Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Luận văn Thạc sĩ Khoa học Lâm nghiệp: Nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật cải tạo rừng Luồng (Dendrocalamus barbatus Hsueh et D. Z. Li) thoái hóa tại huyện Đoan Hùng tỉnh Phú

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.2 MB, 88 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP VIỆT NAM

NGUYỄN VIỄN

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ BIỆN PHÁP KỸ THUẬT CẢI TẠO RỪNG
LUỒNG (Dendrocalamus barbatus Hsueh et D. Z. Li) THỐI HĨA
TẠI HUYỆN ĐOAN HÙNG, TỈNH PHÚ THỌ

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

Hà Nội - 2012


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP VIỆT NAM

NGUYỄN VIỄN

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ BIỆN PHÁP KỸ THUẬT CẢI TẠO RỪNG
LUỒNG (Dendrocalamus barbatus Hsueh et D. Z. Li) THỐI HĨA
TẠI HUYỆN ĐOAN HÙNG, TỈNH PHÚ THỌ

Chuyên ngành: Kỹ thuật Lâm sinh
Mã số: 60.62.60



LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

TS. ĐỖ ANH TUÂN
TS. NGUYỄN ANH DŨNG

Hà Nội - 2012


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Đoan Hùng là một huyện đồi núi trung du, nằm tại ngã ba ranh giới
giữa tỉnh Phú Thọ với hai tỉnh Yên Bái và Tuyên Quang. Diện tích tự nhiên
của huyện Đoan Hùng là 302,4 km² với dân số năm 2010 là 110 542 người.
Vì là huyện đồi núi trung du nên địa hình bị chia cắt nên tuy gặp một số khó
khăn về việc đi lại, giao lưu song khu vực này lại có nhiều tiềm năng phát
triển lâm nghiệp, khai thác khoáng sản và phát triển kinh tế trang trại. Do đó
thuận lợi cho việc trồng các loại cây công nghiệp, cây lâm nghiệp và chăn
nuôi.
Luồng (Dendrocalamus barbatus Hsueh et D. Z. Li) là một trong
những lồi cây có giá trị kinh tế và giá trị phòng hộ cao. Với đặc điểm dễ gây
trồng, mức đầu tư thấp, khi trưởng thành lại được khai thác hàng năm nên
Luồng đã mang lại thu nhập thường xuyên, đảm bảo lấy ngắn nuôi dài cho
người dân làm nghề rừng.
Do có giá trị kinh tế cao nên Luồng được di thực và gây trồng tại Trung
tâm Nghiên cứu Thực nghiệm lâm sinh Cầu Hai (tỉnh Phú Thọ) và sau đó
được gây trồng ở nhiều tỉnh trên cả nước như: Hòa Bình, Phú Thọ, Tuyên

Quang, Yên Bái, Quảng Ninh, Bắc Giang, Thái Nguyên, Quảng Trị và Đông
Nam Bộ.... và là một loài cây thế mạnh trong việc trồng rừng của khu vư ̣c,
góp phần nâng cao độ che phủ, cải thiện môi trường và tăng thu nhâ ̣p cho
người dân trong vùng.
Luồng thuộc họ Hồ thảo (Poaceae) có hệ rễ chùm ăn nơng giống các
lồi lúa, ngơ. Là cây ưa sáng sinh trưởng nhanh, ưa ẩm. Đồng thời Luồng có
thời gian kinh doanh dài, nhu cầu cây Luồng phục vụ chế biến, xuất khẩu
ngày càng lớn. Tuy nhiên,các biện pháp kỹ thuật thâm canh chăm sóc, kỹ
thuật và cường độ khai thác chưa thực sự chú ý quan tâm nên rừng Luồng 10
đến 15 năm thường năng suất rừng sẽ bị giảm mạnh, cây nhỏ, hiệu quả kinh tế


2

thấp. Nhiều diện tích rừng Luồng ở Đoan Hùng hiện nay đã và đang bị thối
hóa ở các mức đơ ̣ khác nhau chiếm tới 70% diện tích Luồng hiện có, năng suất
và chất lượng rừng Luồng suy giảm nghiêm tro ̣ng. Theo thống kê của hạt
kiểm lâm huyện Đoan Hùng hàng năm diện tích rừng Luồng tăng khơng đáng
kể trong khi đó chất lượng rừng Luồng đã giảm đi rõ rệt, nhiều nơi rừng chỉ
còn 1 - 2 thế hệ, bình qn chỉ có 3 - 4 cây/bụi, mật độ chỉ còn 80 - 150 bụi/ha.
Hơn nữa, rừng Luồng thuần lồi cịn phải đối mặt với các lồi bệnh như chổi
xuể, sọc tím và dịch châu chấu ăn lá, sâu vịi voi hại măng. Do đó, rất nhiều
diện tích rừng trồng Luồng ở khu vực đã bị thối hóa, không đạt được hiệu
quả mong muốn, sản lượng măng và chấ t lươ ̣ng thân Luồng thấp.
Trước thực tế trên, thách thức rất lớn đặt ra hiện nay là làm thế nào để
tạo ra các khu rừng trồng có năng suất, hiệu quả, ổn định và bền vững từ các
khu rừng Luồng thối hóa, kém hiệu quả. Vì vậy, việc triển khai đề tài
“Nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật cải tạo rừng Luồng (Dendrocalamus
barbatus Hsueh et D. Z. Li) thối hóa tại hu ̣n Đoan Hùng tỉnh Phú Thọ”
là cần thiết nhằm xác định được một số biện pháp kỹ thuật cải tạo rừng

Luồng thối hóa phù hợp.


3

Chương 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
1.1. Một số khái niệm liên quan
1.1.1. Cải tạo rừng
Cải tạo rừng được hiểu là sự tái tạo lại năng suất và độ ổn định của một
lập địa bằng cách thiết lập một thảm thực vật hoàn toàn mới để thay thế cho
thảm thực vật gốc đã bị thối hóa mạnh. Ở vùng nhiệt đới, các xã hợp thực vật
được thay thế này thường đơn giản nhưng lại có năng suất cao hơn thảm thực
vật gốc. Các lập địa rừng nghèo kiệt, trảng cây bụi... là đối tượng hoạt động
này và cũng là những cơ hội cho việc thiết lập các rừng công nghiệp sử dụng
các lồi cây nhập nội sinh trưởng nhanh hơn và có giá trị kinh tế cao hơn so
với thảm thực vật gốc (dẫn theo Trần Văn Con, 2006) [3].
1.1.2. Khôi phục rừng
Khơi phục rừng được hiểu là đưa khu rừng đó trở về nguyên trạng ban
đầu của nó. Đưa về nguyên trạng bao gồm cả các thành phần thực vật, động
vật và tồn bộ các q trình sinh thái dẫn đến sự khơi phục lại hồn tồn tính
tổng thể của hệ sinh thái. Đây là một định nghĩa quá nhiều tham vọng, chứa
đựng nhiều thách thức về mặt kỹ thuật và cũng sẽ rất tốn kém nhưng có thể
đạt được xét về mặt sinh thái. Tuy nhiên về mặt thực tế: việc khơi phục rừng
nghèo có thể được hiểu là một loạt các chiến lược nhằm chuyển những khu
rừng nghèo vào dãy diễn thế đi lên của rừng để đạt được các trạng thái mong
muốn trong tương lai (dẫn theo Trần Văn Con, 2006) [3].
1.1.3. Phục hồi rừng
Quá trình hình thành nên rừng thứ sinh (Secondary forest) do diễn thế thứ
sinh (Secondary succession) ở những nơi đã bị mất rừng là phục hồi rừng.

Theo Trần Đình Lý (1995) [20], phục hồi rừng là một quá trình sinh địa
phức tạp gồm nhiều thời gian và kết thúc bằng sự xuất hiện một thảm thực vật


4

cây gỗ (hoặc tre nứa) bắt đầu khép tán. Nói một cách khác, phục hồi rừng là
quá trình tái tạo lại một hệ sinh thái, một quần xã sinh vật mà trong đó cây gỗ
là yếu tố cấu thành chủ yếu, nó chi phối các q trình biến đổi tiếp theo.
Phu ̣c hồ i (Rehabilitation) là tái lâ ̣p la ̣i năng suấ t và mô ̣t số loài đô ̣ng vâ ̣t,
thực vâ ̣t nhưng không nhấ t thiế t là tất cả các loài mà trước kia từng có mă ̣t ta ̣i
nơi đó. Vì những lý do kinh tế và sinh thái rừng mới có thể bao gờ m cả những
lồi mà trước đây khơng có mă ̣t ở vùng đó. Chức năng bảo vê ̣ và nhiề u vai trò
sinh thái khác của rừng nguyên thủy có thể đươ ̣c tái lập. (Nguyễn Văn Sản và
Don Gilmour, 1999) [25].
Phu ̣c hồ i rừng là thực hiê ̣n các hoa ̣t đô ̣ng hướng tới tái sinh tự nhiên
hoặc tái sinh nhân ta ̣o trên các diện tích trảng cỏ, đấ t hoang hóa, trảng cây bu ̣i
hoă ̣c các vùng đất thoái hóa nhằ m làm tăng năng suấ t của rừng, tăng khả năng
sinh tồ n và các lơ ̣i ích dịch vu ̣ môi trường. (Wil de Jong, Do Dinh Sam, Trieu
Van Hung, 2006) [46].
Phục hồi rừng là gạch nối giữa cải tạo và khôi phục, đây cũng là một
lĩnh vực được nhiều nhà khoa học và các tổ chức lâm nghiệp quan tâm. Quan
điểm hiện nay về phục hồi rừng có thể chia thành 3 nhóm (dẫn theo Vũ Tiến
Hinh, 2003) [11] như sau:
Một là, quá trình phục hồi rừng là đưa rừng đến trạng thái hoàn chỉnh,
tiếp cận trạng thái trước khi bị tác động. Cairns (1995), Jordan (1995) và
Egan (1996) là những điển hình của quan điểm này.
Hai là, nhấn mạnh hệ sinh thái rừng phải được phục hồi tới mức độ bền
vững nào đó bằng con đường tự nhiên hoặc nhân tạo mà không nhất thiết
giống như hệ sinh thái ban đầu. Đây cũng là quan điểm nhận được nhiều sự

tán đồng nhất.
Ba là, tập trung vào việc xác định các nguyên nhân và yếu tố rào cản
của quá trình phục hồi rừng. Đây được coi như một quan điểm, một sự nhìn


5

nhận mới về phục hồi rừng, vì nó đã bước đầu gắn kết phục hồi rừng với các
yếu tố xã hội, khi nguyên nhân chính gây nên mất rừng tại các nước nhiệt đới
chính là con người.
1.1.3. Thối hóa
Thối hóa rừng được hiểu một cách khái quát (dẫn theo Trần Văn Con,
2006) [3] là quá trình dẫn đến phá vỡ cấu trúc rừng, mất sự đa dạng của loài
cây bản địa, các quá trình sinh thái đặc trưng lên hiện trạng rừng tự nhiên và
năng suất của chúng. Sự thoái hóa rừng có thể xảy ra ở nhiều hình thức và sự
biểu hiện ở nhiều quy mô khác nhau. Sự thối hóa xảy ra khi các sự kiện gây
ra những xáo trộn trong các quá trình tự nhiên làm tổn hại đến sự cân bằng
sinh thái. Một số tác giả quan niệm thối hóa rừng chỉ bao gồm sự giảm sút
hoặc suy yếu khả năng sản xuất gỗ của diện tích rừng do ảnh hưởng của các
yếu tố bên ngồi, đặc biệt là các hoạt động của con người, sự giảm bớt về diện
tích khơng thuộc khái niệm thối hóa rừng (Serna, 1986). Một số khác quan
niệm suy thoái rừng bao gồm cả sự chuyển đổi mục đích sử dụng rừng và sử
dụng rừng theo kiểu bóc lột, dù cho nó thỏa mãn các lợi ích kinh tế và xã hội
(Wil de Jong, Do Dinh Sam, Trieu Van Hung, 2006) [46].
1.1.4. Luồng thối hóa
Có nhiều chỉ tiêu để đánh giá Luồng thối hóa, nhưng trong khn khổ
đề tài quan niệm Luồng thối hóa là những diện tích Luồng có hiện tượng suy
giảm về kích thước và số cây trong bụi: măng ít, măng bé, chất lượng cây
kém. Từ đó dẫn đến suy giảm năng suất và chất lượng của rừng Luồng.
1.2. Trên thế giới

1.2.1. Một số nghiên cứu về cây Luồng và dinh dưỡng đất dưới rừng Tre, Luồng
Loài cây Luồng chủ yếu được nhân giống bằng phương pháp sinh
dưỡng, có thể theo hai con đường là ni cấy mơ (Verma and Arya, 1998)
[44] và nhân giống sinh dưỡng (Bernard Kingomo, 2007) [39]. Cả hai phương


6

pháp này khi tiến hành đều mang lại thành công lớn. Tại Kenya đã thành cơng
nhân giống các lồi Yushania alpina và Oxytenanthera abyssinica bằng
phương pháp nuôi cấy mô (Bernard Kingomo, 2007) [39]. Bên cạnh đó, ở một
số nơi người ta còn tiến hành nhân giống từ hạt cho một số loài như:
Dendrocalamus brandisii (Munro) Kurz (Thái Lan, Ấn Độ), Dendrocalamus
membranaceus Munro (Thái Lan), Dendrocalamus strictus (Roxb.) Nees
(Thái Lan, Ấn Độ) ... và Dendrocalamus latiflorus Munro (Dai Qihui, 1998)
[40], (Bernard Kingomo, 2007) [39].
Năm 1998, Dai Qihui đã tiến hành nghiên cứu đối với trồng Tre, Luồng
lấy măng và cho rằng kích thước măng thu hoạch có thể cao 1,3 - 1,5 m khi
thu hoạch để chế biến măng khô lên men. Để chế biến các sản phẩm khác thì
thu hoạch măng non có chiều cao 30 cm [40].
Đồng thời Dai Qihui cũng nghiên cứu đối với trồng Tre, Luồng lấy thân
Măng mọc đầu và giữa mùa chiếm trên 85 % tổng số măng của mùa. Nên giữ
lại măng này cho thành cây vì trong thời gian này măng thường khoẻ. Nên thu
hoạch tất cả măng mọc cuối mùa [40].
Năm 1995, Shanmughavel and Francis đã nghiên cứu về chu trình dinh
dưỡng trong rừng Bambusa bambos (L.) Voss. Lượng dinh dưỡng trong cây
đứng gia tăng theo tuổi của cây, vì vậy lượng dinh dưỡng trả lại cho đất
không đủ so với lượng dinh dưỡng mà cây lấy đi. Việc bổ sung phân bón cho
rừng là cần thiết nhằm tránh việc đất bị thối hóa, đặc biệt khi khai thác Tre,
Luồng ở cường độ cao sẽ thì lượng dinh dưỡng hồn trả cho đất càng bị giảm

đi, dẫn đến đất bị thoái hoá [42].
Những nghiên cứu về vật rơi rụng và dinh dưỡng hoàn trả cho đất trong
rừng Bambusa bambos (L.) Voss đã được Shanmughavel (1996) thực hiện ở
các độ tuổi khác nhau tại Ấn Độ. Trung bình vật rơi rụng trong các rừng 4
tuổi, 5 tuổi và 6 tuổi tương ứng là 15,4 tấn/ha, 17 tấn/ha và 20,3 tấn/ha. Trong


7

đó lá rụng chiếm 58 % và cành rụng chiếm 42 %. Hàm lượng N, P, K, Ca, và
Mg hoàn trả cho đất ở rừng 4 tuổi là 120, 10, 101, 60 và 66 kg/ha, đối với
rừng 5 tuổi hàm lượng của các nguyên tố trên tương ứng là 141, 13, 121, 72
và 79 kg/ha, và đối với rừng 6 tuổi hàm lượng dinh dưỡng của các nguyên tố
trên là 184, 16, 183, 91 và 96 kg/ha [43].
Mặt khác, theo Alrasjid (2003), Tre, Luồng được coi là một trong
những loài sử dụng “tham lam” dinh dưỡng của đất, vì vậy khơng sử dụng
phân bón trong trồng Tre, Luồng sẽ làm giảm sút nhanh chóng sức sản xuất
của đất [38].
Việc nghiên cứu dinh dưỡng đất của rừng Dendrocalamus asper Back
đã được thực hiện tại Indonesia với tầng đất từ 0 - 20 cm và từ 20 - 40 cm.
Sutiyono (2004) đã kết luận rằng độ chua, hàm lượng mùn, nitơ, kali, các ion
K+, Na+, Ca2+, Mg2+ và các cation trao đổi đều rất thấp ở cả 2 tầng đất. Riêng
phosphor tổng số là cao ở cả 2 tầng. Đối với thành phần cơ giới của đất, ở
tầng từ 0 – 20 cm thành phần cơ giới là sét với hơn 45 % là sét và 34 % là cát.
Ngoài ra silicate (Si) trong đất cũng được phân tích, ở tầng từ 0 - 20 cm đất
chứa nhiều silicate hơn so với đất ở tầng từ 20 - 40 cm. Nguyên nhân là do
quá trình phân huỷ lá ở tầng đất mặt nhanh hơn so với tầng đất sâu. Qua
nghiên cứu tác giả cũng khuyến cáo để ổn định sản lượng rừng Luồng thì việc
bón thêm phân là cần thiết. Tuy nhiên bón bao nhiêu là đủ tác giả chưa nêu ra
trong kết quả nghiên cứu [44].

1.2.2. Một số nghiên cứu về trồng cải tạo rừng bằng cây bản địa
Các cơng trình nghiên cứu thí nghiệm trồng cây dưới tán, trồng theo rạch
trên thế giới ở vùng nhiệt đới, đặc biệt là ở vùng Đông Nam Á hầu hết dựa vào
năng lực tái sinh tự nhiên để tạo nên những quần thể rừng hỗn loài nhiều tầng.
Tại Indonesia Trạm nghiên cứu Wanariset ở tỉnh Kalimantan với sự trợ
giúp (về khoa học kỹ thuật và tài chính) của chính phủ Vương quốc Hà Lan đã
nghiên cứu đầy đủ và đồng bộ việc gây trồng các loài cây họ Dầu


8

(Dipterocarpaceae). Các nghiên cứu về giống bao gồm tuyển chọn cây mẹ siêu
việt (Supermother). Đầu tiên người ta dựa vào kích thước hình dạng sinh lực
chọn cây mẹ làm giống trong rừng tự nhiên. Tiếp theo chặt bỏ các cây cùng
loài ở xung quanh để cây mẹ được tuyển chọn không thể thụ phấn từ những cây
mẹ khác và phát quang xung quanh gốc tạo điều kiện thuận lợi cho việc gieo
giống. Sau đó thu thập cây tái sinh tự nhiên về trồng xây dựng vườn vật liệu
giống vì chu kỳ sai quả của các loài họ dầu dài (thường từ 3 - 14 năm) nên việc
sản xuất cây giống theo phương pháp giâm hom (Cutting) được áp dụng rộng
rãi. Sau khi đã xác định được các dòng ưu thế của các loài. Người ta đã đem
trồng làm giàu rừng thứ sinh nghèo và trồng trên đất thoái hoá đã được cải tạo
bằng loài cây Keo trắng. Cây trồng trên hai loại lập địa trên đều sinh trưởng tốt.
Sau 10 năm chưa thấy sự khác biệt giữa hai phương thức gây trồng. Qua kết
quả trên đã rút ra kết luận việc sử dụng các cây lá rộng bản địa cây họ Dầu để
làm giàu rừng, trồng rừng hồn tồn có thể thực hiện được [23].
Ở Philipinnes trong Dự án Akecop đã sử dụng cây Dái ngựa trồng dưới
tán rừng Dừa (Coconut) già cỗi (trên 50 tuổi) thu được kết quả rất khả quan.
Người ta còn trồng hồ tiêu dưới tán rừng Dừa kết hợp với việc chăn nuôi gà thu
được hiệu quả kinh tế cao. Các mơ hình nơng - lâm kết hợp như trồng cây rừng
xen với cây Dứa, cây Ngô, lúa cạn đến khi cây nông nghiệp năng suất giảm thì

trồng các lồi cây rừng vào đang được nhân rộng ngày càng nhiều [23].
Tại Malaysia đã sử dụng tàn che của Keo tai tượng 10 - 15 tuổi hoặc 2 3 tuổi và của rừng thứ sinh nghèo để trồng các loài bản địa theo phương thức
băng rạch. Kích thước băng rạch tương ứng với số hàng cây trồng. Dự án xây
dựng rừng nhiều tầng này đã sử dụng tới 23 lồi cây bản địa có giá trị. Nhận
xét bước đầu là tỉ lệ sống khơng có sự khác biệt giữa các công thức nhưng sự
sinh trưởng về chiều cao thì cây sinh trưởng tốt trên các băng rộng 10 m và 40
m. Để theo dõi lâu dài và đưa ra các kết luận đầy đủ, chính xác và khoa học,


9

Dự án đã đề xuất một kế hoạch điều chỉnh các công thức vào 8 thời điểm, thời
điểm đầu là 2 năm, thời điểm cuối là 47 năm sau khi trồng [23].
1.3. Ở Việt Nam
1.3.1. Một số nghiên cứu về cây Luồng và dinh dưỡng đất dưới rừng Tre, Luồng
Cây Luồng có tên khoa học là (Dendrocalamus barbatus Hsueh et D. Z.
Li) là loại tre mọc cụm (kiểu hợp trục, bụi, khóm) thuộc họ phụ Tre trúc
(Bambusoideae), bộ Hịa thảo (Poales). Là loại có thân ngầm dạng củ, thân
khí sinh mọc cụm, Luồng có thân thẳng, trịn đều, độ thon nhỏ, khơng có gai,
vách thành của thân dày. Cây có chiều cao 10 – 20 m, đường kính 10 – 15 cm,
ngọn cong hay hơi rủ, thân màu xanh đậm gồm nhiều đốt, một số đốt gốc có
vịng rễ khí sinh; chiều dài lóng 26 – 32 cm.
Luồng thích hợp với nhiệt độ trung bình năm từ 22oC trở lên, nhiệt độ
bình qn tháng thấp nhất khơng dưới 8oC, lượng mưa trung bình năm từ 1.500
mm trở lên, độ ẩm khơng khí lớn hơn 80%, có thể sinh trưởng và phát triển trên
nhiều loại đất nhưng với đất tốt, đủ độ ẩm, tầng dày thì sinh trưởng tốt hơn, cây
to và cao hơn. Theo Lê Quang Liên (1995) [14], Luồng sinh trưởng và phát
triển tốt ở nơi có tầng đất dày (trên 60cm), đất xốp, màu mỡ, nhất là đất ven
đồi, ven suối, ven khe,... Nhu cầu Kali trong đất trồng Luồng cao, hàm lượng
K2O dễ tiêu ảnh hưởng rất lớn đến sinh trưởng của rừng Luồng.

Luồng có tâm phân bố chính là ven sơng Mã và chủ yếu ở tỉnh Thanh
Hóa, Hịa Bình. Hiện nay, Luồng đã được trồng ở nhiều nơi như Phú Thọ, Yên
Bái, Đồng Nai, Lâm Đồng... Trong q trình di thực, nhiều diện tích Luồng
chưa đem lại hiệu quả do nguyên nhân: chọn sai lập địa, áp dụng biện pháp kỹ
thuật không phù hợp...
 Một số nghiên cứu trồng hỗn giao Luồng với các loài cây khác
Theo Nguyễn Ngọc Bình (1963) [1] việc trồng xen canh giữa Luồng và
cây nông nghiệp như Lúa, Ngô, Khoai, Sắn,… trong giai đoạn đầu vừa mang


10

lại hiệu quả kinh tế cho người dân vừa kết hợp được việc chăm sóc và bảo vệ
rừng Luồng hiệu quả, ngoài ra các sản phẩm phụ sau thu hoạch cây nơng
nghiệp sẽ trở thành nguồn phân bón cho rừng Luồng.
Theo Lê Quang Liên và cộng tác viên (1990) [17] việc trồng Luồng hỗn
giao với các loài cây bản địa làm tăng tính bễn vững của rừng, cho năng suất
ổn định và hạn chế được sự giảm sút độ phì của đất. Kết quả nghiên cứu cho
thấy, cây Luồng trồng hỗn giao với các loài cây lá rộng (Sồi phảng, Keo tai
tượng, Lim xẹt, Lim xanh) trên đất trống vùng đồi Phú Thọ có sinh trưởng về
đường kính, chiều cao và phẩm chất đều cao hơn so với trồng thuần loài.
Nghiên cứu của Nguyễn Trường Thành (2002) về trồng rừng hỗn giao
giữa Luồng và cây lá rộng cũng khẳng định đất dưới tán rừng hỗn giao có
hàm lượng chất hữu cơ, N tổng số, P2O5 và K2O cao hơn hẳn so với đất dưới
tán rừng Luồng thuần loài [27].
Theo Đặng Thịnh Triều (2011) thì trồng Luồng hỗn giao với Muồng
đen và Lát hoa tại huyện Lang Chánh, Thanh Hóa cho thấy mơ hình trồng hỗn
giao Luồng và Muồng đen đem lại hiệu quả cao hơn so với các mơ hình khác
về sản lượng, chất lượng và phòng hộ [34].
Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Nhung (2004) [23] tại Cầu Hai,

Phú Thọ đã đề xuất 6 lồi cây có thể trồng dưới tán rừng Luồng là: Re hương,
Dẻ đỏ, Kháo vàng, Sồi phảng, Xoan đào, Lim xanh.
Hoàng Văn Thắng (2008) [29] tại Bình Thanh, Hịa Bình đã đưa ra các
lồi cây lá rộng bản địa có khả năng tái sinh dưới tán rừng Luồng, trong đó
một số lồi cây có giá trị như: Lim xanh, Re gừng, Sồi phảng, Dẻ đỏ, Kháo
xanh. Tiến hành trồng hỗn giao 3 loài (Lim xanh, Re gừng, Sồi phảng) với
Luồng sau 22 tháng cho thấy: Lim xanh là lồi có tỷ lệ sống cao nhất (94,6%),
khả năng sinh trưởng tốt nhất; tiếp đến là Sồi phảng, thấp nhất là Re gừng.


11

Đặng Thịnh Triểu (2011) [34] nghiên cứu ảnh hưởng của cây trồng xen
và cây tái sinh thân gỗ đến sinh trưởng của Luồng. Đối với cây trồng xen
(Lạc, Cốt khí, Sắn), kết quả cho thấy Sắn có ảnh hưởng xấu đến sinh trưởng
đường kính và chiều cao của cây Luồng, cịn Lạc và Cốt khí chưa có ảnh
hưởng rõ rệt. Đối với cây tái sinh cũng chưa có kết luận ảnh hưởng rõ rệt đến
sinh trưởng của Luồng, tuy nhiên số lượng, mật độ và sinh trưởng của cây tái
sinh rất có triển vọng cho việc xúc tiến tái sinh cây thân gỗ dưới tán rừng
Luồng thối hóa.
Từ các kết quả trên cho thấy các loài cây lá rộng bước đầu được khẳng
định có ý nghĩa quan trọng trong kinh doanh rừng Luồng, góp phần trong việc
cải thiện tính chất lý hóa học của đất dưới tán rừng, đảm bảo cho sự phát triển
ổn định và nâng cao năng suất của rừng Luồng.
 Ảnh hưởng của rừng Luồng đến tính chất của đất:
Nguyễn Ngọc Bình (1975) [1] nghiên cứu về tính chất hóa học của lớp
đất tầng 0 – 10 cm trong các mơ hình rừng trồng luồng ở Ngọc Lặc và Lang
Chánh - Thanh Hóa cho thấy nếu trồng rừng luồng với mật độ 300 bụi/ha trên
đất phiến thạch sét và phiến thạch mica sau 5 năm độ phì của tầng đất giảm rõ
rệt (hàm lượng mùn giảm từ 5,78% xuống 4,48%, hàm lượng Nitơ giảm từ

0,31% xuống 0,22%). Rừng trồng hỗn loài giữa Luồng và các loài cây gỗ họ
đậu như Lim xanh, Lim xẹt (Luồng trồng mật độ 200 bụi/ha) có tác dụng làm
giảm mức độ thối hóa của đất sau 5 năm trồng rừng khá rõ rệt (năm đầu:
hàm lượng chất hữu cơ là 5,78%, hàm lượng Nitơ là 0,31% và sau 5 năm hàm
lượng mùn là 5,24%, hàm lượng Nitơ là 0,29%).
Hoàng Văn Thắng (2008) [29] nghiên cứu về tính chất đất dưới tán
rừng Luồng thuần loài và hỗn giao ở Ngọc Lặc – Thanh Hóa và Cao Phong –
Hịa Bình cho thấy độ pH của rừng trồng Luồng thuần loài ở Ngọc Lặc và
Cao Phong đều thấp hơn ở rừng hỗn giao với cây bản địa. Các tính chất khác


12

về hàm lượng chất hữu cơ, N tổng số, P2O5 và K2O có sự khác nhau giữa các
đối tượng rừng trồng nhưng chưa thể hiện rõ quy luật.
 Phân cấp mức độ thối hóa rừng Luồng
Phân cấp mức độ thối hóa rừng Luồng ở Việt Nam hiện mới chỉ có
Đặng Thịnh Triều (năm 2011) [35] đã nghiên cứu tại Thanh Hóa, tác giả xác
định được ngun nhân gây thối hóa và đặc điểm của rừng Luồng thối hóa,
từ đó đề xuất dược tiêu chí và xây dựng bảng phân loại thối hóa rừng Luồng
bằng cách cho điểm các tiêu chí tương ứng.
Các nghiên cứu về phục tráng rừng Luồng
Nghiên cứu về phục tráng rừng luồng thối hóa đã được một số tác giả
đề cập đến trong thời gian qua:
Đặng Thịnh Triều (2011) [35] nghiên cứu giải pháp chống thối hóa,
phục hồi và phát triển bền vững rừng Luồng tại Thanh Hóa đã kết luận, rừng
Luồng cũ phá đi để trồng lại rừng Luồng mới thì tỷ lệ sống rất thấp (<60%).
Đề tài đã bước đầu khẳng định nếu thay rừng Luồng cũ bằng trồng Luồng mới
thì khơng thành cơng, tuy nhiên chưa trả lời được câu hỏi vì sao năng suất và
chất lượng của Luồng lại kém khi trồng lại ngay trên đất cũ.

Kết quả nghiên cứu phục tráng rừng mới chỉ thấy cơng bố thành cơng ở
Thanh Hóa – trung tâm phân bố tự nhiên của Luồng, ở các địa phương khác nơi Luồng được di thực chưa thấy đề cập đến.
Hiện nay chưa có những nghiên cứu về cải tạo rừng Luồng thối hóa
thành rừng cây bản địa lá rộng hoặc cây mọc nhanh hoặc cây lá kim.
1.3.2. Một số nghiên cứu về trồng cải tạo rừng bằng cây bản địa
Việc nghiên cứu cải tạo rừng kiệt đã được các nhà lâm học quan tâm từ
lâu. Ngay từ năm 1931 của thế kỷ trước P. Maurall đã gây trồng thử nghiệm
một số loài như : Sao đen, Dầu rái, Vên vên vào các rạch 1 – 2 m sau mở rộng
thêm thành 5 m. Phương pháp “Trồng dưới tàn che cao và nhẹ” không mang


13

lại kết quả như mong muốn. Sau đó Ơng dùng Muồng đen, cây Đậu chàm làm
cây phù trợ thì thu được kết quả khả quan hơn [19].
Năm 1960, Trần Nguyên Giảng, Lê Cảnh Nhuệ, Lưu Phạm Hoành... đã
tiến hành nghiên cứu thử nghiệm về cải tạo và làm giàu rừng bằng các lồi
cây bản địa như Lim xanh, Chị nâu, Vạng trứng, Ràng ràng mít, Bồ đề... theo
phương thức chặt trắng cải tạo theo băng, trồng dưới tán [8].
Giẻ đỏ và Kháo vàng là 2 trong số những loài cây bản địa được Viện
Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam dùng để cải tạo rừng nghèo kiệt tại Vũ Lễ
(Bắc Sơn), Đồng Hỷ (Thái Nguyên) từ những năm 1972. Đến năm 1975 một
số lâm trường như: Bắc Sơn, Võ Nhai, Đồng Hỷ đã nhân rộng hoặc cải tạo
theo băng (15 – 30 m) hoặc theo đám. Nhưng cho đến nay các lâm trường bị
giải thể, mơ hình bị tàn phá nên việc đánh giá rất khó khăn [19].
Những năm 60 - 70 của thế kỷ XX, Lê Cảnh Nhuệ và Lê Đình Cẩm đã
nghiên cứu kỹ thuật làm giàu rừng nghèo kiệt ở Cầu Hai bằng phương pháp tra
dặm. Các loài cây được sử dụng gồm : Mỡ, Trám trắng, Lim xẹt, Xoan nhừ, Re
hương, Chò nâu, Vạng trứng. Sau 5 năm nghiên cứu thí nghiệm các lồi đều tỏ
ra có triển vọng, 2 loài Vạng trứng và Xoan nhừ sinh trưởng nhanh nhất [22].

Trần Nguyên Giảng và Nguyễn Đình Hưởng (1972 - 1977) đã tiến hành
nghiên cứu kỹ thuật tái sinh rừng nghèo kiệt bằng cây Xoan đào và cây Kháo
vàng. Kết quả nghiên cứu thí nghiệm cho thấy Xoan đào thích hợp với độ tàn
che 0,5 - 0,6 hơn độ che 0,3 – 0,4. Đến tuổi 5 cây đòi hỏi độ chiếu sáng cao
hơn, nhất thiết phải hạ độ tàn che xuống dưới 0,3. Đến tuổi 7 cây Xoan đào
trồng đạt kích thước Hvn : 9 – 10 m, D1.3 : 9 – 10 cm. Có thể kết luận Xoan
đào là loài cây bản địa sinh trưởng khá nhanh [8].
Trần Nguyên Giảng (1990) trồng rừng hỗn loài trên đất trống trọc bằng
cách tạo một lớp che phủ bằng cây Keo lá chàm và Keo tai tượng với cùng
mật độ 3300 cây/ha. Sau khi trồng Keo 2 năm bắt đầu đưa cây lá rộng bản địa


14

vào trồng. Ơng sử dụng 10 lồi cây chia làm 2 nhóm sinh thái. nhóm cây chịu
bóng lúc nhỏ gồm : Lim xanh, Re hương, Giổi xanh, Kim giao, Gội trắng.
Các loài ưa sáng gồm: Lát hoa, Trám trắng, Nhội, Sấu.
Để nuôi dưỡng cây trồng tác giả sử dụng phương pháp tỉa thưa định kỳ.
Sau 4 năm nghiên cứu thí nghiệm đã đưa ra kết luận : Đối với cây che phủ
ban đầu thì Keo lá chàm thích hợp hơn. Việc tỉa thưa định kỳ cây che phủ
thích hợp với các lồi chịu bóng mọc chậm nhưng lại cản trở sinh trưởng của
các loài cây ưa sáng [8].
Tại Cầu Hai khi thực hiện dự án “Xây dựng sinh thái vùng đồi phía nam
huyện Đoan Hùng”, Nguyễn Trường Thành và các cộng sự đã sử dụng một số
loài cây bản địa như : Lim xanh, Sồi phảng… Trồng rừng hỗn giao với cây
Luồng. Hai năm đầu do rừng Luồng chưa khép tán, các lồi cây trồng hỗn
giao sinh trưởng bình thường thậm chí là tốt. Từ năm thứ 3, khi rừng Luồng
khép tán thì các cây gỗ sinh trưởng chậm dần. Năm 1999, Trung tâm xây
dựng mơ hình rừng hỗn giao cây Luồng Thanh hoá với cây Keo tai tượng.
Đến nay đã khai thác Keo tai tượng và rừng Luồng vẫn sinh trưởng phát triển

ổn định [28].
Trong dự án “Phục hồi hệ sinh thái rừng thoái hoá bằng các biện pháp
kỹ thuật lâm sinh và phương thức Nông- Lâm kết hợp ở vùng núi phía Bắc
Việt nam”, Nguyễn Quang Khải, Nguyễn Văn Thông và Nguyễn Danh Minh
đã trồng làm giàu rừng bằng một số loài cây lá rộng bản địa theo rạch (đối với
các hiện trường có tái sinh phân bố đều) và trồng vào lỗ trống (đối với các
hiện trường có tái sinh phân bố cụm). Sau 4 năm đã xây dựng được hàng chục
ha mơ hình. Trong đó lồi Lim xanh và Dẻ cau trong các mơ hình theo rạch
và lỗ trống có hiệu quả bước đầu rất tốt [12].
Năm 1989, Nguyễn Văn Thông đã sử dụng cây Chiêu liêu trồng cải tạo
rừng nứa tép. Đây là một công trình thực nghiệm có giá trị cần được nhân


15

rộng. Tuy nhiên từ trước tới nay chưa có cơng trình nào nghiên cứu, thí
nghiệm, thực nghiệm trồng cây dưới tán rừng tre, nứa với mục tiêu có thảm
rừng thay thế ngay sau khi khai thác trắng rừng tre, nứa [32].
Năm 2007, Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam thực hiện đề tài
“Nghiên cứu biện pháp kỹ thuật cải tạo rừng Luồng (Dendrocalamus
membranaceus Munro) thối hóa thành rừng cây bản địa lá rộng và rừng
cây lá rộng mọc nhanh” tại 3 tỉnh Hịa Bình, Phú Thọ, Thanh Hóa. Đề tài
dùng các loài cây bản địa lá rộng của từng tỉnh, Keo và Bạch đàn U6 nhằm
cải tạo những diện tích rừng Luồng đã bị thối hóa. Bước đầu đã cho thấy
các loài cây đã thay thế tốt các cây Luồng thối hóa và chọn ra được các lồi
cây có khả năng sinh trưởng phát triển ưu thế của từng tỉnh [18].
1.4. Nhận xét chung
Các cơng trình nghiên cứu về Luồng đã được thực hiện ở trong nước và
nhiều nước trên thế giới như Trung Quốc, Ấn Độ, Australia, Indonesia, Thái
Lan… Các cơng trình nghiên cứu về cây Luồng ở Việt Nam tập trung nhiều

vào vấn đề kỹ thuật xây dựng và kinh doanh rừng Luồng như: chọn tạo giống,
kỹ thuật trồng, chăm sóc, phịng trừ sâu bệnh hại, khai thác, chế biến… Một
số ít cơng trình đã đề cập đến các biện pháp kỹ thuật phục tráng rừng, nhưng
những nghiên cứu này được thực hiện chủ yếu tại Thanh Hóa.
Các cơng trình nghiên cứu về phương thức trồng đã khẳng định, việc
trồng Luồng hỗn giao với các lồi cây nơng nghiệp, cây bản địa, cây lá
rộng,… đã đem lại hiệu quả về mặt kinh tế và môi trường cao hơn so với
trồng rừng Luồng thuần lồi.
Các cơng trình nghiên cứu về đất cũng khẳng định, đất dưới tán rừng
Luồng thoái hóa bị suy giảm độ phì và tính chất đất nghiêm trọng. Các tác giả
cũng bước đầu nhận định, việc khắc phục có thể được tiến hành nếu như có sự
góp mặt của các lồi cây bản địa, cây lá rộng.


16

Các nghiên cứu trên chủ yếu tập trung vào các vấn đề chính như: tạo
giống, gây trồng, chăm sóc, phục tráng mà chưa có cơng trình nghiên cứu nào
thực hiện theo hướng cải tạo rừng Luồng thối hóa thành rừng cây bản địa lá
rộng và rừng cây lá rộng mọc nhanh. Để góp phần xây dựng cơ sở lý luận,
thực tiễn khoa học cho việc phát triển sản xuất lâm nghiệp trên nền là đối
tượng rừng Luồng thối hóa hoặc áp dụng mở rộng cho trường hợp thay đổi
mục đích kinh doanh, đa dạng hóa sản phẩm cây trồng,... thì việc nghiên cứu
biện pháp kỹ thuật cải tạo rừng Luồng thối hóa thành rừng cây bản địa lá
rộng và rừng mọc nhanh là thực sự cần thiết.


17

Chương 2

MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
2.1.1. Mục tiêu chung
Xác định được một số biện pháp kỹ thuật cải tạo rừng Luồng thoái hóa
thành rừng cây bản địa lá rộng và cây mo ̣c nhanh tại huyê ̣n Đoan Hùng tỉnh
Phú Tho ̣.
2.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Đánh giá thực trạng của rừng Luồng thối hóa tại hu ̣n Đoan Hùng
tỉnh Phú Thọ.
- Đánh giá sinh trưởng và phát triển của các loài cây bản địa và cây
mọc nhanh trồng cải tạo dưới tán rừng Luồng thối hóa và trồng trên đất rừng
Luồng thối hóa sau khai thác trắng.
- Đề xuất các biện pháp kỹ thuật cải tạo rừng Luồng thối hóa.
2.2. Đối tượng và giới hạn nghiên cứu
2.2.1. Đối tượng nghiên cứu
- Các mơ hình thí nghiệm của đề tài “Nghiên cứu biện pháp kỹ thuật
cải tạo rừng Luồng (Dendrocalamus membranaceus Munro) thối hóa
thành rừng cây bản địa lá rộng và rừng cây lá rộng mọc nhanh” xây dựng
năm 2007 tại huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ.
- Rừng Luồng thối hóa tại huyê ̣n Đoan Hùng tin̉ h Phú Tho ̣,
- Một số loài cây lá rộng mọc nhanh được trồng phổ biến trong thời
gian qua (Keo tai tượng, Bạch đàn U6).
- Một số lồi cây bản địa lá rộng có phân bố tự nhiên hoặc thích hợp
gây trồng ở phía Bắc Việt Nam (Sồi phảng, Lim xanh. Re gừng, Dẻ đỏ).
2.2.2. Giới hạn nghiên cứu
Do hạn chế về thời gian và kinh phí nên đề tài giới hạn nghiên cứu:


18


Về nội dung
- Đề tài chỉ nghiên cứu đánh giá sinh trưởng của các loài cây bản địa và cây
mọc nhanh đã được trồng dưới tán hoặc trên đất rừng Luồng thối hóa đã chặt
trắng. Từ đó, đề xuất ra một số giải pháp kỹ thuật cải tạo rừng Luồng thối hóa.
Về địa điểm
- Đề tài thực hiện tại các xã Vân Đồn, Tiêu Sơn, Chân Mô ̣ng của huyê ̣n
Đoan Hùng tỉnh Phú Tho ̣
2.3. Nội dung nghiên cứu
2.3.1. Điều tra và đánh giá thực trạng của rừng Luồng thối hóa tại hu ̣n
Đoan Hùng tỉnh Phú Thọ
2.3.1.1. Điều tra và đánh giá thực trạng rừng Luồng thối hóa.
2.3.1.2. Điều tra đánh giá khả năng tái sinh các loài cây bản địa dưới tán
rừng Luồng thối hóa
2.3.2. Đánh giá sinh trưởng và phát triển các loài cây trong các mơ hình thí
nghiệm
2.3.2.1. Đánh giá sinh trưởng và phát triển của các lồi cây bản địa trong các
mơ hình thí nghiệm các độ tàn che khác nhau (0,00; 0,25; 0,50)
- Tỷ lệ sống.
- Sinh trưởng về Do, Hvn.
- Chất lượng cây trồng theo 3 cấp: Tốt, Trung bình, Xấu.
2.3.2.2. Đánh giá sinh trưởng và phát triển của các loài cây bản địa trong các
mơ hình thí nghiệm bón phân NPK(5:10:3) (khơng bón; 100g; 200g, 300g)
- Tỷ lệ sống.
- Sinh trưởng về Do, Hvn.
- Chất lượng cây trồng theo 3 cấp: Tốt, Trung bình, Xấu.
2.3.2.3. Đánh giá sinh trưởng và phát triển của một số loài cây mọc nhanh
cải tạo rừng Luồng


19


- Đánh giá sinh trưởng của loài Keo tai tượng
- Đánh giá sinh trưởng Bạch đàn U6
2.3.3. Đề xuất một số biện pháp kỹ thuật cải tạo rừng Luồng thoái hóa
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Phương pháp tiếp cận
Đề tài sử dụng phương pháp mơ phỏng q trình diễn thế tự nhiên trên
các lâm phần trồng Luồng lâu năm, xác định lồi cây bản địa lá rộng có khả
năng tái sinh tự nhiên mạnh dưới tán rừng Luồng làm cơ sở lựa chọn loài cây
cho thực nghiệm biện pháp kỹ thuật cải tạo rừng Luồng thối hóa thành rừng
cây bản địa lá rộng.
Việc lựa chọn đối tượng cây trồng cải tạo rừng Luồng được dựa trên
đặc điểm lâm học và đặc điểm sinh thái của loài cây đưa vào cải tạo rừng.
Sơ đồ các bước nghiên cứu của đề tài
Thu thập, kế thừa các
tài liệu, số liệu đã có
Điều tra, thu thập số liệu tại
hiện trường nghiên cứu

Phương
thức cải
tạo

Cây trồng
cải tạo

Kỹ thuật
cải tạo

Đánh giá hiệu quả các mơ hình


Đề x́ t kỹ th ̣t cải ta ̣o rừng L̀ ng

Hình 2.1. Sơ đồ các bước nghiên cứu của đề tài


20

2.4.2. Phương pháp thu thập số liệu
2.4.2.1. Phương pháp kế thừa
- Luận văn kế thừa các mơ hình đã được xây dựng năm 2007 của đề tài
“Nghiên cứu biện pháp kỹ thuật cải tạo rừng Luồng (Dendrocalamus
membranaceus Munro) thối hóa thành rừng cây bản địa lá rộng và rừng
cây lá rộng mọc nhanh”.
- Kế thừa tài liệu về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội tại khu vực
nghiên cứu.
- Bản đồ thiết kế trồng rừng tại khu vực nghiên cứu.
- Kỹ thuật trồng và chăm sóc rừng Luồng, cây bản địa lá rộng và cây
mọc nhanh (Keo tai tượng và Bạch đàn U6)
2.4.2.2. Phương pháp điều tra rừng trồng:
- Sử dụng phương pháp PRA, RRA: phỏng vấn các cán bộ quản lý, cán
bộ kỹ thuật và người dân về đối tượng nghiên cứu, kỹ thuật đã áp dụng, ....
- Phương pháp thực địa
Để đảm bảo độ tin cậy của kết quả nghiên cứu, sử dụng phương pháp
chọn mẫu điển hình.
+ Đối với rừng Luồng tiến hành thiết lập các OTC với diện tích 1000m2
(25 m x 40 m)
+ Đối với rừng cây bản địa được trồng dưới tán Luồng thối hóa với
các cơng thức thí nghiệm sau: theo độ tàn che: chia làm 3 cấp: 0,0; 0,25; 0,5;
bón phân: NPK (5:10:3), khơng bón, 100g, 200g, 300g.

Mỗi cơng thức thí nghiệm lập 3 OTC có diện tích 1000 m2 (25 x 40 m)
+ Đối với rừng cải tạo bằng Keo Tai tượng và Bạch đàn U6: Mỗi cơng
thức bón phân NPK(5:10:3): khơng bón, 100g, 200g, 300g lập 1 OTC có diện
tích 1000 m2 (25 x 40 m)
- Phương pháp thu thập số liệu


21

Trong mỗi OTC điều tra tồn bộ số khóm/ơ về các chỉ tiêu sau:
+ Đo Do bằng thước kẹp kính có độ chính xác đến 0,1cm
+ Đo chiều cao vút ngọn (Hvn) bằng thước Bumeleiss hoặc thước sào
có khắc vạch đến cm
+ Điều tra số cây theo từng từng cấp tuổi của mỗi khóm.
Kết quả điều tra được thống kế vào biểu mẫu (phụ biểu 2.1)
- Điều tra độ tàn che
Sau khi lập OTC xong tiến hành lập 8 tuyến song song với đường chéo
OTC tính tổng độ dài của các tuyến sau đó trên các tuyến điều tra ta tiến hành
điều tra 200 điểm bằng cách tính tổng độ dài của các tuyến sau đó tính khoảng
cách giữa các điểm cụ thể (phụ biểu 2.2)
Tính được tổng độ dài các đường chéo là
L = (10,8+21,6+32,4+43,2) x 2 + 54 = 270 m
Trên các tuyến điều tra ta tiến hành điều tra 200 điểm, như vậy mỗi
điểm sẽ cách nhau là: 270/200 = 1,35 m
Tiến hành đánh dấu các điểm trên tuyến điều tra, sau đó dùng giấy A4
cuộn trịn với đường kính là 3 cm để quan sát
+ Khơng thấy tán cây trong tiết diện hình trịn ta cho 0 điểm
+ Tán cây che nhỏ hơn ½ tiết diện hình trịn ta cho 0,5 điểm
+ Tán cây che lớn hơn ½ tiết diện hình trịn ta cho 1 điểm
Kết quả điều tra ghi vào mẫu biểu (phụ biểu 2.3)

- Điều tra cây tái sinh tự nhiên dưới tán rừng Luồng
Trong mỗi OTC lập 5 ô dạng bản với diện tích mỗi ơ là 25 m2 (5m x 5m).
Các ơ dạng bản được bố trí ở 4 góc và 1 ô ở giữa OTC. Trong ODB xác định
tên loài, sinh trưởng, nguồn gốc và phẩm chất các cây theo 3 cấp A, B, C.
+ Cấp A (cây tốt): là cây thân thẳng, không cong queo, sinh trưởng tốt,
tán lá màu xanh đậm, có triển vọng sinh trưởng trong các năm sau.


22

+ Cấp B (cây trung bình): thân thẳng hoặc hơi cong nhưng vẫn cho sản
phẩm có giá trị, khơng sâu bệnh, tán lá xanh và xanh vừa, sum xuê kém loại A.
+ Cấp C (cây xấu): cây cong queo, sâu bệnh, tán lá thưa, lệch, không
cân đối, sinh trưởng kém.
Kết quả được ghi vào mẫu biểu (phụ biểu 2.4)
- Điều tra cây bản địa
+ Điều tra tỷ lệ sống bằng phương pháp đếm số cây sống trong OTC.
+ Điều tra các chỉ tiêu sinh trưởng:
Đo đường kính gốc Do bằng thước kẹp palme với độ chính xác đến mm
theo 2 chiều Đơng – Tây, Nam – Bắc sau đó lấy giá trị trung bình.
Đo chiều cao vút ngọn Hvn bàng sào có khắc vạch đến cm.
Đo đường kính tán bằng thước sào theo 2 chiều Đông – Tây, Nam –
Bắc sau đó lấy giá trị trung bình
+ Điều tra chất lượng cây
Điều tra theo phương pháp mục trắc và đánh giá theo 3 mức:
Cây tốt (T): là những cây sinh trưởng mạnh, thân thẳng, tán cây cân đối
tròn đều và không bị sâu bệnh
Cây xấu (X): là những cây cong queo, sâu bệnh, nhiều u bướu, tán lệch
Cây trung bình (TB): là những cây trung gian giữa cây tốt và cây xấu.
Kết quả điều tra được ghi vào mẫu biểu (phụ biểu 2.5)

2.4.3. Phương pháp xử lý số liệu:
Xử lý, phân tích số liệu: Sau khi thu thập đầy đủ số liệu ngoại nghiệp
tiến hành chỉnh lý, tính tốn trên phần mềm Excel:
- Tính trị số trung bình về đường kính và chiều cao bằng cơng thức:
=
Trong đó:
ni: Số cây trong khóm thứ i

(2.1)


23

N: Tổng số cây
Xi: Đường kính hoặc chiều cao bình quân của cây trong bụi
thứ i
- Tính sai tiêu chuẩn(S):
S=

(2.2)

Với Qx =



(2.3)

- Tính hệ số biến động (S%):
S% = x 100


(2.4)

Trong đó:
S: Sai tiêu chuẩn
X: Trị số trung bình mẫu
- Tỷ lệ cây tốt, xấu, trung bình (X%):
X% =

x 100

(2.5)

Trong đó :
n là số cây tốt, xấu, trung bình
N là tổng số cây quan sát
- Sử dụng các phương pháp thống kê để xác định ảnh hưởng của các
nhân tố thí nghiệm đến sinh trưởng của cây bản địa trồng dưới tán.
Việc phân tích phương sai 1 nhân tố được thực hiện bằng phần mềm
thống kê SPSS 15.0 với các nhân tố cụ thể như sau:
Nhân tố A là các cơng thức thí nghiệm (độ tàn che, bón phân...).
Sử dụng tiêu chuẩn Bonferroni và tiêu chuẩn Duncan để so sánh cặp đôi
các công thức trong trường hợp các phương sai là bằng nhau trong tổng thể.
Sử dụng tiêu chuẩn Dunnett’ T3 để so sánh cặp đôi giữa các công thức
trong trường hợp các phương sai không bằng nhau trong tổng thể.


×