Tải bản đầy đủ (.docx) (45 trang)

TỈ lệ STRESS ở học SINH KHỐI lớp 12 và các yếu tố LIÊN QUAN tại TRƯỜNG THPT CHUYÊN lê KHIẾT TỈNH QUẢNG NGÃI năm 2021

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.32 KB, 45 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA Y TẾ CƠNG CỘNG
NGUYỄN THỊ KHÁNH LINH

TỈ LỆ STRESS
Ở HỌC SINH KHỐI LỚP 12
VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN TẠI
TRƯỜNG THPT CHUYÊN LÊ KHIẾT
TỈNH QUẢNG NGÃI NĂM 2021

ĐỀ CƯƠNG KHÓA LUẬN CỬ NHÂN Y TẾ CƠNG CỘNG

TP. Hồ Chí Minh, năm 2020


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA Y TẾ CƠNG CỘNG
NGUYỄN THỊ KHÁNH LINH

TỈ LỆ STRESS
Ở HỌC SINH KHỐI LỚP 12
VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN TẠI
TRƯỜNG THPT CHUYÊN LÊ KHIẾT


TỈNH QUẢNG NGÃI NĂM 2021

ĐỀ CƯƠNG KHÓA LUẬN CỬ NHÂN Y TẾ CƠNG CỘNG

TP. Hồ Chí Minh, năm 2020


LỜI ĐĂNG KÍ
Tên đề tài :TỈ LỆ STRESS Ở HỌC SINH KHỐI LỚP 12 VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN
QUAN TẠI TRƯỜNG THPT CHUYÊN LÊ KHIẾT TỈNH QUẢNG NGÃI NĂM
2021.
Giảng viên hướng dẫn :
- Giảng viên hướng dẫn 1: TS. Lê Huy Thành
- Giảng viên hướng dẫn 2: TS. Nguyễn Đăng Dung
Tơi xin đăng kí đề tài này làm khóa luận tốt nghiệp đại học.


MỤC LỤC


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Các từ viết tắt Tiếng Việt
THPT
Trung học phổ thông
YTCC
Y tế công cộng
Các từ viết tắt Tiếng Anh
CSI
Coping Stress Inventory
(Phương thức phản ứng với stress)

DASS
Depression Anxiety Stress Scales
(Thang đo trầm cảm - lo âu - stress)
PSS
Perceived Stress Scale
(Thang đo stress)


6

ĐẶT VẤN ĐỀ
Stress luôn là vấn đề sức khỏe được quan tâm và khơng cịn q mới trong xã hội
hội hiện nay, stress có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi từ trẻ em đến người già. Lứa tuổi
học sinh trung học phổ thơng là nhóm tuổi có tỉ lệ stress cao bởi chương trình học,
thay đổi về tâm sinh lý và ảnh hưởng bới nhiều yếu tố khác. Cụ thể hơn, một nghiên
cứu về tỉ lệ stress và các yếu tố liên quan ở học sinh khối 12 tại Tiền Giang năm
2016 của tác giả Lê Thị Thảo Nhu cho thấy có tới 47% học sinh có biểu hiện stress
trên tổng 386 học sinh tham gia nghiên cứu[2]. Ở một nghiên cứu khác về tỉ lệ
stress và cách phản ứng của học sinh THPT tại Đồng Nai năm 2019 của tác giả Lê
Đức Anh cho thấy tỉ lệ stress ở học sinh là 28.1% trên tổng số học sinh tham gia vào
nghiên cứu[1].
Trong những năm gần đây, hệ thống giáo dục Việt Nam không ngừng đổi mới và
phát triển, chương trình học được cải cách, chất lượng dạy và học cũng được nâng
cao. Năm 2015, kỳ thi THPT Quốc gia gộp bởi 2 kỳ thi là Kỳ thi tốt nghiệp THPT
và Kỳ thi tuyển sinh Đại học cao đẳng bắt đầu được tổ chức và vẫn được duy trì cho
đến hôm nay [6]. Quy chế thi được sửa đổi phù hợp với thực tiễn từng năm.
Song song với đó, học sinh buộc phải tìm tịi, đổi mới phương pháp học tập cho phù
hợp, nhu cầu học tập và kì vọng từ gia đình cũng cao hơn đã khiến bản thân học
sinh đối mặt với nhiều áp lực hơn trong học tập dễ dẫn đến tình trạng căng thẳng
(stress).

Trường THPT Chuyên Lê Khiết là trường Chuyên duy nhất của tỉnh Quảng Ngãi,
trường tọa lạc tại trung tâm thành phố quy tụ nhiều học sinh khá, giỏi từ các địa
phương khác nhau trong tỉnh. Ngoài học tập và chuẩn bị cho kì thi THPT Quốc gia
thì việc thay đổi mơi trường học tập, môi trường sống và bạn bè cũng khiến cho học
sinh gặp nhiều khó khăn, bản thân là cựu học sinh của trường nên cũng phần nào
hiểu được khó khăn hay gặp phải. Vì vậy tơi quyết định chọn nghiên cứu này ở
nhóm học sinh khối lớp 12 với mong muốn xác định được tỉ lệ stress, mức độ stress
và các yếu tố liên quan dẫn đến stress nhằm phối hợp với nhà trường đưa ra hướng
giải quyết kịp thời cho các em và học sinh toàn trường.


Câu hỏi nghiên cứu
1.

Tỉ lệ stress ở học sinh khối lớp 12 trường THPT Chuyên Lê Khiết năm 2021 là
bao nhiêu?

2.

Các yếu tố liên quan đẫn đến stress ở học sinh khối lớp 12 trường THPT
Chuyên Lê Khiết?

Mục tiêu nghiên cứu
1. Mục

tiêu chung:

Xác định tỉ lệ stress và các yếu tố liên quan ở học sinh khối lớp 12 trường THPT
Chuyên Lê Khiết tỉnh Quảng Ngãi năm 2021.
1. Mục


tiêu cụ thể:

- Xác định tỉ lệ stress ở học sinh khối lớp 12 trường THPT Chuyên Lê Khiết tỉnh
Quảng Ngãi năm 2021.
- Xác định mức độ stress ở học sinh khối lớp 12 trường THPT Chuyên Lê Khiết tỉnh
Quảng Ngãi năm 2021.
- Xác định các yếu tố liên quan dẫn đến stress ở học sinh khối lớp 12 trường THPT
Chuyên Lê Khiết năm 2021.


DÀN Ý NGHIÊN CỨU

Đặc tính mẫu
- Lớp
- Tình trạng cư trú
hiện tại
- Kết quả học tập
- Chức vụ

Yếu tố gia đình
- Sự quan tâm của
ba mẹ đến việc học
- Mức độ quan tâm
- Áp lực từ ba mẹ

STRESS VÀ CÁC
YẾU TỐ LIÊN
QUAN


Yếu tố cá nhân
- Học thêm
-Lo lắng thua kém bạn bè
- Tự tạo áp lực cho bản
thân.

Yếu tố nhà trường
-Chương trình học
- Số lượng bài kiểm
tra
- Mối quan hệ với bạn
bè, thầy cô


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN Y VĂN
1.1.

Khái niệm chung về stress:
1.1.1.

Định nghĩa stress:

Khái niệm về căng thẳng đã có từ nhiều thế kỉ trước, ở thế kỉ 14, Stress được
sử dụng để chỉ sự nghịch cảnh, khó khăn hay đau khổ[14]. Chiến tranh thế
giới thứ nhất và chiến tranh Triều Tiên đã thúc đẩy nghiên cứu về căng
thẳng vì tầm quan trọng của nó đối với chiến đấu quan sự. Sau đó, người ta
nhận ra căng thẳng là một khía cạnh khơng thể tránh khỏi cuộc sống .Khơng
có sự thống nhất chung nào về định nghĩa căng thẳng, Mc Ewen cho rằng
“Căng thẳng là từ dùng để mô tả những trải nghiệm thách thức về mặt cảm
xúc và sinh lý”[18]

Năm 1932, Walter Cannon, người đã mang lại nhiều sức sống cho nghiên
cứu về sinh lý học và cảm xúc, coi căng thẳng là một rối loạn nội môi trong
điều kiện lạnh thiếu Oxy, lượng đường trong máu thấp… Năm 1935, Ông đi
sâu vào nghiên cứu sự cân bằng nội môi ở những động vật có vú khi chúng
lâm vào các tình huống khó khăn[8]. Ơng cũng mơ tả các nhân tố cảm xúc
trong quá trình phát sinh, phát triển một số bệnh và xác định vai trò của hệ
thần kinh khi cơ thể đối phó với tình huống khẩn cấp[8]. Cannon coi căng
thẳng là một phản ứng thích nghi , cho phép mỗi cá nhân có thể phản ứng
với những tác nhân gây đe dọa từ mơi trường bên ngồi. Bên cạnh đó ơng
cũng thừa nhận căng thẳng kéo dài có thể dẫn đến các vấn đề y tế[12]. Đến
năm 1936, Hans Selye đã sử dụng thuật ngữ căng thẳng theo một nghĩa rất
đặc biệt, mang tính kĩ thuật để chỉ một tập hợp các biện pháp phòng vệ được
sắp xếp của cơ thể chống lại bất kì hình thức kích thích độc hại nào bao gồm
các mối đe dọa tâm lý, phản ứng mà ơng gọi là “Hội chứng thích ứng
chung”[14]. Han Selye cho rằng để nắm bắt tình trạng căng thẳng khơng
nhất thiết phải làm suy nhược mà có thể tạo điều kiện cho một người cả thấy
hanh phúc, năng lượng hoặc hiệu xuất. Selye giải thích rằng mọi trải nghiệm
hoặc thay đổi điều đại diện cho một thách thức hoặc tác nhân gây căng
thẳng. Do đó, mọi trải nghiệm đều được đáp ứng bởi một mức độ. Tương tự,
lý thuyết đa chiều về sự lo lắng hiệu suất (Jones & Swain, 1992, 1995; Jones


Hardy, 1993: Martens, Burton. Vealey, Bump & Smith, 1990) bao gồm một
phần định hướng để đo lường diễn giải lo lắng của cá nhân cùng với thành
phần cường độ hệ thống.
Stress là những áp lực về mặt tâm lý do những biến động trong cuộc sống xã
hội, gia đình hay từ chính bản thân của mỗi người tác động lên. Với mức độ
vừa phải, stress có thể giúp chúng ta có sự hưng phấn, cảnh giác để đối phó
với tình huống không thuận lợi. Tuy nhiên, nếu stress cứ lặp đi lặp lại khiến
mức độ stress ngày một tăng cao sẽ khiến cơ thể bị rối loạn về mặt thể chất

và tinh thần. Stress có thể gây ra các tình trạng về thể chất, chẳng hạn như
đau đầu, các vấn đề tiêu hóa hoặc rối loạn giấc ngủ. Theo hiệp hội tâm lý
Hoa Kỳ, căng thẳng mãn tính khơng được điều trị có thể dẫn đến huyết áp
cao hoặc suy giảm hệ thống miễn dịch[16].
1.1.2.

Phân loại stress:

Có nhiều cách khác nhau để phân loại stress tùy vào mục đích khác nhau
của nhà nghiên cứu. Các nhà tâm lý học phương Tây đã chia stress thành 2
loại khác nhau: eustress và distress[9].
Eustress là loại stress tích cực, lành mạnh là cảm giác mà chúng ta co khi
phải vượt qua khó khăn, thử thách trong niềm phấn khởi và sự tiên liệu
trước về kết quả tốt đẹp[9]. Stress diễn ra trong một thời gian ngắn với tính
chất, cường độ tác động vừa phải có thể tạo nên sức mạnh tinh thần à thể
chất tức thì. Eustress cũng có thể sử dụng trong những nổ lực sáng tạo. Khi
một người cần có những năng lượng sáng tạo, Eustress giúp cho học có
được những sự kích thích, hưng phấn cần thiết[7]
Distress là một trong những loại stress tiêu cực. Nó là loại stress mà tâm trí
và cơ thể phải chịu đựng khi những thói quen thông thường phải thay đổi và
điều chỉnh[7]. Là phản ứng stress khi tình huống gấy stress bất ngờ, quá dữ
dội vượt quá sự chịu đựng của cơ thể khiến stress trở thành stress bệnh lý.
1.1.3.

Dấu hiệu nhận biết và triệu chứng của stress:

Mỗi cá nhân điều có những phản ứng khác nhau đối với stress vì vậy biểu
hiện cũng khác nhau. Nhìn chung, khi có một sự việc khơng xảy ra theo ý
định hoặc khi có quá nhiều áp lực đè nén thì mỗi người sẽ có mỗi cách ứng



phó khác nhau. Có người sẽ có những dấu hiệu cảnh báo stress như đau đầu,
mệt mỏi, đau ngực, nhịp tim nhanh hoặc khó ngủ, nhưng cũng có người
khơng có bất cứ dấu hiệu cảnh báo nào, chỉ đến khi quá sức chịu đựng họ có
mới trở nên cáu ghét, khó chịu với mọi thứ xung quanh.
Stress ảnh hưởng đến mọi cơ quan trong cơ thể của con người, bao gồm cả
cảm xúc, hành vi, khả năng suy nghĩ, về thể chất và tinh thần. Tuy nhiên,
triệu chứng của stress rất đa dạng và khác nhau ở mỗi cá thể riêng biệt. Sau
đây là một số triệu chứng cơ bản của stress :
Những biểu hiện về cảm xúc: cảm thấy khó chịu, lo lắng hoặc căng thẳng,
cảm thấy chán nản, thờ ơ và có suy nghĩ đánh mất giá trị bản thân.
Những biểu hiện về hành vi: xáo trộn sinh hoạt hằng ngày như ăn uống, giấc
ngủ, sử dụng các chất kích thích, hay nổi cáu, bực bội hoặc trở nên vơ lý
trong các quyết định của mình.
Những triệu chứng về thể chất: đau đầu, đau bụng, rối loạn tiêu hóa, cảm
thấy chóng mặt, khơ miệng.
1.1.4.

Ngun nhân dẫn đến stress:

Có rất nhiều nguyên nhân có thể dẫn đến stress, tùy vào hồn cảnh, điều
kiện và mơi trường sống của mỗi người. Nhìn chung có những ngun nhân
dẫn đến stress thường gặp như: stress từ các sự kiện của cuộc đời, stress tạo
ra bởi sự mất cân bằng thể lý, ảnh hưởng từ những người xung quanh, ảnh
hưởng do mạng xã hội và cơng nghệ[10].
Lí do khiến nhiều người stress là vì họ chưa nhận thức được họ đang gặp
phải những vấn đề có thể dẫn đến stress, chưa nhận ra lý do bản thân stress
là gì và khơng tìm biện pháp khắc phục hiệu quả dẫn đến tình trạng stress
kéo dài và càng trầm trọng.
Thông thường chúng ta thường suy nghĩ rằng stress gây ra bởi những mối

quan hệ giữa người với người, mâu thuẫn gia đình, bạn bè hay nơi làm
việc…Nhưng thật ra đứng trước bất kỳ một thay đổi nào cũng có thể khiến
bản thân cảm thấy stress, điển hình như thay đổi cơ thể ở lứa tuổi dậy thì,
tuổi tác, bệnh tật…
1.1.5.

Các yếu tố có thể dẫn đến stress ở học sinh:


Các nguyên nhân gây ra stress ở lứa tuổi học sinh cũng rất đa dạng, tùy
thuộc vào hoàn cảnh và cách đối mặt với những biến đổi bất thường của bản
thân ra sao. Những nguyên dẫn đến stress ở học sinh có thể là trong học tập,
trong mối quan hệ với bạn bè, cũng có thể từ phía gia đình hoặc từ chính
bản thân họ. Đối với lứa tuổi học sinh thì học tập và những nhóm yếu tố liên
qua đến trường học có ảnh hưởng lớn đến tình trạng stress của họ. Áp lực về
thời gian cũng là một trong những vấn đề có thể dẫn đến căng thẳng ở học
sinh. Cụ thể trong nghiên cứu của tác giả Nguyễn võ Phương Trang về tỉ lệ
stress ở học sinh cho thấy có trên 80% học sinh tham gia nghiên cứu cảm
thấy số lượng các môn theo học ở mức nhiều và quá nhiều[4]. Đang ở lứa
tuổi nhạy cảm, thay đổi về tâm sinh lý, nhu cầu giao tiếp ngày càng cao thì
mối quan hệ với bạn bè và gia đình cũng đóng vai trị quan trọng có thể dẫn
đến stress ở học sinh. Ngồi ra, khi chương trình học ln được cải cách đổi
mới thì chính bản thân học sinh cũng phải thay đối cách học cho phù hợp.
Vô hình chung tạo cho bản thân một áp lực lớn mà khi khơng đạt được mục
tiêu khơng mong muốn có thể dẫn đến những suy sụp về tinh thần, dễ rơi
vào tình trạng tự ti, chán nản, thất vọng và nguy cơ dẫn đến stress cao hơn.
1.2.

Tình hình sức khỏe tinh thần ở trẻ vị thành niên:


Tỉ lệ hiện mắc các vấn đề sức khỏe tinh thần chung ở Việt Nam từ 8% đến 29%
đối với trẻ tuổi vị thành niên[11]. Mặc dù tỉ lệ mắc các vấn đề sức khỏe tinh
thần được báo cáo trong các tài liệu có sẵn là tương đối thấp, tất cả người tham
gia nghiên cứu cùng chung quan điểm cho rằng tuy khó có thể ước lượng một
cách chính xác nhưng cả vấn đền sức khỏe tâm thần và tâm lý xã hội đều đang
lang rộng và gia tăng, đặc biệt là ở trẻ em và thanh thiếu niên[11]. Trên thế giới
có gần 20% trẻ em và trẻ vị thành niên có rối loạn tâm thần và một nửa số trẻ rối
loạn tâm thần khởi phát trước năm 14 tuổi [15]. Các rối loạn tâm thần thường
gặp ở lứa tuổi vị thành niên bao gồm: rối loạn lo âu, stress, trầm cảm và tâm
thần phân liệt. Nguyên nhân có thể đến từ yếu tố sinh học hoặc môi trường
nhưng thường là kết hợp cả hai.
1.3.

Thang đo đánh giá stress và mức độ stress DASS-21 (Depression
Anxiety Stress Scale)


Qua các nền văn hóa, DASS-21 đã được xác nhận ở một số dân số gốc Tây Ban
Nha, Mỹ, Anh và Úc. Các phát hiện cho thấy rằng DASS-21 là âm thanh về mặt
tâm lý với độ tin cậy và hiệu lực tốt. Từ các tài liệu cho rằng DASS-21 là công
cụ được thiết lập để đo lường chứng trầm cảm, lo lắng và căng thẳng [15].
DASS ban đầu có 42 mục đo 3 chiều của trạng thái cảm xúc tiêu cực, đó là trầm
cảm, lo lắng và căng thẳng. Sau đó, một phiên bản ngắn hơn của DASS là
DASS 21 được phát triển bởi Lovibond (1995) nhằm giảm thời gian quản lý và
được sử dụng rộng rãi trong các mẫu lâm sàng để sàng lọc các triệu chứng ở các
mức độ trầm cảm, lo lắng và căng thẳng khác nhau[15]. Thang đo DASS-21
khơng dùng để chẩn đốn bệnh mà chỉ là công cụ sàng lọc phát hiện, đánh giá
mức độ lo âu, tress, trầm cảm của đối tượng.
DASS-21 có 21 câu hỏi được chia thành 3 phần lần lượt đánh giá nức độ lo âu,
trầm cảm và stress, mỗi câu hỏi có 4 mức độ trả lời tương ứng với số điểm 0, 1,

2, 3. Số điểm đánh giá mức độ stress được tính bằng cách cộng tổng điểm của
các câu 1, 6, 8, 11, 12, 14, 18 rồi nhân cho 2 (xem phụ lục). Mức độ stress được
đánh giá bằng thang điểm:
Bình thường khi có tổng điểm từ 0 đến 14
Stress mức độ nhẹ khi có tổng điểm từ 15 đến 18
Stress mức độ vừa khi có tổng điểm từ 19 đến 25
Stress mức độ nặng khi có tổng điểm từ 26 đến 33
Stress mức độ rất nặng khi có tổng điểm lớn hơn 34
1.4.

Các nghiên cứu liên quan đến stress ở học sinh.
1.4.1.

Trên thế giới

Một nghiên cứu về stress và cách ứng phó với stress được thực hiện tại
trường trung học Dusitaram Thái Lan năm 2010 cho thấy học sinh có kết
quả học tập thấp có tỉ lệ stress cao hơn so với những học sinh có thành tích
học tập khá giỏi [13]
Trong một nghiên cứu khác tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến stress ở học sinh
THPT tham gia chương trình học dự bị đại học và học sinh học chương trình
bình thường của Shannon M. Suldo, Elizabeth Shaunessy thực hiện tại Mỹ
năm 2009. Kết quả cho thấy nguyên nhân chính gây căng thẳng cho học sinh


học chương trình dự bị đại học là do yêu cầu học tập. Trái lại, đối với các
học sinh học chương trình bình thường thì lại có xu hướng stress do mối
quan hệ với gia đình, quan hệ bạn bè, khó khăn trong học tập[19].
Kết quả nghiên cứu tự đánh nguyên nhân stress ở học sinh cuối cấp 3 của
Nadya M. Kouzma, Gerard A. Kennexdy thực hiện tại Úc cho thấy nguyên

nhân chính dẫn đến stress ở học sinh đến từ các kì thi, điểm số, lo lắng về
tương lai, lựa chọn nghề nghiệp, ôn thi, khối lượng kiến thức, kì vọng gia
đình, bản thân[17].
1.4.2.

Tại Việt Nam

Nghiên cứu cắt ngang mô tả tỉ lệ stress thực hiện trên 584 học sinh THPT Lê
Trung Kiên tỉnh Phú Yên năm 2018 của tác giả Nguyễn Thành Trung và
Huỳnh Hồ Ngọc Quỳnh cho kết quả 29,45 có biểu hiện stress, trong đó có
5,31% có biểu hiện stress nặng. Những vấn đề trong kết bạn và gặp vấn đề
về cảm xúc có tỉ lệ biểu hiện stress cao hơn những người không gặp phải
vấn đề gì, bên cạnh đó áp lực học tập có liên quan đáng kể đến tình trạng
stress của học sinh[5].
Một nghiên cứu khác về tỉ lệ stress và các yếu tố liên quan ở học sinh khối
12 tại Đồng Nai của tác giả Nguyễn Thị Bích Trân năm 2017 thu được kết
quả tỉ lệ học sinh stress theo thang đo DASS-21 là 46,8%. Trong đó, tỉ lệ
học sinh stress nhẹ chiếm 19,3%, stress vừa chiếm 16%, stress nặng chiếm
10,1%, stress rất nặng chiếm 1,4%. Các yếu tố ảnh hưởng đến tỉ lệ stress ở
học sinh bao gồm áp lực từ phía nhà trường như những mơn khơng thích,
mối quan hệ khơng tốt với giáo viên, bạn bè, ngồi ra cịn đến từ các yếu tố
gia đình và chính bản thân học sinh.[3]
Nghiên cứu cắt ngang mô tả sử dụng hai thang đo nhằm xác định tình trạng
stress là PSS và chiến lược ứng phó với stress là CSI nghiên cứu thực trạng
stress và chiến lược ứng phó của học sinh THPT Chuyên Lê Hồng Phong
Thành Phố Hồ Chí Minh năm 2017. Kết quả tỉ lệ stress của học sinh là
28,4%; trong đó stress nhẹ chiếm 21,4%, stress nặng chiếm 7%. Ngồi ra
kết quả cịn ghi nhận được một số yếu tố gia đình, nhà trường và bản thân
học sinh có liên quan đến tỉ lệ stress của học sinh như: mối quan hệ với giáo



viên, nhà trường, bạn bè, tham gia hoạt động ngoại khóa, số lượng các mơn
học, số lượng bài tập về nhà, kì vọng của gia đình, bản thân…[4]


CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1.

Thiết kế nghiên cứu

Nghiên cứu cắt ngang mô tả.
Thời gian: từ tháng 3/2021 đến tháng 5/2021.
Địa điểm: trường THPT Chuyên Lê Khiết tỉnh Quảng Ngãi.
2.2.

Đối tượng nghiên cứu
2.2.1.

Dân số mục tiêu

Tất cả học sinh khối lớp 12 đang học trường THPT Chuyên Lê Khiết tỉnh
Quảng Ngãi.
2.2.2.

Dân số chọn mẫu

Học sinh khối lớp 12 đang học tại trường THPT Chuyên Lê Khiết tỉnh
Quảng Ngãi.
2.2.3.


Cỡ mẫu

Sử dụng cơng thức tính cỡ mẫu ước lượng một tỉ lệ dân số:

p (1− p )
α
d2
1−
2

n=Z

2

Z = 1.96 (ước lượng khoảng tin cậy 95% với α=0.05
d = 0.05 (sai số cho phép)
p = 0.281 (tỉ lệ stress của học sinh lớp 12 trường THPT Chuyên Lương Thế
Vinh tỉnh Đồng Nai năm theo nghiên cứu của Lê Đức Anh năm 2019)
Ta tính được:
n = 311
Dự trù mất mẫu 10% nên lượng mẫu cần thiết là: n = 342
2.2.4.

Kỹ thuật chọn mẫu

Số lượng học sinh khối 12 của Trường THPT Chuyên Lê Khiết năm học
2020-2021 là 455 học sinh. Tuy nhiên trường có 2 lớp chuyên Toán, 2 lớp
chuyên Anh và 2 lớp cận chuyên ở khối lớp 12 nên ở mỗi môn chuyên và
lớp cận chuyên chỉ chọn ngẫu nhiên một lớp để thực hiện lấy mẫu vào
nghiên cứu. Sỉ số giữa lớp Toán 1 và Toán 2 là như nhau 35 học sinh; lớp

Anh 1 và Anh 2 là như nhau 33 học sinh; lớp cận chuyên 1 và cận chuyên 2


là như nhau 40 học sinh, như vậy tổng sỉ số 3 lớp không chọn vào nghiên
cứu là 110 học sinh. Số học sinh còn lại là 355 học sinh vì vậy sẽ thực hiện
lấy mẫu tồn bộ học sinh của các lớp còn lại trong khối lớp 12 của trường
THPT Chuyên Lê Khiết cho nghiên cứu này.
2.2.5.

Tiêu chí đưa vào và loại ra

2.2.5.1.

Tiêu chí chọn vào

Học sinh khối lớp 12 thuộc các lớp được chọn mẫu đang học tại trường
THPT Chuyên Lê Khiết tỉnh Quảng Ngãi năm 2021 và đồng ý tham gia
vào nghiên cứu.
2.2.5.2.

Tiêu chí loại ra

Học sinh khơng có mặt tại trường khi tiến hành thu thập thông tin.
Học sinh trả lời dưới 50% bộ câu hỏi soạn sẵn.
2.2.6.

Kiểm soát sai lệch chọn lựa

Chọn đúng đối tượng nghiên cứu theo và theo đúng tiêu chí cọn mẫu.
2.3.


Thu thập số liệu
2.3.1.

Công cụ thu thập số liệu

Bộ câu hỏi phỏng vấn được soạn sẵn gồm 3 phần:
Phần A: thông tin nền gồm 6 câu hỏi.
Phần B: một số yếu tố liên quan là gia đình gồm 9 câu hỏi, nhà trường gồm
8 câu hỏi, bản thân gồm 7 câu hỏi.
Phần C: thang đo đánh giá Trầm cảm - Lo âu - Stress DASS-21.
2.3.2.

Kiểm sốt sai lệch thơng tin

Định nghĩa rõ biến số.
Giải thích rõ mục đích của nghiên cứu và nhấn mạnh tính bảo mật thơng tin
của người tham gia nghiên cứu.
Hướng dẫn học sinh cách trả lời và giải đáp thắc mắc nếu có nhằm tăng tính
chính xác của số liệu.
2.3.3.

Quy trình thu thập số liệu

Bước 1: liên hệ với trường THPT Chuyên Lê Khiết nơi thực hiện nghiên
cứu


Liên hệ và xin phép ban giám hiệu nhà trường thực hiện nghiên cứu, trước
khi tiến hành thu thập số liệu nghiên cứu viên trình bày mục đích của nghiên

cứu và thời gian tiến hành thu thập số liệu.
Bước 2: Tiến hành thu thập số liệu
Giải thích rõ mục đích của nghiên cứu, nhấn mạnh tính bảo mật thơng tin
của nghiên cứu đồng thời hướng dẫn học sinh cách trả lời bộ câu hỏi tự điền.
Phát bộ câu hỏi đã được soạn sẵn cho lớp, học sinh thực hiện trả lời bộ câu
hỏi dưới sự quan sát của nghiên cứu viên.
Bước 3: Thu, kiểm tra và quản lý số liệu
Sau khi học sinh hoàn thành phiếu trả lời, nghiên cứu viên thu lại và kiểm
tra số lượng bộ câu hỏi thu về có đủ hay chưa.
2.3.4.

Phương pháp thu thập số liệu

Được sự đồng ý của ban giám hiệu trường và giáo viên chủ nhiệm lớp, trong
tiết sinh hoạt lớp nghiên cứu viên thực hiện phỏng vấn gián tiếp bằng bộ câu
hỏi tự điền để thu thập số liệu.
2.4.

Phân tích số liệu
2.4.1.

Phương pháp nhập và phân tích số liệu

Sử dụng phần mềm Epidata để nhập liệu.
Phân tích số liệu bằng phần mềm Stata.
2.4.2.

Số thống kê mô tả

Lập bảng tần suất và tỉ lệ % cho các biến số nền, biến phụ thuộc và biến kết

cục.
2.4.3.

Thống kê phân tích

Sử dụng kiểm định chi bình phương hoặc kiểm định Fisher để so sánh tỉ lệ.
Xác định độ lớn của mức độ kết hợp các mối liên quan giữa biếng số độc lập
và biến số kết cục bằng tỉ số tỉ lệ PR với khoảng tin cậy 95%.
2.4.4.

Kiểm soát nhiễu

Định nghĩa rõ biến số.
2.5.

Liệt kê và định nghĩa biến số:
2.5.1.

Thông tin nền


Giới tính: biến nhị giá thể hiện giới tính của học sinh gồm 2 giá trị là nam
và nữ. Ghi theo giới tính được ghi trong giấy khai sinh.
Lớp: biến danh định. Thể hiện lớp mà học sinh đang theo học, gồm các lớp
TỐN1, TỐN2, ANH1, ANH2, TIN, LÝ, HĨA, SINH, VĂN, VĂN SỬ
ĐỊA,C1,C2.
Địa chỉ thường trú: biến danh định. Quê quán được ghi trong sổ hộ khẩu
của học sinh. Gồm 3 giá trị là ở huyện (nếu học sinh điền vào phiếu trả lời
địa chỉ thường trú là một trong các huyện của tỉnh Quảng Ngãi), ở thành phố
Quảng Ngãi (nếu học sinh có địa chỉ thường trú là trong thành phố Quảng

Ngãi) và khác.
Tình trạng cư trú hiện tại : biến danh định. Thể hiện nơi ở hiện tại của học
sinh, gồm các giá trị: ở nhà (được tính khi ở nhà chung giới gia đình hoặc cả
ở nhờ nhà người thân, người quen), ở trọ, ở kí túc xá.
Chức vụ: biến nhị giá gồm 2 giá trị: có (khi học sinh giữ ít nhất một chức
vụ sau đây: lớp trưởng, lớp phó, bí thư, phó bí thư, thư kí, thủ quỹ,tổ trưởng,
ban chủ nhiệm các câu lạc bộ) và không.
Học lực học kỳ gần nhất: là biến thứ tự thể hiện danh hiệu học tập của học
kì gần nhất mà học sinh đã đạt được, gồm 3 giá trị:
Giỏi (điểm trung bình tất cả các mơn từ đạt 8.0 trở lên, trong đó điểm trung
bình mơn chun, Tốn, Ngữ văn đạt từ 8.0 trở lên và khơng có mơn nào có
điểm trung bình thấp hơn 6.5)
Khá (điểm trung bình tất cả các mơn đạt từ 6.5 trở lên, trong đó điểm mơn
chun, Tốn, Ngữ văn đạt từ 6.5 trở lên và khơng có mơn nào có điểm
trung bình thấp hơn 5.0)
Trung bình (điểm trung bình tất cả các mơn đạt từ 5.0 trở lên và khơng có
mơn nào có điểm trung bình thấp hơn 3.5)
2.5.2.

Các yếu tố liên quan

2.5.2.1.

Yếu tố gia đình

Hiện tại đang ở cùng ai: biến danh định gồm các giá trị là cùng ba mẹ,
ông bà (chỉ sống với ông, bà của đối tượng mà khơng có ba mẹ), người


thân ( người thân khác ngồi ba mẹ, ơng bà, anh chị em ruột), bạn bè và

một mình.
Số lượng anh/chị em trong gia đình: biến danh định gồm các giá trị là
không (con một), một, hai, nhiều hơn 2.
Nghề nghiệp của ba/mẹ: là biến danh định gồm 4 giá trị là công chức
nhà nước, công nhân, nông dân và khác.
Sự quan tâm của ba/mẹ đối với việc học: biến nhị giá gồm 2 giá trị là
có (khi ba mẹ có mức độ quan tâm là “thường xuyên” hoặc “thỉnh
thoảng”) và khơng (khi cha mẹ có mức độ quan tâm đến việc học là
“hiếm khi”)
Mức độ quan tâm của ba/mẹ đối với việc học: biến thứ tự gồm 3 giá
trị là thường xuyên (ba/mẹ luôn quan tâm, thăm hỏi xoay quanh về vấn
đề học tập của đối tượng), thỉnh thoảng (ba mẹ có quan tâm, thăm hỏi về
vấn đề học tập của đối tượng nhưng khơng thường xun), hiếm khi (rất
ít khi ba/mẹ quan tâm, thăm hỏi về vấn đề học tập của đối tượng)
Ba mẹ tạo áp lực học tập: biến nhị giá gồm 2 giá trị là có (khi ba mẹ
đặt ra mục tiêu học tập bắt buộc học sinh phải đạt thành tích cao, phải
đậu đại học,…) và khơng.
Sự kiểm sốt từ phía ba/mẹ: biến nhị giá gồm 2 giá trị là có (ba/mẹ
kiểm sốt về giờ giấc sinh hoạt, thời gian sử dụng điện thoại, sử dụng
mạng internet, các hoạt động khác) và không.
Lo lắng về kinh tế gia đình: biến nhị giá gồm 2 giá trị là có (học sinh
thường xuyên hoặc thỉnh thoảng cảm thấy lo lắng về tài chính gia đình,
lo lắng về khoảng tiền học phí, lo lắng về chi phí sinh hoạt hằng ngày
của đối tượng là gánh nặng cho gia đình) và không.
2.5.2.2.

Yếu tố nhà trường

Thời gian học tại trường: biến thứ tự thể hiện cảm nhận chủ quan của
đối tượng về số buổi học tại trường trong tuần gồm các giá trị là q

nhiều, nhiều, bình thường và ít.


Số lượng các môn học: biến thứ tự thể hiện cảm nhận chủ quan về số
lượng môn học mà đối tượng đang theo học, gồm 4 giá trị là rất nhiều,
nhiều, bình thường, ít.
Chương trình học: biên nhị giá gồm 2 giá trị là nặng (nếu đối tượng trả
lời số lượng các môn học “quá nhiều” hoặc “nhiều” và không nặng (nếu
đối tượng trả lời số lượng các môn học “bình thường” hoặc “ít”
Số lượng bài tập về nhà: biến thứ tự thể hiện cảm nhận chủ quan của
đối tượng về lượng bài tập mà giáo viên giao về nhà, gồm 4 giá trị: rất
nhiều, nhiều, bình thường, ít.
Theo kịp bài giảng của giáo viên: biến nhị giá gồm 2 giá trị là có (đối
tượng cảm nhận hiểu được bài giảng của giảng viên) và không.
Số lượng bài kiểm tra: biến thứ tự thể hiện cảm nhận chủ quan của đối
tượng về số lượng bài kiểm tra mà đối tượng phải hoàn thành trong thời
gian học, gồm 4 giá trị là rất nhiều, nhiều, bình thường, ít.
Lo lắng trước mỗi kì kiểm tra: biến nhị giá thể hiện trạng thái căng
thẳng, quá lo lắng của đối tượng trước mỗi kì kiểm tra, thi tại trường.
Gồm 2 giá trị có và không.
Mối quan hệ với giáo viên: biến thứ tự thể hiện cảm nhận chủ quan của
đối tượng về quan hệ của mình với giáo viên giảng dạy, gồm 3 giá trị là
tốt, bình thường, khơng tốt.
Mối quan hệ với bạn bè: biến thứ tự thể hiện cảm nhận chủ quan của đối
tượng về quan hệ của mình với bạn bè trong lớp, gồm 3 giá trị là tốt,
bình thường và không tốt.
2.5.2.3.

Yếu tố cá nhân


Đi học thêm: biến nhị giá gồm 2 giá trị là có (ngồi giờ học chính thức
và phù đạo tại trường đối tượng còn tham gia các lớp học thêm vào buổi
tối) và không.
Tự tạo áp lực cho bản thân: biến nhị giá gồm 2 giá trị là có (đối tượng
tự tạo ra áp lực cho mình khi đặt ra mục tiêu rằng phải đạt điểm cao, thi
phải đạt giải,…) và không.


Lo lắng học thua kém bạn bè: biến nhị giá gồm 2 giá trị là có (đối
tượng cảm thấy tự ti, lo lắng rằng bản thân khơng giỏi, thành tích không
bằng bạn bè) và không.
Thời gian tự học: biến nhị giá thể hiện thời gian học ở nhà sau giờ học
chính thức ở trường, gồm 2 giá trị là từ 3 tiếng trở lên, nhỏ hơn 3 tiếng.
Tham gia hoạt động ngoại khóa: biến nhị giá gồm 2 giá trị là có (tham
gia các hoạt động khác ngồi việc học, như hoạt động văn nghệ, thể dục
thể thao, tình nguyện…) và khơng.
Thời gian giải trí: biến nhị giá thể hiện thời gian dành cho các hoạt
động vui chơi, giải trí, sử dụng mạng xã hội trong ngày của đối tượng.
Gồm 2 giá trị: từ 3 tiếng trở lên, nhỏ hơn 3 tiếng.
Thời gian ngủ : biến nhị giá thể hiện tổng thời gian ngủ trong một ngày
của đối tượng, tính cả giờ ngủ trưa. Gồm 2 giá trị là từ 6.5 tiếng trở lên
và nhỏ hơn 6.5 tiếng.
2.6.

Bảng câm: Bảng dự kiến kết quả nghiên cứu.
Bảng 2.6.1. Đặc điểm mẫu nghiên cứu

Đặc điểm
Giới tính:


Tần số

Phần trăm

Nam

….…….

….……

Nữ
Địa chỉ thường thú:

….…….

….……

Ở huyện

….…….

….……

Thành phố Quảng Ngãi

….…….

….……

Khác

….…….
Tình trạng cư trú hiện tại

….……

Ở nhà

….…….

….……

Thuê trọ

….…….

….……

Ở kí túc xá
Chức vụ

….…….

….……



….……

….……


Khơng
Học lực

….……

….…….

Giỏi

….……

….…….


Khá

….……

….…….

Trung bình

….……

….…….

Bảng 2.6.2. Đánh giá mức độ stress của học sinh
Mức độ stress
Bình thường
Stress nhẹ

Stress vừa
Stress nặng
Stress rất nặng

Tần số
….……
….……
….……
….……
….…….

Tỉ lệ
….……
….……
….……
….……
….……

Bảng 2.6.3. Các yếu tố gia đình ảnh hưởng đến stress ở học sinh
Đặc điểm
Nghề nghiệp của bố

Tần số

Tỉ lệ

Viên chức nhà nước

….……


….……

Công nhân

….……

….……

Nông dân

….…….

….……

Khác
Nghề nghiệp của mẹ

….……

….……

Viên chức nhà nước

….……

….…….

Cơng nhân

….……


….……

Nơng dân

….……

….……

Khác
….……
Sự quan tâm của cha mẹ

….……

trong việc học


….….

…..……

Khơng
Áp lực học tập từ ba mẹ

….….

…..……




….……

….…….

Khơng
Sự kiểm sốt từ ba/mẹ

….……

….…….



….……

…..……

Khơng
….……
Lo lắng điều kiện kinh tế

…..……

gia đình




….……


…..……

Khơng

….……

….…….

Bảng 2.6.4. Các yếu tố nhà trường ảnh hưởng đến stress ở học sinh
Đặc điểm
Thời gian học ở trường

Tần số

Tỉ lệ

Q nhiều

….……

….……

Nhiều

….……

….……

Bình thường


….……

….……

Ít
Chương trình học

….……

….…...

Nặng

….……

….……

Khơng nặng
Lượng bài tập về nhà

….……

….…….

Q nhiều

….……

….……


Nhiều

….……

….……

Bình thường

….……

….……

Ít
….……
Theo kịp bài giảng của

….……

giáo viên


….…….

….…….

Khơng
Lo lắng trước kiểm tra

….…….


….…….



….……

….……

Khơng
Quan hệ với thầy cơ

….……

….……

Tốt

….……

….……

Bình thường

….……

….……

Khơng tốt
Quan hệ với bạn bè


….……

….……

Tốt

….……

….…….

Bình thường

….……

….……

Khơng tốt

….……

….……


Bảng 2.6.5. Yếu tố cá nhân ảnh hưởng đến tress của học sinh
Đặc điểm
Học thêm

Tần số


Tỉ lệ



….……

….……

Khơng
….……
Lo lắng khi thua kém

….……

bạn bè

….……

….……



….…….

….……

Khơng
Tham gia

….…….


….……

….……

….……

Khơng
….……
Tự tạo áp lực cho bản

….……

thân

….……

….……



….……

….……

hoạt

động

ngoại khóa



Khơng
Bảng 2.6.6. Mối liên quan giữa tỉ lệ học sinh bị stress với đặc tính mẫu
Đặc điểm

Stress


Gia trị p

PR

Khơng

Nam

….…..

….…..

….……

….……

Nữ
Địa chỉ thường thú:

….…


….…..

….……

….…...

Ở huyện

….…

….…

….…

….….

Thành phố Quảng Ngãi

….…

….….

….…

….….

Khác
Tình trạng cư trú hiện tại

….…


….….

….…

….….

Ở nhà

….…

….…

….….

….….

Thuê trọ

….…

….…

….….

….….

Ở kí túc xá
Chức vụ


….…

….…

….….

….….



….….

….….

….….

….….

Giới tính:


×