Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người mới (Tiểu luận)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.55 KB, 32 trang )

TIỂU LUẬN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

ĐỀ TÀI:

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI
MỚI


CHƯƠNG 1
CÁI NHÌN BAO QUÁT VỀ TƯ TƯỞNG HỒ CH Í MINH
1.1 NGUỒN GỐC HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống những quan điểm sâu sắc và toàn diện
về cách mạng Việt Nam từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân lên cách mạng
XHCN, là kết quả của một quá trình nhận thức và vận dụng sáng tạo, phát triển chủ
nghĩa Mac – Lênin trong điều kiện của cách mạng Việt Nam, là sự kết tinh tinh hoa
của dân tộc với tinh hoa của thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giai cấp và xã hội
loài người.
Cũng như mọi tư tưởng khác, tư tưởng Hồ Chí Minh có nguồn gốc thực tiễn
của nó. Các nguồn gốc tư tưởng chủ yếu ảnh hưởng đến sự hình thành tư tưởng Hồ
Chí Minh là:
a.Truyền thống lịch sử và văn hóa của dân tộc Việt Nam.
Lịch sử dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam đã tạo
lập cho dân tộc một nền văn hóa đặc sắc, phong phú và bền vững với nhiều truyền
thống tốt đep và cao quý. Những truyền thống tư tưởng và văn hóa này đã góp
phần tạo nên tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trước hết, đó là chủ nghĩa yêu nước và ý chí bât khuất đấu tranh để dựng
nước và giữ nước. Đó là dịng chủ lưu chảy xuyên suốt lịch sử Việt Nam từ cổ đại
đến hiện đại, là chuẩn mực cao nhất, đứng đầu bảng giá trị văn hóa- tinh thần Việt
Nam.
Thứ hai tinh thần nhân nghĩa, đoàn kết, tương thân tương ái trong hoạn nạn
khó khăn là truyền thống văn hóa quý báu của dân tộc ta. Là người Việt Nam ai


cũng thuộc, cũng nhớ những câu tục ngữ như “ Lá lành đùm lá rách” hoặc câu ca
dao:


Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng
Kế thừa truyền thống ấy, trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của
Đảng và dân tộc Hồ Chí Minh ln u cầu cán bộ , Đảng viên và các tầng lớp
nhân dân phải thực hiện bốn chữ “đồng”: đồng tình, đồng sức, đồng lịng, đồng
minh.
Thứ ba, dân tộc ta là một dân tộc cần cù, dũng cảm thông minh sáng tạo
trong lao động sản xuất và chiến đấu, là môt dân tộc không ngừng học hỏi điều hay
lẽ phải, sẵn sàng mở cửa đón nhận tinh hoa nhân loại. Bên cạnh đó dân ta cịn rất
lạc quan u đời, trong mn nguy, ngàn khó người lao động vẫn động viên nhau:
“ chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo”. Cơ sở của niềm lạc quan đó là niềm tin vào
bản thân, tin vào sự tất thắng của chân lý mà Hồ Chí Minh là một hiện thân của
truyền thống đó:[1]
Thân thể ở trong lao
Tinh thần ở ngoài lao
Muốn nên sự nghiệp lớn
Tinh thần phải càng cao
b. Tinh hoa văn hóa nhân loại[3]
Hồ Chí Minh đã biết làm giàu vốn văn hóa của mình bằng cách học hỏi, tiếp
thu tư tưởng văn hóa phương Đơng và phương Tây.
Tinh hoa văn hóa phương Đơng là một trong những cội nguồn quan trọng
hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Sinh trưởng trong một gia đình khoa bảng, từ
nhỏ Người đã đươc tiếp thu một nền quốc học và hán học khá vững vàng. Nho giáo
, phât giáo cũng ảnh hưởng lớn tới tư tưởng , lối sống của Người : thương người
như thể thương thân, bình đẳng, dân chủ chất phát, giản dị, luôn làm việc thiện cho
đời…



Tư tưởng về văn hóa phương Tây là một trong những nguồn gốc quan trọng
góp phần hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh : phần lớn thời gian hoạt động của
người ở nước ngoài, ở các nước châu Âu, nền văn hóa, chế độ dân chủ tư sản và tư
tưởng cách mạng đã ảnh hưởng sâu sắc tới người. Hồ Chí Minh đã nghiên cứu và
tiếp thu tư tưởng văn hóa dân chủ và cách mạng của cách mạng Pháp, cách mạng
Mỹ.
Tiếp theo là chủ nghĩa Mac- Lênin: từ một người yêu nước thành môt người
cộng sản là kết quả của sự tác động biện chứng giữa mối quan hệ cá nhân với dân
tộc và thời đại trong con người của Hồ Chí Minh. Nhờ phép biện chứng Người đã
tiếp trhu những yếu tố tích cực, kết hợp chặt chẽ những yếu tố ấy để chuyển hóa và
tạo lên hệ tư tưởng của mình. Vì vây có thể nói , tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận
dụng sáng tạo, phát triển và làm phong phú chủ nghĩa Mac- Lênin ở thời đại các
dân tộc áp bức vùng lên giành độc lập, tự do và xây dựng xã hội mới.
Cuối cùng là những nhân tố chủ quan thuộc phẩm chất cá nhân của Hồ Chí
Minh. Bản thân Hồ Chí Minh là người tự chủ sáng tạo, độc lập trong tư duy. Người
đã có một q trình khổ cơng học tập, rèn luyện để tiếp thu có chọn lọc những tinh
hoa tri thức nhân loại, sớm vươn tới đỉnh cao tri thức nhân loại để tạo nên tri thức
và kinh nghiệm của mình. Người là một nhà u nước chân chính, một người cộng
sản nhiệt tình cách mạng, yêu nước thương dân, yêu thương người cùng khổ, một
tinh thần sẵn sàng hi sinh vì độc lập , vì tự do, vì hạnh phúc của đồng bào, vì sự
nghiệp giải phóng con người, giải phóng lồi người.

1.2 NỘI DUNG NGHIÊN CỨU VÀ GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH


1.Nội dung nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm các quan điểm cơ bản về giải phóng dân
tộc, giai cấp và con người, về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết

hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, về sức mạnh của nhân dân và khối
đại đoàn kết dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng nhà nước thật sự
của dân, do dân, vì dân; về quốc phịng tồn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân
dân; tư tưởng về phát triển kinh tế và văn hóa, khơng ngừng nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân; tư tưởng về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm,
chính, chí cơng vơ tư; tư tưởng về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời
sau; tư tưởng về xây dựng Đảng Cộng Sản Việt Nam trong sạch, vững mạnh, cán
bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người cơng bộc thật trung thành của
nhân dân.
Có thể nói tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống toàn diện , bao gồm các nội
dung chủ yêu như:[1]
• Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc.
• Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.
• Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản Viêt Nam.
• Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc.
• Tư tưởng Hồ Chí Minh về qn sự.
• Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân.
• Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
• Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
• Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh
• Tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh…


Tư tưởng Hồ Chí Minh có nội dung rất phong phú, đa lĩnh vực và là một hệ
thống mở. Các ngành, các giới , các đối tượng có thể lựa chọn, bổ sung những
chuyên đề có nội dung phù hợp với nhiệm vụ chính trị của mình.
2.Giá trị tư tưởng hồ chí minh
a, Tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng con đường giải phóng và phát triển dân tộc.[2]
-Tài sản tinh thần vô giá của dân tộc Việt Nam

Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của dân tộc và thời đại,nó trường tồn,
bất diệt,là tài sản vơ giá của dân tộc ta. Sở dĩ như vậy vì tư tưởng của người không
chỉ tiếp thu, kế thừa những giá trị tinh hoa văn hố,tư tưởng vĩnh cửu của lồi
người trong đó chủ yếu là chủ nghĩa Mác-Lênin,mà cịn đáp ứng nhiều vấn đề của
thời đại.
- Nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của cách mạng Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho Đảng ta và nhân dân ta trên con
đường thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh,xã hội công bằng,văn minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành ngọn cờ dẫn dắt cách mạng nước ta đi
từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.tư tưởng Hồ Chí Minh giúp ta nhận thức đúng
vấn đề lớn có liên quan đến việc bảo vệ nền độc lập dân tộc,phát triển xã hội và
đảm bảo quyền con người.
Tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi sống với chúng ta vì đã thấm sâu vào quần
chúng nhân dân,chỉ đạo thực hiện có hiệu quả những nhiệm vụ đối với thời đại.qua
thực tiễn cách mạng, tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng toả sáng,chiếm lĩnh trái tim,
khối óc của hàng triệu con người.
b, Tư tưởng Hồ Chí Minh đối với sự phát triển thế giới[1]
- Phản ánh khát vọng thời đại


Hồ Chí Minh là nhân vật lịch sử vĩ đại,khơng chỉ là sản phẩm của dân tộc,
của giai cấp công nhân Việt Nam,mà còn là sản phẩm của thời đại,của nhân loại
tiến bộ.
Hồ Chí Minh đã có những cống hiến xâu sắc về lí luận cách mạng giải
phóng dân tộc thuộc địa dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mac-Lênin và từ đó góp
phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Việc xác định đúng đắn những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam
trong tư tưởng Hồ Chí Minh,trong đó có cả những vấn đề về chủ nghĩa xã hội và
xây dựng chủ nghĩa xã hội,về hồ bình hợp tác hữu nghị giữa các dân tộc...có giá
trị to lớn về mặt lý luận và đang trở thành hiện thực của nhiều vấn đề quốc tế ngày

nay.
- Tìm ra giải pháp đấu tranh giải phóng lồi người
Hồ Chí Minh giải quyết đúng đắn vấn đề làm cách nào để giải phóng các
dân tộc thuộc địa. Người đã xác định chủ nghĩa đế quốc là kẻ thù lớn nhất của dân
tộc bị áp bức và để chiến thắng chủ nghĩa đế quốc, cần phải thực hiện đại đồn kết,
đại hồ hợp.Đây là một đóng góp to lớn của Hồ Chí Minh.
Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh đối với thế giới còn ở chỗ,ngay từ rất
sớm.Trên cơ sở nắm vững đặc điểm của thời đại, Hồ Chí Minh đã hoạt động không
mệt mỏi để gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới,cách mạng giải phóng
dân tộc thuộc địa và phạm trù cách mạng vô sản.
Từ đó Người đã đề ra đường lối chiếm lược,sách lược và phương pháp cách
mạng đúng đắn cho sự nghiệp cứu nước,giải phóng dân tộc .
- Cổ vũ các dân tộc đáu tranh vì những mục tiêu cao cả
Hồ Chí Minh là một vị anh hùng dân tộc vĩ đại,người thầy thiên tài của cách
mạng việt nam, một nhà macxit lỗi lạc,nhà hoạt động xuất sắc của phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế,một chiến sĩ kiên cường của phong trào giải phóng dân
tộc trong thế kỉ xx.


Hồ Chí Minh đã làm sống lại nhũng giá trị tinh thần của dân tộc việt
nam.Sự nghiệp cứu nước của người đã xố bỏ tất cả những tủi nhục nơ lệ đè nặng
lên đầu dân tộc ta trong gần một thế kỉ.

CHƯƠNG 2
QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ CỦA
CON NGƯỜI
2.1 CON NGƯỜI LÀ MỘT CHỈNH THỂ.[1]
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bước phát triển mới của chủ nghĩa MácLênin, được vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn giải phóng dân tộc và xây



dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Điều cốt lõi của tưởng Hồ Chí Minh là độc lập
dân tộc phải gắn liền với giải quyết xã hội và giải phóng con người. trong đó, vấn
đề con người là vấn đề lớn, được đặt lên hàng đầu, xuyên suốt toàn bộ nội dung,
tư tưởng của Người.
Tư tưởng ấy được dựa trên thế giới quan duy vật triệt để của chủ nghĩa MácLênin. Chính vì xuất phát từ thế giới quan duy vật triệt để ấy, nên khi nhìn nhận và
đánh giá vai trị của bản thân mình, Người khơng bao giờ cho mình là người giải
phóng nhân dân. Tư tưởng này đã vượt xa và khác về chất so với tư tưởng “chăn
dân” của những người cầm đầu nhà nước phong kiến có tư tưởng yêu nước xưa
kia. Đó là một chủ nghĩa nhân văn cộng sản trong cốt cách của một hiên triết
phương đông.
Người xem xét con người như một chỉnh thể thống nhất về tâm lực, thể lực
và các hoạt động của nó.con người ln hướng đến cái Chân- Thiện- Mỹ, mặc dù
“có thế này, thế khác”.
Người nêu một định nghĩa về con người: "Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình,
anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài
người”. Quan điểm đó thể hiện ở chỗ Người chưa bao giờ nhìn nhận con người
một cách chung chung, trừu tượng. Khi bàn về chính sách xã hội, cũng như ở mọi
nơi, mọi lúc, trong mọi hồn cảnh, Người ln quan tâm đến nhu cầu, lợi ích của
con người với tư cách nhu cầu chính đáng. Đem lại lợi ích cho con người chính là
tạo ra động lực vơ cùng lớn lao cho sự nghiệp chung, vì nếu như những nhu cầu,
lợi ích của mỗi cá nhân khơng được quan tâm thỏa đáng thì tính tích cực của họ sẽ
khơng thể phát huy được. Trong khi phê phán một cách nghiêm khắc chủ nghĩa cá
nhân, Người viết: "Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân khơng phải là "giày xéo lên
lợi ích cá nhân". Mỗi người đều có tính cách riêng, sở trường riêng, đời sống riêng
của bản thân và của gia đình mình"Trong quan điểm về thực hiện một nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa, theo Người, phải là một nền dân chủ chân chính, khơng hình


thức, khơng cực đoan, trong đó mỗi con người cụ thể phải được đảm bảo những
quyền lợi và nghĩa vụ của mình theo hiến pháp và pháp luật. Con người, với tư

cách là những cá nhân, không tồn tại biệt lập mà tồn tại trong mối quan hệ biện
chứng với cộng đồng dân tộc và với các loài người trên tồn thế giới.[7]
Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh khơng tồn tại như một phạm trù bản
thể luận có tính trừu tượng hóa và khái qt hóa, mà được đề cập đến một cách cụ
thể, đó là nhân dân Việt Nam. Hồ Chí Minh có cách nhìn nhận, xem xét con người
trong tính đa dạng của nó: đa dạng trong các mối quan hệ xã hội; đa dạng trong
tính cách, khát vọng, phẩm chất, khả năng; mấy mươi triệu người viêt nam có
người thế này, thế khác, nhưng đều cùng là nòi giống lạc hồng. những con người
lao động nghèo khổ bị áp bức cùng cực dưới ách thống trị của phong kiến, đế quốc;
là dân tộc Việt Nam đang bị đô hộ bởi chủ nghĩa thực dân; và mở rộng hơn nữa là
những "người nô lệ mất nước" và "người cùng khổ". Lơgíc phát triển tư tưởng của
Người là xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước để đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, đến
với chủ nghĩa quốc tế chân chính. Theo lơgíc phát triển tư tưởng ấy, khái niệm
"con người" của Hồ Chí Minh tiếp cận với khái niệm "giai cấp vô sản cách mạng".
Người đề cập đến giai cấp vô sản cách mạng và sự thống nhất về lợi ích căn bản
của giai cấp đó với các tầng lớp nhân dân lao động khác (đặc biệt là nông dân).
Người nhận thức một cách sâu sắc rằng, chỉ có cuộc cách mạng duy nhất và tất yếu
đạt tới được mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và tồn thể nhân loại
khỏi mọi sự nơ dịch, áp bức. Toàn bộ các tư tưởng, lý luận (chiếm một khối lượng
lớn trong các tác phẩm của Người) bàn về cách mạng (chiến lược giải pháp; bàn về
người cách mạng và đạo đức cách mạng, về hoạch định và thực hiện các chính
sách xã hội; về rèn luyện và giáo dục con người v.v .) về thực chất chỉ là sự cụ thể
hóa bằng thực tiễn tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh.
2.2 CON NGƯỜI CỤ THỂ, LỊCH SỬ


Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh khơng phải là một vấn đề có tính
khái qt hóa và trừu tượng hóa mà là một vấn đề cụ thể, đó là nhân dân Việt Nam,
“Lịng u nước và sự đồn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to lớn,
không ai thắng nổi. Nhờ lực lượng ấy mà tổ tiên ta đã đánh thắng quân Nguyên,

quân Minh, đã giữ vững quyền tự do, tự chủ. Nhờ lực lượng ấy mà chúng ta làm
cách mạng thành công giành được độc lập. Nhờ lực lượng ấy mà sức kháng chiến
của ta càng ngày càng mạnh. Nhờ lực lượng ấy mà qn và dân ta quyết chịu đựng
mn nỗi khó khăn, thiếu thốn, đói khổ, tang tóc, quyết một lịng đánh tan quân
giặc cướp nước” và cũng có thể suy rộng ra là những “nô lệ mất nước” và “người
cùng khổ”, “Ánh sáng trên đầu thần Tự Do tỏa rộng khắp trời xanh, cịn dưới chân
tượng thần Tự Do thì người da đen đang bị chà đạp, số phận người phụ nữ bị chà
đạp. Bao giờ người da đen được bình đẳng với người da trắng? Bao giờ có sự bình
đẳng giữa các dân tộc? Và bao giờ người phụ nữ được bình đẳng với nam giới?"
Niềm tin của Bác hướng vào nhân dân. Cuộc chiến đấu chống áp bức sẽ không đi
đến thắng lợi, nếu không "dựa vào lực lượng của tồn dân". Tấm lịng Hồ Chí
Minh ln hướng về con người. Người yêu thương con người, tin tưởng con người,
tin và thương yêu nhân dân, trước hết là người lao động, nhân dân mình và nhân
dân các nước. Với Hồ Chí Minh, "lịng thương u nhân dân, thương u nhân
loại" là "không bao giờ thay đổi".[3]
Quan điểm tin vào dân, đồng thời lại hết lịng thương dân, tình thương u
nhân dân của Hồ Chí Minh có nguồn gốc sâu xa từ trong truyền thống dân tộc,
truyền thống nhân ái ngàn đời của người Việt Nam. Cũng như bao nhà Nho yêu
nước khác có cùng quan điểm "ái quốc là ái dân", nhưng điểm khác cơ bản trong
tư tưởng "ái dân" của Người là tình thương ấy khơng bao giờ dừng lại ở ý thức, tư
tưởng mà đã trở thành ý chí, quyết tâm thực hiện đến cùng sự nghiệp giải phóng
giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng nhân loại cần lao, xóa bỏ đau khổ, áp bức


bất công giành lại tự do, nhân phẩm và giá trị làmngười cho con người. ở Hồ Chí
Minh, chủ nghĩa u nước gắn bó khơng tách rời với chủ nghĩa quốc tế chân chính.
Tình thương u cũng như tồn bộ tư tưởng về nhân dân của Người không bị giới
hạn trong chủ nghĩa dân tộc hẹp hịi mà nó tồn tại trong mối quan hệ khăng khít
giữa các vấn đề dân tộc và giai cấp, quốc gia với quốc tế. Yêu thương nhân dân
Việt Nam, Người đồng thời yêu thương nhân dân các dân tộc bị áp bức trên toàn

thế giới. Trong sự nghiệp lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh ln coi trọng sức
mạnh đồn kết tồn dân và sự đồng tình ủng hộ to lớn của bè bạn khắp năm châu,
của cả nhân loại tiến bộ. Người cũng xác định sự nghiệp cách mạng của nước ta là
một bộ phận khơng thể tách rời trong tồn bộ sự nghiệp đấu tranh giải phóng nhân
loại trên phạm vi tồn thế giới.
Có thể nói Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người luôn gắn liền với lịch sử, ý
thức nhân dân gắn liền với độc lập dân tộc.Theo quan điểm của Hồ Chí Minh,
người cán bộ (kể cả lãnh tụ) chỉ là "đầy tớ trung thành" có sứ mệnh phục vụ nhân
dân, lãnh tụ chỉ là người góp phần vào sự nghiệp cách mạng của quần chúng. Và
đây, cũng chính là điều đã làm nên chủ nghĩa nhân văn cao cả ở Hồ Chí Minh, một
chủ nghĩa nhân văn cộng sản trong cốt cách của một nhà hiền triết phương Đơng.
2.3 BẢN CHẤT CON NGƯỜI MANG TÍNH XÃ HỘI.[3]
Để sinh tồn, con người phải lao động sản xuất.Trong quá trình lao động, sản
xuất ấy con người dần nhận thức được những hiện tượng, quy luật của tự nhiên,
của xã hội; hiểu về mình và hiểu biết lẫn nhau…, xác lập các mối quan hệ giữa
người với người.
Con người là sản phẩm của xã hội, trong quan niệm của Hồ Chí Minh con
người là sự tổng hợp các quan hệ xã hội từ hẹp đến rộng, chủ yếu bao gồm các
quan hệ: anh em, họ hàng , bầu bạn, đồng bào , loài người…


Nói tóm lại: Quan niệm về con người, coi con người là một thực thể thống
nhất của "cái cá nhân" và "cái xã hội", con người tồn tại trong mối quan hệ biện
chứng giữa cá nhân với cộng đồng, dân tộc, giai cấp, nhân loại; yêu thương con
người, tin tưởng tuyệt đối ở con người, coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động
lực của sự nghiệp giải phóng xã hội và giải phóng chính bản thân con người, đó
chính là những luận điểm cơ bản trong tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh.
Xuất phát từ những luận điểm đúng đắn đó, trong khi lãnh đạo nhân dân cả nước
tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, Hồ Chí Minh
ln tin ở dân, hết lòng thương yêu, quý trọng nhân dân, biết tổ chức và phát huy

sức mạnh của nhân dân. Tư tưởng về con người của Người thông qua thực tiễn
cách mạng của Người thông qua thực tiễn cách mạng đã trở thành một sức mạnh
vật chất to lớn và là nhân tố quyết định thắng lợi của chính sự nghiệp cách mạng
ấy.
CHƯƠNG 3
QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ CỦA CON NGƯỜI
VÀ CHIẾN LƯỢC “TRỒNG NGƯỜI”
3.1 QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRỊ CỦA CON NGƯỜI
a. Con người là vốn quý nhất, là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng[6]
Theo Hồ Chí Minh, lịch sử là do quần chúng nhân dân sáng tạo ra, chứ
không phải do vài ba cá nhân anh hùng nào, vì vậy chúng ta phải yêu dân, quý
dân, trọng dân, vì "có dân là có tất cả". Người nói: "Trong bầu trời khơng gì q
bằng nhân dân. Trong thế giới, khơng gì mạnh bằng lực lượng đồn kết của nhân
dân". Do đó, "trong xã hội khơng có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích
của nhân dân". Từ đó, ta thấy nổi lên ở Hồ Chí Minh một tấm lịng u thương vơ
hạn đối với con người, một niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh và phẩm giá con


người, một ý chí kiên quyết đấu tranh để giải phóng con người khỏi áp bức, bất
cơng, đói nghèo, lạc hậu. Cũng có thể coi đó là những nội dung cơ bản của chủ
nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh. Lịng thương người của Hồ Chí Minh đồng nghĩa
với tình u thương dành cho các dân tộc bị áp bức. Tình u thương đó ln đi
cùng với triết lý hành động vì con người. Đi tìm và khai phá con đường cách mạng,
Nguyễn Ái Quốc luôn đặt vấn đề tự do song hành với hạnh phúc của dân tộc. Có
người Mỹ nói: “Cụ Hồ vừa là Washington, vừa là Lincoln”[3]. Cuộc Tổng khởi
nghĩa Tháng Tám năm 1945 thắng lợi, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa non trẻ
phải trải qua nạn đói khủng khiếp do Pháp – Nhật gây ra. Trong tình cảnh khó khăn
ấy, Người chủ trương phát động nhân dân tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm.
Bản thân Người gương mẫu mỗi tháng nhịn ăn ba bữa để góp gạo cứu đói. Ngay cả
khi đi chiến dịch Biên giới, Người không chịu cưỡi ngựa mà cùng đi bộ với các

cán bộ, chiến sĩ để ngựa thồ hành lý cho anh em. Khi đi thăm trại tù binh về,
Người khơng cịn áo khốc vì Người đã cho một tên tù binh bị rét cóng. Tình u
thương của Hồ Chí Minh dành cho mọi kiếp người, mọi số phận. Một trong những
học trò xuất sắc của Người là Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng viết “Những
tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh là những tình cảm lớn. Trong đời hoạt động cách
mạng của Bác, cũng như trong đời sống hàng ngày của mình, Hồ Chí Minh ln
đối xử với người có lý, có tình. Trong tình u đó có chỗ cho mọi người, khơng
qn sót một ai và sắp xếp cho mọi người vị trí chiến đấu, cũng như lo lắng chu
đáo cho mỗi người việc làm, đời sống và học tập, vừa nghiêm khắc đòi hỏi, vừa
thương yêu dìu dắt… Đối với kẻ lầm đường, lạc lối, lòng Hồ Chủ tịch còn rộng
hơn biển cả, Người dạy phải khoan hồng, vui mừng đón rước những đứa con vì
cảnh ngộ mà lạc bầy. Chúa Jesus nói: gặp một người có lỗi mà hối cải thì trên trời
vui mừng hơn gặp 99 vị tu hành. Cụ Hồ nói rằng “người Việt Nam ai cũng yêu
nước, muốn nước thống nhất độc lập, ta khéo nhen chút than hồng ấy, nó sẽ cháy
lên thành ngọn lửa”.[8]


b. Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng,phải coi trọng,
chăm sóc, phát huy nhân tố con người.[1]
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người hoàn toàn xa lạ với các quan điểm xem
con người như là cơng cụ, như là phương tiện. Mọi chính sách tăng trưởng kinh tế,
phát triển văn hoá của Hồ Chí Minh đều hướng tới con người. Người nói: "Phải
đem hết sức dân, tài dân, của dân để làm lợi cho dân", "dựa vào lực lượng của
dân, tinh thần của dân để gây hạnh phúc cho dân", "chủ nghĩa xã hội là nhằm
nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân và do nhân dân tự xây dựng
lấy".[3] Người giải thích: dân là gốc của nước. Dân là người đã không tiếc máu
xương để xây dựng và bảo vệ đất nước. Nước khơng có dân thì khơng thành nước.
Nước do dân xây dựng nên, do dân đem xương máu ra bảo vệ, do vậy dân là chủ
của nước. Qua đó, có thể thấy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người - mục tiêu
và con người - động lực là thống nhất, vì dân và do dân là thống nhất. Theo tư

tưởng Hồ Chí Minh, nhân dân là người giữ vai trò quyết định trên tất cả các lĩnh
vực: từ kinh tế, chính trị đến văn hóa, xã hội, từ những chuyện nhỏ có liên quan
đến lợi ích của mỗi cá nhân đến những chuyện lớn như lựa chọn thể chế, lựa chọn
người đứng đầu Nhà nước. Người dân có quyền làm chủ bản thân, nghĩa là có
quyền được bảo vệ về thân thể, được tự do đi lại, tự do hành nghề, tự do ngôn luận,
tự do học tập… trong khuôn khổ luật pháp cho phép. Người dân có quyền làm chủ
tập thể, làm chủ địa phương, làm chủ cơ quan nơi mình sống và làm việc. Người
dân có quyền làm chủ các đồn thể, các tổ chức chính trị xã hội thơng qua bầu cử
và bãi miễn. Đúng như Hồ Chí Minh nói: "Mọi quyền hạn đều của dân". Cán bộ từ
Trung ương đến cán bộ ở các cấp các ngành đều là "đầy tớ" của dân, do dân cử ra
và do dân bãi miễn.
Để phát huy vai trò động lực của con người, Hồ Chí Minh đã đề cập đến một
hệ thống nội dung và biện pháp (vật chất và tinh thần) nhằm tác động vào các động


cơ thúc đẩy tính tích cực hoạt động của con người. Đồng thời, cũng chỉ ra những
nội dung và biện pháp làm triệt tiêu các trở lực nhằm thúc đẩy sự phát triển theo
hướng tiến bộ.
Trong hệ thống các động lực chính trị - tinh thần, Hồ Chí Minh chú trọng
trước hết đến giáo dục chủ nghĩa yêu nước, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, đạo đức
cách mạng... đồng thời khơng coi nhẹ vai trị tác động của các nhân tố tinh thần
khác, như văn hoá, khoa học, pháp luật... đặc biệt, Người chú trọng phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, coi "thực hành dân chủ là cái chìa khố vạn năng có thể giải
quyết mọi khó khăn".
Là nhà duy vật macxít, Hồ Chí Minh hiểu hành động của con người ln gắn
liền với nhu cầu và lợi ích của họ, vì vậy, đi đơi với các biện pháp chính trị - tinh
thần, Hồ Chí Minh khơng coi nhẹ hay bỏ qua các động lực vật chất, khéo léo kết
hợp các loại động lực với nhau, tạo sức mạnh tổng hợp, thúc đẩy tính năng động
cách mạng của con người. Người tơn trọng và khuyến khích lợi ích cá nhân chính
đáng của người lao động, chủ trương kết hợp hài hồ ba lợi ích, sao cho "Nhà

nước, hợp tác xã và xã viên cùng có lợi". Nhưng muốn khai thơng động lực thì
phải khắc phục trở lực kìm hãm sự phát triển của con người, trong đó "căn bệnh
mẹ" cực kỳ nguy hiểm là chủ nghĩa cá nhân phải được phê phán mạnh mẽ, kiên
quyết tẩy trừ[7].
3.2 CHIẾN LƯỢC HỒ CHÍ MINH VỀ QUAN ĐIỂM “TRỒNG NGƯỜI”
a. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người:
Trong sự nghiệp trồng người của mình, chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra một
định nghĩa vô cùng giản dị mà đúng đắn về “con người”. Theo quan điểm của
Người, “người” ở đây có ý nghĩa chính là gia đình, anh, em , bạn bè, cũng có nghĩa
là cả dân tộc hay sâu xa hơn là cả thế hệ của loài người khắp thế giới và châu lục.
Hồ Chí Minh khơng thừa nhận con người trừu tượng, con người không bao giờ tồn


tại ở một khía cạnh, một chiều hướng mà ở nhiều bình diện, nhiều chiều, đó là bởi
vì nó được đặt trong những mối quan hệ khác nhau:
- Về quan hệ: Đó là quan hệ vũ trụ - tự nhiên, với tộc loại, cộng đồng, với
nhóm xã hội và với chính bản thân mình.
- Về vị trí: Đó là vị trí chủ động hay thụ động, quản lí hay bị quản lí, chủ thể
hay khách thể...
Khơng chỉ thế cịn có một số mối quan hệ quan trọng khác nữa như tự mình
làm chủ hay đánh mất chính mình ( Độc lập hay tha hóa ) ….
Trong q trình cách mạng, Hồ Chí Minh ln cho rằng yếu tố con người là
quan trọng nhất, là trung tâm của mọi sự vật hiện tượng. Chính vì vậy nên mục tiêu
cao cả nhất của bác đó chính là giải phóng, đem lại hạnh phúc tự do, rèn luyện và
xây dựng con người, Hồ Chí Minh đã cống hiến cả cuộc đời mình cho lý tưởng cao
đẹp ấy. Người luôn đặt niềm tin vào phẩm chất và khả năng tốt đẹp của con người,
luôn tạo điều kiện cho con người được phát triển một cách tốt đẹp hơn. Hồ chí
minh khơng chấp nhận bất cứ hình thức lăng mạ, hạ nhục con người mà luôn động
viên con người hạn chế mặt xấu và phát triển mặt tốt của mình.
Xem xét con người trong các mối quan hệ xă hội - lịch sử cụ thể như nhân

ái, tin tưởng vững chắc đối với con người; tất cả vì con người và do con người;
thực hiện giải phóng con người bắt đầu từ giải phóng dân tộc; con người vừa là
mục tiêu phục vụ, vừa là động lực cách mạng... đó là bản chất và cũng là đặc trưng
của tư tưởng Hồ Chí Minh về con người.

b. Chức năng của giáo dục – đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài:[4]


Trong tư tưởng của Hồ Chí Minh, chiến lược “trồng người” là một vấn đề tối
quan trọng, được xếp vào một trong sáu nhiệm vụ cấp bách nhất của đất nước thời
bấy giờ. Không chỉ thế, giáo dục “trồng người” cịn là việc thực hiện di chỉ của cha
ơng ta, các thế hệ đi trước về “khai trí” được trở thành hiện thực[3]. Chính vì
những lẽ đó nên từ khi có chính quyền, người đã chủ động thực hiện nhiệm vụ khai
trí cho dân dù cho đất nước có đang gặp rất nhiều khó khăn từ những cuộc chiến
khốc liệt. Hồ Chí Minh đã từng nói rằng “giặc dốt” là vô cùng nguy hiểm, được
xếp trên cả giặc ngoại xâm vì vậy nên chiến dịch “chống giặc dốt” đã được phát
động một cách mạnh mẽ và được toàn dân hưởng ứng, đó là bước khởi đầu và
cũng là nhiệm vụ thường xuyên của sự nghiệp mở mang dân trí của đảng ta. Người
chỉ rõ: "Dốt nát cũng là kẻ địch... Địch thực dân dựa vào địch dốt nát để thi hành
chiến lược ngu dân. Địch dốt nát dựa vào địch thực dân để đưa dân ta vào nơi mù
quáng... Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”.
Từ đó sự nghiệp giáo dục là của toàn thể dân tộc và đối tượng cũng là toàn
thể dân tộc. Người đã cần cù mở từng lớp nhỏ, chắt chiu rèn luyện từng con người
với cả một tấm lịng của sự nhiệt tình, kiên nhẫn và tràn ngập u thương. Ngồi ra
người cịn luôn luôn lắng nghe tiếp thu và học hỏi nhiều ý kiến của dân, Người viết
“Dân rất thông minh, quần chúng kinh nghiệm, sáng kiến rất nhiều, chỉ cần mình
có biết học hay biết lợi dụng mà thôi". Người căn dặn: “Phải học, học ở nhà
trường, học trong sách vở, học ở quần chúng nhân dân, không học quần chúng là
một sai lầm lớn”.

Hồ Chí Minh ln đề cao việc giáo dục trong sự nghiệp xây dựng đất nước,
xây dựng CNXH. “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng
người”. Người luôn đặt niềm tin tuyệt đối vào khả năng giáo dục nước nhà. Người
chỉ rõ Tiền đồ của dân tộc chúng ta sẽ ra sao, một phần quan trọng lŕ do sự nghiệp
giáo dục trực tiếp quyết định:
“Ngủ thì ai cũng như lương thiện


Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ hiền
Hiền, dữ đâu phải là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên".[8]
Đặc biệt Hồ Chí Minh ln tin tưởng vào các thế hệ thanh thiếu niên và đặt rất
nhiều hy vọng vào những người chủ tương lại của đất nước, như người từng nói:
“Non sơng Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay khơng, dân tộc Việt Nam có bước tới
đài vinh quang để sánh vai các cường quốc năm châu được hay khơng, chính là
nhờ một phần lớn ở cơng học tập của các em". Tư tưởng trơng người của Hồ Chí
minh toàn diện cả về phương pháp lẫn về nội dung.
c. Vai trò của giáo dục – đào tạo trong quá trình hình thành, phát triển và biến đổi
của tính người, nhân cách con người:
Trong con người luôn tồn tại cái thiện và cái ác. Hồ chí minh cho rằng “tính
người” là do giáo dục và thực tiễn của mỗi người. Người ln tin vào phẩm chất
tốt đẹp ln khuyến khích nâng niu gìn giữ cái tốt và loại bỏ dần cái xấu tôn lên
mặt thiện của con người, người đã từng nói rằng “Mỗi con người đều có cái thiện
và cái ác trong lòng, ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở
như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách
mạng”[8]. Nếu người xưa coi tốt xấu là do bản chất trời sinh của mỗi con người thì
Hồ Chí Minh lại cho rằng hiền hay dữ “phần nhiều do giáo dục mà nên”.

d. Giáo dục đạo đức cùng tài năng:
Hồ Chí Minh bắt đầu từ việc xây dựng một nền tảng đạo đức vững chắc

trong sự nghiệp “trồng người”. Người khẳng định: “Cũng như sơng thì có nguồn
mới có nước, khơng có nguồn thì sơng cạn. Cây phải có gốc, khơng có gốc thì cây
héo. Người cách mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng


khơng lãnh đạo được nhân dân” chính vì vậy nên tất cả mọi người, khơng trừ một
ai phải tích cực thường xuyên trao dồi đạo đức cũng như tư tưởng cách mạng cho
thật bền vững. Người rất coi trọng đạo đức nhưng cũng rất mực coi trọng tài năng,
người luôn giang tay chào đón và trọng dụng những người có tài năng. Người địi
hỏi người cán bộ phải tinh thơng cơng việc của mình, phải biết hồn thành xuất sắc
nhiệm vụ được giao. Bởi vì nếu như thiếu tính thành thạo trong cơng việc thì sẽ
gây ra hậu quả khơn lường, nhất là những hoạt động liên quan đến nhà nước.
Cả hai yếu tố giáo dục đạo đức và tài năng đều được người coi trọng. Vì vậy nên
để phát triển tồn diện, người việt nam cần phải:


Thường xun trau dồi đạo đức cách mạng, bồi dưỡng tinh thần
nhân ái, khoan dung.



Chú trọng phát triển đồng đều cả tri thức, tình cảm, ý chí.



Phải có sự thống nhất giữa khối óc, trái tim và đôi bàn tay.

Người dạy: “Những gương người tốt làm việc tốt mn hình, mn vẻ là vật
liệu quý để các chú xây dựng con người… Lấy gương người tốt, việc tốt để hằng
ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây

dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới”.

e. Bồi dưỡng thế hệ Cách mạng cho đời sau:
Người đã từng viết trong di chúc của mình “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng
cho đời sau là một việc rất quan trong và rất cần thiết”.Trong việc giáo dục, bồi
dưỡng những người kế tục ý tưởng của cách mạng, phải quan tâm đến đức và tài là
điều vô cùng quan trọng. Người rất quan tâm tới những chiến sĩ trẻ tuổi trong các
lực lượng vũ trang nhân dân và thanh niên xung phong và căn dặn: “Đảng và chính
quyền cần chọn một số ưu tú nhất, cho các cháu ấy đi học thêm các ngành, các


nghề, để đào tạo thành những cán bộ và công nhân có kỹ thuật giỏi, tư tưởng tốt,
lập trường cách mạng vững chắc. Đó là đội quân chủ lực trong công cuộc xây dựng
thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở nước ta”. Điều này thể hiện rõ tầm nhìn chiến
lược của Hồ Chí Minh trong cơng cuộc lựa chọn rèn luyện các nhân tố của con
người.
Người rất quan tâm “chiêu hiền đãi sĩ”, “cầu người hiền tài” và luôn nhắc
nhở phải “khéo dùng cán bộ”, phải “hiểu và đánh giá đúng cán bộ”, “có gan cất
nhắc cán bộ”, muốn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém. Trong
cách sử dụng con người trong bộ máy nhà nước, người luôn cân nhắc một cách hợp
lý để đạt hiệu quả tốt nhất, khơng lãng phí nhân tài.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người trong chiến lược “trồng người” chính
là sự kết tinh những tinh hoa cao đẹp của truyền thống dân tộc, nhân loại và tư
tưởng của thời đại: Tư tưởng nhân đạo cộng sản. Ngày nay, trong sự nghiệp đổi
mới của đất nước, cùng với những mặt tích cực của cơ chế thị trường, những tác
động tiêu cực đang xói mịn đạo đức, đời sống văn hóa của nhân dân ta. Song,
Đảng ta nhất quán cho rằng: Chăm sóc, bồi dưỡng, phát huy nhân tố con người vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh và "phát triển
con người với tư cách vừa là động lực, vừa là mục đích của cách mạng, của sự
nghiệp đổi mới đất nước... Con người là vốn quý nhất, chăm lo cho hạnh phúc của

con người là mục tiêu phấn đấu của chế độ ta”[8]


CHƯƠNG 4
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀO XÂY DỰNG
CON NGƯỜI MỚI
4.1 THỰC TRẠNG CỦA VIỆC THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC XÂY DỰNG CON
NGƯỜI MỚI CỦA ĐẢNG VÀ LỐI SỐNG ĐẠO ĐỨC CỦA NGƯỜI DÂN TA
HIỆN NAY.
a. Thành tựu đạt được và những hạn chế trong chiến lược xây dựng con người mới
của Đảng:
Trong chiến lược xây dựng con người của Đảng ta, mà then chốt là vấn đề
giáo dục-đào tạo, Đảng ta đã giải quyết một số vấn đề mà tại hội nghị lần thứ sáu
Ban chấp hành Trung ường khoá IX Đảng ta đã khẳng định: Qua 5 năm thực hiện
nghị quyết, nền giáo dục nước ta đã đạt chuẩn quốc gia về xoá mù chữ và phổ cập
giáo dục tiểu học, tiến hành phổ cập trung học cơ sở ở một số tỉnh, thành phố trình
độ dân trí và chất lượng nguồn lực con người được nâng lên, chất lượng giáo dục
tồn diện có chuyển biến bước đầu. Sự nghiệp giáo dục ngày càng được đề cao và
được toàn xã hội quan tâm.
Song bên cạnh những thành tựu đạt được, nền giáo dục nước ta còn đứng
trước nhiền khó khăn, yếu kém, nhất là về chất lượng và quản lý nhà nước về giáo
dục. Cơ cấu giáo dục còn bất hợp lý, mất cân đối, nhiều nhu cầu nhân lực của nền
kinh tế chưa được đáp ứng (kết luận của hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung


ương khoá IX về tiếp tục thực hiện nghị quyết Trung ương khố VIII...Tạp chí
cộng sản số 25, 2002).
Tuy nhiên, sau nhiều năm phát triển giáo dục-đào tạo ở nước ta, như nghị
quyết hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương khoá VIII đã chỉ rõ, chưa
đáp ứng kịp thời những đòi hỏi lớn và ngày càng cao về nhân lực cho công cuộc

đổi mới kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, thực hiện cơng nghiệp hố,
hiện đại hố. Nghị quyết hội nghị đã chỉ ra 5 yếu kém (về quy mô cơ cấu, về đội
ngũ giáo viên, về chất lượng và hiệu quả, về kỷ cương trong giáo dục, về thực hiện
công bằng xã hội) của ngành giáo dục và đào tạo của nước ta. Số liện thống kê xác
nhận, chúng ta có hơn 10.000 giáo sư, PGS, Tiến sĩ, Thạc sĩ chiếm 2,3% tổng số
lao động xã hội. Trong đó lĩnh vực khoa học công nghệ chiếm 15,4%, nhưng
67,5% của tổng số cán bộ kỹ thuật ấy lại làm việc trong lĩnh vực phi vật chất, còn
sản xuất kinh doanh chỉ chiếm 32,7% (cán bộ khoa học - kỹ thuật cao trực tiếp làm
việc trong các lĩnh vực sản xuất của Thái Lan là 58,8%, Hàn Quốc 48%, Nhật
64,4%). Trong khi cơ cấu và phân bổ cán bộ khoa học và cơng nghệ chưa cân đối,
cịn nhiều bất hợp lý, thì cán bộ có trình độ cao, giỏi chỉ lại tập trung làm việc chủ
yếu ở cấc cơ quan trung ương. Rõ ràng ở cơ sở và các đơn vị sản xuất kinh doanh
lại đang rất thiếu cán bộ có trình độ cao. Bộ giáo dục và đào tạo nhận định: để có
mức tăng trưởng 9-10% GDP thì tốc độ tăng trưởng nguồn nhân lực khoa học kỹ
thuật phải đạt từ 4-5%/năm. Trên thực tế, mặc dù đã có rất nhiều nỗ lực nhưng đào
tạo chuyên gia trình độ cao mới chỉ đạt từ 2-3%/năm.
Về văn hoá, cơ bản chúng ta đã phổ cập được ở diện rộng, nhưng trình độ
chung của người lao động vẫn còn ở mức thấp, lao động có trình độ cấp 1 chiếm
12,72%, cấp 2 có hơn 40%, cấp 3 vào khoảng 30%, trung học chuyên nghiệp
6,84%, đại học 11%.[4]
b.Thực trạng đạo đức của cán bộ, Đảng viên và thanh niên Việt Nam hiện nay:


Trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hoá mà nước ta đang tiến
hành hiện nay đang tồn tại song song hai vấn đề về lối sống đạo đức của con người
mà tiêu biểu là đội ngũ cán bộ, Đảng viên - những người chủ trì của đất nước, đó là
hai mặt tích cực và tiêu cực.
Mặt tích cực được thể hiện ở chỗ vẫn có nhiều người vẫn duy trỳ và phát
huy được phẩm chất đạo đức cách mạng, đạo đức nghề nghiệp, sống và làm việc
theo lý tưởng của Đảng, có lối sống văn minh, ý chí phấn đấu xây dựng nước nhà

giàu mạnh và chủ nghĩa quốc tế trong sáng.
Bên cạnh đó tồn tại mặt trái là lối sống tiêu cực về đạo đức của một bộ phận
cán bộ, đảng viên mà hội nghị Trung ương lần thứ sáu đã nhận định: "Tình trạng
cán bộ thoái hoá, biến chất chưa được ngăn chặn và đẩy lùi. Trong đội ngũ cán bộ
vẫn tồn tại tình trạng trì truệ, thiếu trách nhiệm và tính chiến đấu chưa cao". Biểu
hiện của tình trạng thối hố khá phức tạp và đa dạng như bệnh chun quyền độ
đốn, khơng tơn trọng dân chủ, bệnh quan liêu xa rời thực tiễn, xa rời nhân dân,
bệnh xu nịnh và tâm lý cầu an hưởng lạc, không giám đấu tranh bảo vệ cái đúng,
chống cái sai, chống chủ nghĩa cá nhân, thực dụng; chủ nghĩa địa phương hẹp hòi;
lối sống xa hoa, đua địi, thậm chí mê tín, dị đoan...Khơng chỉ có vậy mà cịn có:
''biểu hiện của tư tưởng sùng ngoại, tơn sùng Chủ Nghĩa Tư Bản, chạy theo lối
sống của xã hội tiêu thụ, tuyệt đối hoá giá trị vật chất, tiền bạc ''văn hoá'' lai căng,
tự ti dân tộc, thậm chí phai nhạt ý thức giai cấp, niềm tin và lý tưởng cộng sản...đã
xuất hiện một cách báo động". Trong tất cả những vấn nạn đó phải đặc biệt quan
tâm đến nạn tham nhũng, có thể coi tham nhũng đang là quốc nạn, là vấn đề chính
trị ở nước ta.
Trên đây là một số tồn đọng đang nổi cộm trong hàng ngũ cán bộ, đảng viên
- những người chủ trì trong công cuộc xây dựng đất nước ta trong thời kỳ hiện nay,
và một lực lượng cũng cần nhắc đến đó là giới trẻ, lớp thanh niên - những người
chủ tương lai của đất nước. Bên cạnh những thanh niên thông minh, sáng tạo và


nghị lực, biết tận dụng mọi cơ hội, mọi khả năng để vượt qua những thử thách của
cuộc sống xứng đáng là người chủ tương lai của đất nước, thì vẫn tồn tại khơng ít
lớp thanh niên có thái độ thờ ơ, vô trách nhiệm, bi quan, chán nản, trông chờ ỷ lại
hay có những hành động mang tính cực đoan, chạy theo lợi ích cá nhân, cơ hội, vụ
lợi, chạy theo cái xấu, đua địi, giả dối,...Thậm trí trong lối sống thanh niên hiện
nay đang tồn tại lối sống văn hoá thứ cấp: nhu cầu, thị hiếu, năng lực, văn hố của
thanh niên chưa định hình, đang có những biến đổi, biến động sâu sắc, phong phú
và phức tạp.


4.2 NGƯỜI VIỆT NAM VỚI VĂN HĨA ỨNG XỬ CỘNG ĐỒNG
Nói đến văn hóa người ta thường tìm về văn hóa truyền thống. Tùy quốc
gia,dân tộc,vùng miền…mà hình thành những nền văn hóa khác nhau,trong đó có
văn hóa ứng xử. Văn hóa là giá trị vật chất và tinh thần của dân tộc, trình độ cao
trong sinh hoạt xã hội,là biểu hiện của văn minh. Cịn văn hóa ứng xử thể hiện giá
trị nhân văn, phản ánh “trình độ người” trong quan hệ cộng đồng. Văn hóa ứng xử
là thái độ, cách đối nhân xử thế trong cuộc sống hằng ngày với các mối quan hệ
khác nhau được thể hiện ở nhiều khía cạnh, trước hết là văn hóa giao tiếp trong
cuộc sống thường ngày, văn hóa ứng xử với các phương tiện giao thơng,văn hóa
ứng xử với mơi trường…Vì vậy, việc ứng xử có văn hóa khơng chỉ tạo nét đẹp cho
từng cá nhân mà còn phản ánh nền văn hóa cho một cộng đồng, một quốc gia, một
dân tộc.
Bên cạnh những mặt tích cực, cịn khơng ít những mặt hạn chế trong văn hóa ứng
xử ngồi cộng đồng ảnh hưởng trực tiếp tới mỗi cá nhân và cả cộng đồng. Đó là
một trong những hạn chế lớn trong quá trình xây dựng con người mới theo tư
tưởng Hồ Chí Minh.


×