Tải bản đầy đủ (.pdf) (126 trang)

Hoạt động giám sát của hội đồng nhân dân tỉnh lào cai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.44 MB, 126 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
...................../....................

BỘ NỘI VỤ
......./.......

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

LÊ THỊ QUỲNH HƢƠNG

HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT
CỦA HỘI ĐỘNG NHÂN DÂN TỈNH LÀO CAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

HÀ NỘI – 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
...................../....................

BỘ NỘI VỤ
......./.......

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

LÊ THỊ QUỲNH HƢƠNG

HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT
CỦA HỘI ĐỘNG NHÂN DÂN TỈNH LÀO CAI


LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CƠNG
Chun ngành: Quản lý cơng
Mã số: 60 34 04 03

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. LÊ THỊ HƢƠNG

HÀ NỘI – 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của cá nhân
tôi, dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Lê Thị Hương. Các nội dung nghiên
cứu, số liệu và kết quả nghiên cứu trong đề tài này là trung thực và chưa từng
được công bố trong bất kỳ cơng trình nghiên cứu nào trước đây. Những số
liệu phục vụ cho việc phân tích, đánh giá, nhận xét được chính tác giả thu
thập từ nhiều nguồn thơng tin khác nhau và đã nêu rõ trong phần tài liệu tham
khảo. Ngoài ra, đề tài cũng sử dụng một số nhận xét, đánh giá cũng như số
liệu của các tác giả, tổ chức cơ quan khác và cũng đã thể hiện trong phần tài
liệu tham khảo.
Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tơi xin hồn tồn chịu trách
nhiệm trước Hội đồng cũng như kết quả luận văn của mình./.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Lê Thị Quỳnh Hương


LỜI CẢM ƠN
Với tất cả lịng kính trọng và biết ơn sâu sắc, em xin gửi lời cảm ơn
chân thành đến Ban lãnh đạo Học viện và các thầy, cô giáo Học viện Hành

chính Quốc gia đã giảng dạy và tạo mọi điều kiện cho em trong thời gian học
tập tại trường và tạo điều kiện thuận lợi cho em trong quá trình học tập và
thực hiện luận văn này
Em xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Lê Thị Hương, người đã trực tiếp
hướng dẫn và tận tình chỉ bảo giúp em hồn thành Luận văn này.
Tơi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, các đồng chí lãnh đạo Thường
trực Hội đồng nhân dân tỉnh Lào Cai, Văn phòng Hội đồng nhân dân tỉnh Lào
Cai, các đồng nghiệp đã giúp đỡ tơi để vừa hồn thành nhiệm vụ chun mơn
tại cơ quan, vừa hồn thành khóa học và đặc biệt là hoàn thành luận văn này.
Mặc dù đã rất cố gắng, song do giới hạn kiến thức của tác giả và thời
gian nghiên cứu có hạn nên luận văn khơng tránh khỏi những thiếu sót, rất
mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy, cơ, đồng nghiệp và bạn bè
để luận văn được hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Lê Thị Quỳnh Hương


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT
CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH ............................................................ 7
1.1. Vị trí, vai trị và chức năng của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh ................... 7
1.2. Quan niệm về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh ....... 11
1.3. Nội dung hình thức hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh 22
1.4. Hiệu quả hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh ............... 28
Chương 2 . THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG
NHÂN DÂN TỈNH LÀO CAI KHÓA XIV ............................................................ 38
2.1. Khái quát về tổ chức và hoạt động Hội đồng nhân dân tỉnh Lào Cai khóa XIV

(nhiệm kỳ 2011 - 2016).............................................................................................38
2.2. Kết quả hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Lào Cai nhiệm
kỳ 2011 - 2016 ................................................................................................ 46
Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT
ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH LÀO CAI .............. 89
3.1. Quan điểm về nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Hội đồng nhân
dân tỉnh Lào Cai ............................................................................................. 89
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân
tỉnh Lào Cai .................................................................................................... 94
KẾT LUẬN ...............................................................................................................115
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................117


DANH MỤC VIẾT TẮT

HĐND

: Hội đồng nhân dân

KT - XH

: Kinh tế - xã hội

MTTQ

: Mặt trận Tổ quốc

TAND

: Tòa án nhân dân


TT HĐND

: Thường trực Hội đồng nhân dân

UBND

: Ủy ban nhân dân

VBQPPL

: Văn bản quy phạm pháp luật

VKSND

: Viện Kiểm sát nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Theo quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương thì Hội đồng
nhân dân (HĐND) có hai chức năng cơ bản là quyết định và giám sát. HĐND
quyết định những chủ trương, biện pháp quan trọng để phát huy tiềm năng,
thế mạnh của địa phương, xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, củng cố
quốc phịng, an ninh, khơng ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân địa phương. Đồng thời cũng thực hiện quyền giám sát đối với hoạt
động của UBND về việc thực hiện các nghị quyết của HĐND; giám sát việc
tuân theo pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội...
Trong hai chức năng cơ bản này của HĐND thì chức năng giám sát là
một nội dung cốt yếu nhằm mục đích đảm bảo cho mọi hoạt động của các đối

tượng chịu sự giám sát phải thực hiện đúng và đầy đủ những quy định của
Hiến pháp và pháp luật, nghị quyết của HĐND. Hoạt động giám sát còn nhằm
kịp thời phát hiện những vấn đề chưa hợp lý của các cơ quan chịu sự giám sát,
để qua đó có kiến nghị, biện pháp khắc phục có hiệu quả những điểm chưa
hợp lý đó. Đồng thờì cịn phát hiện những điểm chưa phù hợp với thực tiễn
cuộc sống trong những quy định của pháp luật và kiến nghị những biện pháp
khắc phục.
Thực trạng kinh tế - xã hội và nâng cao năng lực quản lý của chính
quyền địa phương ở tỉnh Lào Cai là những thách thức trong quá trình phát triển
của tỉnh. Vấn đề đang đặt ra đối với chính quyền địa phương là phải tạo bước
đột phá, giữ vững tốc độ tăng trưởng trên mọi mặt, hoàn thành kế hoạch kinh tế
- xã hội qua từng giai đoạn cụ thể, tạo đà cho sự phát triển cao hơn trong những
năm tiếp theo. Để tạo bước đột phá đó thì nhiệm vụ giám sát của HĐND tỉnh
Lào Cai là công việc nặng nề, phức tạp. Giám sát để thúc đẩy, đưa pháp luật
vào cuộc sống và góp phần vừa đảm bảo trật tự kỷ cương, đồng thời qua đó tạo

1


sự năng động để tỉnh tiếp tục phát triển. Đặc biệt là từ khi có Luật Tổ chức
chính quyền địa phương năm 2015 thì cơng tác giám sát được tiến hành thuận
lợi hơn, song hiện nay trên địa bàn tỉnh đang diễn ra nhiều vấn đề phức tạp cần
được giải quyết đặc biệt là trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh, quốc
phịng, chính sách xố đói giảm nghèo, chính sách người có cơng, giáo dục đào tạo, y tế… Trước tình trạng như vậy, địi hỏi phải tăng cường quản lý của
các cấp, các ngành, đặc biệt là vai trò giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước
là Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp trong phạm vi được phân cấp.
Qua quá trình tổ chức và thực hiện, hoạt động giám sát của HĐND tỉnh
Lào Cai đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Tuy nhiên, hoạt động giám sát
vẫn còn tồn tại một số hạn chế như: mang nặng tính hình thức; pháp luật về
hoạt động giám sát chưa được kiện toàn; các cơ chế đảm bảo cho hoạt động

giám sát được hiệu quả chưa được phát huy tác dụng; trình độ, kỹ năng giám
sát của các chủ thể chưa cao...
Vì những lý do trên, tác giả chọn đề tài: “Hoạt động giám sát của Hội
đồng nhân dân tỉnh Lào Cai” làm luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ Quản lý cơng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài luận văn
Việc nghiên cứu về hoạt động của HĐND nói chung, hoạt động giám
sát của HĐND các cấp nói riêng được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu
và tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau. Có thể nêu một số đề tài nghiên cứu:
- “Một số vấn đề cơ bản về hoàn thiện bộ máy nhà nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam” do Nguyễn Duy Gia chủ biên [3].
- “Giám sát và cơ chế giám sát việc thực hiện quyền lực Nhà nước” do
Đào Trí Úc và Võ Khánh Vinh đồng chủ biên [35].
- “Hội đồng nhân dân trong hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước” do
Nguyễn Đăng Dung chủ biên. Bằng lý luận và thực tiễn cộng với cơ sở pháp
lý, tác giả đã chứng minh vị trí, vai trị của HĐND trong hệ thống cơ quan
quyền lực nhà nước [4].

2


- Luận án tiến sĩ luật học: “Hoàn thiện pháp luật về hoạt động giám sát
của Hội đồng nhân dân” (Nguyễn Hải Long). Bằng việc phân tích các quy
định của pháp luật qua các thời kỳ, tác giả luận án đã chỉ ra những ưu điểm
cũng như những hạn chế của pháp luật thực định về hoạt động giám sát của
HĐND và đề xuất các giải pháp hoàn thiện [22].
- Một số luận văn thạc sỹ như: “Hoạt động giám sát của Hội đồng
nhân dân tỉnh Nam Định” (Trịnh Minh Đức); “Hoạt động giám sát của Hội
đồng nhân dân thành phố ng Bí, tỉnh Quảng Ninh với các cơ quan hành
chính nhà nước cùng cấp” (Nguyễn Duy Anh); “Tăng cường tổ chức hoạt
động giám sát của Hội đồng nhân dân trong thời ký đổi mới” (Nguyễn Bá

Vui); “Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh đối với Ủy ban
nhân dân cùng cấp - từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” (Nguyễn Thị Hồng
Oanh); “Năng lực thực hiện chức năng giám sát của HĐND tỉnh Hải Dương
đối với quản lý hành chính nhà nước về đất đai” (Phạm Quang Hưng); “Hoạt
động giám sát của HĐND cấp huyện từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi” (Trịnh
Đình Bá)… Các cơng trình này đã nghiên cứu về hoạt động giám sát của Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh ở một số địa phương cụ thể và từ thực tiễn địa
phương, đề xuất các giải pháp tăng cường hoạt động giám sát của Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh phù hợp thực tế.
Các bài viết: Bàn về tính chất của Hội đồng nhân dân trong điều kiện
cải cách bộ máy nhà nước hiện nay, Bùi Xuân Đức, Tạp chí Nhà nước và
pháp luật, 12/2003; Tổ chức và hoạt động của các ban của Hội đồng nhân
dân, Trương Đắc Linh, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 2/2003; Về đổi mới
tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2004-2009,
Đinh Ngọc Quang, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 2/2005...
Tình hình trên cho thấy việc nghiên cứu hoạt động giám sát của Hội
đồng nhân dân nói chung và Hội đồng nhân dân cấp tỉnh nói riêng đã dành
được quan tâm nghiên cứu. Các đề tài dưới nhiều góc độ khác nhau đã đề cập

3


đến các vấn đề về lý luận và thực tiễn trong hoạt động giám sát của Hội đồng
nhân dân, như: chủ thể giám sát, đối tượng giám sát, hình thức giám sát…
Những cơng trình nghiên cứu trên đây đã đề cập tới một số khía cạnh về hoạt
động giám sát của Hội đồng nhân dân nhưng chưa có cơng trình độc lập nào
nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống về thực trạng hoạt động giám sát
của Hội đồng nhân dân tại tỉnh Lào Cai. Đây là nguồn tư liệu quan trọng cho
việc nghiên cứu hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh trên một địa
bàn cụ thể ở tỉnh Lào Cai với tính chất là một đề tài độc lập đi sâu nghiên cứu

thực tiễn, để đánh giá mặt được, mặt chưa được, qua đó đưa ra được những
giải pháp có giá trị thực tiễn nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động giám sát
của Hội đồng nhân dân tỉnh Lào Cai.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích:
Nghiên cứu những vấn đề lý luận về hoạt động giám sát của HĐND cấp
tỉnh, từ đó đánh giá thực trạng hoạt động giám sát của HĐND tỉnh Lào Cai,
nhằm đề xuất những quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động
giám sát của HĐND tỉnh Lào Cai hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ:
Để thực hiện mục đích nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:
- Phân tích cơ sở lý luận về vị trí, chức năng của HĐND; làm rõ khái
niệm giám sát, phân tích đặc điểm, nội dung và hình thức giám sát của HĐND
cấp tỉnh cũng như các tiêu chí đánh giá hiệu quả và các yếu tố ảnh hưởng đến
hiệu quả giám sát của HĐND cấp tỉnh.
- Đánh giá thực trạng hoạt động giám sát của HĐND tỉnh Lào Cai
thông qua một số nội dung cụ thể để tìm ra ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân
của nhưng ưu điểm, hạn chế.
- Đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động
giám sát của HĐND tỉnh Lào Cai trong thời gian tới.

4


4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động giám sát của HĐND
tỉnh Lào Cai.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Hoạt động giám sát của HĐND tỉnh Lào Cai nhiệm kỳ 2011 - 2016.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước
kiểu mới, HĐND, chức năng giám sát của HĐND.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện, luận văn dựa trên một số phương pháp
nghiên cứu cụ thể như: phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh, thống kê,
khảo sát, thực tiễn... để làm sáng tỏ những nội dung cần nghiên cứu. Ngồi ra,
luận văn cịn sử dụng và kế thừa thành quả của một số cơng trình nghiên cứu,
bài viết, báo cáo và các tài liệu liên quan khác.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Việc nghiên cứu luận văn sẽ cung cấp cơ sở phương pháp luận giúp
cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước nhìn nhận đúng đắn tầm quan
trọng, vai trị vị trí của hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh trong việc
kiểm soát thực thi quyền lực nhà nước ở địa phương.
- Góp phần nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của HĐND tỉnh,
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho
Nhân dân, hạn chế tệ quan liêu, tham nhũng, làm lành mạnh các quan hệ xã hội.
- Góp phần giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa cơ quan quyền lực
nhà nước với cơ quan hành chính trong việc phối hợp thực hiện quyền lực nhà
nước ở địa phương.

5


- Đặt ra những vấn đề mới, tiếp tục nghiên cứu góp phần hồn thiện
phương thức tổ chức và hoạt động, bảo đảm thực quyền của HĐND.
- Luận văn có giá trị làm tài liệu tham khảo, vận dụng vào hoạt động
thực tiễn của HĐND các cấp, góp phần nâng cao trình độ chun mơn, kỹ

năng, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ chuyên trách trong các cơ quan chuyên
môn của HĐND.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 03
chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý về hoạt động giám sát của Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh
Chương 2: Thực trạng hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Lào
Cai nhiệm kỳ 2011 - 2016
Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giám
sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Lào Cai.

6


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT
CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH
1.1. Vị trí, vai trị và chức năng của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
1.1.1. Vị trí, vai trị của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Theo quy định của Hiến pháp năm 2013, “Hội đồng nhân dân là cơ
quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và
quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách
nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên” (Điều 113)
[23]. HĐND có quyền quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương
theo quy định pháp luật. Hiện nay, bộ máy nhà nước ta được tổ chức thành
bốn cấp hành chính: Cấp trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã. Cấp trung
ương là cấp vĩ mô, tổ chức quản lý toàn bộ lãnh thổ quốc gia. Cấp tỉnh,
huyện, xã là cấp cụ thể hóa các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên. Như vậy, cấp tỉnh là cấp trung guan

giữa chính quyền trung ương và chính địa phương, là cấp đầu tiên của chính
quyền địa phương, là cấp quan trọng trong việc chuyển tải chính sách từ trung
ương tới người dân. Q trình chuyển tải chính sách từ trung ương đến cơ sở,
cấp tỉnh được pháp luật trao cho những thẩm quyền nhất định trong việc thực
hiện chức năng quản lý trên địa bàn lãnh thổ, là cấp có quyền tự chủ cao hơn
so với cấp huyện, cấp xã.

quần chúng, thống nhất ý chí và hành động của quần chúng, động viên được
mọi nguồn lực
quyền Trung ương với chính quyền địa phương, vừa đảm bảo sự tập trung

7


thống nhất trong hoạt động của bộ máy nhà nước trên phạm vi toàn quốc, vừa
đảm bảo phát huy được nội lực ở từng địa phương, cơ sở.
Như vậy, HĐND cấp tỉnh cũng như HĐND các cấp có hai tính chất cơ
bản: “là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương” và “là cơ quan đại biểu
của nhân dân ở địa phương”.
Tính quyền lực nhà nước của HĐND cấp tỉnh thể hiện ở quyền đơn
phương quyết định và quyết định đó có tính bắt buộc thực hiện đối với mọi cơ
quan, tổ chức có liên quan trên địa bàn quản lý của tỉnh. Nhưng vì HĐND cấp
tỉnh chỉ là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương nên một mặt, những
quyết định này chỉ có hiệu lực trong địa bàn quản lý của tỉnh và chỉ giới hạn
trong phạm vi thẩm quyền được giao theo quy định của Hiến pháp và pháp
luật, mặt khác những quyết định đó không được trái với Hiến pháp, luật và
các văn bản của các cơ quan nhà nước ở trung ương. Chính vì vậy, theo Điều
113 Hiến pháp năm 2013 xác định, HĐND cấp tỉnh dù là cơ quan quyền lực
nhà nước ở cấp cao nhất trên địa bàn tỉnh, nhưng xét về vị trí pháp lý, HĐND
khơng giống với Quốc hội, Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất. Quốc hội

là cơ quan duy nhất có quyền làm Hiến pháp, làm luật, sửa đổi Luật. HĐND
cấp tỉnh cũng là cơ quan quyền lực nhưng chỉ có quyền ban hành Nghị quyết
trong phạm vi địa phương, phải căn cứ vào Hiến pháp, luật và các văn bản của
các cơ quan nhà nước ở trung ương, căn cứ vào nhu cầu và điều kiện thực tế
của tỉnh để quyết định các chủ trương, biện pháp quan trọng nhằm bảo đảm
thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương, phát huy tiềm năng của tỉnh,
xây dựng và phát triển tỉnh về kinh tế - xã hội, củng cố quốc phịng, an ninh,
khơng ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, làm tròn
nghĩa vụ của tỉnh đối với cả nước. Các nghị quyết của HĐND tỉnh được ban
hành trong phạm vi thẩm quyền được giao có tính bắt buộc thực hiện đối với
tất cả các cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan trên địa bàn tỉnh [23].
Tính quyền lực nhà nước của HĐND đã được Hiến pháp năm 2013 và

8


Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 xác định, HĐND cấp tỉnh còn
thực hiện quyền giám sát việc tuân theo Hiến pháp, pháp luật và các nghị quyết
của HĐND tỉnh đối với các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội,
đơn vị vũ trang nhân dân và mọi cá nhân có liên quan trên địa bàn tỉnh theo
quy định của pháp luật, cũng như giám sát hoạt động công tác của Thường trực
HĐND, UBND, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp [23].
Với vị trí, tính chất của HĐND được quy định trong Hiến pháp năm
2013 và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 thì HĐND vừa là
một cơ quan trong bộ máy nhà nước, vừa là chủ thể quyền lực, đại diện cho
nhân dân địa phương và có quyền quyết định những vấn đề quan trọng của địa
phương, giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh
tế, tổ chức xã hội, công dân ở địa phương nhằm phát huy tiềm năng của địa
phương trên mọi mặt kinh tế - xã hội.
1.1.2. Chức năng của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh

Chức năng của HĐND là những phương diện, hoạt động cơ bản của
HĐND, phản ánh địa vị pháp lý của HĐND trong bộ máy nhà nước, hướng
tới thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND do pháp luật quy định.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, HĐND các cấp đều có hai
chức năng cơ bản: Chức năng quyết định và chức năng giám sát.
- Chức năng quyết định
Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 quy định như sau:
"HĐND quyết định những chủ trương, biện pháp quan trọng để phát huy tiềm
năng của địa phương, xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế, xã hội,
củng cố quốc phòng an ninh, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân địa phương, làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả
nước" [24]. Để có cơ sở pháp lý cho HĐND cấp tỉnh thực hiện tốt chức năng
này, tại Điều 19 của Luật Tổ chức chính quyền địa phương đã xác định cụ thể
nội dung những vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền quyết định của HĐND

9


bao gồm các lĩnh vực sau đây: Tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp
và pháp luật; xây dựng chính quyền; kinh tế, tài ngun, mơi trường; giáo
dục, đào tạo, khoa học, cơng nghệ, văn hóa, thơng tin, thể dục, thể thao; y tế,
lao động và thực hiện chính sách xã hội; dân tộc, tơn giáo; quốc phịng, an
ninh, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội [24].
Như vậy, nội dung chức năng quyết định của HĐND cấp tỉnh rất rộng,
bao gồm tất cả các mặt của đời sống kinh tế - xã hội, văn hoá, khoa học, quốc
phòng, an ninh. Điều này một lần nữa khẳng định rõ hơn vị trí, vai trị và tầm
quan trọng của HĐND trong chính quyền địa phương. Mặt khác, đây cũng là
những căn cứ pháp lý để tạo ra môi trường thuận lợi cho chính quyền địa
phương khai thác hết mọi tiềm năng, nội lực sẵn có của mình, nhằm nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân địa phương, làm tròn nghĩa vụ với

cử tri và cấp trên giao cho.
- Chức năng giám sát
Theo Điều 19 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 quy
định: "Hội đồng nhân dân thực hiện quyền giám sát việc tuân theo Hiến pháp
và pháp luật ở địa phương, việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân
tỉnh; giám sát hoạt động của Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân
dân, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, các Ban của Hội
đồng nhân dân cấp mình; giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban
nhân dân cùng cấp và văn bản của Hội đồng nhân dân cấp huyện” [24].
Giám sát là một trong hai chức năng cơ bản của HĐND, có mối quan
hệ và tác động qua lại với chức năng quyết định của HĐND. Vì muốn thực
hiện đúng và có hiệu quả chức năng quyết định, HĐND phải có được đầy đủ
những thơng tin về tình hình kinh tế xã - hội của địa phương, về thực tế thực
hiện Hiến pháp và pháp luật ở địa phương, về việc thực hiện các nghị quyết
của HĐND trước đó đã ban hành... Thiếu những thơng tin này, HĐND không
thể quyết định được những chủ trương, biện pháp phù hợp và đáp ứng nhu

10


cầu mà cuộc sống địi hỏi. Để có được những thơng tin như thế thì một kênh
rất cần thiết là hoạt động giám sát của HĐND. Vì vậy, hoạt động giám sát của
HĐND được xem như một khâu không thể thiếu của quá trình ban hành các
quyết định của HĐND.
Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân được tiến hành thường
xuyên, gắn liền với việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy
định. Hội đồng nhân dân giám sát thông qua các hoạt động sau đây:
- Xem xét báo cáo công tác của Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ
ban nhân dân, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp;
- Xem xét việc trả lời chất vấn của Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ

tịch Uỷ ban nhân dân, các thành viên khác của Uỷ ban nhân dân, Thủ trưởng
cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân, Chánh án Toà án nhân dân cùng cấp;
- Xem xét văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân cùng cấp,
nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp khi phát hiện có dấu
hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết
của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan
nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp;
- Thành lập Đoàn giám sát khi xét thấy cần thiết;
- Bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do HĐND bầu.
1.2. Quan niệm về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
1.2.1. Quan niệm về giám sát
1.2.1.1. Khái niệm giám sát
Có rất nhiều định nghĩa giám sát khác nhau được đưa ra tùy theo phạm
vi rộng, hẹp của nội dung nghiên cứu cụ thể.
Theo định nghĩa tại Từ điển Tiếng việt của nhà xuất bản Khoa học xã
hội- Hà Nội 1988, thì giám sát là "Theo dõi và kiểm tra xem có thực hiện
đúng những điều quy định không".

11


Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb. Văn hóa - Thơng tin, 1998 do Nguyễn
Như Ý chủ biên lại định nghĩa giám sát là “theo dõi, kiểm tra việc thực thi
nhiệm vụ”
Theo Từ điển Luật học, giám sát là sự theo dõi, quan sát hoạt động
mang tính chủ động, thường xuyên, liên tục và sẵn sàng tác động bằng các
biện pháp tích cực để buộc và hướng hoạt động của đối tượng chịu giám sát
đi đúng quỹ đạo, quy chế nhằm đạt được mục đích, hiệu quả đã được xác
định từ trước, đảm bảo cho pháp luật được tuân theo nghiêm chỉnh.

Theo Luật hoạt động giám sát của Quốc hội, giám sát được định nghĩa:
"Là việc Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của
Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội theo dõi, xem xét,
đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc
thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của
Uỷ ban thường vụ Quốc hội" [26].
Thuật ngữ "giám sát" được dùng rất phổ biến trong khoa học chính trị,
pháp lý và được đề cập nhiều trong các văn kiện của Đảng, Nhà nước và các tổ
chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội cũng như phổ biến ở đời sống xã hội
nhưng hiểu theo một cách chung nhất, giám sát là theo dõi, kiểm tra, phát
hiện, đánh giá của cá nhân, tổ chức, cộng đồng người này với cá nhân, tổ
chức, cộng đồng người khác trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội, trong thực
hiện quan điểm, đường lối, nghị quyết của Đảng, Hiến pháp, pháp luật, chính
sách của Nhà nước, các quyền lợi, nghĩa vụ của công dân, tổ chức, cá nhân...
để kiến nghị phát huy ưu điểm, thành tựu, xử lý đối với tổ chức, cá nhân có
hành vi sai trái. Theo cách hiểu trên, khái niệm giám sát bao hàm những nội
dung sau đây:
- Giám sát tức là theo dõi, xem xét, kiểm tra và nhận định về một việc
làm nào đó đúng hay sai với những điều đã quy định.

12


- Giám sát luôn gắn với một chủ thể nhất định. Giám sát luôn gắn với
đối tượng cụ thể (giám sát ai và giám sát cái gì).
- Giám sát được tiến hành trên cơ sở những quy định cụ thể.
- Giám sát là hoạt động có mục đích của một chủ thể nhất định.
Dưới góc độ chính trị, pháp lý thì giám sát là việc cơ quan quyền lực
nhà nước theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân
chịu sự giám sát trong việc thi hành các quy định của pháp luật trong lĩnh vực

được giám sát, từ đó có các biện pháp nhằm đảm bảo cho lĩnh vực được giám
sát vận hành thông suốt, hiệu quả và đúng pháp luật. Cùng với kiểm tra, thanh
tra, kiểm sát, giám sát là một loại nhiệm vụ trong q trình thực thi quyền lực
chính trị nhằm làm cho các đối tượng (của chủ thể giám sát) thực hiện đúng
yêu cầu, mục đích, chức năng, nhiệm vụ đặt ra.
Như vậy: Giám sát là sự theo dõi, quan sát, kiểm tra hoạt động của chủ
thể có quyền đối với chủ thể khác để biết được đối tượng bị giám sát có thực
thi đúng, đủ theo quy định hay không và quy định về hành vi đối tượng giám
sát phải và được làm có phù hợp với điều kiện thực tiễn hay không và làm rõ
được nguyên nhân của sự vi phạm, sự không phù hợp này.
1.2.1.2. Phân biệt giám sát, kiểm tra, thanh tra
Trong hoạt động của bộ máy nhà nước ta, để kiểm soát đối với quyền
lực nhà nước, có nhiều hình thức khác nhau, trong đó giám sát, kiểm tra,
thanh tra là những hình thức cơ bản, trong đó:
Giám sát dùng để chỉ hoạt động của cơ quan quyền lực nhà nước, toà
án, các tổ chức xã hội và công dân nhằm bảo đảm sự tuân thủ nghiêm chỉnh
pháp luật trong quản lý xã hội. Như vậy, hoạt động giám sát chủ yếu thực
hiện ngoài quan hệ trực thuộc theo chiều dọc.
Kiểm tra là khái niệm rộng được vận dụng theo hai hướng. Một là,
kiểm tra là hoạt động thường xuyên của cơ quan nhà nước cấp trên với cơ
quan nhà nước cấp dưới nhằm xem xét, đánh giá mọi mặt hoạt động của cấp

13


dưới khi cần thiết, hoặc kiểm tra một vấn đề cụ thể, việc thực hiện một quyết
định quản lý hành chính nhà nước nào đó. ở đây, hoạt động kiểm tra thực hiện
trong quan hệ trực thuộc. Vì vậy, khi thực hiện kiểm tra, cơ quan cấp trên, thủ
trưởng cơ quan có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế kỷ luật, biện pháp
bồi thường thiệt hại vật chất, hoặc áp dụng các biện pháp tác động tích cực tới

đối tượng bị kiểm tra như khen thưởng về vật chất, tinh thần. Hai là, kiểm tra là
hoạt động của các tổ chức, xã hội như kiểm tra Đảng, kiểm tra các tổ chức xã
hội đối với hành chính nhà nước. Vì vậy, kiểm tra ở phạm vi này ít mang tính
quyền lực nhà nước, mà chỉ áp dụng các biện pháp tác động mang tính xã hội.
Thanh tra là phạm trù dùng để chỉ hoạt động của các tổ chức thanh tra
nhà nước, gồm thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành (thanh tra bộ,
thanh tra sở). Cơ quan thanh tra và đối tượng bị thanh tra thường không có
quan hệ trực thuộc. Tuy nhiên, các cơ quan thanh tra do thủ trưởng các cơ
quan hành chính thành lập, do vậy nó hoạt động với tư cách là cơ quan chức
năng giúp thủ trưởng cùng cấp. Vì vậy, có thể coi hoạt động thanh tra được cơ
quan cấp trên tiến hành trong quan hệ đối với cơ quan trực thuộc. Trong q
trình thanh tra, cơ quan thanh tra có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế để
bảo đảm công tác thanh tra, kể cả các biện pháp trách nhiệm kỷ luật (tạm đình
chỉ cơng tác...) và xử lý vi phạm hành chính, nhưng khơng có quyền sửa đổi,
bãi bỏ quyết định của đối tượng bị thanh tra mà chỉ có quyền tạm đình chỉ
việc thi hành một số loại quyết định quản lý hành chính nhà nước nào đó,
trong những trường hợp đặc biệt cần thiết, hoặc đình chỉ hành vi hành chính
trái pháp luật.
Từ những phân tích trên đây có thể nhận thấy giám sát khác với kiểm
tra và thanh tra ở chỗ:
- Giám sát khác với kiểm tra
Kiểm tra là khái niệm bao hàm những thao tác có tính xác định, tính cụ
thể rõ hơn. Kiểm tra được thực hiện khi có dấu hiệu hoặc sự việc sai phạm

14


xảy ra là “xem xét cụ thể công việc”. Chủ thể và đối tượng kiểm tra có thể
cùng hệ thống với nhau (tự kiểm tra, cấp trên kiểm tra cấp dưới). Giám sát
khác với kiểm tra ở chỗ: giám sát là hành vi độc lập, từ bên ngồi, cịn kiểm

tra là hoạt động thường xuyên từ bên trong tổ chức hành pháp.
- Giám sát khác với thanh tra
Thanh tra và giám sát có chỗ giống nhau là đều có hoạt động “xem xét,
đánh giá” nhưng khác nhau ở chỗ giám sát là sự “chủ động theo dõi” còn
thanh tra thường chỉ xem xét khi có dấu hiệu, sự việc vi phạm xảy ra. Hậu quả
pháp lý của giám sát chủ yếu thơng qua hình thức “kiến nghị” cịn thanh tra là
áp dụng những biện pháp xử lý cụ thể. Thanh tra được tiến hành bởi chủ thể
xác định, có thẩm quyền, với trình tự, thủ tục chặt chẽ theo luật định, là hoạt
động đặc thù của hệ thống hành pháp. Còn giám sát được tiến hành bởi nhiều
chủ thể và mỗi chủ thể lại có quyền, trách nhiệm khác nhau do địa vị chính trị
pháp lý khác nhau.
Có thể nói, giám sát, kiểm tra, thanh tra là những thuật ngữ có nội dung
tương đối gần nghĩa dùng để chỉ những hoạt động có phạm vi, tính chất gần
nhau, thậm chí có biểu hiện khách quan khá giống nhau (xem xét, đánh giá)
nằm trong cơ chế kiểm soát đối với quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, chúng có
sự khác nhau về quan hệ pháp lý, chủ thể, đối tượng, phạm vi, phương pháp
thực hiện và hậu quả pháp lý.
1.2.2. Khái niệm và đặc điểm hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân
cấp tỉnh
Ngày 20/11/2015, Quốc hội khoá XIII đã ban hành Luật Hoạt động
giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân nhằm cụ thể hoá hoạt động giám
sát của Quốc hội và HĐND các cấp mà trước đó chỉ có Luật Hoạt động giám
sát của Quốc hội. Đây là cơ sở để hoạt động giám sát của HĐND sẽ được tiến
hành thường xuyên, gắn liền với việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do pháp
luật quy định. Giám sát của HĐND bao gồm: Giám sát của HĐND tại kỳ họp;

15


giám sát của Thường trực HĐND; giám sát của các ban HĐND và giám sát của

Tổ đại biểu, đại biểu HĐND.
Từ các khái niệm chung về giám sát nêu trên, căn cứ đối tượng giám
sát của HĐND: Giám sát của HĐND cấp tỉnh là hoạt động có mục đích,
thường xun, liên tục của HĐND cấp tỉnh nhằm quan sát, theo dõi, kiểm tra,
phát hiện, uốn nắn việc tuân theo pháp luật, chấp hành nghị quyết của
Thường trực HĐND, UBND, TAND, VKSND, của cơ quan nhà nước, tổ chức
kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của công dân ở địa
phương theo quy định của pháp luật [24].
Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh mang các đặc điểm
sau đây:
- Trước hết, giám sát là một chức năng luật định, tức là gắn với quyền
hạn và là trách nhiệm của HĐND. Chức năng được bảo đảm bởi một số hình
thức hoạt động và công cụ đặc thù, cách làm đặc thù của HĐND. Nói tới vai
trị giám sát là nói tới vị thế của HĐND với tư cách tổ chức và đại biểu
HĐND với tư cách cá nhân trong thực hiện chức trách.
- Mục đích của giám sát là nhằm bảo đảm việc thi hành các văn bản
pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của HĐND ở địa
phương được nghiêm túc, có chất lượng, hiệu quả; giám sát để khẳng định
những kết quả đạt được, đồng thời phát hiện những tồn tại, hạn chế, khó khăn,
vướng mắc, từ đó kiến nghị, đề xuất, quyết định các biện pháp, giải pháp thực
hiện tốt hơn.
- Chủ thể thực hiện quyền giám sát gồm giám sát của tập thể HĐND
tại kỳ họp; Giám sát của Thường trực HĐND; Giám sát của các ban của
HĐND và giám sát của đại biểu HĐND tỉnh.
Tại Điều 5 của Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND năm
2015 đã thể hiện rõ thẩm quyền giám sát của Hội đồng nhân dân như sau:

16



+ Hội đồng nhân dân giám sát việc tuân theo Hiến pháp, pháp luật ở địa
phương và việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp; giám sát
hoạt động của Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Tòa án nhân
dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp và Ban của
Hội đồng nhân dân cấp mình; giám sát quyết định của Ủy ban nhân dân cùng
cấp và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp [26].
+ Thường trực Hội đồng nhân dân giám sát việc tuân theo Hiến pháp,
pháp luật ở địa phương và việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân
cùng cấp; giám sát hoạt động của Ủy ban nhân dân, các cơ quan thuộc Ủy ban
nhân dân, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan thi hành án dân
sự cùng cấp và Hội đồng nhân dân cấp dưới; giám sát quyết định của Ủy ban
nhân dân cùng cấp, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp; giúp
Hội đồng nhân dân thực hiện quyền giám sát theo sự phân công của Hội đồng
nhân dân [26]
+ Ban của Hội đồng nhân dân giúp Hội đồng nhân dân giám sát hoạt
động của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan thi hành án dân
sự cùng cấp; giám sát hoạt động của Ủy ban nhân dân, các cơ quan thuộc Ủy
ban nhân dân cùng cấp thuộc lĩnh vực Ban phụ trách; giám sát văn bản quy
phạm pháp luật thuộc lĩnh vực Ban phụ trách [26].
+ Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân giám sát việc tuân theo Hiến pháp,
luật, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên ở địa phương
và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp hoặc về vấn đề do Hội đồng
nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân phân công [26].
+ Đại biểu Hội đồng nhân dân chất vấn Chủ tịch Ủy ban nhân dân,
thành viên khác của Ủy ban nhân dân, Chánh án Tòa án nhân dân, Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân, Thủ trưởng cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân
cùng cấp; trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình giám sát việc tuân

17



theo Hiến pháp và pháp luật; giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến
nghị của công dân ở địa phương [26]
Khi xét thấy cần thiết, Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân
dân, Ban của Hội đồng nhân dân tiến hành giám sát hoạt động của cơ quan, tổ
chức, cá nhân khác ở địa phương.
- Đối tượng thuộc quyền giám sát của HĐND cấp tỉnh bao gồm nhiều
loại khác nhau: Giám sát hoạt động của Thường trực HĐND, Uỷ ban nhân
dân, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp; Giám sát việc thực
hiện các nghị quyết của HĐND; Giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ
quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và
của công dân ở địa phương. Tuy nhiên, ở phạm vi của đề tài này, tác giả chỉ
tập trung nghiên cứu đối tượng thuộc quyền giám sát của HĐND tỉnh là
UBND tỉnh và các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh.
- Nguyên tắc giám sát là bảo đảm công khai, khách quan, đúng thẩm
quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật và khơng làm cản trở hoạt
động bình thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát.
- Hình thức giám sát gồm xem xét báo cáo công tác của các đối tượng
thuộc quyền giám sát; xem xét việc trả lời chất vấn của những đối tượng này;
xem xét việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của UBND cùng cấp, nghị
quyết của HĐND cấp dưới trực tiếp; tổ chức các đoàn giám sát; bỏ phiếu tín
nhiệm đối với các chức danh do HĐND bầu; thông qua việc tiếp dân và theo dõi
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân gửi đến HĐND; tiếp xúc cử tri.
Các chế tài của giám sát đó là HĐND có quyền yêu cầu cơ quan, tổ
chức, cá nhân hữu quan áp dụng các biện pháp chấm dứt hành vi vi phạm; yêu
cầu cơ quan, tổ chức cá nhân có thẩm quyền xem xét trách nhiệm của các đối
tượng giám sát có hành vi vi phạm; bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản quy
phạm pháp luật của UBND cùng cấp, nghị quyết của HĐND cấp dưới trực tiếp
nếu các văn bản đó trái pháp luật, gây thiệt hại về KT-XH, ảnh hưởng an ninh,


18


quốc phòng; bãi nhiệm, miễn nhiệm, đối với các chức danh do HĐND bầu; ra
nghị quyết về việc trả lời chất vấn và trách nhiệm của người bị chất vấn; quyết
định giải tán HĐND cấp dưới trực tiếp.
Sau giám sát, các chủ thể sẽ báo cáo về hoạt động giám sát của mình
trước cử tri địa phương, trước các cơ quan liên quan bằng văn bản trực tiếp
hoặc thông qua phương tiện thông tin đại chúng và hoạt động tiếp xúc cử tri
của đại biểu Hội đồng nhân dân. Các chủ thể giám sát sẽ chịu trách nhiệm về
báo cáo, nghị quyết, kết luận, yêu cầu và kiến nghị sau giám sát của mình.
1.2.3. Vai trị của hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Thứ nhất, đảm bảo cho HĐND cấp tỉnh thật sự là cơ quan đại diện của
nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh là cơ quan đại diện của nhân dân địa
phương. Ở địa phương, HĐND là cơ quan duy nhất được thành lập bằng một
cuộc bầu cử do cử tri địa phương trực tiếp bầu ra theo ngun tắc phổ thơng,
bình đẳng, bỏ phiếu kín. Hình thức hoạt động của HĐND chủ yếu thơng qua kỳ
họp tồn thể. Mọi quyết định của Hội đồng được thông qua bằng việc biểu
quyết theo nguyên tắc đa số tương đối hoặc đa số tuyệt đối. Tính chất đại diện
của HĐND về mặt hình thức được thể hiện rõ nét nhất ở vấn đề cơ cấu đại biểu
trong HĐND. Mỗi HĐND có một số lượng đại biểu nhất định đại diện cho nữ
giới, người dân tộc, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, lực lượng vũ
trang nhân dân và các cơ quan nhà nước khác đóng tại địa phương. Điều này có
nghĩa, HĐND đại diện cho toàn thể nhân dân; thành phần trong HĐND thể
hiện khối đại đoàn kết của toàn dân sống trên địa phương. HĐND là cơ quan
chỉ đại diện cho nhân dân địa phương bầu ra mình, đồng thời chịu trách nhiệm
trước nhân dân địa phương đó và cơ quan nhà nước cấp trên.
Thứ hai, bảo đảm cho Hiến pháp, pháp luật được tuân thủ thống nhất,
nghiêm chỉnh trên phạm vi địa phương và bảo đảm việc thực hiện các nghị

quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh.

19


×