng cách đặt câu hỏi gợi ý cho các em để các em có thể vẽ tiếp các nhánh con và bổ sung dần các ý nhỏ ( nhánh con cấp 2, cấp 3…), sau khi các nhóm HS vẽ xong, cho một số em lên trình bày trước lớp để các học sinh khác bổ sung ý. Giáo viên kết luận qua đó giúp các em tự chiếm lĩnh kiến thức một cách nhẹ nhàng, tự nhiên nhưng rất hiệu quả, đồng thời kích thích hứng thú học tập của học sinh.. Sơ đồ minh hoạ.

<span class='text_page_counter'>(13)</span> Bản đồ tư duy bài “So sánh” - Ngữ Văn 6 - Dùng BĐTD để củng cố kiến thức sau mỗi tiết học và hệ thống kiến thức sau mỗi chương, phần: Sau mỗi bài học, giáo viên hướng dẫn, gợi ý để học sinh tự hệ thống kiến thức trọng tâm, kiến thức cần nhớ của bài học bằng cách vẽ BĐTD. Mỗi bài học được vẽ kiến thức trên một trang giấy rời rồi kẹp lại thành tập. Việc làm này sẽ giúp các em dễ ôn tập, xem lại kiến thức khi cần một cách nhanh chóng, dễ dàng. - Ví dụ 1: Khi dạy phần từ loại tiếng Việt, giáo viên tổ chức cho học sinh vẽ BĐTD sau mỗi bài học để mỗi em có một tập BĐTD về các từ loại tiếng Việt: danh từ, động từ, tính từ, số từ, đại từ, quan hẹ tự, trợ từ, thán từ…. Lên đến lớp 9, trong bài “ Tổng Kết ngữ pháp”, học sinh có thể dễ dàng tổng hợp kiến thức về từ loại tiếng Việt bằng BĐTD dựa vào tập BĐTD đã có. Sau khi có một học sinh hoặc một nhóm học sinh vẽ xong BĐTD sẽ cho một học sinh khác, nhóm khác nhận xét, bổ sung. Có thể cho học sinh vẽ thêm các đường, nhánh khác và ghi thêm các chú thích rồi thảo luận chung trước lớp để hoàn thiện, nâng cao kĩ năng vẽ BĐTD cho các em.. Sơ đồ minh hoạ.

<span class='text_page_counter'>(14)</span> Bản đồ tư duy bài “Tổng kết ngữ pháp”- Ngữ văn 9. - Ví dụ 2: BĐTD khi tìm hiểu tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du: Giáo viên định hướng để học sinh khai thác kiến thức của bài học bằng hệ thống câu hỏi gợi mở. Trên cơ sở đó hình thành và củng cố kiến thức cho HS bằng BĐTD. Hệ thống kiến thức của bài học bao gồm: a. Tác giả bao gồm: Tiểu sử (thân thế, gia đình), cuộc đời, sự nghiệp sáng tác... b. Tác phẩm: + Các tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Du ở cả hai thành phần chữ (chữ Hán và chữ Nôm) + Thời gian và hoàn cảnh sáng tác, nguồn gốc của tác phẩm; đồng thời giáo viên gúp học sinh hiểu được vì sao Truyện Kiều có nguồn gốc từ Trung Quốc mà vẫn được coi là tác phẩm văn học Việt Nam ... + Tóm tắt Truyện Kiều: Bố cục của Truyện Kiều. + Giá trị của Truyện Kiều: Giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật. Sơ đồ minh hoạ.

<span class='text_page_counter'>(15)</span> 2. Học sinh học tập độc lập, sử dụng BĐTD để hỗ trợ học tập, phát triển tư duy lôgic. - Học sinh tự có thể sử dụng BĐTD để hỗ trợ việc tự học ở nhà: Tìm hiểu trước bài mới, củng cố, ôn tập kiến thức bằng cách vẽ BĐTD trên giấy, bìa… hoặc để tư duy một vấn đề mới. qua đó phát triển khả năng tư duy lôgic, củng cố khắc sâu kiến thức, kĩ năng ghi chép. - Học sinh trực tiếp làm viêc với máy tính, sử dụng phần mềm Mindmap, phát triển khả năng ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng máy tính trong học tập. 3. Một số biện pháp ứng dụng BĐTD trong đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn * BĐTD giúp HS học được phương pháp học: Việc rèn luyện phương pháp học tập cho học sinh không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là mục tiêu dạy học. Thực tế cho thấy một số học sinh học rất chăm chỉ nhưng vẫn học kém, nhất là môn toán, các em này thường học bài nào biết bài đấy, học phần sau đã quên phần trước và không biết liên kết các kiến thức với nhau, không biết vận dụng kiến thức đã học trước đó vào những phần sau. Phần lớn số học sinh này khi đọc sách hoặc nghe giảng trên lớp không biết cách tự ghi chép để lưu thông tin, lưu kiến thức trọng tâm vào trí nhớ của mình. Sử dụng thành thạo BĐTD trong dạy học học sinh sẽ học được phương pháp học, tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy..

<span class='text_page_counter'>(16)</span> * BĐTD giúp học sinh học tập một cách tích cực - Một số kết quả nghiên cứu cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của mình vì vậy việc sử dụng BĐTD giúp học sinh học tập một cách tích cực, huy động tối đa tiềm năng của bộ não. - Việc học sinh tự vẽ BĐTD có ưu điểm là phát huy tối đa tính sáng tạo của học sinh, phát triển năng khiếu hội họa, sở thích của học sinh, các em tự do chọn màu sắc (xanh, đỏ, vàng, tím,…), đường nét (đậm, nhạt, thẳng, cong…), các em tự “sáng tác” nên trên mỗi BĐTD thể hiện rõ cách hiểu, cách trình bày kiến thức của từng học sinh và BĐTD do các em tự thiết kế nên các em yêu quí, trân trọng “tác phẩm” của mình.. GIẢNG THỂ NGHIỆM ĐỀ TÀI Tiết 102 - Bài 25 BÀN LUẬN VỀ PHÉP HỌC (Luận học pháp - Nguyễn Thiếp) A. Mục tiêu bài học 1. Kiến thức: Giúp học sinh thấy được mục đích , tác dụng của việc học chân chính. Học để làm người, để biết và làm, để góp phần xây đựng đất nước hưng thịnh, đồng thời thấy rõ được tác hại của lối học chuộng hình thức, cầu danh lợi. Nhận thức được phương pháp học tập đúng đắn kết hợp học với hành. 2. Kĩ năng: Kĩ năng tìm hiểu và phân tích đoạn trích văn bản nghị luận cổ : tấu về vấn đề, luận điểm, luận cứ. 3. Thái độ: Có thái độ học tập đúng đắn. kết hợp “ học đi đôi với hành” B. Chuẩn bị * Thầy: SGK, SGV, TKBG. * Trò: Đọc trước văn bản, soạn bài. C. Các kĩ năng sống cơ bản được giáo dục trong bài.

<span class='text_page_counter'>(17)</span> - KN nhận thức.. - KN đặt mục tiêu.. - KN tư duy sáng tạo.. - KN ra quyết định.. D. Tổ chức hoạt động dạy và học 1)Ổn định tổ chức: (1 phút) 8A1 8A2 2) Kiểm tra bài cũ (5 phút) * Khi trình bày luận điểm trong bàivăn nghị luận cần chú ý tới những vấn đề gì? * Có mấy cách trình bày luận điểm trong bài văn nghị luận? 3)Bài mới: Hoạt động 1 (2phút) Giới thiệu bài Mục tiêu: Tạo tâm thế và định hướng chú ý cho HS. Phương pháp: Thuyết trình. * Giới thiệu bài mới Những giờ học trước, các em đã tìm hiểu ba kiểu văn nghị luận cổ: chiểu, hịch, cáo ngày hôm nay cô và các em sẽ tìm hiểu thêm về một kiểu văn học cổ khác qua văn bản: Bàn luận về phép học của Nguyễn Thiếp. Hoạt động 2 ( 27 phút) Tìm hiểu văn bản Mục tiêu: HS tìm hiểu về tác giả và giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Phương pháp: Thảo luận,vấn đáp, thuyết trình. Kĩ thuật: Tư duy động não. Hoạt động của thầy và trò. Nội dung cần đạt I. Tìm hiểu chung 1. Tác giả : La Sơn Phu Tử Nguyễn * Dựa vào chú thích Sgk, em hãy nêu khái Thiếp (1723-1804) quát về t/giả Nguyễn Thiếp ? Gv giới thiệu : Phẩm chất, tài năng của * Tác phẩm : Bản tấu ( trích) có nội Nguyền Thiếp ; chú ý MQH của Nguyễn dung thứ 3 : Học pháp. Thiếp và Nguyễn Huệ. 2. Tác phẩm * Văn bản được viết theo thể nào ? - Thể tâu. * Trình bày sự hiểu biết của em về thể tấu ? sgk77 + Trong bản tấu của Nguyễn Thiếp gửi vua Quang Trung bàn về 3 điều mà theo Ông bậc đé vương nên biết : 1- một là bàn về Quân đức -Đức của Vua..

<span class='text_page_counter'>(18)</span> Mong nhà vua một lòng tu đức, lấy sự học vấn mà tăng thêm tài,bởi có học mà có đức. 2- bàn về dân tâm - Lòng dân. Khẳng định dân là gốc. Gốc có vững, nước mới yên. 3- Bàn về học pháp- phép học. * Theo em, văn bản nằm ở phần nào của - Đoạn trích thuộc phần 3. Viết bài tấu. Được tác giả viết vào thời gian tháng 8/ 1791. nào ? Gv HD đọc; Đọc khúc triết, rõ ràng, chậm chãi, khúc chiết. - GV đọc mẫu- gọi hs đọc. - Nhận xét, đánh giá HS đọc * Nền chính học là nền học như thế nào? - Nền học chính nghĩa, đúng đắn. * Thiên hạ thịnh trị, Thế nào là thịnh trị? Ổn định, phát triển trong thái bình. * Phương thức biểu đạt? - Phương thức biểu đạt : nghị luận * Theo em văn bản chia mấy phần? Nội dung từng phần P1: Từ đầu  Do những điều tệ hại ấy Mục đích của việc học. P2: Tiếp Xin chớ bỏ qua - Bàn về cách học. P3: Tiếp  Thiện hạ thịnh trị - Tác dụng của phép học. II. Tìm hiểu văn bản 1. Mục đích của việc học.. * Em hãy nhắc lại nội dung P 1 Mở đầu đoạn trích tác giả đưa ra một câu văn biền ngẫu : Ngọc không mài, không thành đồ vật ; người không học, không biết rõ đạo. * Đạo có nghĩa là gì ? Là lẽ đối xử hằng ngày giữa mọi người. * Em hiểu câu nói này như thế nào ? - Chỉ có học tập con người mới tốt đẹp được. - Không thể không học mà trở thành người tốt đẹp được. Do vậyviệc học là một quy luật tất yếu không thể thiếu được của cuộc sống con người. * Kẻ đi học phải học những gì ? Kẻ đi học là học những điều ấy Điều hay lẽ phải. - Học để làm người có đạo đức. * Mục đích của việc học là gì ?.

<span class='text_page_counter'>(19)</span> * Em thấy cách nêu vấn đề của t/giả như thế nào? Vào đề bằng hình ảnh so sánh ngầm ngọc không mài với người không học. Nhưng lại được nhấn mạnh bằng cách nói phủ định 2 lần để nhấn mạnh mục đích của việc học chân chính Sau khi nêu mục đích học tập chân chính t/giả chỉ ra những thất truyền trong nền chính học  Đó là những lối học nào ? Học hình thức, cầu danh lợi, không biết tam cương, ngũ thường. * Học cầu danh lợi là lối học như thế nào ? - Học để được có danh tiếng, được trọng vọng, được an nhàn, được nhiều lộc cho bản thân. * Tam cương. Ngũ thường ? Tam cương : ba mối quan hệ gốc trong XHPK - Vua tôi ; Cha con ; vợ chồng. - Ngũ thường : 5 đức tính của con ngườiNhân ; nghĩa ; lễ ; trí ; tín. * Với lối học thất truyền như vậy sẽ dẫn tới hậu quả gì ? - Chúa tầm thường. Thần nịnh hót. Nước mất, nhà tan. * Cách lập luận của tác giả như thế nào ? - Chân thật, thẳng thắn, xác đáng có sức thuyết phục của một nhà nho hết lòng vì sự học, vì đất nước. - Lập luận theo kết cấu nguyễn nhân-kết quả. * Qua đó t/gỉ đã bộc lộ thái độ của mình - Phê phán lối học lệch lạc, sai trái dẫn tới hậu quả khôn lường. như thế nào ? * Thực tế học tập ngày nay, em thấy việc học theo kiểu hình thức có lợi hay có hại? - HS đọc thầm P2. * Khi bàn về phép học, Nguyễn Thiếp đã 2. Nội dung và phương pháp học đề xuất hai ý kiến là: Học ở đâu; học như tập. thế nào? * Theo Nguyễn Thiếp phải mở trường học ở những nới nào? - Mở trường ở phủ, huyện, trường tư, con cháu văn võ, thuộc lại…tùy đâu tiện đấymà đi học..

<span class='text_page_counter'>(20)</span> * Học như thế nào? - Học theo chu Tử. - Tứ thư, ngũ kinh, chư sử. * Theo kế sách ấy có gì mới về sự học?. - Mở nhiều trường dạy học. - Học từ thấp đến cao. - Học rộng, sâu, gọn. - học đi đôi với hành.. * Nguyễn Thiếp đã tâu trình với vua về việc mở nhiều trường dạy học, học như thế nào nhằm mục đích gì? * Theo quan điểm của t/ giả có gì tiến bộ và hạn chế. - Tiến bộ: Góp phần đào tạo nhân tài cho đất nước. - Hạn chế: Nội dung chưa có gì mới 3. tác dụng của việc học chân - Gọi HS đọc P3. chính. * Vậy đạo học thành sẽ có t/dụng như thế - Đất nước nhiều nhân tài nào? - Quốc gia hưng thịnh. * Tại sao đạo học thành khiến thiên hạ thịnh trị? - nhiều người biết điều hay lẽ phải. - Việc cai trị đất nước dễ dàng. * Ghi nhớ (sgk-79) Hoạt động 4 (5 phút) Luyện tập Mục tiêu: Củng cố, hệ thống kiến thức cơ bản Phương pháp: Thực hành Kĩ thuật: Động não III. Luyện tập Đọc diễn cảm văn bản. 4. Củng cố (3 phút) - Hoàn cảnh ra đời của bài tấu. Giá trị nội dung, nghệ thuật của bài tấu. 5. Hướng dẫn HS học bài ( 2 phút) - Học bài; Chuẩn bị bài- Luyện tập xây dựng và trình bày luận điểm. * RÚT KINH NGHIỆM:.

<span class='text_page_counter'>(21)</span>

<span class='text_page_counter'>(22)</span> I. Kết quả Sau một thời gian ứng dụng BĐTD trong đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn, tôi nhận thấy bước đầu có những kết quả rất khả quan. Trước hết, bản thân tôi đã nhận thức được vai trò tích cực của việc ứng dụng BĐTD trong quá trình dạy học. Tôi đã tìm hiểu, biết cách sử dụng BĐTĐ một cách hiệu quả trong hầu hết các khâu của quá trình lên lớp, từ việc kiểm tra bài cũ, dạy bài mới, củng cố kiến thức bài học, ôn tập, khái quát, hệ thống kiến thức các chương, phần....Học sinh tiếp thu bài, nắm kiến thức chắc chắn hơn, khoa học hơn, nhanh hơn. Đa số các em học sinh khá, giỏi đã biết sử dụng BĐTD để ghi chép bài, tổng hợp kiến thức môn học. Những học sinh trung bình đã biết dùng BĐTD để củng cố kiến thức bài học ở mức đơn giản. Điều quan trọng hơn là các em học tập tích cực hơn, sôi nổi hơn. Các em không còn tâm lý chán học, ngại học môn Ngữ văn vì phải ghi chép nhiều. Trái lại, tất cả rất hào hứng với việc học tập. Vì việc ứng dụng BĐTD không chỉ tạo tác động trực quan lôi cuốn các em, mà còn giúp các em ghi chép bài gọn gàng, khoa học hơn, nhanh hơn và nhẹ nhàng hơn nhiều so với cách ghi chép trước đây. Không những thế, nếu giáo viên biết tổ chức tốt cho học sinh sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học nhóm giúp thì nó sẽ giúp các em phát huy được tính sáng tạo, tối đa hoá khả năng của mỗi em, đồng thời kết hợp sức mạnh của các cá nhân thành sức mạnh tập thể để có thể giải quyết được các vấn đề một cách hiệu quả. Sơ đồ tư duy tạo cho mỗi thành viên cơ hội được giao lưu học hỏi và phát triển chính mình một cách hoàn thiện hơn..

<span class='text_page_counter'>(23)</span> C. KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ. I. kết luận Tóm lại, việc vận dụng BĐTD trong dạy học, kiểm tra, đánh giá sẽ dần hình thành cho HS tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một cách hệ thống, khoa học. Sử dụng BĐTD kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực khác như vấn đáp gợi mở, thuyết trình,… có tính khả thi cao góp phần đổi mới PPDH, đặc biệt là đối với học sinh ở cấp THCS hiện nay. Vì vậy, việc tăng cường sử dụng BĐTD trong quá trình dạy học nói chung, trong đó có dạy học Ngữ văn là việc làm rất cần thiết, góp phần đáp ứng yêu cầu của phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” của Bộ Giáo dục và Đào tạo. II. Kiến nghị 1. Đối với giáo viên: - Cần phải nắm vững những hiểu biết, kiến thức cơ bản về sơ đồ tư duy: khái niệm, cấu tạo, các bước thiết kế, quy trình tổ chức hoạt động vẽ BĐTD trên lớp và những tiện ích. - Cần có sự cân nhắc khi ứng dụng BĐTD vào việc soạn, giảng, kiểm tra đánh giá, tổ chức hoạt động cho học sinh, tránh lạm dụng; nhất là đối với bộ môn Ngữ văn. - Cần xác định đúng kiến thức cơ bản, trọng tâm để thiết kế BĐTD tức là phải biết chọn lọc những ý cơ bản, những kiến thức thật cần thiết. - Cần đầu tư thời gian hợp lí vào việc soạn bài, lập trước các SĐTD cần thiết cho tất cả các khâu của quá trình lên lớp đối với từng bài học. 2. Đối với học sinh: - Cần tích cực, tự giác, cũng như tăng cường giao lưu học hỏi một cách khiêm tốn ở thầy cô, bạn bè về việc vẽ, học và ghi chép với BĐTD.

<span class='text_page_counter'>(24)</span> Không có một kinh nghiệm nào là duy nhất chung cho mọi người. Không có một phép lạ dễ dàng nào để đi đến sự thành công. Tất cả các thầy (cô) giáo Ngữ văn đều đã và đang dạy học một cách say sưa, kiên trì. Với những suy nghĩ và việc đã thực hiện trong đề tài này, tôi muốn trao đổi cùng với đồng nghiệp nhằm học hỏi và nâng cao trình độ chuyên môn của mình. Vì vậy kính mong BGK cùng đồng nghiệp vui lòng đống góp ý kiến để đề tài khoa học được hoàn chỉnh hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Yên Lãng, Ngày 2 thánh 5 năm 2013 Người viết. Lê Thị Việt Thành.

<span class='text_page_counter'>(25)</span> MỤC LỤC Phần I. Đặt vấn đề 1. Lí do chọn đề tài 2. Thực trạng 3. Hậu quả 4. Nguyên nhân Phần II. Giải quyết vấn đề 1. Cơ sở lí luận 2. Giải pháp 3. Kết quả Phần III. Kết luận và kiến nghị 1. Kết luận 2. Kiến nghị. Trang.

<span class='text_page_counter'>(26)</span>

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×