Tải bản đầy đủ (.pdf) (152 trang)

Cung ứng dịch vụ công theo mô hình một cửa tại các đơn vị sự nghiệp công lập trong lĩnh vực lao động, thương binh, xã hội trực thuộc sở lao động thương binh và xã hội thàn phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.4 MB, 152 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
…………/…………

BỘ NỘI VỤ
……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

HÀ VŨ LAM LINH

CUNG ỨNG DỊCH VỤ CƠNG THEO MƠ HÌNH MỘT CỬA
TẠI CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP TRONG
LĨNH VỰC LAO ĐỘNG, THƯƠNG BINH, XÃ HỘI
TRỰC THUỘC SỞ LAO ĐỘNG - THƯƠNG BINH
VÀ XÃ HỘI THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH QUẢN LÝ CÔNG

HÀ NỘI – NĂM 2020


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
…………/…………

BỘ NỘI VỤ
……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

HÀ VŨ LAM LINH


CUNG ỨNG DỊCH VỤ CƠNG THEO MƠ HÌNH MỘT CỬA
TẠI CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP TRONG
LĨNH VỰC LAO ĐỘNG, THƯƠNG BINH, XÃ HỘI
TRỰC THUỘC SỞ LAO ĐỘNG - THƯƠNG BINH
VÀ XÃ HỘI THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH QUẢN LÝ CƠNG
Chun ngành: Quản lý cơng
Mã số: 8 34 04 03

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS.NGUYỄN MINH PHƯƠNG

HÀ NỘI – NĂM 2020


LỜI CAM KẾT
Luận văn này là cơng trình nghiên cứu của cá nhân tôi, được thực hiện dưới
sự hướng dẫn khoa học của PSG.TS.Nguyễn Minh Phương. Các số liệu, những
kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn này hồn tồn trung thực.
Tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Học viên

Hà Vũ Lam Linh


LỜI CẢM ƠN
Để có thể hồn thành đề tài luận văn thạc sĩ một cách hoàn chỉnh, bên
cạnh sự nỗ lực cố gắng của bản thân cịn có sự hướng dẫn nhiệt tình của q
Thầy Cơ, cũng những sự động viên ủng hộ của gia đình và bạn bè trong suốt
thời gian học tập nghiên cứu và thực hiện luận văn thạc sĩ.

Lời cảm ơn trân trọng đầu tiên tôi muốn dành cho PSG.TS.Nguyễn Minh
Phương, người đã hết lòng giúp đỡ và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi hồn
thành luận văn này.
Tơi xin chân thành bày tỏ lịng biết ơn đến tồn thể q thầy cơ trong
khoa Quản lý công và khoa Sau đại học Học viện Hành chính Quốc gia đã tận
tình truyền đạt những kiến thức quý báu cũng như tạo mọi điều kiện thuận lợi
nhất cho tơi trong suốt q trình học tập nghiên cứu và cho đến khi thực hiện đề
tài luận văn.
Tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn đến Sở Lao động - Thương binh và Xã hội
thành phố Hà Nội, Trung tâm Dịch vụ việc làm Hà Nội và Ban Phục vụ lễ tang
Hà Nội đã không ngừng hỗ trợ và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt
thời gian nghiên cứu và thực hiện luận văn.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn đến gia đình, các anh chị và các bạn
đồng nghiệp đã hỗ trợ cho tôi rất nhiều trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu
và thực hiện đề tài luận văn thạc sĩ một cách hoàn chỉnh.
Hà Nội, tháng 04 năm 2020.


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Từ viết đầy đủ
Bộ phận Tiếp nhận và trả kết quả

Từ viết tắt
BPTN&TKQ

Ban Phục vụ lễ tang

BPVLT


Cải cách hành chính

CCHC

Cơ quan nhà nước

CQNN

Cơ quan hành chính nhà nước
Dịch vụ công
Dịch vụ sự nghiệp công
Đơn vị sự nghiệp công lập
Người lao động
Quản lý nhà nước
Trung tâm Dịch vụ việc làm
Ủy ban nhân dân

CQHCNN
DVC
DVSNC
ĐVSNCL
NLĐ
QLNN
TTDVVL
UBND


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài .................................................................................... 1

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ........................................................ 2
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn ............................................................... 10
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 11
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu .............................................. 11
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ....................................................... 11
7. Kết cấu của luận văn ....................................................................................... 12
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CUNG ỨNG DỊCH VỤ CƠNG
THEO MƠ HÌNH “MỘT CỬA” TẠI CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP13
1.1. Khái niệm và đặc điểm, vai trị của dịch vụ cơng tại các đơn vị sự nghiệp
cơng lập ............................................................................................................... 13
1.2. Mơ hình “một cửa” cung cấp dịch vụ công tại các đơn vị sự nghiệp cơng lập21
1.3. Lợi ích của việc áp dụng và điều kiện áp dụng mơ hình “một cửa” trong
cung cấp dịch vụ công tại các đơn vị sự nghiệp công lập ................................... 26
1.4. Kinh nghiệm cung ứng dịch vụ công theo mơ hình “một cửa” tại các đơn vị
cơng lập của một số địa phương và bài học rút ra .............................................. 33
Tiểu kết Chương 1 ............................................................................................... 38
Chương 2. THỰC TRẠNG CUNG ỨNG DỊCH VỤ CƠNG THEO MƠ HÌNH
“MỘT CỬA” TẠI CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP TRONG LĨNH
VỰC LAO ĐỘNG, THƯƠNG BINH, XÃ HỘI TRỰC THUỘC SỞ LAO
ĐỘNG –THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI THÀNH PHỐ HÀ NỘI ................. 39
2.1. Khái quát về dịch vụ công do các đơn vị sự nghiệp công lập trong lĩnh vực
lao động, thương binh, xã hội trực thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội
thành phố Hà Nội cung cấp ................................................................................. 39


2.2. Tình hình cung cấp dịch vụ cơng theo mơ hình “một cửa” tại các đơn vị sự
nghiệp cơng lập trong lĩnh vực lao động, thương binh, xã hội trực thuộc Sở Lao
động - Thương binh và Xã hội thành phố Hà Nội .............................................. 46
2.3. Đánh giá chung............................................................................................. 69
Tiểu kết Chương 2 ............................................................................................... 79

Chương 3. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HỒN THIỆN MƠ HÌNH “MỘT
CỬA” TRONG CUNG ỨNG DỊCH VỤ CÔNG TẠI CÁC ĐƠN VỊ SỰ
NGHIỆP CÔNG LẬP TRONG LĨNH VỰC LAO ĐỘNG, THƯƠNG BINH,
XÃ HỘI TRỰC THUỘC SỞ LAO ĐỘNG,THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI
THÀNH PHỐ HÀ NỘI ..................................................................................... 81
3.1. Định hướng hồn thiện mơ hình “một cửa” trong cung ứng dịch vụ công tại
các đơn vị sự nghiệp công lập ............................................................................. 81
3.2. Giải pháp hồn thiện mơ hình “một cửa” trong cung ứng dịch vụ công tại
các đơn vị sự nghiệp công lập trong lĩnh vực lao động, thương binh, xã hội trực
thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội thành phố Hà Nội ........................ 89
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo đảm cung ứng dịch vụ công (DVC) là một chức năng cơ bản của Nhà
nước, đặc biệt trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Tính ưu việt của một xã hội được phản chiếu một cách rõ ràng qua
chất lượng cung ứng DVC, bởi vì DVC là những hoạt động phục vụ các lợi ích
tối cần thiết của xã hội, đảm bảo cho xã hội phát triển bền vững và có kỷ cương,
trật tự. Trong các DVC, dịch vụ do các đơn vị sự nghiệp cơng lập (ĐVSNCL)
cung cấp có vai trị quan trọng. Chất lượng, hiệu quả cung cấp các dịch vụ sự
nghiệp công (DVSNC) như giáo dục, đào tạo, y tế, văn hóa, thông tin, việc
làm… không chỉ tác động đến đời sống kinh tế - xã hội trong hiện tại mà còn
ảnh hưởng đến sự phát triển trong tương lai. Chính vì vậy, chất lượng và hiệu
quả cung cấp DVSNC của các ĐVSNCL là mối quan tâm của mọi quốc gia, của
nhà nước và của cả cộng đồng xã hội. Trên thế giới, ngày càng có nhiều chính
phủ cố gắng cải tiến hoạt động của các ĐVSNCL thông qua việc thiết lập và sử

dụng một hệ thống đánh giá giúp họ hiểu rõ, kiểm soát được hoạt động và nâng
cao chất lượng DVC nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của người dân.
Trong những năm gần đây, mơ hình “một cửa”, một cửa liên thông, một
cửa liên thông hiện đại được áp dụng rộng rãi trong cung cấp dịch vụ hành chính
cơng đã mang lại những kết quả vơ cùng tích cực đối với cả cơ quan cung cấp
dịch vụ và người dân thụ hưởng dịch vụ. Tuy nhiên, đối với DVSNC, mơ hình,
cơ chế “một cửa” chưa được triển khai áp dụng một cách rộng rãi. Điều này xuất
phát từ nhiều lý do, trong đó, một lý do quan trọng là chúng ta đang thiếu những
cơ sở lý luận và thực tiễn thực sự đầy đủ, vững chắc về việc hoàn thiện cơ chế
“một cửa” trong cung cấp DVC tại các ĐVSNCL. Do đó, việc nâng cao chất
lượng DVC và hoàn thiện cơ chế “một cửa” trong cung cấp DVC tại các
ĐVSNCL đã nhận được sự quan tâm, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước.
Trong số các ĐVSNCL trên địa bàn thành phố Hà Nội, tính đến thời điểm
hiện nay, chỉ có 02 đơn vị áp dụng cơ chế “một cửa” trong cung cấp DVC là:
1


Trung tâm Giới thiệu việc làm Hà Nội (nay là Trung tâm Dịch vụ việc làm
(TTDVVL) Hà Nội) và Ban Phục vụ lễ tang (BPVLT) Hà Nội trực thuộc Sở Lao
động - Thương binh và Xã hội. Do đó, chất lượng cung cấp dịch vụ ở một số
lĩnh vực hoặc có nơi, có lúc cịn chưa đáp ứng u cầu, như: người dân phải đi
lại nhiều lần, nhiều đầu mối giải quyết, hồ sơ đề nghị cung cấp dịch vụ còn phức
tạp, rườm rà; thời gian giải quyết còn dài, một số dịch vụ cịn chưa thực sự cơng
khai, minh bạch về thành phần hồ sơ, thời gian, quy trình giải quyết. Phương
thức thực hiện việc giao dịch cung cấp DVC khá đa dạng: có thể các bộ phận
chun mơn trực tiếp tiếp nhận, giải quyết và trả kết quả hoặc hình thành bộ
phận khách hàng (tách khỏi bộ phận chuyên môn) để tiếp nhận và trả kết quả
giải quyết dịch vụ hoặc do trực tiếp thủ trưởng đơn vị phân việc cho các bộ phận
chuyên môn sau khi ký hợp đồng.
Có thể thấy, việc nghiên cứu về cung ứng DVC theo mơ hình “một cửa”

tại các ĐVSNCL trong lĩnh vực lao động, thương binh, xã hội trực thuộc Sở Lao
động - Thương binh và Xã hội thành phố Hà Nội (mà cụ thể là TTDVVL Hà
Nội và BPVLT Hà Nội) là cơ sở, là nền tảng để minh chứng cho những kết quả
mà mơ hình “một cửa” đem lại, góp phần đúc kết kinh nghiệm, đưa ra những
giải pháp nhằm hồn thiện mơ hình “một cửa” trong cung ứng DVC tại các
ĐVSNCL nói chung.
Vai trị nền tảng lý luận và ý nghĩa thực tiễn của mơ hình “một cửa” trong
cung ứng DVC của các ĐVSNCL là cơ sở cho học viên chọn đề tài: “Cung ứng
dịch vụ công theo mơ hình một cửa tại các đơn vị sự nghiệp công lập trong
lĩnh vực lao động, thương binh, xã hội trực thuộc Sở Lao động - Thương
binh và Xã hội thành phố Hà Nội” để thực hiện Luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
a. Tình hình nghiên cứu ngồi nước
Theo các tác giả Borgeat, Dussault và Ouellet, Nhà nước thực hiện việc
cung ứng DVC dưới hai phương thức hoạt động cơ bản:

2


Một là, Nhà nước - quyền lực công. Hoạt động của Nhà nước theo
phương thức này xuất phát từ việc Nhà nước với tư cách là một pháp nhân xã
hội, có trách nhiệm thiết lập một trật tự hợp pháp trong xã hội. Các hoạt động
này được gọi là "dịch vụ cơng" và tn thủ lơ-gíc chính trị. Các cơ quan hành
chính có trách nhiệm thực thi các hoạt động này.
Hai là, Nhà nước - chủ doanh nghiệp. Ở đây, Nhà nước nhân danh và vì lợi
ích của xã hội, nhưng với danh nghĩa một chủ thể giống như các chủ thể khác
trong xã hội, hoạt động trong khuôn khổ luật pháp chung. Là chủ thể kinh tế, Nhà
nước - chủ doanh nghiệp quan tâm đến của cải vật chất và dịch vụ để phục vụ nhu
cầu sử dụng của bản thân Nhà nước hoặc để phân phát cho các khách hàng khác.
Các hoạt động theo phương thức này vô cùng phong phú và đương nhiên buộc

phải gắn với lơ-gíc kinh tế và lợi nhuận. Tuy nhiên, ngay trong lĩnh vực này, các
hàng hóa và dịch vụ được Nhà nước cung ứng cũng mang tính chất DVC. Các cơ
quan thực thi các hoạt động theo phương thức này nằm ở vị trí trung gian giữa các
đơn vị hành chính và doanh nghiệp tư nhân, với các hoạt động khi thì gần với các
đơn vị hành chính, khi thì giống với doanh nghiệp tư nhân.
Tác

giả

De

Araújo,

"Improving public service delivery:

J.

F.F.E.

(2001)

trong

nghiên

The crossroads between

cứu
NPM


and traditional bureaucracy" (Nâng cao chất lượng cung cấp DVC: Sự giao thoa
giữa quản lý cơng mới và nền hành chính quan liêu truyền thống), Public
Administration, đã đề cập đến phương thức cung cấp DVC thơng qua mơ hình
“cửa hàng cơng dân”. Một số DVC được cung cấp tập trung tại một trụ sở, tạo
điều kiện cho công dân tiếp cận dịch vụ nhanh chóng, khắc phục sự quan liêu,
chậm trễ trong cung cấp DVC.
Tác giả Poddighe, F. (2011) "Lean production and one-stop shop for
municipal services" (Hướng tới năng suất và cơ chế “một cửa” cho các dịch vụ đô
thị) đề cập đến mơ hình “một cửa” trong việc cung cấp các dịch vụ cơng ích từ
chính quyền đơ thị. Theo tác giả, mơ hình “một cửa” trong cung cấp các dịch vụ
cơng ích sẽ khắc phục được sự phân tán của thủ tục hành chính quan liêu, tăng
3


cường hiệu suất, nâng cao hiệu quả quản lý, gia tăng khả năng lắng nghe của chính
quyền, thiết lập kênh thông tin hai chiều, mở rộng sự minh bạch và trách nhiệm giải
trình, tạo ra cơ chế giám sát của nhân dân với DVC của chính quyền.
Nghiên cứu “Cơ chế “một cửa” - Dễ dàng hơn, nhanh hơn và rẻ hơn Kinh nghiệm Bồ Đào Nha” của Luís Goes Pinheiro, Trưởng bộ phận nhân sự,
Văn phòng Ban Thư ký hiện đại hóa hành chính, 2010 đã phân tích những kinh
nghiệm thành công của Bồ Đào Nha trong cung cấp DVC, trong đó có DVSNC
qua cơ chế “một cửa”. Theo đó, Bồ Đào Nhà bắt đầu tổ chức thực hiện và thiết
lập bộ phận “một cửa” từ năm 1999 với tên gọi là The Citizen Shops (Bộ phận
tiếp công dân). Bộ phận này được thiết lập với mục đích thành lập những tổ
chức hiện đại, cập nhật và hiện đại hóa ở các thành phố lớn để cung cấp DVC,
thống nhất các DVC tại một đầu mối, cải thiện chất lượng DVC. Bộ phận tiếp
công dân này được tổ chức thực hiện theo cơ chế “một cửa” phục vụ cho cả
người dân và doanh nghiệp, các tổ chức công cũng như tổ chức tư nhân với hàng
loạt DVC như cung cấp điện, nước, dịch vụ sức khỏe, đào tạo, việc làm…
Bên cạnh đó, các nghiên cứu One stop shop in Kazakhstan: Breaking –up
traditional bureaucracy or a new look for old practice? (“Một cửa” tại

Kazahkstan: Phá vỡ tính quan liêu hay một cái nhìn mới cho cách làm cũ);
Measuring One Stop Shop Performance in Indonesia (tạm dịch: Đo lường hiệu
quả hoạt động cơ chế “một cửa”), Asia Foundation, tháng 8/2007 đều đề cập đến
vai trò của cơ chế “một cửa” trong cung cấp dịch vụ cơng ích. Các nghiên cứu
này đã nhấn mạnh đến việc áp dụng cơ chế “một cửa” trong cung cấp DVSNC.
Các nghiên cứu ngồi nước có ý nghĩa quan trọng trong tiếp cận vấn đề
cung cấp DVC qua cơ chế “một cửa”. Thực tiễn ở các quốc gia cho thấy, cơ chế
“một cửa” không chỉ phù hợp cho việc việc cung cấp các dịch vụ hành chính
cơng mà còn là một phương thức phù hợp để cung cấp các dịch vụ cơng ích.
b. Tình hình nghiên cứu trong nước
Ở nước ta, các nghiên cứu về DVC đã từng bước được chú ý trong những
năm gần đây. Các nghiên cứu thường tập trung vào một số vấn đề cơ bản sau đây:
4


Thứ nhất, các nghiên cứu về dịch vụ công và vai trị của Nhà nước đối với
dịch vụ cơng
Ở Việt Nam, khái niệm DVC mới được sử dụng trong những năm gần
đây. Theo tác giả Phạm Quang Lê trong sách “Dịch vụ cơng và xã hội hố dịch
vụ cơng- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” do Chu Văn Thành (chủ biên), Nhà
XB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004) định nghĩa là: “những hoạt động của các
tổ chức nhà nước hoặc của các doanh nghiệp, tổ chức xã hội, tư nhân được Nhà
nước uỷ quyền để thực hiện nhiệm vụ do pháp luật quy định, phục vụ trực tiếp
những nhu cầu thiết yếu của cộng đồng, công dân; theo nguyên tắc không vụ
lợi; đảm bảo sự công bằng và ổn định xã hội”, và cho rằng DVC bao gồm
DVSNC (hoặc phúc lợi công cộng), dịch vụ công ích và dịch vụ hành chính
công, đồng thời nhấn mạnh là không được lẫn lộn với hoạt động công vụ (civil
services) là hoạt động hàng ngày của bộ máy công quyền.
Các nghiên cứu về khu vực cơng và vai trị của nó trong việc cung ứng
DVC nói chung. Ở góc độ này có nghiên cứu của tác giả Vũ Huy Từ (chủ biên):

“Quản lý khu vực cơng” [1998], đã trình bày những vấn đề chung nhất về khu
vực công và vai trị của nó đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Phân tích một
số nội dung cơ bản về hoạt động quản lý khu vực công trên các lĩnh vực chủ
yếu. Xu hướng cải cách và hoàn thiện một số khu vực công của các quốc gia
trên thế giới.
Nghiên cứu Nguyễn Ngọc Hiến (chủ biên): “Vai trò của nhà nước trong
cung ứng dịch vụ công: Nhận thức, thực trạng và giải pháp” [2002]. Giới thiệu
những cách nhìn đa dạng về khái niệm DVC và lý luận về vai trò của Nhà nước
trong cung ứng DVC. Xem xét các vấn đề bức xúc đặt ra từ thực tiễn cung ứng
DVC ở nước ta. Trên cơ sở đó cho rằng phải cải cách, đổi mới căn bản khu vực
DVC, gồm cả phương thức cung ứng dịch vụ, cơ chế tài chính và thể chế.
Nghiên cứu của Lê Xuân Bá, Bùi Văn Dũng, Nguyễn Thị Luyến: "Thực
trạng và giải pháp đổi mới cơ chế quản lý dịch vụ cơng ích" [2005]; Viện Khoa
học tổ chức nhà nước: "Về dịch vụ cơng ở thành phố Hồ Chí Minh" [2004],... đã
5


phân tích cơ chế quản lý DVC hiện hành với những bất cập của nó trước cơ chế
thị trường và khuyến nghị giảm bớt sự can thiệp trực tiếp của nhà nước, sử dụng
hợp lý quan hệ thị trường. Các nghiên cứu này cũng lưu ý rằng, giảm bớt sự can
thiệp trực tiếp của nhà nước trong cung ứng DVC nhưng vai trị của nhà nước
khơng thay đổi, mà đó thực chất chỉ là đổi mới phương thức cung ứng dịch vụ
để tạo ra hiệu quả và chất lượng cao hơn.
Một nghiên cứu khác của Đỗ Thị Hải Hà: “Quản lý nhà nước đối với cung
ứng dịch vụ công” [2007] lại xem xét ở góc độ quản lý nhà nước (QLNN) đối
với DVC. Phân tích thực trạng quản lí nhà nước đối với cung ứng DVC ở Việt
Nam giai đoạn vừa qua, từ đó đưa ra một số giải pháp hồn thiện quản lí nhà
nước đối với loại dịch vụ này từ 2007-2020.
Những nghiên cứu ở góc độ cải cách khu vực công và DVC nhằm mở
rộng sự tham gia của tư nhân trong việc cung ứng DVC có một số nghiên cứu

như: Nghiên cứu của Lê Chi Mai: “Cải cách dịch vụ công ở Việt Nam”, [2003];
hay nghiên cứu của Đặng Đức Đạm: “Một số vấn đề đổi mới, quản lý dịch vụ
cơng ở Việt Nam”, phân tích những vấn đề lý luận chung về DVC; phân tích
thực trạng và giải pháp cải cách cung ứng DVC và dịch vụ hành chính cơng theo
hướng: cho tư nhân, thậm chí các tổ chức phi lợi nhuận tham gia cung ứng
DVC. Cùng hướng nghiên cứu này có cơng trình của Đinh Văn Ân, Hoàng Thu
Hoà (đồng chủ biên): “Đổi mới cung ứng dịch vụ công ở Việt Nam” [2006] giới
thiệu những quan niệm và thực tiễn về DVC và cung ứng DVC trên thế giới
trong 20 năm qua. Phân tích thực trạng cung ứng DVC của khu vực nhà nước và
những yêu cầu đổi mới cung ứng DVC ở Việt Nam. Q trình xã hội hóa cung
ứng DVC ở Việt Nam. Từ đó đề xuất chủ trương và giải pháp đẩy mạnh xã hội
hoá cung ứng DVC trong thời gian tới.
Thứ hai, các nghiên cứu về hoạt động cung cấp dịch vụ cơng.
Đó các nghiên cứu về đổi mới cơ chế và hệ thống để mở rộng sự tham gia
của khu vực tư vào cung ứng DVC có nghiên cứu của Vũ Thanh Sơn: “Hồn
thiện hệ thống cung cấp hàng hóa và dịch vụ công: một số gợi ý cho Việt Nam”
6


[2003]. Phân tích các cơ chế để hồn thiện hệ thống cung cấp hàng hóa và DVC.
Từ đó đưa ra những kiến nghị cần phải mở rộng để cho các đối tác ngoài nhà
nước tham gia cung ứng DVC (nhất là đối với DVC mở rộng) đáp ứng nhu cầu
của công dân. Và Vũ Thanh Sơn: “Cạnh tranh đối với khu vực cơng trong cung
ứng hàng hố và dịch vụ” [2009]. Nghiên cứu khuôn khổ lý luận về khu vực
công và cạnh tranh đối với khu vực công trong cung ứng hàng hóa và dịch vụ.
Kinh nghiệm quốc tế về vận dụng cạnh tranh trong khu vực cơng; phân tích thực
trạng, nguyên tắc và giải pháp xúc tiến mở rộng cạnh tranh đối với khu vực công
trong cung ứng DVSNC ở Việt Nam.
Trên khía cạnh xã hội hóa DVC, đáng chú ý có nghiên cứu của Chu Văn
Thành (chủ biên): “Dịch vụ cơng và xã hội hố dịch vụ cơng: Một số vấn đề lý

luận và thực tiễn”, [2004], giới thiệu kinh nghiệm của một số nước trên thế giới
trong việc cung ứng DVC, phân tích DVC và xã hội hóa DVC của Việt Nam.
Cùng hướng nghiên cứu này có bài viết của Đỗ Trung Hiếu: “Xã hội hóa dịch vụ
cơng ở Việt Nam” [2011], lại phân tích thực tiễn phát triển cung ứng DVC tại một
số nước trên thế giới. Những vấn đề nảy sinh từ quan niệm về DVC và xã hội hóa
DVC ở Việt Nam hiện nay. Còn nghiên cứu của Nguyễn Minh Phương: “Đẩy
mạnh xã hội hóa dịch vụ cơng ở nước ta hiện nay” [2008], lại xem xét quan điểm
chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về đẩy mạnh xã hội hóa DVC, các kết quả đạt
được và hạn chế vướng mắc trong xã hội hóa DVC. Đề xuất một số giải pháp đẩy
mạnh xã hội hóa DVC ở nước ta hiện nay. Nghiên cứu của Ngơ Q Minh: “Xã
hội hóa dịch vụ cơng ở nước ta hiện nay” [2010], đánh giá thực trạng xã hội hóa
DVC (chủ yếu là lĩnh vực y tế và giáo dục - đào tạo) ở Việt Nam trong thời gian qua.
Phân tích những thành cơng cũng như những hạn chế, yếu kém về xã hội hóa DVC
như: nhận thức chưa đúng về xã hội hóa, nguồn lực chưa được huy động và sử dụng
hiệu quả, chưa có quy hoạch tổng thế, phát triển không đều giữa các vùng miền….
Từ đó đề xuất một số kiến nghị để đẩy mạnh xã hội hóa các DVC ở Việt Nam.
Tuy nhiên, các nghiên cứu này thường tập trung vào vấn đề xã hội hóa
DVC, nguồn lực cho DVC mà chưa chú ý đến quy trình nội bộ trong cung ứng
7


DVC, tìm ra phương thức cung cấp DVC tối ưu, đáp ứng được sự mong đợi của
nhân dân. Ngoài ra, cơ chế “một cửa” ở Việt Nam được tiếp cận chủ yếu nhấn
mạnh vào lĩnh vực hành chính cơng mà chưa quan tâm thấu đáo đến việc áp
dụng vào cung cấp DVC ở các ĐVSNCL.
Bên cạnh hướng tiếp cận về xã hội hóa DVC, một số nghiên cứu như vấn
đề hoàn thiện pháp luật về cung cấp DVC như Luận án Hồn thiện pháp luật về
dịch vụ cơng trong lĩnh vực hành chính ở Việt Nam hiện nay: LATS Luật học của
Nguyễn Ngọc Bích; nghiên cứu của David Koh, Đặng Đạm dịch (2009) về “Cơ
cấu tổ chức chính phủ để cung ứng dịch vụ công tốt nhất”; Đặng Đức Đạm

(2006): “Một số vấn đề đổi mới, quản lý dịch vụ công ở Việt Nam”, tài liệu nghiên
cứu của Cổng thông tin kinh tế Việt Nam, tháng 4/2006; “Cải cách nền hành
chính Việt Nam - Thực trạng và biện pháp”, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội;
Jairo Acuna Alfaro (2009), “Nâng cao hiệu quả quản trị quốc gia và đẩy mạnh
cải cách hành chính ở Việt Nam”, Cải cách nền hành chính Việt Nam, NXB
Chính trị Quốc gia đề cập đến vấn đề đổi mới pháp luật, chủ thể cung cấp DVC.
Thứ ba, các nghiên cứu về dịch vụ công của các đơn vị sự nghiệp công lập
Một số nghiên cứu về vấn đề này như bài viết Xã hội hoá dịch vụ y tế để
đảm bảo tính cơng bằng và hiệu quả của Đặng Thị Lệ Xuân, Tạp chí Kinh tế và
Phát triển, số 116/2007. Luận án Dịch vụ sự nghiệp công trong nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam hiện nay: LATS Kinh tế của Mai Hữu Thỉnh năm 2012 đã
trình bày tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý luận, thực tiễn về DVSNC
trong nền kinh tế thị trường, phân tích thực trạng, đề xuất quan điểm và giải pháp
phát triển DVSNC trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Luận án Chính sách
cạnh tranh trong cung ứng dịch vụ y tế ở Việt Nam: LATS Kinh tế chính trị của
Trương Bảo Thanh nhấn mạnh đến cần tạo cơ chế cạnh tranh cung cấp dịch vụ y
tế, đồng thời, cần nâng cao năng lực của các cơ sở y tế công lập trong việc bảo
đảm cung cấp DVC chất lượng và hiệu quả… Các nghiên cứu này chủ yếu đề cập
đến vai trò của DVSNC, đánh giá thực trạng cung cấp DVSNC và đề xuất các giải

8


pháp về hoàn thiện thể chế, nâng cao năng lực chủ thể cung cấp dịch vụ mà chưa
đề cập đến việc đổi mới phương thức cung cấp DVSNC.
Thứ tư, các nghiên cứu về cơ chế “một cửa”
Các nghiên cứu này đã đề cập đến quy trình, thủ tục, phương thức, điều
kiện để triển khai cơ chế “một cửa” trong giải quyết thủ tục hành chính. Đáng
chú ý có thể kể đến như: Bài viết Một số ý kiến về quy chế thực hiện cơ chế "một
cửa" tại các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương của tác giả Lê Hồng

Sơn, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 6 năm 2004; bài viết Thực hiện cơ chế
"một cửa" ở địa phương những kết quả bước đầu và giải pháp của tác giả Chu
Xuân Khánh, Tạp chí Quản lý nhà nước số 3 năm 2005; Bài viết Triển khai cải
cách thủ tục hành chính theo cơ chế "một cửa" ở cấp xã của tác giả Nguyễn Văn
Hậu, Nguyễn Thị Thu Vân, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 6 năm 2005; Bài viết
Công khai, minh bạch thủ tục hành chính thực hiện cơ chế:"Một cửa" của ngành
Tư pháp Hải Phịng của tác giả Ninh Thị Hỗn, Tạp chí Dân chủ và pháp luật,
số 7 năm 2006; Cuốn Hướng dẫn thực hiện quy chế "một cửa" trong các cơ
quan hành chính thuộc thành phố Hà Nội của Lê Anh Sắc, Phan Vũ, NXB. Hà
Nội, 2006; bài viết Về mơ hình "Một cửa hiện đại liên thông" ở quận Ngô Quyền
- Hải Phịng của Nguyễn Xn Phi, Tạp chí Quản lý Nhà nước, số 166 năm
2009; Đề tài khoa học cấp cơ sở Phát triển mơ hình cải cách thủ tục hành chính
“một cửa liên thơng” đáp ứng u cầu hội nhập quốc tế, năm 2010 tại Học viện
Hành chính Quốc gia…
Như vậy, có thể nói các nghiên cứu trong và ngồi nước đã phân tích và
làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản về DVC như khái niệm, nội hàm, bản chất, các
phương thức cung ứng DVC và trách nhiệm của Nhà nước trong việc cung cấp
DVC cho xã hội cũng như tìm hiểu về quy trình, phương thức, điều kiện để triển
khai cơ chế “một cửa” tại các cơ quan hành chính nhà nước (CQHCNN). Tuy
nhiên, đến nay vẫn chưa có bất kỳ một cơng trình nào đề cập một cách đầy đủ và
có tính hệ thống về vấn đề cung cấp DVC tại các ĐVSNCL theo cơ chế “một
cửa” nói chung và cung ứng DVC theo mơ hình “một cửa” tại các ĐVSNCL
9


trực thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội thành phố Hà Nội nói riêng.
Do đó, việc nghiên cứu về cung cấp DVC theo cơ chế “một cửa” tại các
ĐVSNCL trong lĩnh vực lao động, thương binh, xã hội trực thuộc Sở Lao động Thương binh và Xã hội thành phố Hà Nội là yêu cầu quan trọng, cần thiết nhằm
tạo nền tảng lý luận để triển khai và kiểm tra, đánh giá hiệu quả triển khai cung
ứng DVC theo cơ chế “một cửa” tại các ĐVSNCL này.

Nhận thức được điều đó, đề tài sẽ tập trung đi sâu nghiên cứu về DVC
theo cơ chế “một cửa” tại các ĐVSNCL trong lĩnh vực lao động, thương binh,
xã hội trực thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội thành phố Hà Nội nhằm
góp phần hệ thống hóa những lý thuyết có liên quan, đánh giá thực trạng thí
điểm và đưa ra hệ thống giải pháp phù hợp tạo điều kiện cho việc triển khai, áp
dụng có hiệu quả cơ chế “một cửa” trong cung cấp DVC tại các ĐVSNCL.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích: Luận văn đề xuất một quan điểm, giải pháp hồn thiện mơ
hình “một cửa” trong cung ứng DVC tại các ĐVSNCL trong lĩnh vực lao động,
thương binh, xã hội trực thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội thành phố
Hà Nội.
3.2. Nhiệm vụ: Luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về cung ứng DVC theo mô hình
“một cửa” tại các ĐVSNCL;
- Đánh giá thực trạng việc cung ứng DVC theo mơ hình “một cửa” tại các
ĐVSNCL trong lĩnh vực lao động, thương binh, xã hội trực thuộc Sở Lao động Thương binh và Xã hội thành phố Hà Nội;
- Đề xuất quan điểm và giải pháp hồn thiện mơ hình “một cửa” trong
cung ứng DVC tại các ĐVSNCL trong lĩnh vực lao động, thương binh, xã hội
trực thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội thành phố Hà Nội.

10


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động cung ứng DVC theo mơ hình “một
cửa” trong cung ứng DVC tại các ĐVSNCL trong lĩnh vực lao động, thương
binh, xã hội trực thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội thành phố Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi nội dung: Hoạt động cung ứng DVC theo mơ hình “một cửa”
tại các ĐVSNCL trong lĩnh vực lao động, thương binh, xã hội trực thuộc Sở Lao

động - Thương binh và Xã hội thành phố Hà Nội;
- Phạm vi thời gian: khảo sát, đánh giá thực trạng trong 2 năm 2018 2019 và đề xuất giải pháp hồn thiện mơ hình “một cửa” trong cung ứng DVC
tại các ĐVSNCL trong lĩnh vực lao động, thương binh, xã hội trực thuộc Sở Lao
động - Thương binh và Xã hội thành phố Hà Nội giai đoạn 2020-2025.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
- Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp thu thập thơng tin, tư liệu, số liệu có sẵn liên quan đến đề
tài nghiên cứu, bao gồm: các văn kiện, nghị quyết của Đảng, văn bản quy phạm
pháp luật của nhà nước về tổ chức và hoạt động của các ĐVSNCL, nghiên cứu
các văn bản của thành phố Hà Nội, các nghiên cứu đi trước làm cơ sở cho việc
xác định hướng tiếp cận.
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi với 200 phiếu hỏi đối với các
nhóm: i) Các nhà quản lý, viên chức tại các ĐVSNCL trong lĩnh vực lao động,
thương binh, xã hội trực thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội thành phố
Hà Nội; ii) Các nhóm khách hàng thụ hưởng DVC.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần làm phong phú thêm lý luận về cung ứng DVC theo
mơ hình “một cửa” tại các ĐVSNCL.
11


- Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả khảo sát thực trạng cung ứng DVC theo mơ hình “một cửa” tại
các ĐVSNCL trong lĩnh vực lao động, thương binh và xã hội trực thuộc Sở Lao
động - Thương binh và Xã hội thành phố Hà Nội và các giải pháp hoàn thiện mơ
hình cung ứng DVC theo mơ hình “một cửa” tại các ĐVSNCL trong lĩnh vực
lao động, thương binh và xã hội trực thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã

hội thành phố Hà Nội là tài liệu tham khảo để lãnh đạo các ĐVSNCL và các cơ
quan quản lý có thẩm quyền có thể nghiên cứu tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt
động của các ĐVSNCL.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung Luận văn được kết cấu thành 03 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về cung ứng dịch vụ công theo mơ hình
“một cửa” tại các đơn vị sự nghiệp cơng lập;
Chương 2: Thực trạng cung ứng dịch vụ công theo mơ hình “một cửa” tại
các đơn vị sự nghiệp cơng lập trong lĩnh vực lao động, thương binh, xã hội trực
thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội thành phố Hà Nội;
Chương 3: Quan điểm và giải pháp hồn thiện mơ hình “một cửa” trong
cung ứng dịch vụ công tại các đơn vị sự nghiệp công lập trong lĩnh vực lao
động, thương binh, xã hội trực thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội
thành phố Hà Nội.

12


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CUNG ỨNG DỊCH VỤ CƠNG
THEO MƠ HÌNH “MỘT CỬA” TẠI CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP
1.1. Khái niệm và đặc điểm, vai trị của dịch vụ cơng tại các đơn vị sự
nghiệp công lập
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1.1. Khái niệm dịch vụ cơng
Trên thế giới, có nhiều quan điểm khác nhau về DVC, có thể kể đến một
số quan niệm tiêu biểu về DVC như:
Từ điển Petit Larousse (Pháp, 1995) định nghĩa: "Dịch vụ cơng là hoạt động
vì lợi ích chung, do một cơ quan Nhà nước hoặc tư nhân đảm nhiệm" [49]. Định

nghĩa này đưa ra cách hiểu chung về DVC, song ở đây khơng có sự phân biệt giữa
Nhà nước và tư nhân trong việc cung ứng DVC, do đó khơng làm rõ được tính chất
"cơng" của dịch vụ này.
Từ điển Oxford (Anh, 2000) định nghĩa DVC là: 1. Các dịch vụ như giao
thơng hoặc chăm sóc sức khỏe do Nhà nước hoặc tổ chức chính thức cung cấp cho
tất cả mọi người dân trong một xã hội cụ thể. 2. Việc làm gì đó được thực hiện
nhằm giúp đỡ mọi người hơn là kiếm lợi nhuận. 3. Chính phủ và cơ quan chính phủ
[52]. Trong cách tiếp cận này, DVC được quan niệm khá rộng và dường như khơng
có sự phân biệt giữa khái niệm DVC và cơng vụ.
Từ điển về Chính quyền và Chính trị Hoa Kỳ (2002) đưa ra một khái niệm
khá rộng và chưa thực sự phản ánh bản chất của DVC: DVC là: 1. Sự tham gia
vào đời sống xã hội; hành động tự nguyện vì cộng đồng của một người nào đó.
2. Việc làm cho Chính phủ, tồn bộ người làm của một cơ quan quyền lực.
Jean-Philippe Brouant và Jacque Ziller: "Một dịch vụ công thường được
định nghĩa như một hoạt động do ngành hành chính đảm nhiệm để thỏa măn
một nhu cầu về lợi ích chung" [47]. Hai tác giả quan niệm ban đầu chỉ có ngành
hành chính đảm trách các DVC. Nhưng các nhiệm vụ về lợi ích chung ngày
càng nhiều gấp bội đã dẫn tới việc một số tư nhân cũng tham gia vào việc cung
13


ứng các dịch vụ này. Yếu tố về tổ chức trực tiếp cung ứng DVC khơng cịn là
yếu tố quyết định để biết xem một dịch vụ có phải là DVC hay không mà là tổ
chức trách nhiệm cuối cùng về việc cung ứng dịch vụ này cho xã hội. Như vậy,
một hoạt động vì lợi ích chung do một tư nhân đảm trách không được xem là
một DVC, trừ phi có sự tác động của Nhà nước đến việc cung ứng dịch vụ đó.
Có thể nói, DVC có thể tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau nhưng cách
tiếp cận về bản chất và chức năng, vai trò của Nhà nước và cách tiếp cận về
hàng hóa cơng cộng và lựa chọn cơng cộng mang tính chất bao qt và có được
chấp nhận rộng rãi hơn trong cộng đồng khoa học.

Theo hướng này, DVC không thuần tuý là những gì do Nhà nước hay khu
vực cơng cung cấp và cũng không thuần tuý là dịch vụ công cộng. DVC là dịch
vụ do Nhà nước chịu trách nhiệm cung cấp. Tuy nhiên, khơng phải Nhà nước
cung cấp tồn bộ những dịch vụ, hàng hóa cơng cộng của xã hội. Trừ những
hàng hố cơng cộng đặc biệt gồm những hoạt động ngoại giao, an ninh, quốc
phịng, hành chính, tư pháp được sinh ra từ nhu cầu, chức năng quản lý xã hội
của nhà nước, thì trong các giai đoạn phát triển khác nhau và tùy vào tính chất,
mục tiêu chính trị đặt ra mà Nhà nước xác định phần việc, loại dịch vụ, hàng hóa
cơng cộng nhất định để thực hiện, cung cấp, phần còn lại vẫn do các tổ chức xã
hội và thị trường đảm nhiệm hoặc tồn tại ở dạng tiềm năng.
Ngồi hàng hố cơng cộng được chuyển thành DVC như đã nêu, một số
sản phẩm, dịch vụ lẽ ra phải do các doanh nghiệp, tư nhân cung ứng, nhưng vì
đấy là lĩnh vực đặc biệt hoặc vì rủi ro quá cao hoặc chi phí ban đầu quá lớn mà
lại chưa thấy rõ nguồn lợi thu được nên các doanh nghiệp, tư nhân khơng muốn
thực hiện, trong khi đó xã hội có nhu cầu; hoặc một số lĩnh vực nhạy cảm cả về
chính trị thì dù muốn hay khơng, nhà nước vẫn phải là chủ thể chịu trách nhiệm
thực hiện. Khi đó cần phải coi sự tồn tại của hàng hóa đó là phúc lợi chung của
xã hội, là những hàng hố dịch vụ cơng cộng, ảnh hưởng đến sự tồn tại bình
thường, ổn định, phồn vinh của xã hội và sự phát triển của mọi người nói chung,
nhà nước cần chuyển thành các DVC.
14


Trách nhiệm của Nhà nước đối với DVC chính là trách nhiệm chính trị và
pháp lý được thể hiện thơng qua ngân sách và hệ thống bộ máy cung cấp dịch vụ
do nhà nước tổ chức quản lý, chỉ đạo. Nó rộng hơn và khơng đồng nhất với việc
trực tiếp cung cấp các dịch vụ công cộng cho xã hội và công dân.
Ở Việt Nam, từ giữa những năm 90 của thế kỷ XX, trong bối cảnh cải
cách nền hành chính Nhà nước, xác định chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước,
Chính phủ, bộ máy hành chính, vấn đề DVC đã trở thành một chủ đề được giới

nghiên cứu, xây dựng chính sách và cả đơng đảo các tầng lớp nhân dân quan tâm.
Dịch vụ công là một khái niệm mới được du nhập vào nước ta trong
những năm gần đây để chỉ một lĩnh vực hoạt động gắn với vai trò và chức năng
của Nhà nước trong việc cung ứng các dịch vụ cụ thể. Tại Việt Nam, nếu khái
niệm DVC lần đầu tiên được Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa VIII (năm
1999) chính thức ghi nhận với sự thận trọng cần thiết thì đến Đại hội Đảng lần
thứ IX (năm 2001) khái niệm này được chính thức đưa vào Văn kiện Đại hội,
tiếp sau đó Đại hội Đảng X đã thống nhất sử dụng khái niệm trong việc quyết
định các vấn đề về tổ chức và hoạt động của Chính phủ và hệ thống hành chính
nhà nước khi thơng qua Luật Tổ chức Chính phủ năm 2001.
Nghiên cứu về nội hàm của dịch vụ công, một số nhà khoa học cho rằng ở
Việt Nam nên tập trung nhiều hơn vào chức năng phục vụ xã hội của nhà nước
mà không bao gồm các chức năng công quyền qua đó nhấn mạnh vai trị chủ thể
của nhà nước trong việc cung cấp các dịch vụ cho cộng đồng. Do đó, trong cuốn
sách “Đổi mới cung ứng dịch vụ công ở Việt Nam”, TS. Đinh Văn Ân – Hồng
Thu Hịa đưa ra định nghĩa về DVC: “Dịch vụ công là những hoạt động phục vụ
nhu cầu thiết yếu của xã hội, vì lợi ích chung của cộng đồng, của xã hội, do nhà
nước trực tiếp đảm nhận hay ủy quyền và tạo điều kiện cho khu vực tư nhân
thực hiện” [1].
Tiếp cận DVC trên cơ sở là hàng hóa cơng cộng do nhà nước chịu trách
nhiệm đảm bảo cung ứng với ngun tắc khơng vì mục tiêu lợi nhuận, TS. Chu Văn
Thành đã định nghĩa: “Dịch vụ công là những dịch vụ đáp ứng các nhu cầu cơ bản,
15


thiết yếu chung của người dân và cộng đồng, bảo đảm ổn định và công bằng xã hội
do nhà nước chịu trách nhiệm, hoạt động khơng vì mục tiêu lợi nhuận” [34].
Hay theo PGS.TS Lê Chi Mai, “Dịch vụ công là hoạt động phục vụ các
lợi ích chung thiết yếu, các quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân và tổ chức, do
Nhà nước trực tiếp đảm nhận hay ủy quyền cho các cơ sở ngoài nhà nước thực

hiện nhằm đảm bảo trật tự, lợi ích chung và cơng bằng xã hội” [22].
1.1.1.2. Khái niệm đơn vị sự nghiệp công lập
Đơn vị sự nghiệp công lập là tổ chức do cơ quan có thẩm quyền của Nhà
nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội thành lập theo quy định của
pháp luật, có tư cách pháp nhân, cung cấp DVC, phục vụ QLNN.
Đơn vị sự nghiệp công lập có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản
riêng.
Hoạt động chủ yếu của các ĐVSNCL là cung ứng DVC, tạo ra những giá
trị về tri thức, văn hóa, phát minh, sức khỏe, đạo đức, các giá trị về xã hội… là
những sản phẩm vơ hình và có thể dùng chung cho nhiều người, cho nhiều đối
tượng trên phạm vi rộng. Đại bộ phận các sản phẩm của ĐVSNCL là sản phẩm
có tính phục vụ khơng chỉ bó hẹp trong một ngành hoặc một lĩnh vực nhất định.
Hoạt động của ĐVSNCL có những điểm khác với CQHCNN. Cơ quan
hành chính thực hiện chức năng QLNN của mình, cung ứng các dịch vụ hành
chính cơng. Đây là trách nhiệm và nghĩa vụ của bộ máy Nhà nước với nhân dân
và chỉ có Nhà nước mới có đủ thẩm quyền để thực hiện chức năng đó. Nhà nước
với tư cách là một tổ chức cơng quyền phải có nghĩa vụ cung cấp các dịch vụ
này cho nhân dân, còn người dân có nghĩa vụ đóng góp cho Nhà nước dưới hình
thức thuế; quan hệ trao đổi các dịch vụ hành chính cơng khơng phản ánh quan
hệ thị trường một cách đầy đủ: người sử dụng dịch vụ có thể trả một phần hoặc
không phải trả tiền cho việc sử dụng dịch vụ đó khi hưởng thụ. Trong khi đó, do
dịch vụ của ĐVSNCL cung ứng có thể có sự tham gia cạnh tranh của khu vực tư
nhân nên các đơn vị này được phép khai thác và mở rộng nguồn thu từ các hoạt
động sự nghiệp của mình, người sử dụng dịch vụ có thể phải chi trả cho việc sử
16


dụng dịch vụ nên hình thành quan hệ mua bán, trao đổi.
Các ĐVSNCL được thành lập để thực hiện những chức năng, nhiệm vụ và
đáp ứng những nhu cầu nhất định của xã hội. Trong q trình hoạt động,

ĐVSNCL có thể được Nhà nước cấp kinh phí hoạt động. Các sản phẩm dịch vụ
do ĐVSNCL cung ứng cần được sử dụng thì có thể do Nhà nước đứng ra cung
cấp không thu tiền để xã hội tiêu dùng. Trong trường hợp có thu tiền của người
tiêu dùng (dưới dạng phí, lệ phí) thì cũng chỉ thu để bù đắp một phần chi phí vào
để tạo ra chúng. Tuy nhiên, xã hội ngày càng địi hỏi tính hiệu quả trong q
trình hoạt động của các ĐVSNCL, đặc biệt là hai khía cạnh: chất lượng phục vụ
và tiết kiệm nguồn lực cho xã hội.
1.1.1.3. Khái niệm dịch vụ công tại các đơn vị sự nghiệp cơng lập
Dựa vào tính chất và tác dụng của dịch vụ được cung ứng, có thể chia
DVC thành các loại như sau:
- Dịch vụ hành chính cơng: là hoạt động giải quyết các công việc cụ thể
liên quan đến quyền và nghĩa vụ cơ bản của tổ chức và công dân được thực hiện
dựa vào thẩm quyền hành chính - pháp lý của nhà nước. Dịch vụ hành chính
cơng do các CQHCNN thực hiện để phục vụ quyền và nghĩa vụ cơ bản của tổ
chức và công dân. Đó là những lĩnh vực liên quan đến hoạt động thực thi pháp
luật, không nhằm mục tiêu lợi nhuận, do cơ quan nhà nước (CQNN) (hoặc tổ
chức được ủy quyền của nhà nước) có thẩm quyền cấp cho tổ chức, cá nhân
dưới hình thức các loại giấy tờ có giá trị pháp lý trong lĩnh vực mà CQNN đó
quản lý.
- Dịch vụ công cộng: là dịch vụ phục vụ các nhu cầu chung, tối cần thiết
của cả cộng đồng và mỗi cơng dân. Do tính chất phục vụ các nhu cầu chung của
cả cộng đồng, dịch vụ này còn được gọi là dịch vụ công cộng. Các dịch vụ cơng
cộng lại có thể phân chia thành dịch vụ xã hội và dịch vụ kinh tế - kỹ thuật.
+ Dịch vụ xã hội liên quan đến những nhu cầu và quyền lợi cơ bản đối với
sự phát triển con người về thể lực và trí lực như y tế, giáo dục, văn hóa thơng
tin... ở Việt Nam, các dịch vụ này thường được gọi là dịch vụ sự nghiệp (Sự
17


nghiệp là một từ gốc Trung Quốc. Theo nghĩa hẹp, từ “sự nghiệp” dùng để chỉ

những hoạt động chuyên môn nhằm đáp ứng những nhu cầu của xã hội và cá
nhân con người, chủ yếu là về những lĩnh vực liên quan đến sự phát triển của
con người về văn hóa, tinh thần và thể chất).
+ Dịch vụ kinh tế - kỹ thuật là loại dịch vụ gắn với các nhu cầu vật chất
phục vụ lợi ích chung của xã hội, bao gồm cung ứng điện, nước, gas, giao
thông vận tải, bưu chính viễn thơng, vệ sinh mơi trường, thủy lợi, xây dựng
đường xá, cầu cống... ở Việt Nam, các dịch vụ này do các doanh nghiệp cơng
ích chung và cịn gọi là dịch vụ cơng ích.
Dịch vụ sự nghiệp công hay dịch vụ được cung ứng tại các ĐVSNCL là một
bộ phận của DVC.
“Dịch vụ sự nghiệp công” là dịch vụ sự nghiệp trong các lĩnh vực giáo
dục đào tạo; dạy nghề; y tế; văn hóa, thể thao và du lịch; thơng tin truyền thơng
và báo chí; khoa học và công nghệ; sự nghiệp kinh tế và sự nghiệp khác.
Dịch vụ công tại ĐVSNCL được phân loại theo các tiêu chí nhất định.
Dựa trên tiêu chí sử dụng ngân sách, DVSNC được chia làm hai loại:
DVSNC sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước và DVC khơng sử dụng ngân
sách nhà nước.
“Dịch vụ sự nghiệp công sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước” là
DVSNC mà Nhà nước bảo đảm tồn bộ chi phí hoặc DVSNC chưa tính đủ chi
phí trong giá, phí, được ngân sách nhà nước hỗ trợ.
“Dịch vụ sự nghiệp cơng khơng sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước” là
DVSNC có điều kiện xã hội hóa cao, Nhà nước khơng bao cấp, giá DVSNC
theo cơ chế thị trường.
1.1.2. Đặc điểm của dịch vụ công tại các đơn vị sự nghiệp công lập
Dịch vụ sự nghiệp cơng có những đặc điểm cơ bản như sau:
- Dịch vụ sự nghiệp công là những dịch vụ do Nhà nước đảm bảo thực
hiện. Điều này có nghĩa là Nhà nước ln phải can thiệp vào q trình cung ứng
dịch vụ để đáp ứng những địi hỏi của cơng dân và xã hội ít nhất ở mức độ tối
18



×