Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Phân tích luận điểm sau của Hồ Chí Minh: “Nước độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (706.89 KB, 17 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
-----***-----

BÀI TẬP LỚN
MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đề tài:
Phân tích luận điểm sau của Hồ Chí Minh: “Nước độc lập mà người
dân khơng được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có
nghĩa lý gì”. Làm rõ ý nghĩa của luận điểm đó đối với Việt Nam hiện
nay?

HÀ NỘI, NĂM 2021


MỤC LỤC
A. ĐẶT VẤN ĐỀ .......................................................................................3
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ ........................................................................3
I. Khái quát chung .......................................................................................3
II. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc.......................................4
III. Ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc với Việt Nam
hiện nay .......................................................................................................8
IV. Bài học thực tiễn đối với thế hệ trẻ Việt Nam........................................11
C. KẾT LUẬN ...........................................................................................15
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................16

2


A. Đặt vấn đề
Từ trước tới nay, độc lập dân tộc luôn là một mục tiêu hàng đầu của mọi quốc
gia, dân tộc, đặc biệt là của các dân tộc nhỏ yếu. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, sự tồn


vong và phát triển của mỗi dân tộc đều gắn liền với việc giành và giữ vững nền độc
lập của mình. Sống trong độc lập luôn là nguyện vọng thiết tha, chính đáng của các
dân tộc trên thế giới.
Độc lập dân tộc vừa là một giá trị tinh thần vừa là một giá trị vật chất. Một dân
tộc có được vị thế bình đẳng trên trường quốc tế hay khơng, mọi cơng dân của một
dân tộc có được cuộc sống hạnh phúc, ấm no hay không... phụ thuộc rất nhiều vào
việc dân tộc đó có độc lập hay khơng”. Nhưng, đối với chủ tịch Hồ Chi Minh vĩ đại
của chúng ta, Người lại có quan niệm ngược lại, “Nước độc lập mà người dân khơng
được hưởng quyền tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.
Nền độc lập của một dân tộc là điều kiện tiên quyết đảm bảo cho dân tộc ấy có
hồ bình, ổn định về chính trị, phát triển về kinh tế và văn hóa, thống nhất về lãnh thổ
và chủ quyền quốc gia. Nó phải được “đo bằng những khả năng và điều kiện đảm bảo
cho dân tộc thốt khỏi tình cảnh nơ lệ, phụ thuộc, bị áp bức, bóc lột và nơ dịch; đảm
bảo cho dân tộc đó vượt qua tình trạng đói nghèo, lạc hậu và tụt hậu so với các dân
tộc khác trong thế giới ngày nay, ngày càng vươn lên đỉnh cao của sự giàu có, văn
minh, hiện đại, cơng bằng và bình đẳng”.

B. Giải quyết vấn đề
I. Khái quát chung
Dân tộc ta có lịch sử dựng nước và giữ nước hàng ngàn năm. Các thế hệ người
Việt Nam đã không ngừng đấu tranh để bảo vệ nền độc lập của mình mỗi khi Tổ quốc
bị xâm lăng. Đặc biệt, cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc dưới sự lãnh đạo của
Đảng ta trong những năm cuối của nửa đầu thế kỷ XX mà đỉnh cao là Cách mạng
tháng Tám năm 1945 đã đưa Việt Nam trở thành một dân tộc tiên phong trong phong
trào đấu tranh giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa. Chân lý “Khơng có gì q
hơn độc lập, tự do” khơng những là sự thể hiện một cách sinh động nhân sinh quan
của dân tộc Việt Nam, mà cịn góp phần thức tỉnh nhân dân lao động ở một loạt nước
thuộc địa các châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh đứng lên tự giải phóng mình. Quyền
được hưởng độc lập và quyết tâm bảo vệ quyền thiêng liêng đó của dân tộc Việt Nam
được ông cha ta khẳng định qua bài thơ Thần của Lý Thường Kiệt - bản tuyên ngôn


3


đầu tiên của đất nước, qua khúc khải hoàn ca Bình Ngơ Đại cáo của Nguyễn Trãi. Một
lần nữa, quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm đó được Hồ Chí Minh khẳng định một
cách đanh thép: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã
thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần
và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Khơng chỉ có vậy, đối với dân tộc ta ngày nay, độc lập dân tộc luôn gắn liền với
chủ nghĩa xã hội. Ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội được Đảng và nhân
dân ta giương cao trong suốt tiến trình cách mạng. Tại Đại hội lần thứ IX, Đảng Cộng
sản Việt Nam đã nhấn mạnh: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt
Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh”. Lựa chọn con đường phát triển lên chủ nghĩa xã hội sau khi đã
giành được độc lập là sự lựa chọn đúng đắn của các dân tộc trong thời đại ngày nay,
phù hợp với quy luật khách quan và xu thế phát triển của lịch sử xã hội. Bởi vì, chỉ có
chủ nghĩa xã hội mới hồn tồn giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã
hội, giải phóng con người; chỉ có chủ nghĩa xã hội mới xoá bỏ căn nguyên sâu xa của
tình trạng người bóc lột người và đưa dân tộc tới sự phồn vinh về kinh tế, sự phát triển
phong phú về văn hoá, mới thực hiện đầy đủ nhất quyền lực của nhân dân.
II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
Mác - Ăngghen nêu ra các quan điểm có tính chất phương pháp luận để giải
quyết các vấn đề dân tộc. Còn Lênin đã chỉ ra hai xu hướng phát triển khách quan của
dân tộc, xây dựng cương lĩnh dân tộc tạo cơ sở cho đường lối, chính sách dân tộc của
các Đảng cộng sản trong thời đại ĐQCN. Vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh
là vấn đề dân tộc thuộc địa: Thực chất của vấn đề dân tộc thuộc địa là đấu tranh chống
chủ nghĩa thực dân, giải phóng dân tộc; xây dựng Nhà nước dân tộc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ dân tộc – giai cấp trong cách mạng Việt Nam.
Quan điểm Chủ nghĩa Mác - Lênin: Vấn đề giai cấp quyết định vấn đề dân tộc: Dân

tộc ra đời là sản phẩm của quan hệ giai cấp và đấu tranh giai cấp; Ở mỗi dân tộc, ln
có một giai cấp đứng ra làm đại diện. Giai cấp đại diện quyết định lợi ích và khuynh
hướng phát triển dân tộc.
Áp bức dân tộc thực chất là áp bức giai cấp. Muốn xóa bỏ áp bức dân tộc phải đi
từ đấu tranh giai cấp, xóa bỏ giai cấp thống trị. Hồ Chí Minh đã áp dụng và phát triển
những tư tưởng để tìm ra lối đi phù hợp xuất phát từ thực tiễn Việt Nam: Vấn đề dân

4


tộc là vấn đề trên hết và trước hết; Giải phóng dân tộc là tiền đề giải phóng giai cấp;
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; chủ nghĩa yêu nước gắn với chủ nghĩa
quốc tế vô sản.
1. Độc lập tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân
tộc
Giữ vững độc lập, tự chủ vừa là đường lối, vừa là nguyên tắc bất biến để chúng ta
bảo vệ tốt nhất lợi ích quốc gia, dân tộc của mình. Đó chính là kết tinh của sự nghiệp
đối ngoại của Hồ Chí Minh. Trong tư tưởng u nước Hồ Chí Minh, muốn có nền độc
lập hồn tồn thì phải đứng về lập trường giai cấp vô sản, dưới ánh sáng của chủ nghĩa
Mac-Lenin, và đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Đó mới là nền độc lập thực sự,
mang lại tự do, ấm no hạnh phúc thực sự cho nhân dân. Trong tư tưởng yêu nước Hồ
Chí Minh, tự do là tự do của tồn thể dân tộc. Dân tộc chỉ có thể tự do khi đã giành
được độc lập. Tự do có nghĩa là thốt khỏi ách thống trị, áp bức bóc lột của nước
ngồi. Nói tóm lại, tự do là thốt khỏi thân phận nơ lệ, của con người nơ lệ mất nước.
Dân tộc có quyền tự do lưạ chọn con đường phát triển của riêng mình. Hồ Chí Minh
đã thể hiện rõ tư tưởng bảo đảm quyền tự do của nhân dân trong bản Tuyên ngôn độc
lập ngày 2/9/1945. Ngay từ những câu đầu tiên, Người đã trích dẫn những "lời bất hủ"
trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của Hoa Kỳ do Thomas Jefferson soạn thảo:
"Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền
khơng ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự

do và quyền mưu cầu hạnh phúc".
“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do độc lập, và sự thật đã trở thành một nước
tự do và độc lập.” Độc lập, tự do, hạnh phúc trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Độc lập, tự
do, hạnh phúc - đó là ham muốn tột bậc của Bác, đó cũng là khát vọng lớn lao của lớp
lớp các thế hệ người Việt Nam. Người dân được tự do và hạnh phúc, đó là mục tiêu
lớn lao nhất mà vì nó Hồ Chí Minh cống hiến tồn bộ cuộc đời của mình. "Khơng có
gì q hơn độc lập, tự do" là tư tưởng cách mạng cốt lõi, là lẽ sống của Hồ Chí Minh
và của dân tộc Việt Nam. Độc lập trong tư tưởng Hồ Chí Minh là một nền độc hồn
tồn triệt để và có chủ quyền thực sự về mọi lĩnh vực. Dân tộc Việt Nam có quyền
quyết định vận mệnh của mình. Dưới sự lãnh đạo của Người, tư tưởng độc lập, tự chủ
đã trở thành "sợi chỉ đỏ" xuyên suốt và định hình các hoạt động đối ngoại từ khi lập
quốc đến nay. Về quan niệm độc lập của nước Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã

5


giải thích cho thơng tin viên hãng Roi-tơ, ơng V. Rao rằng: "Độc lập nghĩa là chúng
tôi điều khiển lấy mọi cơng việc của chúng tơi, khơng có sự can thiệp ở ngoài vào."
2. Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để
Độc lập phải bảo đảm quyền lực tối cao về đối nội, đối ngoại và suy đến cùng là
phải đảm bảo quyền tự quyết dân tộc. Độc lập dân tộc phải được thực hiện toàn diện,
triệt để trên mọi lĩnh vực. Còn nhớ khi chiến tranh thế giới lần thứ nhất vừa kết thúc,
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã thay mặt những người dân An Nam gửi đến Hội nghị quốc
tế ở Versseilles, Pháp (năm 1919) Bản yêu sách 8 điểm địi tự do độc lập cho thuộc
địa, trong đó rất nhấn mạnh đến dân quyền khi nêu các điểm cụ thể: “3. Tự do báo chí
và tự do ngơn luận; 4. Tự do lập hội và hội họp; 5. Tự do cư trú ở nước ngoài và tự
do xuất dương; 6. Tự do học tập, thành lập các trường kỹ thuật và chuyên nghiệp ở
tất cả các tỉnh cho người bản xứ”.
Ngay trong năm ấy, khi Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp hỏi mong muốn điều gì,
Nguyễn Ái Quốc trực diện đối đáp thẳng: “Cái mà tôi cần nhất trên đời là: Đồng bào

tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập” và năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đến với Chủ
nghĩa Lenin, tìm thấy con đường cách mạng vơ sản cũng từ khát khao “Tự do cho
đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả
những điều tôi hiểu.”
Quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà là Nhà nước do Nhân dân lao động làm chủ. Nhà nước của dân, do dân và vì
dân. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà nước của dân là nhà nước trong đó dân là chủ;
dân là người có địa vị cao nhất, có quyền quyết định những vấn đề quan trọng nhất
của đất nước, dân tộc. Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định: nước ta là nước dân chủ,
địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ; bao nhiêu quyền hạn là của dân; quyền hành và
lực lượng đều ở nơi dân. Người ý thức rất rõ vị trí của mình trong bộ máy nhà nước,
Bác nhiều lần nhắc nhở: ở nước ta từ Hồ Chủ tịch trở xuống là đầy tớ của dân; dân đặt
ở đâu thì làm đó; Người làm Chủ tịch nước cũng là nhận sự trao quyền uỷ thác của
dân. Theo Hồ Chí Minh, nhà nước do dân là dân làm chủ nhà nước, nhà nước phải tin
dân và dựa vào dân. Ngồi ra, nó cịn bao hàm nội dung khác: nhân dân có quyền
tham gia vào cơng việc quản lý nhà nước, phê bình, kiểm soát, kiểm tra và giám sát
các hoạt động của các cơ quan nhà nước, các đại biểu do mình cử ra. Nhà nước vì dân,
theo tư tưởng Hồ Chí Minh, là nhà nước phục vụ nhân dân, đem lại lợi ích cho nhân
dân. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: để phục vụ tốt nhân dân, vì dân, nhà nước phải thực sự

6


liêm khiết, trong sạch, tránh quan liêu, tham nhũng, đặc quyền, đặc lợi, phải loại hết
"các ông quan cách mạng" ra khỏi bộ máy nhà nước. “Độc lập mà người dân khơng
có quyền tự quyết về ngoại giao, khơng có qn đội riêng, khơng có nền tài chính
riêng…, thì độc lập chẳng có ý nghĩa gì.”
3. Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân
“Tơi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn
toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai

cũng được học hành.” Nhưng “Độc lập” không tách biệt với “Tự do”, “Hạnh
phúc” mà phải gắn liền một cách hữu cơ và biện chứng với nhau như những điều kiện
và mục tiêu tối thượng.
Trong Thư gửi UBND các kỳ, tỉnh, huyện và làng (17/10/1945), Hồ Chủ tịch nói
rõ “Ngày nay, chúng ta đã xây dựng nên nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Nhưng
nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có
nghĩa lý gì”. Phát biểu tại cuộc họp đầu tiên của Ủy ban Nghiên cứu kế hoạch kiến
quốc (10/1/1946), Người lý giải: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ
chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng khơng làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự
do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”.
“Tự do” và “Hạnh phúc” là kết quả của “Độc lập” nhưng phải là độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội, bởi vì “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại,
đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng,
bác ái, đồn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm
vui, hịa bình, hạnh phúc”.
Nói “Tự do” và “Hạnh phúc” là nói đến người dân được hưởng đầy đủ đời sống
vật chất và tinh thần do Chính phủ chăm lo và bản thân mỗi con người biết mưu cầu
chính đáng. “Tự do” và “Hạnh phúc” cơ bản nhất, tối thiểu nhất theo cách nói của Hồ
Chí Minh là “đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”; người dân
từ chỗ có ăn, có mặc, được học hành đến chỗ ăn ngon, mặc đẹp, đời sống sung túc và
cống hiến. Điều đó trong chế độ dân chủ cộng hịa thì mỗi người dân được pháp luật
đảm bảo điều kiện trong việc tự cải thiện đời sống riêng của mình, phát huy tính độc
lập cá nhân và phát triển toàn diện; việc mưu cầu hạnh phúc và đem lại phúc lợi xã hội
cho con người trở thành quyền cơng dân, mỗi người dân và tồn xã hội đều có nghĩa
vụ và trách nhiệm chung.

7


Đời sống vật chất là trên cơ sở một nền kinh tế cao dựa trên lực lượng sản xuất

hiện đại, ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Người dân từ chỗ có ăn,
có mặc, có chỗ ở đến chỗ ăn ngon, mặc đẹp, đời sống sung túc. Người đủ ăn thì khá
giàu. Người khá giàu thì giàu thêm. Khác với các con đường cứu nước của cha ông,
gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa phong kiến (cuối thế kỷ XIX), hoặc chủ nghĩa tư
bản (đầu thế kỷ XX), con đường cứu nước của Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ hệ thống tư tưởng Hồ Chí
Minh. Hồ Chí Minh nêu ra chân lý mang tính thời đại:"Trong thời đại ngày nay, muốn
cứu nước và giải phóng dân tộc khơng cịn cách nào khác con đường cách mạng vơ
sản." Độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
4. Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
Độc lập dân tộc và thống nhất đất nước là chân lý, là quy luật tồn tại, phát triển
của dân tộc. “Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam. Sơng có thể cạn, núi có thể
mịn, song chân lý đó khơng bao giờ thay đổi.” “Độc lập” ở Việt Nam trong Cách
mạng tháng Tám năm 1945 “đã giải phóng đồng bào ta ra khỏi chế độ quân chủ
chuyên chế và xiềng xích thực dân... xây dựng cho nhân dân ta cái nền tảng Dân chủ
Cộng hoà và thống nhất độc lập”. “Độc lập” ấy của toàn dân tộc sau khi giành được đã
nêu cao ý chí quyết tâm “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất
định không chịu làm nô lệ”; dù “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm
hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phịng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn
phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Khơng có gì q hơn độc lập, tự do.
Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp
hơn!”
Lịch sử Việt Nam là lịch sử không ngừng đấu tranh trong suốt quá trình dựng
nước và giữ nước. Tinh thần yêu nước là cội nguồn của sức mạnh dân tộc Việt Nam.
Đối với người dân mất nước, cái quý nhất trên đời là độc lập của Tổ quốc, tự do của
nhân dân. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao gồm cả nội dung dân tộc
và dân chủ; độc lập dân tộc phải được gắn với hạnh phúc và tự do của nhân dân; đồng
thời, tự do và hạnh phúc của nhân dân cũng chính là giá trị sâu sắc của độc lập dân
tộc.
III. Ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc đối với Việt Nam

hiện nay.

8


1. Kiên định mục tiêu, con đường Cách mạng Hồ Chí Minh đã lựa chọn
Chúng ta ln chủ động phát hiện, ngăn chặn “từ sớm, từ xa” các nguy cơ đối với
đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh của đất nước. Q
trình hội nhập có sự tác động lẫn nhau giữa các nước lớn với nước vừa và nhỏ, giữa
các nước có thể chế chính trị - xã hội khác nhau nên sẽ xuất hiện những xung đột về
lợi ích hoặc các âm mưu chống phá từ bên ngồi. Vì vậy, việc chủ động phát hiện từ
khoảng cách xa về không gian và sớm về thời gian những nguy cơ có thể xảy ra là yêu
cầu cấp thiết phải làm để có thể chủ động ngăn chặn, vơ hiệu hóa, hóa giải các nguy
cơ đó một cách kịp thời, hiệu quả. Phòng, chống một cách chủ động mọi âm mưu,
hoạt động lợi dụng hội nhập quốc tế để chuyển hóa nội bộ; phát hiện, ngăn chặn kịp
thời các đối tác nước ngoài lợi dụng kẽ hở về luật pháp và sơ hở, yếu kém của ta để
gây sức ép, trốn thuế, thao túng thị trường trong nước; đấu tranh với các loại tội phạm
có tổ chức xuyên quốc gia như rửa tiền, buôn lậu, sản xuất và tiêu dùng hàng giả, gian
lận thương mại, tín dụng đen, tội phạm sử dụng công nghệ cao. Tăng cường quản lý
hoạt động trên mạng xã hội và internet, có biện pháp ngăn chặn các thế lực thù địch
xâm nhập vào các mạng nội bộ gây thiệt hại về kinh tế, phá hoại tư tưởng. Ngăn chặn
việc du nhập các ấn phẩm văn hóa độc hại từ bên ngoài để bảo đảm an ninh văn hóa.
2. Phát huy sức mạnh nền dân chủ Xã hội chủ nghĩa
Bước vào thời kỳ mới, trước yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước theo định
hướng XHCN, việc xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân phải
tiếp tục quán triệt sâu sắc tư tưởng và học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh về quyền làm chủ đất nước và xã hội của nhân dân. Bởi, đây là nền tảng tư
tưởng, lý luận quan trọng trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền kiểu
mới do nhân dân làm chủ. Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và
vì dân phải nắm vững mục tiêu là tôn trọng, bảo vệ, phát huy quyền làm chủ của nhân

dân, tất cả vì độc lập dân tộc, dân chủ, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Điều 2 Hiến
pháp 1992 khẳng định rõ: Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là Nhà nước pháp
quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và đội ngũ trí thức. Quan điểm trên càng có ý nghĩa quan trọng trong xây dựng
một Nhà nước pháp quyền dân chủ nhân dân - do nhân dân làm chủ, nhất là khi các
thế lực thù địch đang lợi dụng chiêu bài "dân chủ" và "nhân quyền" cũng như các thủ
đoạn khác để vu cáo, xuyên tạc chế độ dân chủ, chống phá cách mạng nước ta.

9


Văn kiện Đại hội lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: "Nhà
nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước
pháp quyền của dân, do dân, vì dân". Tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền
phải quán triệt sâu sắc quan điểm tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Thời
gian gần đây cả nước đang hướng về Đại hội Đảng lần thứ XIII, vấn đề là phải thống
nhất nhận thức về mối quan hệ giữa toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân
với quyền lực của Nhà nước. Xét về mặt chính trị - xã hội thì nhân dân là cội nguồn
của quyền lực Nhà nước, là chủ thể quản lý đất nước. Quyền lực của Nhà nước pháp
quyền chính là quyền lực do nhân dân làm chủ trao cho Nhà nước, thay mặt cho nhân
dân quản lý xã hội. Xét về mặt quản lý, Nhà nước là một tổ chức công quyền thực thi
quyền lực. Dựa vào hệ thống pháp luật và bộ máy của mình,
3. Củng cố, kiện toàn, phát huy sức mạnh của toàn bộ hệ thống chính trị
Thứ nhất, xác định rõ và ln kiên định lợi ích quốc gia là mục tiêu cao nhất
trong quá trình hội nhập quốc tế. Lợi ích quốc gia là hằng số, mọi vấn đề liên quan
đến quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế phải được soi chiếu từ lợi ích quốc gia, dân
tộc. Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc là giá trị cốt lõi trong quan hệ quốc
tế.
Thứ hai, tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia về chính trị - đối ngoại, kinh tế,

văn hóa - xã hội, quốc phịng - an ninh. Nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia là yếu
tố quyết định thành cơng của q trình hội nhập quốc tế. Đó là sức mạnh được tạo nên
từ sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, của khối
đoàn kết tồn dân tộc, của văn hóa, con người Việt Nam; sức mạnh của nền quốc
phịng tồn dân, thế trận quốc phịng tồn dân gắn với nền an ninh nhân dân và thế
trận an ninh nhân dân vững chắc.
Thứ ba, thực hiện nhất quán phương châm đa dạng hóa, đa phương hóa trong
quan hệ quốc tế, lấy nguyên tắc của luật pháp quốc tế để xử lý quan hệ đối ngoại.
Nước ta là một bộ phận không thể tách rời thế giới, gắn liền với tiến trình phát triển
của thế giới. Xa rời sự vận động chung sẽ tự cô lập mình với thế giới bên ngồi và ảnh
hưởng đến sự phát triển của đất nước.
Là một thành viên của cộng đồng quốc tế, Việt Nam chấp nhận “luật chơi”
chung, không thể hành động đơn phương mà khơng tính đến lợi ích của nước khác.
Đường lối, chính sách đối ngoại và đối nội của mỗi quốc gia đều có ảnh hưởng với

10


những mức độ nhất định của những yếu tố tác động từ bên ngồi hoặc từ nước khác.
Trong q trình hội nhập quốc tế vừa hợp tác, vừa đấu tranh, không tránh khỏi sự va
chạm với các nước khác, khi đó sử dụng luật pháp quốc tế để xử lý, giải quyết sẽ có
sự cơng bằng hơn và bảo vệ độc lập, tự chủ hữu hiệu hơn.
4. Chống biểu hiện suy thoái tư tưởng, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ.
Ta ln tăng cường sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt của Đảng, nâng
cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy vai trị của các tổ chức chính trị
xã hội; phát huy quyền làm chủ của nhân dân đối với sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc
gia, giữ vững độc lập, tự chủ trong quá trình hội nhập quốc tế. Đảng ta đã xác định
nâng cao bản lĩnh chính trị và trí tuệ của Đảng, kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng và phát

triển sáng tạo trong thực tiễn hoạt động của Đảng. Đảng chủ trương xây dựng hệ
thống chính trị thực sự trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả;
tạo chuyển biến rõ rệt trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước; ngăn chặn,
từng bước đẩy lùi tình trạng suy thối về chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong nội bộ; tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng trong Đảng,
nhất là cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt, cán bộ tham gia hoạt động hợp tác quốc
tế trên các lĩnh vực. Trên cơ sở đó, Đảng lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện hai
nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, kết hợp thành công sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Chúng ta cần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên
chức trong các cơ quan quyền lực của tổ chức nhà nước về phẩm chất chính trị, đạo
đức, phong cách, năng lực quản lý, năng lực chuyên môn để họ thực sự là "người đầy
tớ thật trung thành của nhân dân", toàn tâm, toàn ý phục vụ lợi ích của nhân dân. Đây
là nhân tố "cốt lõi" bảo đảm sự thành công của nhiệm vụ xây dựng nhà nước pháp
quyền của dân, do dân và vì nhân dân.
IV. Bài học thực tiễn đối với thế hệ trẻ của Việt Nam
1. Tự do hành động
1.1. Tổng quan q trình hình thành “quốc gia khởi nghiệp”
Theo đó, Việt Nam đã tăng liền 13 bậc lên vị trí thứ 59 trên thế giới, hướng tới vị
thế trung tâm khởi nghiệp hàng đầu khu vực Đơng Nam Á. Tính riêng theo từng thành
11


phố, Thủ đô Hà Nội đã lọt vào top 200 thành phố khởi nghiệp trên toàn cầu sau
TP.HCM đã ấn định vị trí 225.
Tính riêng 10 tháng đầu năm 2019, hệ sinh thái khởi nghiệp Việt Nam thu hút 29
thương vụ đầu tư với tổng số tiền được công bố lên đến 751 triệu USD. Thương vụ
lớn nhất thuộc lĩnh vực cơng nghệ tài chính có giá trị lên tới 300 triệu USD, đứng thứ
nhất trong số các thương vụ đầu tư vào các cơng ty cơng nghệ tài chính khu vực Đông
Nam Á. Dự báo, nếu xu hướng này tiếp tục phát triển, Việt Nam sẽ có nhiều startup

được định giá từ 500 triệu USD đến 1 tỷ USD trong thời gian tới.
Để hệ sinh thái khởi nghiệp Việt Nam đạt được những con số ấn tượng như trên,
không thể khơng kể đến vai trị của các nhà sáng lập (founders). Kể từ năm 2000 đến
nay, Việt Nam đã chứng kiến 3 thế hệ founders với những tư tưởng và hướng đi khác
biệt. Mặc dù có những nét khác nhau, cả 3 thế hệ này đều là những người ln tìm
kiếm giá trị mới, thách thức những khn mẫu cũ và khơng bao giờ lùi bước trước
khó khăn.
Thế hệ đầu tiên bắt đầu khởi nghiệp giai đoạn 2000-2006. Ở giai đoạn này, khởi
nghiệp cơng nghệ vẫn cịn là một khái niệm khá xa lạ tại Việt Nam và sự cạnh tranh
đến từ các đối thủ trong nước cũng như quốc tế vẫn chưa quá khốc liệt. Thế hệ thứ hai
bắt đầu khởi nghiệp giai đoạn 2007-2014. Hầu hết công ty này đều đạt mức định giá
trên 100 triệu USD và sản phẩm của họ đã trở thành một phần quen thuộc trong cuộc
sống của nhiều người Việt Nam. Thế hệ thứ ba (bắt đầu khởi nghiệp giai đoạn 2015 nay) là thế hệ những nhà sáng lập với nhiều nét đặc trưng so với những người tiền
nhiệm.
Trải qua ba thế hệ, dù hướng đi khác nhau, các nhà sáng lập đều đã thành công
trong việc xây dựng được những công ty lớn, đem lại giá trị cho hàng triệu người
dùng. Đặc biệt, nhìn vào các nhà sáng lập hiện nay, chúng ta hồn tồn có thể tin
tưởng vào tham vọng của họ nhằm đưa startup Việt Nam ra tầm khu vực, và xa hơn
nữa là trên toàn thế giới.
1.2. Sự ủng hộ, giúp đỡ kịp thời từ phía Đảng, Nhà nước, Chính phủ đối với các
doanh nghiệp trẻ
Một phần không thể thiếu trong bức tranh khởi nghiệp tại Việt Nam là sự hỗ trợ
đồng hành của chính phủ bao gồm những hoạt động như: Xây dựng hành lang pháp lý,
thiết lập cơ sở hạ tầng, tổ chức các chương trình đào tạo nhân tài và các sự kiện, cuộc
thi cho startup.
12


Có thể thấy, chính phủ đang xem các cơng ty khởi nghiệp như một nguồn động
lực mới cho sự phát triển của nền kinh tế quốc gia. Một loạt các chương trình, dự án

hỗ trợ trực tiếp và gián tiếp đã đem lại tác động tích cực đến tư duy của thế hệ trẻ, góp
phần thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp tại Việt Nam. Chính phủ đang xem các cơng ty
khởi nghiệp như một nguồn động lực mới cho sự phát triển của nền kinh tế quốc gia.
Đầu tiên, chính phủ đã có nhiều biện pháp để cải tiến hành lang pháp lý, tạo điều
kiện thuận lợi cho các startup phát triển. Trong vịng 2 năm trở lại đây, chính phủ đã
chính thức thơng qua nhiều chương trình sandbox, giúp các startup được thử nghiệm ý
tưởng mới trong những ngành chưa có hệ thống pháp luật cụ thể. Một loạt các nghị
định, điều luật mới cũng được ban hành nhằm khuyến khích sự hình thành của các
startup đổi mới sáng tạo, tiêu biểu như Nghị định 13/2019/ND-CP quy định miễn thuế
trong 4 năm đầu và giảm 50% thuế trong 9 năm tiếp theo, giảm 50% lãi suất vay cho
doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo.
Trong những năm gần đây, nhiều chương trình, sự kiện lớn liên quan đến khởi
nghiệp đã được chính phủ quan tâm, bảo trợ như TechFest, Startup Wheel, Vietnam
Venture Summit 2019. Các buổi đối thoại giữa chính phủ với cộng đồng doanh nghiệp
khởi nghiệp cũng thường xuyên được tổ chức để tiếp thu ý kiến, đưa ra các đề xuất cải
tiến về môi trường khởi nghiệp trong nước.
Bên cạnh đó, hệ thống cơ sở hạ tầng hỗ trợ khởi nghiệp đã và đang được chính
phủ đầu tư mạnh mẽ. Một loạt các khu công nghệ cao tại các thành phố lớn đã được
xây dựng như Khu Công nghệ cao TP.HCM (SHTP), Khu Công nghệ cao Đà Nẵng
(Da Nang Hi-Tech Park)...
Hơn thế nữa, các chương trình đào tạo nhân tài cũng được chính phủ chú trọng,
có thể kể đến các vườn ươm như Trung tâm Hỗ trợ Thanh Niên Khởi nghiệp (BSSC),
các chương trình Tăng tốc khởi nghiệp như Vietnam Silicon Valley (VSV), cuộc thi
Startup Wheel...
Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển quan trọng nhờ vào sự hình thành của
nền kinh tế số. Với thuận lợi là một quốc gia có tốc độ tăng trưởng GDP cao nhất
Đơng Nam Á, cơ cấu dân số trẻ, đam mê công nghệ với thu nhập GDP bình quân đầu
người tăng nhanh, các startup Việt, đặc biệt là những người trẻ có thể tận dụng lợi thế
sân nhà để xây dựng nền tảng ban đầu vững chắc, từ đó tiến ra khu vực Đông Nam Á
và xa hơn là ra thị trường toàn cầu.


13


2. Tự do ngôn luận
2.1. Tổng quan về quyền “tự do ngôn luận”
Nhà nước Việt Nam luôn nhất quán chủ trương, chính sách tơn trọng và bảo vệ
các quyền tự do cơ bản của con người, trong đó có quyền tự do ngơn luận, tự do báo
chí, tự do tiếp cận thơng tin, tự do internet nói chung và MXH nói riêng. Điều này đã
được hiến định trong Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013, được cụ
thể hóa trong nhiều luật, nghị định cùng nhiều văn bản pháp luật khác và được biểu
hiện sinh động trên thực tế.
Ngồi các báo điện tử, các trang tin, thơng qua MXH (Facebook, YouTube,
Lotus, Viber, Zalo, Twitter, Instagram...), người dân Việt Nam có thể tự do chia sẻ
thơng tin, hình ảnh, clip, bày tỏ quan điểm, ý kiến cá nhân của mình về mọi vấn đề
của đời sống xã hội. Trong hệ thống chính trị, bộ máy hành chính từ Trung ương đến
địa phương ở Việt Nam ngày càng nhiều cơ quan, tổ chức sử dụng MXH để làm việc,
giải quyết các thủ tục hành chính, giữ mối liên hệ với người dân, nắm bắt và giải
quyết kịp thời những tâm tư, nguyện vọng chính đáng của quần chúng nhân dân.
2.2. Sự can thiệp kịp thời của Đảng, Nhà nước và Chính phủ để tiết chế sự lạm
dụng quá đà quyền “tự do ngôn luận”
Hệ thống pháp luật của Việt Nam về quyền tự do ngơn luận, tự do báo chí, tự do
tiếp cận thông tin của công dân là cơ bản đầy đủ, đồng bộ và tương thích với luật quốc
tế về quyền con người. Đặc biệt, Luật An ninh mạng (ANM), sau một năm có hiệu lực
đã dần đi vào cuộc sống, mang lại những hiệu quả rất rõ nét, thiết thực trong đời sống
xã hội. Trước, trong và sau khi luật ra đời, khơng ít thơng tin xun tạc của các thế lực
thù địch, phản động cho rằng việc Việt Nam ban hành Luật ANM là "vi phạm quyền
con người, bóp nghẹt tự do dân chủ, tự do ngôn luận...". Thực tế, sau một năm thực thi
đã chứng minh Luật ANM hồn tồn khơng vi phạm quyền con người, khơng bóp
nghẹt tự do ngơn luận, mà ngược lại đã tạo nên nền tảng pháp lý vững chắc, phòng

ngừa, đấu tranh, xử lý các hoạt động vi phạm pháp luật trên khơng gian mạng, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân... Mọi cá nhân vẫn được bày tỏ
chính kiến trên khơng gian mạng, tự do ngơn luận hồn tồn khơng bị hạn chế nếu
chấp hành các quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, luật đã giúp tạo mơi trường lành
mạnh, an tồn. Nhiều thông tin, bài viết, video clip ảnh hưởng tiêu cực đến chuẩn
mực, đạo đức xã hội đã được ngăn chặn, xử lý; đời tư cá nhân được bảo vệ; hoạt động
kinh doanh trên môi trường mạng được bảo đảm; các đối tượng tung tin sai lệch, nhất

14


là về dịch Covid-19 gây hoang mang dư luận, ảnh hưởng đến cơng tác phịng, chống
dịch đã bị xử lý.
Mơi trường tự do, dân chủ thực chất cần được tạo ra để những tài năng của đất
nước có thể phát huy năng lực trí tuệ vào việc phát minh, sáng chế, đổi mới công
nghệ. Tự do vốn là bản năng của con người cũng như của sinh vật, trong khi dân chủ
cần phải được học tập từ người dân cho đến công chức và các nhà lãnh đạo đất nước;
bởi vì việc đối xử trong các quan hệ như lãnh đạo với bị lãnh đạo, công chức với
doanh nghiệp và người dân đều phải có chuẩn mực dựa trên tinh thần lấy dân làm gốc
với tư cách là công dân và cộng đồng dân cư. Không tạo ra được môi trường tự do,
dân chủ thực chất thì khó mà phát huy được nguồn lực vơ tận về trí tuệ của dân tộc ta
trong cuộc cách mạng 4.0 để đem lại hạnh phúc cho nhân dân và tạo ra sức mạnh của
đất nước.

C. Kết luận
Độc lập, tự chủ là ý chí sắt đá được hun đúc qua hàng nghìn năm dựng nước và
giữ nước, trở thành giá trị cốt lõi thiêng liêng trong truyền thống quý báu của dân tộc
ta. Đảng ta coi độc lập, tự chủ là vấn đề có tính ngun tắc, nhất qn, có tầm quan
trọng sống cịn xuyên suốt lịch sử cách mạng Việt Nam. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí
Minh về quyền làm chủ đất nước và xã hội của nhân dân, Đảng ta đã đúc kết thành cơ

chế, chính sách quản lý, điều hành đất nước: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân
dân làm chủ. Cơ chế đó phát huy được tính tích cực, chủ động của các tổ chức chính
trị - xã hội, tạo nên sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, đáp ứng địi hỏi của
các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc cũng như sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam XHCN.
Trong điều kiện của thế giới hiện nay, tồn cầu hóa đạt tới trình độ phát triển
chưa từng có, kéo theo tất cả các nước tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế và hội
nhập quốc tế trở thành một tất yếu khách quan không thể bỏ qua hoặc cưỡng lại. Hội
nhập để phát triển, muốn phát triển phải hội nhập. Tuy nhiên, q trình hội nhập quốc
tế ln là sân chơi với nhiều cơ hội và khơng ít thách thức. Có người ví hội nhập quốc
tế như dịng sơng chảy ra biển lớn, dễ bị hòa tan; hoặc như bước vào vòng xoáy thời
cuộc, bị mất phương hướng bất kể lúc nào. Lại có quan điểm cho rằng mở cửa, hội
nhập chính là đón cả gió lành và gió độc cùng vào nhà. Hội nhập quốc tế trong một
môi trường cạnh tranh quyết liệt về chính trị, kinh tế, sự chi phối của các nước lớn và
những diễn biến hết sức phức tạp, khó lường của thế giới, địi hỏi phải giữ được độc

15


lập, tự chủ, bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Đảng ta đã xác định
hội nhập quốc tế là định hướng chiến lược lớn; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế
với giữ vững độc lập, tự chủ đất nước là một trong những mối quan hệ quan trọng đặc
biệt cần giải quyết trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việc chỉ rõ mối quan
hệ này để đưa vào Cương lĩnh và Văn kiện Đại hội của Đảng thể hiện sự sáng tạo và
bước phát triển mới về tổng kết thực tiễn, nâng tầm lý luận của Đảng.
Như đã nói trên, trong bối cảnh tồn cầu hố hiện nay, sự hợp tác và ảnh hưởng
lẫn nhau giữa các dân tộc về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội đang phát triển cả về
chiều rộng lẫn chiều sâu và ngày càng trở nên sâu sắc hơn. Điều chỉnh để phù hợp với
một thế giới đang đổi thay nhanh chóng là một nhiệm vụ khó khăn đối với bất kỳ dân
tộc nào dù phát triển hay đang phát triển. Song, trong bất kỳ hồn cảnh nào, cách

mạng Việt Nam vẫn ln kiên định đường lối độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội. Đó là con đường duy nhất đưa nước ta đạt tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
***Hết***

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình mơn “Tư tưởng Hồ Chí Minh” của Trường Đại học Kinh tế Quốc dân.
2. Slide bài giảng của thầy Nguyễn Hồng Sơn mơn “Tư tưởng Hồ Chí Minh”, Trường
Đại học Kinh tế Quốc dân.
3. Một số link tham khảo:
/> /> />
16


17



×