Tải bản đầy đủ (.docx) (133 trang)

100 câu hỏi tự luật luật tố tụng hành chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (452.34 KB, 133 trang )

Câu 1. Nêu khái niệm tài phán hành chính, tố tụng hành chính? Đặc điểm cơ bản của tố tụng
hành chính?
Bản thân khái niệm TPHC có thể được hiểu theo nhiều quan điểm khác nhau theo từng thời kỳ.
Đến nay, khái niệm TPHC đã được hiểu một cách khá thống nhất: “TPHC là hoạt động giải
quyết các tranh chấp hành chính(hay các khiếu kiện hành chính) theo một trình tự chặt chẽ
được thực hiện bởi cơ quan tư pháp (các TAND)”
-

Tố tụng hành chính là tồn bộ hoạt động của các bên có liên quan đến một tranh chấp hành

chính theo quy định của PL trong quá trình khởi kiện và giải quyết các khiếu kiện của cơ quan,
tổ chức, cá nhân về các quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thơi
việc và các quyết định, hành vi hành chính khác theo quy định của PL.
* Đặc điểm cơ bản của TT hành chính:
- TTHC có mục đích là giải quyết một loại tranh chấp đặc biệt trong đó một bên là cơ quan nhà
nước, chủ yếu là cơ quan hành chính NN (bên bị kiện) và một bên là cá nhân, cơ quan, tổ chức
(bên khởi kiện). Chính vị đặc điểm này mà TTHC được điều chỉnh riêng trong một đạo luật là luật
TTHC.
- Hoạt động TTHC được tiến hành tại cơ quan xét xử, tức là tại các TAND. Đây là đặc điểm hết sức
quan trọng để phân biệt với việc giải quyết khiếu nại HC. TTHC và giải quyết khiếu nại HC đều có
mục đích chung là giải quyết các tranh chấp HC, và đối tượng chủ yếu là quyết định HC, hành vi
HC của cơ quan HC nhà nước. Điểm khác nhau giữa hai hoạt động này là nếu khiếu nại và giải
quyết khiếu nại HC được tiến hành tại các cơ quan HC NN và theo các thủ tục HC được quy định
tại Luật khiếu nại và các văn bản có liên quan thì TTHC được tiến hành tại cơ quan xét xử và theo
các thủ tục tố tụng được quy định tại luật TTHC
Câu 2. Nêu và phân tích các mơ hình tổ chức xét xử hành chính trên thế giới?


Mơ hình tịa án hành chính chun trách và độc lập hồn tồn với tịa án tư

pháp. (Pháp, Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp,…)






Các quốc gia này có tịa án hành chính độc lập nhưng gắn bó chặt chẽ với nền hành

chính quốc gia thơng qua việc giao thêm cho tịa án hành chính chức năng tư vấn pháp lý
nhất là ở cấp trung ương với các Hội đồng Nhà nước.
- Cơ sở của hệ thống:
+ Một là, xuất phát từ sự giải thích về phân quyền, sự phân chia ba nhánh quyền lực dẫn đến
việc từ chối giao cho các tòa án thường khả năng xét xử các cơ quan hành chính. Vì vậy,
quyền lực hành chính tự tổ chức cơ quan tài phán riêng cho mình.
+ Hai là, sự gắn bó giữa cơ quan tài phán với hoạt động hành chính nhà được hình thành
trên cơ sở coi nền hành chính là thống nhất bởi hai bộ phận: hành chính hành động (hành
chính quản lý) và hành chính tái phán.
=> dẫn đến sự phân biệt rõ ràng giữa thẩm phán hành chính và thẩm phán tư pháp.

- Sự phân chia hệ thống pháp luật thành hai bộ phận: luật công và luật tư. TAHC sẽ giải quyết các
tranh chấp liên quan đến luật công, TA tư pháp sẽ giải quyết tranh chấp liên quan đến luật tư.
=>làm sâu sắc thêm sự phân chia giữa hai ngành tài phán.

- Ưu điểm: đảm bảo tính chun nghiệp của cơ quan này vì được xét xử bởi một cơ quan chuyên
trách, có hiểu biết sâu sắc về lĩnh vực quản lý công, tôn trọng các ưu quyền của của cơ quan hành
chính cần thiết cho sự vận hành và đảm bảo lợi ích chung.
- Nhược điểm:
+ Tính khách quan của hoạt động xét xử hành chính.
+ Sự tồn tại của hai ngành tài phán riêng rẽ đôi khi sẽ nảy sinh những tranh chấp về thẩm
quyền giải quyết vì khơng phải lúc nào cũng dễ xác định bản chất của tranh chấp thuộc thẩm
quyền tài phán của cơ quan nào.



- Về tổ chức tài phán hành chính nhà nước.
Hội đồng Nhà nước là đỉnh chóp của hệ thống tịa án hành chính, dưới Hội đồng Nhà nước là các
tịa án hành chính phúc thẩm và sơ thẩm – có hai chức năng là xét xử vụ án hành chính và tư vấn
một số lĩnh vực cho cơ quan hành chính.
Thẩm phán của tịa hành chính và thẩm phán tư pháp được đào tạo từ hai nơi khác nhau (HC đào
tạo từ HV HC QG. Tư pháp đào tạo từ trường Thầm phán quốc gia)


Mơ hình tịa án hành chính chun trách nhưng khơng độc lập hồn tồn so với

tịa án tư pháp. (Đức, Thụy Điển, Phần Lan,..)
Ở những nước này cơ quan xét xử hành chính được tổ chức thành một hệ thống độc lập song song
với các tòa án tư pháp.
Có sự phân chia giữa hai ngành luật công và luật tư nhưng các thẩm phán được đào tạo chung,
khơng có sự phân biệt giữa thẩm phán tư pháp và thẩm phán hành chính. Tịa án hành chính hay tòa
án tư pháp đều trực thuộc tòa án tối cao.
- Ưu điểm: Hợp lý trong sự phân chia thẩm quyền giữa hai ngành tài phán.
- Nhược điểm: Sự phân chia thẩm quyền giữa khiếu kiện về tính hợp pháp và khiếu kiện về bồi
thường đơi khi gặp khó khăn.
- Tổ chức các tịa án hành chính:
Hệ thống tịa án hành chính thường có 52 tịa án hành chính khu vực, 16 tịa án hành chính liên khu
vực và 1 tịa án hành chính liên bang. Với hầu hết các tranh chấp tòa án khu vực là tòa sơ thẩm, tịa
án hành chính liên khu vực là tịa phúc thẩm và tịa án hành chính liên bang là tịa giám đốc thẩm.
Hệ thống tịa án xã hội có 69 tịa án khu vực, 16 tòa án liên khu vực và 1 tịa án liên bang.
Tịa án tài chính chỉ gồm có hai cấp: 19 tịa án liên khu vực và 1 tịa án tài chính liên bang.
 Mơ hình trung gian. (trung quốc, inđo, Việt Nam,..)


-


Tịa án hành chính khơng tổ chức thành hệ thống độc lập mà thành các tịa chun trách về
hành chính trong hệ thống tịa án thường

-

Mơ hình này xuất phát từ quan điểm nhất hệ tài phán, tức là chỉ có một hệ thống cơ quan
xét xử để giải tất cả các tranh chấp. Tuy nhiên các nước này cũng thừa nhận tồn tại những
sự khác biệt về tính chất của các tranh chấp nên để đáp ứng yêu cầu này việc xét xử hành
chính cần được tổ chức thành các tịa chun trách trong tịa án thường.

-

Mơ hình này khơng lập ra một hệ thống tịa án hành chính riêng mà trong tòa án nhân dân ,
lập ra tòa án chuyên trách về hành chính và áp dụng các thủ tục quy định tại Luật tố tụng
hành chính.



Mơ hình tịa án thường có chức năng tài phán hành chính. (Anh, MỸ,

Canada,..)
-

Các nước theo hệ thống này dường như không tồn tại khái niệm về lợi ích cơng trong phân
biệt với lợi ích cá nhân nên Luật hành chính khơng phải là một ngành luật phát triển. Các
quan hệ xã hội chủ yếu được điều chỉnh bởi Luật dân sự, thương mại. Khơng có sự phân
biệt giữa luật tư và luật cơng.

-


Các nước theo hệ thống này giao hồn tồn việc xét xử các khiếu kiện hành chính cho các
tịa án tư pháp.

-

Ưu điểm:
+ Bảo đảm tính khách quan của hoạt động xét xử hành chính vì cho rằng tịa án tư pháp
khơng dính dáng gì đến cơ quan hành pháp.


+ Thể hiện sự gần gũi giữa toà án và người đi kiện vì cho phép người kiện gửi đơn đến tịa
án thơng thường.
-

Nhược điểm:
+ Lo ngại tịa án chỉ chú ý đến bảo vệ các quyền cá nhân mà khơng quan tâm đến những lợi
ích chung.
+ Nhà nước có thể bảo vệ quyền của mình bằng cách hạn chế thẩm quyền của tòa án trong
các vụ khiếu kiện về hành chính.
+ Tịa án khơng am hiểu về hoạt động hành chính và khơng phải lúc nào cũng có khả năng
giải quyết tốt các tranh chấp hành chính.
Câu 3. Nêu và phân tích tài phán hành chính ở VN trước năm 1996
Sau khi dành độc lập, chính quyền đã giao cho bộ Tư pháp tiếp quản TAHC theo sắc
lệnh số 41, ngày 3/10/1945. Tuy nhiên sắc lệnh chỉ giao cho bộ tiếp quản trụ sở và con
người chứ không liê quan đến trách nhiệm, quyền hạn của một cơ quan tài phán.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, cơ quan này khơng thấy xuất hiện, tuy nhiên
khiếu kiện hành chính vẫn giao cho cơ quan tòa án.
Tháng 7/1975, sắc lệnh về bầu cử hội đồng nhân dân quy định “ mọi khiếu nại lên
quan đến danh sách cử tri được gửi đến UBND nơi lập danh sách để giải quyết, nếu khơng

thỏa mãn thì khởi kiện ra TAND
Năm 1985, một số tranh chấp hành chính đã được chuyển sang tịa án nhân dân giải
quyết
Từ đổi mới đến trước 1996, tòa án giải quyết tranh chấp hành chính nhưng xem như
là 1 vấn đề kèm theo của dân sự




Hoạt động tài phán HC ở nước ta những năm trước 1996 xuất hiện thông qua những

quy định rải rác trong các văn bản PL ở mức độ khác nhau mà chưa có nguyên tắc tổng quát
nào thừa nhận hoạt động tài phán HC với tư cách là một nhánh độc lập.
Câu 4. Nêu lịch sử phát triển của tài phán hành chính ở Việt Nam sau 01/7/1996?
-

Lý do dẫn đến việc cần thiết lập cơ chế tài phán:
+ Thực hiện công cuộc đổi mới, chúng ta tiếp tục xây dựng và hồn thiện NN

CHXHCNVN. Tuy nhiên, trong q trình quản lý, điều hành, CQHCNN và CB, CC NN đôi
khi có những quyết định hoặc hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp
của cơng dân, cơ quan Nhà nước, tổ chức, từ đó làm phát sinh các khiếu kiện hành chính.
Do vậy, cùng với việc tiến hành cải cách một bước thủ tục hành chính cần phải có một cơ
chế kiểm sốt hữu hiệu hoạt động của cơ quan và nhân viên hành chính Nhà nước trong
quá trình quản lý, điều hành nhằm khắc phục những biểu hiện cửa quyền, lạm quyền, lộng
hành hoặc trốn tránh nghĩa vụ, vô trách nhiệm trước nhân dân
+ Trước giờ Ðảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến việc giải quyết kịp thời các khiếu
nại hành chính của cơng dân.
+ Có khơng ít trường hợp đã lợi dụng quyền khiếu nại gây khó khăn phức tạp cho các
cơ quan Nhà nước trong hoạt động quản lý, điều hành.




Từ những nhu cầu khách quan nêu trên, ngày 28.10.1995 Quốc hội đã thông qua

Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật tổ chức Tòa án Nhân dân trong đó quy định
TAHC thành lập và bắt đầu đi vào hoạt động kể từ 01.7.1996.


- Trên cơ sở đó, ngày 21.5.1996 UBTVQH đã ban hành Pháp lệnh thủ tục giải quyết

các vụ án hành chính, giao cho Tịa án nhân dân thẩm quyền giải quyết một số khiếu kiện
hành chính (Pháp lệnh này đến nay đã qua hai lần sửa đổi, bổ sung, lần thứ nhất vào năm
1998



lần

thứ

hai

vào

năm

2006).

- Ngày 24 tháng 11 năm 2010 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa



XII, kỳ họp thứ 8 đã thông qua Luật tố tụng hành chính và Luật này có hiệu lực thi hành
từ ngày 01 tháng 7 năm 2011.
- Mới đây, Ngày 25/11/2015, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, khóa
XIII, kì họp thứ 10 đã thơng qua Luật Tố tụng hành chính, có hiệu lực kể từ ngày
01/7/2016, trừ các quy định cụ thể hóa các quy định mới có liên quan của Bộ luật Dân sự
năm 2015 thì có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2017.
=> Qua đây, ta thây được NN ta càng ngày càng quan tâm đến hệ thống tài phán HC nhằm
bảo đảm quyền, lợi ích cho người dân, tránh sự xâm phạm từ phía các cơ quan nhà nước,
đồng thời nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong thời kì mới.
Câu 5: Đối tượng và vai trò của Luật tố tụng hành chính?
-

Đối tượng điều chỉnh: Các mối quan hệ phát sinh trong quá trình giải quyết một vụ án
hành chính, được chia làm 3 nhóm:

+ Nhóm 1: Quan hệ giữa cơ quan tiến hành tố tụng (TAND, VKSND) và người tiến
hành tố tụng (Chánh án, thẩm phán, hội thẩm nhân dân, viện trưởng VKS, kiểm sát
viên, thư ký)

+ Nhóm 2: Quan hệ giữa cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng với
đương sự (người khởi kiện, người bị kiện và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan) và
với những người tham gia tố tụng khác (người đại diện cho đương sự, người bảo vệ
quyền lợi cho đương sự, người làm chứng, người giám định và người phiên dịch)

+ Nhóm 3: Quan hệ giữa các đương sự, những người tham gia tố tụng khác với nhau.
(Nhóm này ln có chủ thể thứ ba trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia cùng, thông thường
là TA, VKS, hoặc những người làm việc trong các cơ quan này)
*LƯU Ý: - Không phải mọi quan hệ phát sinh trong quá trình này đều là đối tượng mà chỉ những

quan hệ phát sinh với mục đích giải quyết vụ án thì mới thuộc đối tượng điều chỉnh:


VD: Chánh án xử lý kỷ luật thẩm phán giải quyết tố tụng hành chính khơng thuộc đối tượng điều
chỉnh.
-

Vai trò của luật TTHC:
+ Là phương tiện để thể hiện và triển khai thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng,
của NN về đường lối giải quyết khiếu nại HC nói riêng và cải cách hành chính nói
chung.
+ Tạo lập và đảm bảo trật tự pháp luật trong các quan hệ XH phát sinh trong quá trình
giải quyết vụ án HC.
+ Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong quản lý HC NN
+ Là phương tiện để đảm bảo pháp chế và kỷ luật trong hoạt động quản lý NN, góp
phân nâng cao hiệu quả, tăng cường hiệu lực của hoạt động quản lý HC.
+ Bảo đảm các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của mình.
+ Bảo đảm vị thế pháp lý bình đẳng giữa các bên tham gia tố tụng.

Câu 6: Phương pháp điều chỉnh luật TTHC



Khái niệm: là cách thức Luật tố tụng hành chính tác động lên các quan hệ xã hội thuộc đối
tượng điều chỉnh của Luật này, làm cho quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể phát sinh,
thay đổi, chấm dứt theo ý chí của NN và qua đó, vụ án được giải quyết một cách khách
quan, nhanh chóng và kịp thời.




Các phương pháp:
-

Phương pháp quyền uy: Là phương pháp điều chỉnh chủ yếu của luật TTHC

Đặc điểm:
+ Điều chỉnh các quan hệ giữa CQ tiến hành tố TT, người tiến hành TT với đương sự và
những người tham gia TT khác.
+ Điều chỉnh mối quan hệ giữa những người tiến hành TT trong cùng một hệ thống CQ
trong khi phân công tiến hành các hoạt động TT.


+ Chủ thể tiến hành TT có quyền áp đặt lên những người tham gia TT và những chủ thể
tiến hành TT khác có địa vị pháp lý thấp hơn; có quyền đơn phương ra quyết định và
yêu cầu thực hiện quyết định được đưa ra.
+ Mục đích: Nhằm đảm bảo cho người có thẩm quyền có thể nhân danh quyền lực nhà
nước, sử dụng quyền lực nhà nước một cách tốt nhất để hoàn thành nhiệm vụ được giao.
-

Phương pháp bình đẳng:

Đặc điểm:
+ Nhà nước đặt các chủ thể tham gia vào một quan hệ pháp luật cụ thể ở địa vị pháp lý
ngang bằng để qua đó, khơng chủ thể nào có thể áp đặt ý muốn riêng mình lên chủ thể khác;
khơng chủ thể nào có thể ép buộc chủ thể kia làm những điều trái với ý chí, mong muốn,
nguyện vọng của họ.
+ Thể hiện dưới hai hình thức:



Bình đẳng định đoạt: Điều chỉnh mối quan hệ giữa các đương sự, giữa những người
tham gia tố tụng và mối quan hệ giữa các đương sự với những người tham gia tố tụng
khác. Theo phương pháp này, các chủ thể không được áp đặt nhau về cách thức xử sự và
các đương sự hồn tồn có quyền tự định đoạt những vấn đề liên quan đến quyền và lợi
ích họp pháp của mình trong vụ án hành chính.



Bình đẳng phối hợp: Điều chỉnh quan hệ giữa cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng khác hệ thống với nhau. Theo phương pháp này, các chủ thể có thẩm quyền
tiến hành tố tụng phải phối hợp với nhau, hỗ trợ nhau với mục đích giải quyết vụ án
hành chính được nhanh chóng, kịp thời và đúng pháp luật. Đồng thời, các chủ thể phải
đảm bảo tính hợp pháp và hợp lý trong hoạt động tố tụng của các chủ thể tiến hành tố
tụng khác.

Câu 7. Nêu mối quan hệ giữa luật tố tụng hành chính với các ngành luật khác?
Mối quan hệ giữa luật tố tụng hành chính và với ngành luật khác.


-

Với tư cách là luật thủ tục, luật TTHC quy định cách thức thực hiện các hoạt động tố tụng
với nội dung và trình tự tiến hành được thiết lập nhằm đáp ứng các yêu cầu chung của việc
giải quyết vụ án hành chính.

-

Mối quan hệ với ngành luật khác: bản thân luật TTHC là giải quyết một vụ chanh chấp

hành chính chứ khơng quy định tiêu chí đánh giá quyết định hành chính, hành vi hành chính bị

kiện có hợp pháp hay không. Như vậy, để giải quyết vụ án hành chính, tịa án phải căn cứ vào
các quy định của pháp luật khác như các quy định của pháp luật hành chính, các luật chuyên
ngành khác như luật đất đai,..
-

Ngồi ra, ngồi mục tiêu đảm bảo cơng bằng luật tố tụng hành chính cũng đồng thời bảo vệ

pháp luật, nâng cao hiệu quả, tăng cường hiệu lực trong hoạt động quản lý hành chính => luật tố
tụng hành chính cũng được xem là một chế định đặc biệt của luật hành chính.

-

Luật tố tụng hành chính với luật tố tụng dân sự: do cùng là luật tố tụng và cùng là luật hình

thức nên luật TTHC có rất nhiều điểm tương đồng với luật TTDS sự như cách thức tiến hành
thủ tục, tuy nhiên nó mang những nét đặc thù riêng của một vụ án hành chính:
+ Người bị kiện trong vụ án hành chính là cơ quan cơng quyền hoặc người có thẩm
quyền. Từ đó thì người bị kiện ln có đầy đủ năng lực hành vi tham gia vào q trình tố
tụng.
+ Quyền, lợi ích và trách nhiệm mà bên bị kiện phải gánh chịu nếu thua kiện thì trách
nhiệm phải gánh chịu là trách nhiệm công vụ. Mà chủ thể phải trực tiếp gánh chịu là nhà
nước. Trách nhiệm của công chức, cơ quan tổ chức nếu có là trách nhiệm nội bộ trước nhà
nước về hoạt động cơng vụ của mình.
+ Căn cứ bằng chứng, chứng cứ dùng để giải quyết vụ án hành chính gắn liền với hoạt
động cơng vụ nên chủ yếu tồn tại dưới dạng văn bản .


+ Quyền quyết định của tòa án đối với hoạt động hành chính bị kiện: khơng có quyền
sửa đổi hay ban hành một quyết định mới thay thế cho quyết định bị kiện trong vụ án.


Câu 8. Khái niệm khoa học luật tố tụng hành chính và mơn học Luật tố tụng hành chính?


Khoa học luật HC: là một ngành khoa học pháp lý chuyên sâu, không trực tiếp quy định
mà chỉ nghiên cứu, phân tích, đánh giá các hiện tượng của luật TTHC, từ đó làm sáng tỏ
các vấn đề bản chất, hình thức, đồng thời chỉ ra những hạn chế và định hướng cho sự phát
triển của Luật TTHC.
-

Hình thức tồn tại: các học thuyết, khái niệm, quan điểm, luận điểm về Luật TTHC.

-

Đối tượng nghiên cứu: các quy định của luật TTHC, việc thực hiện pháp luật TTHC trên
thực tế, các vấn đề lý luận liên quan như lịch sử hình thành và phát triển, so sánh đối
chiếu với PL TTHC nước ngoài.

-

Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng
HCM về NN&PL là PP nghiên cứu nền tảng. Ngoài ra cịn các phương pháp như: phân
tích, tổng hợp, thống kê, quy nạp, điều tra XH,…

-

Nhiệm vụ: Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn pháp lý của luật TTHC, góp
phần xây dựng căn cứ khoa học cho việc nhận thức, đề xuất giải pháp hoàn thiện và
nâng cao hiệu quả AD của luật TTHC.

-


Nguồn tư liệu nghiên cứu: các quan điểm, chủ trương của Đảng thể hiện trong các nghị
quyết và văn kiện; các quy định của luật TTHC và các VB hướng dẫn thi hành; các VB
pháp lý khác có liên quan đến việc tồn tại hay vận dụng của PL TTHC.



Môn học luật TTHC: Là mơn học mới, xuất hiện ít năm sau khi Pháp lệnh Thủ tục giải
quyết các vụ án HC được ban hành (1996) và TA chính được thiết lập trong TAND cấp tỉnh
và TANDTC.
+ Là mơn học trong chương trình đào tạo pháp luật chuyên sâu với mục tiêu cung cấp cho
người học những kiến thức lý luận và pháp luật TTHC, cung cấp những kỹ năng cơ bản
trong việc nghiên cứu PL cũng như AD luật TTHC vào những tình huống cụ thể, giải quyết
tranh chấp HC phát sinh trên thực tế.


+ Nội dung bao gồm: Hệ thống các khái niệm, nguyên tắc của khoa học luật TTHC, thẩm
quyền xét xử HC của TAND, quyền và nghĩa vụ của người tiến hành tố tụng, người tham
gia tố tụng, thủ tục giải quyết vụ án HC qua các giai đoạn cụ thể, thi hành án HC.
9. Khái niệm và phân loại các nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hành chính Việt Nam?
- Khái niệm: là hệ thống các tư tưởng, nguyên lý làm nền tảng, chỉ đạo và định hướng chi phối việc
xây dựng và thực hiện pháp luật TTHC VN, được ghi nhận trong các VBPL TTHC.
- Vai trò:
+ Là nền tảng đảm bảo tính thống nhất của pháp luật TTHC, góp phần đảm bảo tính thống nhất
của Luật TTHC với hệ thống pháp luật VN.
+ Thống nhất trong việc xây dựng pháp luật TTHC, sửa đổi bổ sung pháp luật, tránh sự mâu
thuẫn, chồng chéo hoặc thiếu thống nhất trong một VBPL nói riêng và trong hệ thống pháp luật
TTHC nói chung; đảm bảo cho sự phát triển của hệ thống pháp luật TTHC.
+ Thống nhất trong việc áp dụng pháp luật trong thực tiễn, là cơ sở cho việc giải quyết các vụ
án hành chính được nhanh chóng, kịp thời, thuận lợi, ngăn chặn các hành vi tiêu cực trong quá trình

TTHC, bảo vệ quyền con người, quyền công dân)
- Phân loại:
* Căn cứ vào thứ bậc pháp lý:
+ Nguyên tắc hiến định: đã được quy định trong Hiến pháp và được khẳng định lại trong Luật
TTHC: Tuân thủ pháp luật trong tố tụng hành chính; Tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng hành
chính; Bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng hành chính,....
+ Nguyên tắc luật định: được quy định riêng trong Luật TTHC như: Quyền quyết định và tự
định đoạt của người khởi kiện; Trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng,...
* Căn cứ vào tính chất đặc thù của Luật TTHC:


+ Nguyên tắc chung (áp dụng cho mọi loại hình tố tụng dân sự, hình sự): Tuân thủ pháp luật
trong tố tụng hành chính; Bảo đảm chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm; Hội thẩm nhân dân tham gia
xét xử vụ án hành chính; Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật,...
+ Nguyên tắc riêng, đặc thù của TTHC: Xem xét, xử lý văn bản quy phạm pháp luật, văn bản
hành chính, hành vi hành chính có liên quan trong vụ án hành chính; Giải quyết vấn đề bồi thường
thiệt hại trong vụ án hành chính; Quyền quyết định và tự định đoạt của người khởi kiện,....
 Hai cách phân loại này có ưu điểm làm rõ tinh thứ bậc của các nguyên tắc trong TTHC,
đồng thời xác định được các nguyên tắc chung và nguyên tắc đặc thù của luật TTHC. Tuy
nhiên sự phân chia trên khơng rõ ràng, bởi có những nguyên tắc hiến định đồng thời cũng là
luật định, và phần lớn những nguyên tắc chung trong hoạt động tư pháp đồng thời cũng là
những nguyên tắc của luật TTHC.
* Căn cứ vào tính chất, lĩnh vực điều chỉnh:
+ Nhóm nguyên tắc đảm bảo pháp chế XHCN: Tuân thủ pháp luật trong tố tụng hành chính;
+ Nhóm ngun tắc về tổ chức và hoạt động của xét xử của TA: Bảo đảm chế độ xét xử sơ
thẩm, phúc thẩm; Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án hành chính; Thẩm phán, Hội thẩm nhân
dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật,...
+ Nhóm nguyên tắc đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự: Giải quyết vấn đề

bồi thường thiệt hại trong vụ án hành chính; Quyền quyết định và tự định đoạt của người khởi kiện
 Cách phân loại này có tính xác định hơn cả, tuy nhiên cũng có những nguyên tắc có thể
thuộc về hai hoặc ba nhóm.
VD: Nguyên tắc xét xử độc lập có thể đồng thời xếp vào nhóm 1 hoặc 2.
kCâu 10. Phân tích ngun tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử hành chính?
- Đây là một nguyên tắc mới, được quy định trong Khoản 5 điều 163 HP 2013: “Nguyên tắc
tranh tụng trong xét xử được đảm bảo”
- Điều 13 Luật tổ chức tòa án nhân 2014: Bảo đảm tranh tụng trong xét xử quy định:


“Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm. Tịa án có trách nhiệm bảo đảm cho những
người tham gia tố tụng thực hiện quyền tranh tụng trong xét xử. Việc thực hiện nguyên tắc tranh
tụng trong xét xử theo quy định của luật tố tụng.”
- Mục đích, ý nghĩa của phần tranh luận tại phiên tòa:
+ Nhằm làm sáng tỏ những tình tiết khách quan của vụ kiện hành chính, nhất là các tình tiết
mà những người tham gia tranh luận cịn có ý kiến khác nhau.
+ Thơng qua phần tranh luận để giúp hội đồng xét xử sẽ có những đánh giá, nhận định đầy đủ
khách quan về nội dung vụ án, để làm căn cứ khi nghị án và ra bản án hoặc quyết định đúng pháp
luật, có sức thuyết phục.
Tuy nhiên, với các quy định của luật tố tụng hành chính nêu trên về thủ tục tranh luận tại phiên tịa
thì chưa bao hàm được mục đích, ý nghĩa của phần tranh luận tại phiên tịa. Bởi vì, trong tố tụng
hành chính, người tham gia tranh luận chỉ có người tham gia tố tụng và các luật sư bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của họ. Khơng có sự tham gia của kiểm sát viên. Đây là nội dung khác so với tố
tụng hình sự, ở phần tranh luận tại phiên tịa hình sự. Hơn nữa, về vị trí xã hội thì người tham gia tố
tụng cũng khác nhau, trong đó người khởi kiện “yếu thế” hơn so với người bị kiện, vì người bị kiện
là người có thẩm quyền ra các quyết định hành chính, hành vi hành chính. Cịn người khởi kiện là
người phục tùng, chấp hành quyết định hoặc hành vi hành chính. Đây cũng là nội dung khác biệt so
với tố tụng dân sự, vì nguyên đơn và bị đơn khi tham gia quan hệ dân sự là bình đẳng, tự nguyện.
Xuất phát từ sự khác biệt nêu trên, nên trong thực tiễn xét xử các vụ án hành chính, phần tranh
luận thường đưa ra rất ngắn, trong trường hợp có luật sư tham gia thì chủ yếu là phát biểu của

luật sư, nên chất lượng của phần tranh luận rất hạn chế, không đạt được ý nghĩa làm sáng tỏ các
tình tiết khách quan của vụ án, dẫn đến việc chưa đảm bảo yêu cầu về chất lượng xét xử.
Đối với nội dung đối đáp trong phần tranh luận, thì quy định “Người tham gia tranh luận có quyền
đáp lại ý kiến của người khác”. Quy định này dẫn đến tình trạng khi mà người khác yêu cầu người
tham gia tranh luận giải thích hoặc trình bày một vấn đề cụ thể nào đó, lẽ ra người bị yêu cầu có
nghĩa vụ giải thích hoặc trình bày nhưng họ không thực hiện hoặc trả lời qua loa, chiếu lệ và Hội
đồng xét xử cũng không thể yêu cầu họ thực hiện theo yêu cầu của người đặt ra yêu cầu, vì luật chỉ
quy định: Họ có quyền đáp lại ý kiến của người khác, nghĩa là vì là “quyền” của họ nên có thể thực


hiện hoặc khơng thực hiện. Chính vì vậy trong các phiên tịa hành chính, khi người khởi kiện u
cầu người bị kiện giải thích, hoặc nêu rõ những căn cứ pháp lý để ra các quyết định hành chính,
hành vi hành chính thì người bị kiện thường là trình bày, giải thích chung chung hoặc né tránh. Bất
cập này của phần tranh luận trong tố tụng hành chính cần thiết phải sửa đổi để nội dung đối đáp
phải vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của những người tham gia tranh luận.
Câu 11. Phân tích nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật?
- Cơ sở pháp lý của nguyên tắc: hiến pháp 2013 quy định tại điều 103 khoản 2: “Thẩm phán, Hội
thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào
việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm.”
- BLDS 2015: Điều 13. Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật
1. Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
2. Nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm nhân
dân dưới bất kỳ hình thức nào.
- Thiếu vắng sự độc lập, quyết định của TA sẽ khó đảm bảo khách quan cơng bằng, họp lý =>
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự cũng k được bảo vệ nếu thiếu vắng sự độc lập trong xx của
TA
- Nội dung: Là hoạt động của TA có thẩm quyền dựa trên cơ sở PL để đưa ra quyết định về 1 vụ án
HC giữa các bên đương sự để quyết định của TA thực sự đúng đắn, đảm bảo cơng lý, thì việc xx

của TA phải độc lập, khác quan, vô tư, không bị lệ thuộc vào bất kỳ tác động của bên nào.
- Thể hiện của nguyên tắc ở nhiều góc độ khác nhau:
+ Sự độc lập giữa các thành viên của hội đồng xx. Đây cũng là nội dung của nguyên tắc hội
thẩm ND ngang quyền với thẩm phán khi xx vụ án HC. Sự tham gia của HTND là điều kiện khẳng
định tính dân chủ của hoạt động tư pháp và đảm bảo cho quyết định của TA vừa hợp pháp vừa gần
tiếng nói của đời sống thực tiễn. HĐXX sơ thẩm VAHC thơng thường có hội thẩm ND tham gia
cùng thẩm phán. Tuy tính chất và vị trí (thành viên hay chủ tọa) có khác nhau nhưng trong xx và


nghị án thì thành viên HĐXX đều bình đẳng và độc lập xx khơng có thành viên nào can thiệp hay
chỉ đạo (trong khi làm nhiệm vụ, hội thẩm ND có quyền tiến hành mọi hoạt động độc lập, khi nghị
án thì hội thẩm ND được biểu quyết trước, thẩm phán sau, biểu quyết theo đa số, người có ý kiến
phải trình bày bằng văn bản và đưa vào hồ sơ vụ án)
+ Độc lập của HĐXX đối với viện kiểm sát và các cấp TA trong quá trình giải quyết VAHC.


Xuất phát từ chức năng kiểm sát việc tuân theo PL của VKS thì cơ quan này có những
hoạt động trực tiếp tham gia vào quá trình TTHC, và vì vậy có nhiều khả năng quyết
định của HĐXX sẽ chịu ảnh hưởng. Để loại trừ khả năng can thiệp của VKS vào quá
trình giải quyết VAHC, Luật TTHC đã bỏ quy định VKS trực tiếp khởi tố VAHC, quyết
định HC.

Ngay sau khi kết thúc phiên tòa, Kiểm sát viên phải gửi văn bản phát biểu ý kiến cho Tòa án để lưu
vào hồ sơ vụ án.”
Như vậy, Kiểm sát viên không phát biểu ý kiến về đường lối giải quyết vụ án mà chỉ được phát biểu
về việc tuân theo PL của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng => đảm bảo sự độc lập
xx của tòa


Các cấp tòa án: cần đảm bảo rằng trong q trình xx tịa án cấp trên khơng được gợi ý

hay hướng dẫn tòa án cấp dưới về một vụ án cụ thể. Mọi hình thức “thỉnh thị án” đều bị
coi là đi ngược lại nguyên tắc độc lập xx. Ngược lại khi xx phúc thẩm, giám đốc thẩm
thì các cấp xx sau không bị phụ thuộc bởi các nhận định hay quyết định của TA cấp
dưới.

+ Độc lập trong xx thể hiện trong sự độc lập của thẩm phán, HTND với các cá nhân, tổ chức,
cơ quan nhà nước khác. Mọi sự can thiệp của các cá nhân,... dưới bất kỳ hình thức nào cũng bị coi
là trái PL. Ở khía cạnh này thì ngun tắc độc lập xx bao hàm cả nguyên tắc đảm bảo sự vô tư của
người tiến hành tố tụng. Nếu có lý do để có thể cho rằng thẩm phán, HTND là khơng vơ tư thì họ
buộc phải từ chối tham gia xx hoặc bị thay đổi xx vụ án HC.
Đặc biệt, sự độc lập của thẩm phán, HTND đối với một bên đương sự- cơ quan HC nhà nướcngười bị kiện trong VAHC là điều then chốt để đảm bảo phán quyết của TA khách quan, vô tư. Tuy
nhiên đây cũng là điều khó khăn, bởi lẽ trong hệ thống cơ quan NN trên địa bàn lãnh thổ thì TA và
cơ quan HC cũng thường có mối quan hệ nhất định => cơ chế đảm bảo độc lập của TA cũng phụ


thuộc vào các cơ chế đảm bảo khác (chế độ tuyển chọn và bổ nhiệm thẩm phán, lương bổng, nhiệm
kỳ của thẩm phán...)
Để đảm bảo cho nguyên tắc hội thẩm ND và thẩm phán ... luật TTHC quy định: nghiêm cấm mọi
hvi can thiệp, cản trở thẩm phán, hội thẩm thực hiện nhiệm vụ. Mọi hvi cản trở, can thiệp đều
bị coi là trái PL => tùy theo mức độ, tích chất sẽ bị xử lý.

Câu 12. Phân tích nguyên tắc xét xử cơng khai vụ án hành chính?
Đây là nguyên tắc quan trọng trong tố tụng hành chính. Khoản 2 Điều 16 Luật tố tụng hành chính:
Điều 16. Tịa án xét xử kịp thời, cơng bằng, cơng khai
1. Tịa án xét xử kịp thời trong thời hạn do Luật này quy định, bảo đảm cơng bằng.
2. Tịa án xét xử cơng khai. Trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong, mỹ tục của
dân tộc, bảo vệ người chưa thành niên hoặc giữ bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật cá
nhân theo yêu cầu chính đáng của đương sự, Tịa án có thể xét xử kín.
Sự cần thiết của việc xét xử cơng khai trong tố tụng hành chính:
-


Xét xử cơng khai có liên hệ chặt chẽ với các nguyên tắc khác của PL TTHC như nguyên tắc

pháp chế, nguyên tắc độc lập xét xử…
-

Chỉ trên cơ sở xét xử cơng khai thì vụ án hành chính mới được kiểm sốt, giám sát chặt chẽ

nhất, đó là cơ sở để đảm bảo tính đúng đắn, khách quan trong xét xử hành chính.
-

Đảm bảo sự độc lập, vô tư của người tiến hành tố tụng.

-

Tạo tiền đề cho sự tham gia của công chúng vào hoạt động xét xử, đảm bảo tính dân chủ và

quyền tham gia của các bên liên quan, tạo điều kiện cho việc tuyên truyền phổ biến, giáo dục ý thức
pháp luật cho cơng dân qua đó nâng cao ý thức pháp luật của người dân.


Nguyên tắc xét xử công khai trở thành nguyên tắc xuyên suốt trong quá trình xét xử

vụ án hành chính.


-

Luật tố tụng hành chính quy định phiên tịa hành chính phải được mở rộng cơng khai
trước cơng chúng, từ khi bắt đầu đến khi kết thúc, đông đảo công dân có thể tham dự.

Mọi cơng dân từ 16 tuổi đều có quyền tham dự phiên tịa hành chính.

-

Mọi thơng tin phiên tịa đều phải được niêm yết cơng khai: nội dung, địa điểm, thời gian
mở phiên tòa.

-

Mọi thay đổi liên quan đến phiên tịa như việc hỗn phiên tịa, thời gian địa điểm tuyên
án… đều phải được HĐXX công bố rõ ràng, công khai cho người tham dự và các cơ
quan liên quan biết.

-

Trong quá trình xét xử, mọi hoạt động tra hỏi, tranh luận, phát biểu ý kiến … của người
tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng đều diễn ra công khai, trừ trường hợp cần
được giữ bí mật. Tất cả mọi hoạt động diễn ra ở phiên tòa đều phải được ghi vào trong
biên bản phiên tịa.

-

Ngun tắc xét xử cơng khai được áp dụng đối với cả phiên tòa sơ thẩm và phiên tòa
phúc thẩm.

-

Về nguyên tắc, tất cả các vụ án hành chính đều phải xét xử cơng khai trừ trường hợp cần
giữ bí mật. Tuy nhiên vụ án được xử kín thì khi tun án vẫn phải cơng khai.
Câu 13. Ngun tắc thực hiện chế đô 2 cấp xét xử

Điều 19. Thực hiện chế độ hai cấp xét xử
1. Toà án thực hiện chế độ hai cấp xét xử vụ án hành chính, trừ trường hợp xét xử vụ án
hành chính đối với khiếu kiện về danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử
tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân. Bản án, quyết định sơ thẩm của Tồ án có thể bị
kháng cáo, kháng nghị theo quy định của Luật này.
Bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm trong
thời hạn do Luật này quy định thì có hiệu lực pháp luật; trường hợp bản án, quyết định sơ
thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì vụ án phải được giải quyết theo thủ tục phúc thẩm. Bản
án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật.


2. Bản án, quyết định của Tồ án đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện có vi phạm pháp
luật hoặc có tình tiết mới thì được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm
theo quy định của Luật này.
Điều 11. Bảo đảm chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm
1. Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm, trừ trường hợp xét xử vụ án hành chính đối với
khiếu kiện danh sách cử tri.
Bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của Luật này.
Bản án, quyết định sơ thẩm của Tịa án khơng bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm
trong thời hạn do Luật này quy định thì có hiệu lực pháp luật. Bản án, quyết định sơ thẩm của Tịa
án bị kháng cáo, kháng nghị thì vụ án phải được giải quyết theo thủ tục phúc thẩm. Bản án, quyết
định phúc thẩm của Tịa án có hiệu lực pháp luật.
2. Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện có vi phạm pháp luật hoặc
có tình tiết mới theo quy định của Luật này thì được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc
tái thẩm.
- Chế độ 2 cấp xét xử ở đây được hiểu là cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm.
- Việc thực hiện chế độ 2 cấp xét xử có ý nghĩa quan trọng:
+ Đảm bảo việc xét xử hành chính ln đúng luật
+ Nó là chế độ hữu hiệu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong
trường hợp cấp sơ thẩm đưa ra bản án, quyết định sai lầm gây thiệt hại cho đương sự.

Tuy nhiên , nó cũng có giới hạn nhất định:
+ Khơng dùng với khiếu kiện danh sách cử tri
+ Không gồm tái thẩm, giám đốc thẩm vụ án hành chính.

Câu 14. . Phân tích nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng hoặc
những người tham gia tố tụng hành chính?


Quy định tại Điều 14. Bảo đảm sự vô tư, khách quan trong tố tụng hành chính
1. Chánh án Tịa án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án, Viện trưởng
Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, người phiên dịch, người giám định, thành viên Hội
đồng định giá không được tiến hành, tham gia tố tụng nếu có căn cứ cho rằng họ có thể khơng vơ
tư, khách quan trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
2. Việc phân cơng người tiến hành tố tụng phải bảo đảm để họ vô tư, khách quan trong khi thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
- Được áp dụng đối với 2 đối tượng: người tiến hành tố tụng và những người tham gia có tính hỗ
trợ cho hoạt động tố tụng. Đây là những đối tượng hoặc nhân danh nhà nước thực hiện hoạt động tố
tụng hành chính hoặc hỗ trợ đắc lực q trình tố tụng hành chính bằng kiến thức kinh nghiệm hay
sự chứng kiến của mình. Hoạt động của họ nếu có sự thiên lệch, vụ lợi chắc chắn sẽ làm sai lệch kết
quả giải quyết vụ án.
- Thể hiện: khi có căn cứ cho rằng khơng có sự vơ tư của 2 đối tượng đó, thì những người này hoặc
bị thay đổi hoặc buộc phải từ chối tiến hành hoặc tham gia tố tụng. Có thể chia các căn cứ ra làm 2
nhóm:
+ Những căn cứ cho thấy rằng người THTT, người TGTT có thể có lợi ích về vật chất hay tinh thần
liên quan đến vụ án.
+ Những căn cứ có thể có định kiến trong việc đưa ra quyết định hoặc thực hiện các hoạt động tố
tụng.
Ví dụ: người tiến hành tố tụng đã tham gia vào vào việc ra quyết định giải quyết khiếu nại
đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính bị kiện.
- Pháp luật nước ngoài chia thành căn cứ khách quan (những yếu tố bên ngồi như quan hệ thân

thích, cơng tác..) và chủ quan (những yếu tố định kiến có trước cho người tiến hành tố tụng trước
khi xử như đã biết kết quả lần giải quyết vụ việc trước đó; đã từng tham gia vào xử lý vụ việc…)
- Ý nghĩa: Chỉ thực sự vơ tư khách quan thì việc giải quyết vụ án mới đạt hiệu quả. Và từ đó bảo vệ
được quyền lợi ích của các đương sự, pháp chế XHXN.


- Ngun tắc này khơng hồn tồn đồng nhất với nguyên tắc bảo đảm độc lập xét xử của thẩm phán
và hội thẩm nhân dân.
Câu 15. Phân tích nguyên tắc quyền u cầu tịa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
Điều 5. Quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khởi kiện vụ án hành chính để u cầu Tịa án bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình theo quy định của Luật này.
-

Biện pháp hữu hiệu bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước sự xâm phạm
của nhà nước

-

Thể hiện bản chất dân chủ của xã hội, xu thế của nhà nước pháp quyền

-

Biểu hiện:
+ Cá nhân, tổ chức nếu có quyền và lợi ích bị xâm hại đều có quyền u cầu Tịa án bảo
vệ quyền + lợi ích hợp pháp của mình
+ Chủ thể xâm hại ko thể thực hiện được thì chủ thể khác có quyền u cầu
+ Tịa án có nghĩa vụ xem xét giải quyết u cầu của người khởi kiện

Câu 16: Nguyên tắc bảo đảm quyền quyết định và quyền tự định đoạt của người khởi kiện.

Điều 8. Quyền quyết định và tự định đoạt của người khởi kiện
“Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền quyết định việc khởi kiện vụ án hành chính. Tịa án chỉ thụ lý
giải quyết vụ án hành chính khi có đơn khởi kiện của người khởi kiện. Trong q trình giải quyết vụ
án hành chính, người khởi kiện có quyền thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu khởi kiện, thực hiện các
quyền tố tụng khác của mình theo quy định của Luật này.”
Nội Dung:
-

Người khởi kiện có quyền tự quyết định về việc khởi kiện vụ án hành chính


+ Người khởi kiện có quyền lựa chọn phương thức khác nhau: Khiếu nại hành chính hoặc khởi kiện
hành chính.
+ Quyền lựa chọn việc khởi kiện vụ án hành chính là quyền dành riêng cho người khởi kiện trừ
trường hợp người đại diện cho người khởi kiện đứng ra khởi kiện vụ án hành chính nhưng sự quyết
định này suất phát từ sự tự nguyện của người khởi kiện hoặc người đại diện cho đương sự là người
chưa thành niên hay mất nặng lực hành vi dân sự.
+ Ở phạm vi xét xử phúc thẩm quyền tự định đoạt việc khởi kiện của cá nhân, tổ chức thể hiện
trong quyền kháng cáo của bản án sơ thẩm
-

Người khởi kiện có quyền tự quyết định các yêu cầu khởi kiện của mình và tịa án chỉ xét sử

dựa trên các u cầu của người khởi kiện.
+ Người khởi kiện có quyền đưa ra các yêu cầu của mình như: yêu cầu hủy quyết định hành chính,
yêu cầu bồi thường thiệt hại,... nhưng nội dung các yêu cầu phải đặt trong giới hạn pháp luật.
-

Người khởi kiện có quyền quyết định việc rút, thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của mình


theo quy định pháp luật.
Câu 17. Phân tích ngun tắc bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự?
- Căn cứ pháp lý: điều 11 luật TTHC năm 2015
Điều 19. Bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
1. Đương sự có quyền tự bảo vệ hoặc nhờ luật sư hoặc người khác có đủ điều kiện theo quy định
của Luật này bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
2. Tịa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của họ.
3. Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm trợ giúp pháp lý cho người được trợ giúp pháp lý theo quy
định của Luật trợ giúp pháp lý để họ thực hiện quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trước Tòa
án.


4. Không ai được hạn chế quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng hành
chính.

- Được hiểu là việc tịa án chấp nhận và tạo điều kiện cho đương sự được tự bảo vệ hoặc nhờ người
khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
- Ý nghĩa: quan trọng trước tiên đối với chính đương sự
+

Đương sự có quyền được tự bảo vệ hay nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của mình. Ngun tắc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Ngồi ra ngun
tắc này có ý nghĩa quan trọng thúc đẩy việc xét xử vụ án, giúp tịa án có thể nhanh chóng và
chính xác đưa ra phán quyết cuối cùng.
-

Nội dung của nguyên tắc:

+ Đương sự có quyền tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
+ Đương sự có quyền nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình (luật sư
hoặc trợ giúp viên pháp lý) theo quy định của luật trợ giúp pháp lý. Quyền này được đề cao
khi đương sự có người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp thì đương sự cũng có thể cùng họ
tham gia tố tụng, như bổ sung ý kiến trong việc phát biểu, tranh luận tại phiên tịa
+ Trong mọi trường hợp, TA có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của họ: như từ khi khởi kiện hoặc bất kỳ giai đoạn nào trong quá
trình tố tụng, quyền được xác minh, thu thập chứng cứ và cung cấp chứng cứ cho tòa án;
Quyền nghiên cứu hồ sơ vụ án và được ghi chép sao nộp chứng cứ và cung cấp chứng cứ
cho tòa án; quyền nghiên cứu hồ sơ vụ án; quyền ghi chép, sao chụp những tài liệu có trong
hồ sợ vụ án để thực hiện quyền và lợi ích hợp pháp…

Câu 18: Phân tích nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng hành chính?
- Cơ sở: Hiến pháp 2013: mọi cơng dân đều bình đẳng với nhau trước pháp luật


- Thể hiện: Điều 17 luật tố tụng hành chính 2015
1. Trong tố tụng hành chính, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, khơng phân biệt dân tộc,
giới tính, tín ngưỡng, tơn giáo, thành phần xã hội, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, địa vị xã hội.
2. Mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân bình đẳng trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ trong tố tụng
hành chính trước Tịa án.
3. Tịa án có trách nhiệm tạo điều kiện để cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện các quyền và nghĩa
vụ của mình.
- Nội dung:
+ Bình đẳng của mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức trong pháp luật tố tụng hành chính
VD: các tổ chức khơng phân biệt tổ chức đó là nhà nước hay tư nhân, hoạt động vì mục tiêu
lợi nhuận hay phi lợi nhuận,…
+ Bình đẳng về quyền và các nghĩa vụ giữa các đương sự với nhau trong quá trình giải quyết vụ án
hành chính



Khơng bao giờ quy định một bên chỉ có quyền, cịn bên kia chỉ có nghĩa vụ



Trong cùng một hoạt động tố tụng, các bên đương sự đều phải có nghĩa vụ hoặc đều
cùng được hưởng một số quyền nhất định.

+ Tịa án có trách nhiệm tạo điều kiện để các đương sự thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình đúng
theo quy định của pháp luật.


Đảm bảo quá trình giải quyết vụ án hành chính đối với bất cứ chủ thể nào cũng phải theo
một trình tự thủ tục thống nhất, khơng có ngoại lệ cho bất cứ chủ thể nào.

- Ý nghĩa : Tạo điều kiện cho việc xét xử khách quan, đúng pháp luật, từ đó đảm bảo pháp chế và
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Câu 19. Phân tích nguyên tắc bảo đảm quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc trong tố
tụng hành chính?
- Cơ sở: Điều 21. Tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng hành chính


Tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng hành chính là tiếng Việt.
Người tham gia tố tụng hành chính có quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình; trường
hợp này phải có người phiên dịch.
Người tham gia tố tụng hành chính là người khuyết tật nghe, người khuyết tật nói hoặc người
khuyết tật nhìn có quyền dùng ngôn ngữ, ký hiệu, chữ dành riêng cho người khuyết tật; trường hợp
này phải có người biết nghe, nói bằng ngôn ngữ, ký hiệu, chữ dành riêng của người khuyết tật để
dịch lại.
- Nội dung:

+ Tiếng nói, chữ viết dùng trong TTHC là tiếng Việt, đây là ngôn ngữ chính thức được sử dụng
trong các thủ tục tố tụng của VN trong đó có TTHC. Vì đây là loại ngôn ngữ thuận tiện, thông dụng
nhất, đồng thời với quy định này sẽ đảm bảo sự thống nhất trong quy định và thực hiện pháp luật.
+ Tuy nhiên, trong trường hợp người tham gia TTHC không biết, hoặc không sử dụng thơng
thạo tiếng Việt thì họ có quyền dùng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình để trình bày ý kiến, cung
cấp chứng cứ và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Trong trường hợp này
phải có người phiên dịch. Quy định như vậy là nhằm đảm bảo sự chính xác, đúng đắn cho việc các
bên tham gia TTHC trình bày ý kiến, cung cấp tài liệu, chứng cứ và chứng minh, tranh luận để bảo
vệ quan điểm của mình, góp phần vào giải quyết vụ án.
- Thể hiện: quy định cụ thể trong điều 21, Luật TTHC ghi nhận rõ ràng là một nguyên tắc trong
TTHC buộc các chủ thể TTHC phải tuân thủ;
Qua các quy định về tạo điều kiện và đảm bảo cho sự tham gia TTHC của người phiên dịch: TA căn
cứ vào quy định của Luật TTHC, chấp nhận sự tham gia của người phiên dịch theo sự thỏa thuận
của các đương sự hoặc theo yêu cầu của TA nhằm giúp người THTT và người tham gia TT thơng
qua người phiên dịch tìm hiểu hồ sơ và tham gia các hoạt động TTHC.
- Ý nghĩa: đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng về mặt kỹ thuật trong TTHC nhằm đảm bảo tính
chính xác, khách quan trong q trình giải quyết vụ án.
+ Đây cịn là vấn đề mang tính chính trị, đảm bảo quyền bình đẳng giữa các dân tộc, thể hiện
bản chất dân chủ của nhà nước và pháp luật.


×