Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

Vai trò của phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.1 KB, 37 trang )

MỞ ĐẦU........................................................................................................................... 4
1. Tính cấp thiết của đề tài........................................................................................4
2. Tình hình nghiên cứu.............................................................................................5
CHƯƠNG 1 : NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
THƯƠNG MẠI BẰNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI.................................................7
1.1.

Khái quát về tranh chấp thương mại................................................................7

1.1.1.

Khái niệm tranh chấp thương mại..............................................................7

1.1.2.

Đặc điểm của tranh chấp thương mại........................................................8

1.1.3.

Các hình thức giải quyết tranh chấp thương mại....................................10

1.2.

Giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại.....................11

1.2.1.

Khái niệm trọng tài thương mại................................................................11

1.2.2.


Đặc điểm của trọng tài thương mại..........................................................12

1.2.3.

Nguyên tắc và các hình thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng

trọng tài thương mại................................................................................................12
1.2.4.

Ưu điểm và nhược điểm của hình thức giải quyết tranh chấp thương

mại bằng trọng tài thương mại...............................................................................14
1.3.

Lược sử phát triển của trọng tài trong giải quyết tranh chấp.......................16

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1............................................................................................18
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC
QUAN HỆ PHÁP LUẬT VỀ VAI TRÒ CỦA PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI....................19
2.1 Thực trạng pháp luật về phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng
Trọng tài thương mại..................................................................................................19
1


2.2 Thực tiễn áp dụng.................................................................................................21
2.2.1 Ưu điểm...........................................................................................................21
2.2.2 Hạn chế, tồn tại, bất cập.................................................................................23
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2............................................................................................25
CHƯƠNG 3: CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN

THIỆN PHÁP LUẬT NHẰM NÂNG CAO VAI TRÒ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
THƯƠNG MẠI BẰNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI...............................................26
3.1. Định hướng phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng Trọng tài
thương mại..................................................................................................................26
3.3.1. Cơ sở chính trị...............................................................................................26
3.1.2. Cơ sở kinh tế, xã hội......................................................................................27
3.1.3. Sự cần thiết.....................................................................................................28
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại
bằng trọng tài thương mại..........................................................................................28
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật....................................................................28
3.2.2. Nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật trong..............................................32
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3............................................................................................34
KẾT LUẬN..................................................................................................................... 35
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................36

2


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
ST

Ký hiệu

T

Nguyên nghĩa

1

TTTM


Trọng tài Thương mại

2

GQTC

Giải quyết tranh chấp

3

PGS.TS

Phó Giáo sư Tiến sĩ

4

BLDS

Bộ luật Dân sự

5

VIAC

Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam

6

DN


Doanh nghiệp

7

TCTM

Tranh chấp thương mại

3


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với xu thế tồn cầu hóa trong quan hệ quốc tế nói chung, hoạt động kinh tế quốc
tế đang từng bước phát triển mạnh mang tính thời đại sâu sắc và cịn tiếp tục được bổ
sung phát triển. Các hoạt động kinh tế quốc tế nói chung và các hoạt động thương mại nói
riêng có xu hướng gia tăng và diễn biến phức tạp dẫn đến các tranh chấp phát sinh trong
hoạt động kinh tế. Do đó địi hỏi cần phải có những phương thức giải quyết nhanh chóng,
hiệu quả nhằm đảm bảo cho các hoạt động được diễn ra một cách liên tục và thuận tiện.
Xuất phát từ thực tế đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam là một thành viên trong cộng
đồng quốc tế, Đảng và Nhà nước ta chủ trương mở rộng các quan hệ hợp tác và phát triển
kinh tế với các quốc gia khác và hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu.
Năm 1986, Nghị quyết đại hội VI của Đảng đề ra đường lối đổi mới, nền kinh tế nước ta
chuyển từ cơ chế quản lý tập trung, bao cấp sang nền kinh tế sản xuất hàng hóa nhiều
thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Sự chuyển đổi tư duy kinh tế có ý nghĩa lớn lao này đã đặt nền móng
cho sự phát triển, tăng trưởng kinh tế liên tục của nước ta hơn mười lăm năm qua.. Xong
cũng trong bối cảnh đó, các quan hệ thương mại ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp.
Các quan hệ này không chỉ được thiết lập giữa các chủ thể kinh doanh trong nước mà còn

mở rộng tới các tổ chức nước ngồi. Chính vì vậy, tranh chấp thương mại là điều không
thể tránh khỏi và cần được quan tâm để giải quyết kịp thời, nhanh chóng, hiệu quả nhằm
đảm bảo cho các hoạt động thương mại diễn ra liên tục và thuận tiện.
Trước những đòi hỏi khách quan về đa dạng hóa hình thức và phương thức giải quyết
tranh chấp trong kinh doanh phù hợp với đặc điểm của cơ chế thị trường, cũng như góp
phần đẩy nhanh hội nhập quốc tế, Quốc hội đã ban hành Luật Trọng tài thương mại năm
2010 (Trước đây là Pháp lệnh trọng tài năm 2003). Sau khi Luật Trọng tài thương mại
2010 có hiệu lực, việc sử dụng trọng tài để giải quyết các tranh chấp thương mại ngày

4


càng phổ biến tại Việt Nam, thể hiện không chỉ qua số lượng các vụ tranh chấp được giải
quyết mà còn qua sự đa dạng các lĩnh vực tranh chấp.
Luật Trọng tài thương mại 2010 quy định cụ thể các vấn đề liên quan đến trọng tài
thương mại như: thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài, định nghĩa trọng tài
thương mại, thỏa thuận trọng tài, trọng tài viên phải trung tâm trọng tài, trình tự tố tụng
trọng tài và các vấn đề khác.
Sự ra đời Luật Trọng tài thương mại 2010 với nhiều quy định mới về cơ bản phù hợp
với pháp luật và thông lệ quốc tế, góp phần tạo niềm tin cho cá nhân tổ chức khi lựa chọn
phương thức giải quyết bằng trọng tài, tuy nhiên vẫn còn nhiều tranh cãi. Với mong
muốn được bàn luận chun sâu, góp phần hồn thiện pháp luật Trọng Tài ở Việt Nam,
nhóm đã lựa chọn đề tài “Vai trò của phương thức giải quyết tranh chấp thương mại
bằng Trọng tài thương mại” làm bài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu.
Trong thực tiễn và trong khoa học pháp lý, đã có một số bài viết và một số cơng trình
nghiên cứu ở cấp độ khác nhau về giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài
thương mại. Việc nghiên cứu vấn đề về pháp luật trọng tài luôn được nhiều nhà khoa học
pháp lý quan tâm.
Cho đến nay đã có khá nhiều sách chun khảo, cơng trình nghiên cứu liên quan tới

một số khía cạnh pháp lý về giải quyết tranh chấp thương mại như: Đỗ Văn Đại (2018),
Pháp luật Trọng tài thương mại Việt Nam: Bản án và Bình luận bản án (Tập 1), Nhà xuất
bản Hồng Đức - Hội Luật Gia Việt Nam; Đỗ Văn Đại (2016), Bình luận khoa học những
điểm mới của BLDS năm 2015, Nhà xuất bản Hồng Đức - Hội luật gia Việt Nam; Nguyễn
Ngọc Lâm (2014), Giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại quốc tế, Nhà xuất bản
Hồng Đức; Phan Thông Anh (2016), Luận án tiến sĩ - Đại học Luật thành phố Hồ Chí
Minh, Hủy phán quyết trọng tài ; Nguyễn Minh Giáp (2015), Luận văn thạc sĩ - Khoa
Luật, Đại học quốc gia Hà Nội, Thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố
nước ngồi bằng trọng tài ở Việt Nam..
Một số bài báo, bài viết về vấn đề này chỉ đề cập đến khía cạnh thực tiễn áp dụng
pháp luật Trọng tài thương mại, về hình thức của Trọng tài thương mại như: TS. Nguyễn
5


Am Hiểu có bài “Một số đặc điểm của pháp luật trọng tài phi chính phủ ở Việt Nam hiện
nay” (Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 5/1997); PGS.TS. Nguyễn Như Phát có bài
“Pháp luật tố tụng và các hình thức tố tụng kinh tế” (Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số
11/2001); PGS.TS. Dương Đăng Huệ có bài “Trọng tài kinh tế phi chính phủ ở Việt Nam
– Thực trạng và những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của nó” (Thơng tin
khoa học pháp lý – Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý Bộ Tư pháp, số 5/1999). Các bài
viết này đề cập đến những vấn đề pháp luật của Việt Nam trước khi ban hành Pháp luật
trọng tài thương mại, các bài viết đã đề xuất những giải pháp nhằm củng cố hoàn thiện
hơn pháp luật về trọng tài thương mại.
Khi Pháp luật trọng tài thương mại được ban hành, cũng có một số bài viết về vấn đề
trọng tài như: PGS.TS. Dương Đăng Huệ có bài “Pháp lệnh Pháp luật trọng tài thương
mại năm 2003 – Động lực mới cho sự phát triển của trọng tài phi chính phủ ở nước ta”;
Luận án tiến sĩ “Vai trò của Tòa án trong hoạt động giải quyết tranh chấp thương mại
bằng trọng tài ở Việt Nam” của tác giả Vũ Ánh Dương, năm 2006.
Các công trình, bài viết nêu trên đã đề cập đến khái niệm, đặc điểm, nội dung của
tranh chấp thương mại và trọng tài thương mại một cách khái quát mà chưa đề cập

chuyên sâu về vai trò của phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài
thương mại. Vì vậy, nhóm đã lựa chọn nghiên cứu đề tài “Vai trò của phương thức giải
quyết thương mại bằng trọng tài thương mại”

6


CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
THƯƠNG MẠI BẰNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát về tranh chấp thương mại
1.1.1. Khái niệm tranh chấp thương mại
Khái niệm tranh chấp thương mại lần đầu tiên được quy định trong Luật Thương
mại năm 1997 (Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994 và Nghị định số
116/1994/NĐ-CP chủ yếu liệt kê các tranh chấp được gọi là các tranh chấp kinh tế như
tranh chấp về hợp đồng kinh tế, tranh chấp giữa công ty với thành viên công ty, thành
viên công ty với nhau hoặc tranh chấp liên quan đến mua bán cổ phiếu, trái phiếu...).
Điều 238 Luật Thương mại quy định: “Tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh
do việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng trong hoạt động thương
mại” Theo đó, nội hàm hoạt động thương mại theo quy định của Luật Thương mại năm
1997 rất hẹp so với quan niệm quốc tế về thương mại. Hoạt động thương mại chỉ bao
gồm ba nhóm: hoạt động mua bán hàng hoá; cung ứng dịch vụ thương mại và các hoạt
động xúc tiến thương mại (Khoản 2 Điều 5 Luật Thương mại năm 2005). Tranh chấp
thương mại và hoạt động thương mại theo quy định của Luật Thương mại năm 1997 đã
loại bỏ rất nhiều tranh chấp mà xét về bản chất thì các tranh chấp đó có thể được coi là
các tranh chấp thương mại, vì vậy đã dẫn đến các xung đột pháp luật trong hệ thống pháp
luật, giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế, trong đó có cả những Cơng ước quốc tế
quan trọng mà Việt Nam đã là thành viên (Công ước New York 1958) gây khơng ít những
trở ngại, rắc rối trong thực tiễn áp dụng và chính sách hội nhập.
Luật Thương mại 2005 không trực tiếp đưa ra định nghĩa về tranh chấp thương mại
song với sự hiện diện của khái niệm “hoạt động thương mại” theo nghĩa rộng đã tạo ra sự

tương đồng trong quan niệm về thương mại và tranh chấp thương mại của pháp luật Việt
Nam với chuẩn mực chung của pháp luật và thông lệ quốc tế. Theo quy định tại khoản 1
Điều 3 Luật thương mại năm 2005 quy định: “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm
mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương
mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”.
7


Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 cũng đã liệt kê các tranh chấp về kinh doanh,
thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của toà án (Điều 30 Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015). Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 không sử dụng thuật ngữ “tranh chấp thương
mại” độc lập mà sử dụng chung thuật ngừ “tranh chấp kinh doanh, thương mại” nhưng
nội dung của các tranh chấp về kinh doanh thương mại được quy định tại Điều 30 Bộ luật
Tố tụng dân sự thực chất là các tranh chấp thương mại theo hướng tiếp cận của Luật
Thương mại năm 2005. Điều đó cho thấy, mặc dù có sự khác nhau về cách thức biểu đạt
và ngơn ngữ sử dụng nhưng nhìn chung quan niệm về hoạt động thương mại và tranh
chấp thương mại được thể hiện qua các quy định trong các văn bản pháp luật tương đối
nhất quán.
Từ đó, có thể hiểu: Tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh do việc không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng trong hoạt động thương mại. Tranh chấp
thương mại thực chất là tranh chấp hợp đồng. Đây là các tranh chấp tài sản phát sinh
trong quá trình thực hiện hoạt động thương mại, là những mâu thuẫn (bất đồng hay xung
đột) về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quả trình thực hiện các hoạt động thương
mại…
1.1.2. Đặc điểm của tranh chấp thương mại
Thứ nhất, tranh chấp thương mại là những mâu thuẫn (bất đồng hay xung đột) về
quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong mối quan hệ cụ thể. Mâu thuẫn được hiểu là trạng
thái xung đột, đối xứng nhau về quyền và nghĩa vụ giữa các bên tranh chấp. Quan hệ
thương mại và bất đồng giữa các bên trong quan hệ thương mại là điều kiện cần và đủ để
tranh chấp phát sinh. Trong hoạt động thương mại, các bên vừa hợp tác đồng thời vừa

cạnh tranh nhau để đạt được nhũng mục đích đề ra. Do đó, việc phát sinh những mâu
thuẫn, bất đồng trong quá trình thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên là điều tất yếu.
Các quan hệ thương mại có bản chất là các quan hệ tài sản nên nội dung tranh chấp
thường liên quan trực tiếp tới lợi ích kinh tế của các bên. Thông thường, những mâu
thuẫn bất đồng về quyền và nghĩa vụ giữa các bên phát sinh trong các mối quan hệ cụ thể
bao gồm:

8


+ Mua bán hàng hoá; cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý; ký gửi; thuê,
cho thuê, thuê mua; xây dựng; tư vấn kĩ thuật; vận chuyên hàng hoá, hành khách bằng
đường sắt, đường bộ, đường thủy nội địa; vận chuyển hàng hố, hành khách bằng đường
hàng khơng, đường biển; mua bán cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác; đầu tư
tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác.
+ Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao cơng nghệ giữa cá nhân, tổ chức
với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
+ Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của
công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất,
chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty.
+ Tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định.
Thứ hai, những mâu thuẫn (bất đồng hay xung đột) về quyền và nghĩa vụ giữa các
bên phải phát sinh từ hoạt động thương mại.
Căn cứ phát sinh tranh chấp thương mại là hành vi vi phạm hợp đồng hoặc vi phạm
pháp luật. Trong nhiều trường hợp, tranh chấp thương mại phát sinh do các bên có vi
phạm hợp đồng và xâm hại lợi ích của nhau, tuy nhiên cũng có thể có những vi phạm
xâm hại lợi ích của các bên nhưng không làm phát sinh tranh chấp. Đối với tranh chấp
thương mại phải là những mâu thuẫn, bất đồng về quyền và nghĩa vụ giữa các bên phát
sinh từ những hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng
dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.

Thứ ba, tranh chấp thương mại chủ yếu là tranh chấp giữa các thương nhân.
Các tranh chấp thương mại chủ yếu là những tranh chấp phát sinh giữa các thương
nhân (cá nhân kinh doanh, pháp nhân) với nhau. Theo quy định tại Khoản 3 Điều 1 Luật
Thương mại năm 2005: “Ngoài thương nhân là chủ thể chủ yếu của tranh chấp thương
mại, trong những trường hợp nhất định, các cá nhân, tổ chức khác (không phải là thương
nhân) cũng có thể là chủ thể của tranh chấp thương mại khi trong các giao dịch bên
khơng có mục đích sinh lợi chọn áp dụng luật thương mại. Khoa học pháp lý gọi giao
dịch này là giao dịch hỗn hợp (hành vi hỗn hợp), về bản chất, hoạt động không nhằm mục
đích sinh lợi của một bên trong giao dịch với thương nhân không phải là hoạt động
9


thương mại thuần túy, nhưng bên khơng nhằm mục đích sinh lợi đã chọn áp dụng Luật
Thương mại thì quan hệ này trở thành quan hệ pháp luật thương mại và tranh chấp phát
sinh từ quan hệ pháp luật này phải được quan niệm là tranh chấp thương mại. Quy tắc
được pháp luật của Pháp và nhiều quốc gia áp dụng để giải quyết loại tranh chấp này đó
là căn cứ vào bị đơn là thương nhân hay không phải là thương nhân. Nếu bị đơn là
thương nhân thì nguyên đơn (bên có hành vi dân sự) có thể chọn Tồ thương mại hoặc
Tịa dân sự để giải quyết vụ tranh chấp. Trường hợp nguyên đơn chọn Toà thương mại thì
các quy định khắt khe hơn của Luật Thương mại được áp dụng để giải quyết vụ tranh
chấp. Ngược lại, bị đơn khơng phải là thương nhân thì ngun đơn (bên có hành vi
thương mại) chỉ có quyền kiện ra Toà dân sự và Luật dân sự được áp dụng để giải quyết
vụ tranh chấp mà các quy định của Luật Thương mại không thể áp dụng cho đối phương
không phải là thương nhân.
1.1.3. Các hình thức giải quyết tranh chấp thương mại
Giải quyết tranh chấp thương mại là cách thức, phương pháp hay các hoạt động để
điều chỉnh các bất đồng, các xung đột nhằm khắc phục và loại trừ các tranh chấp đã phát
sinh, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của các thương nhân và các chủ thể kinh doanh khác,
bảo vệ trật tự kỷ cương xã hội.
Hiện nay các quốc gia trên thế giới và Việt Nam đều thừa nhận bốn hình thức giải

quyết tranh chấp thương mại, Theo quy định tại Điều 317 Hình thức giải quyết tranh chấp
thương mại bao gồm: thương lượng, hòa giải, tòa án, và trọng tài
Thương lượng: là phương thức giải quyết tranh chấp thông qua việc các bên tranh
chấp cùng nhau bàn bạc, tự dàn xếp, tháo gỡ những bất đồng phát sinh để loại bỏ tranh
chấp mà không cần có sự trợ giúp hay phán quyết của bất kỳ bên thứ ba nào.
Hòa giải: là phương thức giải quyết tranh chấp với sự tham gia của bên thứ ba làm
trung gian hòa giải để hỗ trợ, thuyết phục các bên tranh chấp tìm kiếm các giải pháp
nhằm loại trừ tranh chấp đã phát sinh.
Giải quyết tranh chấp thương mại bằng tòa án: là phương thức giải quyết tranh
chấp tại cơ quan xét xử nhân danh quyền lực nhà nước được tịa án thực hiện theo một
trình tự, thủ tục nghiêm ngặt, chặt chẽ.
10


Giải quyết tranh chấp thương mại bằng Trọng tài thương mại: là phương thức giải
quyết thông qua hoạt động của Trọng tài viên với kết quả cuối cùng là phán quyết trọng
tài buộc các bên tôn trọng và thực hiện.
Mỗi hình thức giải quyết đều có đặc điểm riêng và tùy thuộc vào thời gian, hồn
cảnh, ý chí của các bên tranh chấp thì sẽ có từng hình thức được lựa chọn để giải quyết
các tranh chấp thương mại.
1.2. Giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại
1.2.1. Khái niệm trọng tài thương mại
Trong khoa học pháp lý, trọng tài được nghiên cứu dưới nhiều bình diện khác nhau
và do đó hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về trọng tài. Theo cuốn “Từ điển kinh tế
thị trường từ A đến Z”: “Trọng tài là một cách giải quyết bất đồng trong quan hệ công
nghiệp mà không cần đưa ra pháp luật hay đình cơng”.
Theo Hội đồng trọng tài Mỹ (AAA): “Trọng tài là cách thức giải quyết tranh chấp
bằng cách đệ trình vụ tranh chấp cho một số người khách quan xem xét giải quyết và họ
sẽ đưa ra quyết định cuối cùng, có giá trị bắt buộc các bên tranh chấp phải thi hành” 1
Theo khoản 1 điều 2 Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003: “Trọng tài thương mại là

phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại được các bên
thỏa thuận và được tiến hành theo trình tự, thủ tục do Pháp lệnh này quy định”.
Theo khoản 1 điều 3 Pháp lệnh trọng tài thương mại 2010: “Trọng tài thương mại là
phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thoả thuận và được tiến hành theo quy
định của Luật này”.
Mặc dù có khá nhiều định nghĩa khác nhau về trọng tài, song nhìn chung hiện nay
trọng tài thương mại được nhìn nhận dưới hai góc độ:
Thứ nhất, trọng tài là một hình thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động
thương mại, được thực hiện bởi Hội đồng trọng tài hoặc một trọng tài viên duy nhất với
tư cách là bên thứ ba độc lập nhằm giải quyết tranh chấp bằng việc đưa ra một phán quyết
trên cơ sở sự thỏa thuận của các bên tranh chấp và có hiệu lực bắt buộc đối với các bên;
1 Nguyễn Thị Liên (2015), So sánh pháp luật về trọng tài thương mại giữa Việt Nam và Hòa Kỳ, Luận văn thạc sĩ
luật học, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội

11


Thứ hai, trọng tài là một cơ quan giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động
thương mại, được thành lập tự nguyện bởi các trọng tài viên để giải quyết tranh chấp phát
sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại theo yêu cầu của các bên tranh chấp.
1.2.2. Đặc điểm của trọng tài thương mại
Với tư cách là một hình thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương
mại, trọng tài có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, trọng tài là một hình thức giải quyết tranh chấp có sự tham gia của bên
thứ ba - một trọng tài viên duy nhất hoặc Hội đồng trọng tài. Trọng tài do các bên tranh
chấp thỏa thuận lựa chọn trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp sẽ hoàn toàn độc lập với
các bên, đưa ra phán quyết có tính bắt buộc bảo vệ quyền lợi các bên.
Thứ hai, trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp thơng qua một thủ tục tố tụng
chặt chẽ. Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, các trọng tài viên và các bên đương sự
phải tuân thủ đúng trình tự tố tụng mà pháp luật trọng tài, Điều lệ và Quy tắc tố tụng của

tổ chức trọng tài đó quy định
Thứ ba, kết quả của việc giải quyết tranh chấp tại trọng tài là phán quyết do trọng
tài tuyên đối với các đương sự của vụ tranh chấp. Phán quyết của trọng tài vừa là sự kết
hợp của yếu tố thỏa thuận (các đương sự có thể thỏa thuận về nội dung tranh chấp, cách
thức giải quyết tranh chấp, luật áp dụng đối với vụ tranh chấp) vừa là sự kết hợp của yếu
tố tài phán (có giá trị bắt buộc thi hành đối với các bên).
1.2.3. Nguyên tắc và các hình thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng
trọng tài thương mại.

 Nguyên tắc giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại
Theo quy định tại Điều 4 Luật Trọng tài thương mại 2010 (có hiệu lực từ
01/01/2011) có 5 nguyên tắc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng trọng tài,
cụ thể:
Nguyên tắc thứ nhất: “Trọng tài viên phải tôn trọng thoả thuận của các bên nếu thỏa
thuận đó khơng vi phạm điều cấm và trái đạo đức xã hội”. Nguyên tắc này thể hiện sự
tôn trọng của trọng tài viên đối với các bên tranh chấp về phạm vi thỏa thuận trọng tài và
quyền, nghĩa vụ của các bên. Với việc đề cao thỏa thuận của các bên là mục tiêu hàng
12


đầu trong giải quyết tranh chấp thương mại nhằm tìm ra phương hướng giải quyết tốt
nhất mà vẫn đảm bảo lợi ích của các bên khơng bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, sự thỏa thuận
của các bên phải không vị phạm điều cấm hay trái đạo đức xã hội thì mới được chấp
nhận.
Nguyên tắc thứ hai: “Trọng tài viên phải độc lập, khách quan, vô tư và tuân theo quy
định của pháp luật”, theo đó trọng tài viên trong việc giải quyết tranh chấp thương mại
đóng vai trị như thẩm phán để đưa ra quyết định khách quan, vơ tư. Vì vậy, trọng tài viên
phải có vai trị độc lập với các bên tranh chấp, khơng được là người có quyền, lợi ích liên
quan đến bất kỳ bên tranh chấp nào. Điều này đảm bảo được sự công bằng khi giải quyết
tranh chấp, để đưa ra một quyết định ổn thỏa nhất.

Nguyên tắc thứ ba: “Các bên tranh chấp đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Hội
đồng trọng tài có trách nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của
mình” thể hiện sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của các bên tranh chấp. Các bên có
quyền và nghĩa vụ như nhau, khơng hề có tính chất thiên vị bất kỳ bên nào giống như
hình thức giải quyết tranh chấp tại Tịa án. Điều này cho thấy việc giải quyết tranh chấp
thương mại bằng hình thức trọng tài thương mại cũng vẫn đảm bảo sự cơng bằng như tại
Tịa án.
Ngun tắc thứ tư: “Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài được tiến hành không
công khai, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác”. Đây là điểm đặc biệt của hình
thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng hình thức trọng tài thương mại. Nếu giải
quyết tại Tịa án thì phiên tịa giải quyết vụ việc này sẽ là công khai, bất kỳ ai cũng có thể
tới tham dự được. Điều này ảnh hưởng khơng nhỏ đến uy tín thậm chí là đời sống riêng
tư của các bên tranh chấp. Chưa kể đến việc những chứng cứ thu thập được để mang ra
xét xử có thể là bí mật kinh doanh của các bên liên quan trực tiếp đến lợi ích của các bên.
Vì vậy việc giải quyết tranh chấp thương mại không công khai là điều cần thiết cho lợi
ích của các bên tham gia tranh chấp.
Cuối cùng là nguyên tắc đặc trưng nhất của phương thức giải quyết bằng trọng tài
thương mại “Phán quyết của trọng tài viên là chung thẩm”. Nghĩa là phán quyết không
thể bị kháng cáo để xét xử lại bởi bất kỳ một trọng tài hay một Tòa án nào khác. Điều có
13


thể làm chỉ là thực hiện theo phán quyết đó hoặc khơng đồng ý thì một bên u cầu Tịa
án hủy phán quyết đó mà thơi. Ngun tắc này khiến cho việc giải quyết tranh chấp
nhanh gọn hơn thay vì việc ra một quyết định rồi một bên không vừa ý thì lại kháng cáo
để xử lại, điều này rất tốn thời gian và công sức. Đồng thời, nguyên tắc này cũng áp đặt
lên các bên tranh chấp việc buộc phải chấp nhận phán quyết của Trọng tài viên.
Tất cả những nguyên tắc giải quyết tranh chấp mà Luật Trọng tài Thương mại 2010
đặt ra đều nhằm mục đích giúp các bên tranh chấp có thể giải quyết tranh chấp một cách
nhanh chóng, chính xác và hiệu quả đảm bảo tốt nhất nhu cầu về một cơ chế giải quyết

tối ưu cho các doanh nghiệp.

 Các hình thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại
Hiện nay, trọng tài thương mại tồn tại dưới hai hình thức cơ bản là trọng tài vụ việc
và trọng tài thường trực.
Một là, trọng tài vụ việc: Đây là hình thức trọng tài do các bên tranh chấp thỏa
thuận thành lập để giải quyết vụ việc và sẽ khơng cịn tồn tại khi vụ việc đã được giải
quyết xong. Trọng tài vụ việc được thành lập khi các tranh chấp phát sinh và tự chấm dứt
hoạt động khi giải quyết xong tranh chấp và khơng có trụ sở thường trực, khơng có bộ
máy điều hành, khơng có danh sách trọng tài viên. Trọng tài viên được các bên có tranh
chấp chỉ định có thể là người có tên trong hoặc ngồi danh sách trọng tài viên của bất kỳ
một trung tâm trọng tài nào. Theo đó, trọng trọng tài vụ việc quy tắc tố tụng để giải quyết
tranh chấp có thể do các bên thỏa thuận xây dựng hoặc lựa chọn từ bất kỳ một quy tắc tố
tụng nào của các trung tâm trọng tài khác.
Hai là, trọng tài thường trực. Đây là hình thức trọng tài được tổ chức khá chặt chẽ,
có bộ máy, trụ sở làm việc thường xuyên, thường có danh sách các trọng tài viên hoạt
động theo điều lệ và quy tắc tố tụng riêng. Đa số các tổ chức trọng tài lớn, có uy tín trên
thế giới đều được thành lập theo mơ hình này dưới những tên gọi như trung tâm trọng tài,
ủy ban trọng tài, viện trọng tài… nhưng chủ yếu và phổ biến được tổ chức dưới dạng các
trung tâm trọng tài.
1.2.4. Ưu điểm và nhược điểm của hình thức giải quyết tranh chấp thương mại
bằng trọng tài thương mại.
14


Hiện nay, phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại được áp
dụng khá phổ biến trong lĩnh vực kinh doanh thương mại bởi phương thức trọng tài
thương mại có những ưu điểm khắc phục được những khó khăn, nhược điểm của các
phương thức giải quyết tranh chấp khác.
Thứ nhất, giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại đảm bảo tối

đa quyền tự do của các bên. So với tòa án – cơ quan tài phán công, trọng tài không bị
ràng buộc bởi nguyên tắc lãnh thổ, các bên có thể lựa chọn bất kỳ trung tâm trọng tài nào
để giải quyết tranh chấp kể cả trong nước hay ngồi nước. Các bên có thể thỏa thuận lựa
chọn trọng tài viên; lựa chọn quy tắc, thủ tục tố tụng; lựa chọn nguyên tắc, địa điểm…
giải quyết tranh chấp.
Thứ hai, việc giải quyết tranh chấp thương mại với nguyên tắc “xét xử kín” các nhà
kinh doanh sẽ bảo vệ được bí mật thương mại, khơng ảnh hưởng đến công việc kinh
doanh.
Thứ ba, phương thức trọng tài có giá trị chung thẩm, khơng bị kháng cáo, kháng
nghị, trong khi bản án, quyết định của Tòa án phải trải qua nhiều thủ tục xem xét khác
nhau, phương thức thương lượng, hịa giải thì địi hỏi các bên có thiện chí, trung thực. Vì
vậy khi giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại giúp các bên tiết
kiệm được chi phí, thời gian cũng như tiền bạc. Quyết định trọng tài được thi hành ngay
(trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày ra phán quyết) là một yếu tố thuận lợi thúc đẩy nhanh
q trình xử lí tổn thất về hàng hóa của các bên.
Trên những ưu điểm vượt trội của phương thức giải quyết tranh chấp thương mại
bằng trọng tài thương mại, trọng tài thương mại vẫn còn tổn tại một số hạn chế nhất định
như sau:
Trong tranh chấp thương mại, đối với đối tượng là tài sản tranh chấp, trọng tài
khơng có thẩm quyền kê biên tài sản, áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời. Việc kê
biên tài sản chỉ được thực hiện thơng qua Tịa án trên cơ sở u cầu của các bên. Q
trình kê biên này có thể bị kéo dài, không đảm bảo phong tỏa tài sản kịp thời để tránh
trường hợp tẩu tán tài sản.

15


Quyết định trọng tài có giá trị chung thẩm vì thế khơng bị kháng cáo, kháng nghị do
đó các bên các bên tranh chấp khó có cơ hội phát hiện và khắc phục những sai sót trong
q trình giải quyết tranh chấp như ở tịa án.

Ngồi ra, trong thực tiễn chi phí giải quyết tranh chấp bằng trọng tài được ấn định
trước, các biểu phí được quy định sẵn và biểu phí này khá là cao so với cơ chế giải quyết
tranh chấp bằng tòa án, thương lượng hay hòa giải.
1.3. Lược sử phát triển của trọng tài trong giải quyết tranh chấp
Người ta khơng biết chính xác phương thức trọng tài bắt đầu xuất hiện từ khi nào,
nhưng có thể khẳng định đây chính là hình thức tiền thân của việc hình thành các tịa án
sau này. Tịa Trọng tài là một trong những phương thức cổ xưa nhất để giải quyết bất hòa
giữa người với người, giữa quốc gia với quốc gia. Người Hy Lạp và La Mã cổ đại đã biết
sử dụng phương thức này để giải quyết tranh chấp. Quy định sơ khai về trọng tài trong
luật mua bán hàng hóa cho phép các lái bn được tự phân xử bất hịa của mình khơng
cần có sự can thiệp của Nhà nước. Về sau Luật La Mã cho phép mở rộng phạm vi tranh
chấp, không chỉ trong biên giới lãnh thổ, mà còn ở những nước La Mã có trao đổi hàng
hóa, có nghĩa là trải rộng trên hầu khắp lục địa Châu Âu.
Trong hệ thống luật của Anh, văn bản pháp luật đầu tiên về trọng tài phải kể đến
Luật Trọng tài 1697, nhưng vào thời điểm luật được thông qua, đây đã là một phương
thức rất phổ biến (phán quyết đầu tiên của trọng tài ở Anh được đưa ra vào năm 1610).
Tuy nhiên các quy định sơ khai về trọng tài trong hệ thống luật common law thể hiện một
hạn chế cơ bản là bất cứ bên tham gia tranh chấp nào cũng có thể khước từ việc thực hiện
phán quyết của trọng tài nếu thấy phán quyết đó bất lợi cho mình. Hạn chế này đã được
khắc phục trong Luật năm 1697.
Trong Hiệp ước Jay năm 1794, Anh và Mỹ đã thống nhất đưa các vấn đề còn đang
tranh chấp liên quan đến các khoản nợ và biên giới ra giải quyết ở trọng tài. Việc giải
quyết tranh chấp này kéo dài 7 năm, và được coi là kết thúc thành công.
Từ đầu thế kỷ XX, các nước (trong đó có Pháp và Mỹ) bắt đầu thông qua các đạo
luật quy định và khuyến khích việc phân xử ở cấp trọng tài thay cho kiện tụng ở tòa án
vốn được cho là kém hiệu quả hơn.
16


Trước sự phát triển mạnh mẽ của thương mại thế giới, phương thức giải quyết tranh

chấp bằng trọng tài cũng phát triển, dẫn tới việc hình thành những tổ chức trọng tài quốc
tế để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong các hợp đồng thương mại quốc tế.
Tầm quan trọng của việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài ngày càng được thừa
nhận rộng rãi, đặc biệt là trong các thập kỷ gần đây. Các quốc gia sửa đổi luật pháp về
trọng tài cho phù hợp với tình hình thực tế; các điều ước quốc tế về trọng tài đang có
thêm những thành viên mới; trọng tài trở thành một mơn học trong chương trình đào tạo
ngành luật; các doanh nghiệp ngày càng tin tưởng vào một phương thức giải quyết tranh
chấp linh hoạt, công bằng, với phán quyết được công nhận rộng rãi trên phạm vi thế giới.
Ở Việt Nam, trọng tài đã xuất hiện từ thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa vào những năm
đầu của thập kỷ 60 của thế kỷ XX dưới tên gọi là “trọng tài kinh tế”. Trọng tài kinh tế khi
đó có những đặc trưng phản án sự vận hành của cơ chế kinh tế kế hoạch hóa, vừa mang
chức năng quản lý và chức năng giải quyết tranh chấp; do đó, trọng tài kinh tế ở Việt
Nam thời đó khơng phải là tổ chức trọng tài theo đúng nghĩa. Chính sách Đổi mới đã dẫn
đến sự phát triển kinh tế thị trường, xây dựng nhà nước pháp quyền dẫn tới sự chấm dứt
tồn tại của một số định chế đặc trưng cho kế hoạch hóa, trong đó có hợp đồng kinh tế và
trọng tài kinh tế. Sự phát triển của kinh tế thị trường đã dẫn đến nhu cầu thành lập các
trung tâm trọng tài đúng nghĩa (phi Chính phủ) ở Việt Nam. Hiện nay ở Việt Nam có 7
trung tâm trọng tài kinh tế đang hoạt động (ACIAC, VIAC, HCM CAC, HCAC, CCAC,
PIAC. VID.ARCE).

17


KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Qua những nghiên cứu tại chương 1, nhóm nghiên cứu rút ra một số kết luận:
Một là, Việc nghiên cứu vấn đề về pháp luật trọng tài luôn được nhiều nhà khoa học
pháp lý quan tâm và trên thực tế, đã có một số bài viết và một số cơng trình nghiên cứu ở
cấp độ khác nhau về giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại. Tuy
nhiên, các cơng trình, bài viết nêu trên mới chỉ đề cập một cách khái quát mà chưa đề cập
chuyên sâu về vai trò của phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài

thương mại. Vì thế, Với mong muốn được bàn luận chuyên sâu, góp phần hoàn thiện
pháp luật Trọng Tài ở Việt Nam, câu hỏi nghiên cứu và nhiệm vụ đặt ra là cần thiết vể có
nghiên cứu mới kế thừa, phát triển và tập hợp những cơng trình đã có để vấn đề nghiên
cứu đầy đủ và có tính chun sâu về giải quyết tranh chấp thương mại bằng trong tài
thương mại.
Hai là, việc hiểu được khái niệm, đặc điểm và nhận dạng được loại tranh chấp
thương mại thông qua các cơ sở lý luận là một tiền đề quan trọng để đi sâu vào nghiên
cứu các nội dung cơ bản về vai trò của phương thức giải quyết tranh chấp thương mại
bằng hình thức Trọng tài như: Khái niệm, các hình thức Trọng tài, các nguyên tắc giải
quyết tranh chấp giải quyết tranh chấp thương mại bằng Trọng tài. Qua đó để có những
tiền đề cơ bản nghiên cứu sâu về thực trạng pháp luật và thực tiễn pháp luật áp dụng
phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và hướng tới hồn thiện pháp luật về xử
lí tranh chấp thương mại bằng hình thức trọng tài.
Ba là, từ lược sử phát triển của trọng tài trong giải quyết TCTM bài tiểu luận với
mong muốn đưa ra cái nhìn hồn thiện về quá trình chuyển biến biến thay đổi, các tư
tưởng, quan điểm chính trị các quốc gia trên thế giới và Việt Nam nói riêng về vấn đề giải
quyết TCTM của TTTM cụ thể là vai trò của phương thức giải quyết tranh chấp thương
mại bằng Trọng tài thương mại hiện nay. Từ đó, có những đánh giá, đề xuất phù hợp
trong hồn thiện và nâng cao vai trị của phương thức giải quyết tranh chấp thương mại
bằng Trọng tài thương mại.

18


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC
QUAN HỆ PHÁP LUẬT VỀ VAI TRÒ CỦA PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
2.1 Thực trạng pháp luật về phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng
Trọng tài thương mại
Năm 2003, Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Trọng tài thương mại, đến năm 2010

ban hành Luật Trọng tài thương mại. Triển khai Luật, ngày 20/3/2014, Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP ngày
20/03/2014 hướng dẫn thi hành một số quy định Luật Trọng tài thương mại.
Luật Trọng tài thương mại năm 2010 đã có những quy định về phương thức giải
quyết tranh chấp bằng Trọng tài thương mại nhưng hiện nay sau nhiều năm áp dụng thì
Trọng tài thương mại vẫn là hình thức giải quyết tranh chấp rất mới mẻ và xa lạ với các
bên trong tranh chấp thương mại. Có rất nhiều lí do làm cho hoạt động giải quyết tranh
chấp Trọng tài thương mại không được phổ biến. Một trong những lí do cần kể đến đầu
tiên đó là những quy định của Luật Trọng tài thương mại chưa thực sự được hoàn thiện,
dẫn đến những tâm lý e ngại, không mạnh dạn lựa chọn Trọng tài thương mại để giải
quyết tranh chấp của các bên trong tranh chấp thương mại. Cụ thể, những hạn chế của
quy định pháp luật Trọng tài thương mại thể hiện ở một số điểm sau:
Thứ nhất, liên quan đến địa điểm tiến hành trọng tài. Trong các vụ việc liên quan
đến trọng tài quốc tế, việc lựa chọn địa điểm tiến hành trọng tài đồng nghĩa với việc lựa
chọn luật của quốc gia nơi tiến hành trọng tài. Đây là điều mà Luật Trọng tài thương mại
chưa xác định rõ.
Thứ hai, lý do hủy quyết định trọng tài thường ở dạng “trừu tượng” nên nguy cơ
một bên yêu cầu Tòa án can thiệp để làm chậm việc thi hành quyết định trọng tài vì trong
khi xem xét hủy phán quyết trọng tài thì phán quyết này không thể được thi hành. Một
trong những mục đích ban hành Luật Trọng tài thương mại là hạn chế việc hủy phán
quyết trọng tài. Điều 68 Luật Trọng tài thương mại về Căn cứ hủy phán quyết trọng tài
19


quy định: “Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”.
Phạm trù “nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt nam” là quá chung chung, khơng rõ ràng.
Vì vậy, việc áp dụng tùy tiện Điều 68 Luật Trọng tài thương mại là không thể tránh khỏi,
dẫn đến nguy cơ phán quyết trọng tài bị hủy là rất cao2.
Thứ ba, thể chế về tổ chức, hoạt động trọng tài mặc dù đã từng bước được hoàn
thiện, tuy nhiên giữa quy định của pháp luật về TTTM với quy định của một số lĩnh vực

pháp luật khác vẫn chưa đồng bộ; một số nội dung chưa thống nhất; chưa có cơ chế hữu
hiệu để giám sát việc hủy phán quyết trọng tài của cơ quan tòa án.
Thứ tư, về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của trọng tài viên trong việc áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời. Theo quy định của Luật Trọng tài thương mai, trong trường
hợp Hội đồng trọng tài áp dụng biện pháp khẩn cấp khác hoặc vượt quá yêu cầu áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời của bên yêu cầu mà gây ra thiệt hại cho bên bị áp dụng hoặc
người thứ ba thì người bị thiệt hại có quyền khởi kiện ra Tòa án để yêu cầu giải quyết bồi
thường thiệt hại theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. Từ “khác” ở đây được sử
dụng khơng rõ ràng, có nhiều cách hiểu khác nhau về từ ngữ này. Có thể là “khác với yêu
cầu của đương sự”, nhưng cũng có thể hiểu là “khác so với quy định của pháp luật”.
Chính vì sự khơng rõ ràng này nên thực tế đã dẫn đến nảy sinh một vụ kiện đòi bồi
thường thiệt hại đối với Hội đồng trọng tài3.
Thứ năm, quy định về sự hỗ trợ của Tòa án trong giải quyết tranh chấp. Luật Trọng
tài thương mại chưa quy định biện pháp chế tài xử lý đối với cá nhân không chấp hành
quyết định của Tòa án trong việc thu thập chứng cứ và triệu tập người làm chứng. Hai
hoạt động này là sự hỗ trợ đáng kể của Tòa án đối với Hội đồng trọng tài, vì nếu khơng
có sực giúp sức của cơ quan cơng quyền này, Hội đồng trọng tài khó có thể thực hiện tốt
nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên, sự hỗ trợ của Tòa án chỉ dừng lại ở mức độ là văn bản gửi
các cá nhân, tổ chức có liên quan mà chưa có chế tài rõ ràng đối với cá nhân, tổ chức
2 Dương Quỳnh Hoa – TS. Viện Nhà nước và Pháp luật: Luật Trọng tài thương mại 2010: Những bất cập và kiến nghị
hoàn thiện, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 20(372) T10/2018
3 Theo LS. Nguyễn Mạnh Dũng tại Hội thảo về “Trọng tài quốc tế vì thị trường phát triển bền vững và thượng tôn
pháp luật” do Trường Đại học Việt Nhật tổ chức ngày 4/8/2017 tại Hà Nội.

20


khơng thực hiện u cầu của Tịa án. Trong Bộ luật Tố tụng Dân sự cũng không quy định
về vấn đề này, mà chỉ quy định “Thủ tục giải quyết yêu cầu liên quan đến hoạt động
Trọng tài thương mại Việt Nam”. Đây thật sự là bất cập khiến cho việc giải quyết tranh

chấp bằng con đường trọng tài gặp khó khăn do bị trì hỗn.
Thứ sáu, quy định về tiêu chuẩn của Trọng tài viên. Tại điểm c khoản 1 Điều 20
Luật Trọng tài thương mại: “Trong trường hợp đặc biệt, chun gia có trình độ chun
mơn cao và có nhiều kinh nghiệm thực tiễn, tuy khơng đáp ứng được yêu cầu nêu tại
điểm b khoản này, cũng có thể được chọn làm Trọng tài viên”. Trong khi đó, Trọng tài
viên là các cá nhân được các bên tin tưởng giao cho việc giải quyết vụ tranh chấp. Với
vai trò đặc biệt quan trọng này, các bên phải lựa chọn kỹ càng; Uy tín, chất lượng chun
mơn của Trọng tài viên hoàn toàn do các bên thẩm định. Do vậy, việc quy định tiêu chuẩn
về chuyên môn của Trọng tài viên như vậy là vừa thừa vừa hạn chế cơ hội đối với số cá
nhân được trở thành Trọng tài viên, đi ngược lại mong muốn của các bên trong giải quyết
tranh chấp. Mặt khác, Luật hiện hành cũng chưa có quy định cụ thể về việc cơng nhận
Trọng tài viên4.
2.2 Thực tiễn áp dụng
Triển khai thi hành Luật Trọng tài thương mại, các trung tâm trọng tài của Việt Nam
đã từng bước được củng cố, kiện toàn về tổ chức và hoạt động. Tính đến năm 2018, nước
ta có 22 trung tâm Trọng tài thương mại, trong đó “thâm niên” nhất là Trung tâm Trọng
tài quốc tế Việt Nam (VIAC) bên cạnh Phịng Thương mại và Cơng nghiệp Việt Nam
được thành lập năm 1993 (Bộ Tư pháp, 2018).
2.2.1 Ưu điểm
Những năm gần đây, số vụ việc tranh chấp được giải quyết ở các trung tâm trọng
tài cũng ngày càng tăng, điển hình như ở VIAC: Năm 2019, VIAC đã thụ lý 274 vụ tranh
chấp, tăng 52,2% so với tổng số vụ tranh chấp được thụ lý trong năm 2018, trong đó,
tranh chấp trong nước là 231 vụ, chiếm 84,3%, tranh chấp có yếu tố nước ngồi là 43 vụ,
4 ThS. Lê Văn Sua: Một số bất cập quy định của Luật Trọng tài thương mại năm 2010, kiến nghị hồn thiện; Cổng
thơng tin điện tử Bộ Tư pháp ngày 7/12/2015

21


chiếm 15,7%; tổng trị giá tranh chấp (bao gồm cả trị giá đơn kiện lại) gần 7,3 nghìn tỷ

đồng, trị giá bình quân 1 vụ 26,9 tỷ đồng. Các tranh chấp về mua bán chiến 44%, bất
động sản chiếm 20%, dịch vụ chiếm 15% và các tranh chấp khác thuộc về các lĩnh vực
như: Xây dựng, bảo hiểm, logistics, tài chính ngân hàng, chứng khốn, gia cơng, hàng
hải, bảo lãnh (VIAC, 2008-2020)5.
Nhìn chung, theo VIAC, lĩnh vực tranh chấp nhiều nhất trong thời gian qua đang có
sự dịch chuyển nhất định. Nếu như trong giai đoạn đầu hoạt động của VIAC, gần như
100% tranh chấp được xử lý đều là các hợp đồng mua bán hàng hóa, trong đó 90% tranh
chấp có yếu tố nước ngồi, thì nay tranh chấp mua bán hàng hóa đã giảm đi, tới hết năm
2018 chỉ cịn 40%. Tuy nhiên, thay vào đó, tranh chấp thương mại gia tăng ở một số lĩnh
vực khác như: xây dựng, bảo hiểm, tài chính, ngân hàng. Các tranh chấp được xử lý tại
VIAC diễn ra giữa các đối tác, doanh nghiệp đến từ 60 quốc gia, vùng lãnh thổ và 53/63
tỉnh thành. Những ưu điểm khi giải quyết tranh chấp bằng trọng tài có thể nhắc đến như:
Thứ nhất, do hình thức này có thủ tục tiện lợi, linh hoạt và nhanh chóng. Khi giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài các bên được tự do lựa chọn thủ tục tố tụng. Thủ tục tố
tụng trọng tài cũng đơn giản hơn so với thủ tục tố tụng tại tòa án. Giải quyết bằng trọng
tài, trong một số trường hợp, các bên có thể định ra cả ngun tắc, trình tự, thủ tục trọng
tài.
Thứ hai, phán quyết của trọng tài thường chính xác, khách quan và có độ tin cậy
cao. Vì các bên được quyền tự chọn lựa trọng tài viên, nên các trọng tài viên thường là
những chuyên gia giàu kinh nghiệm và am hiểu sâu sắc về các lĩnh vực chuyên môn.
Đồng thời, quyết định của trọng tài dường như khơng bị chi phối bởi yếu tố chính trị. Vì
thế, nó sẽ mang tính khách quan hơn phán quyết của tòa án.
Thứ ba, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài ln có khả năng giữ bí mật rất cao.
Đối với các bên tham gia hợp đồng thương mại quốc tế, việc giữ bí mật các vụ kiện là rất
quan trọng. Bởi bí mật nghề nghiệp, uy tín trên thương thường có ý nghĩa sống cịn đối
5 TS. Lê Cương Kiên, Trường Đại học Trưng Vương: Phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh bằng Trọng tài
thương mại trong hội nhập kinh tế quốc tế

22



với mỗi doanh nghiệp. Đặc biệt, là những bí mật liên quan đến bí quyết cơng nghệ, chất
lượng sản phẩm, bí quyết kinh doanh… Nếu những bí mật này bị tiết lộ, sẽ ảnh hưởng
trực tiếp đến hoạt động kinh doanh trong tương lai của họ. Vì thế, khi tranh chấp xảy ra,
mặc nhiên những bí mật đó có thể bị tiết lộ, nhất là khi giải quyết tại tòa án bởi ngun
tắc xét xử tại tịa án là cơng khai. Khác với nguyên tắc xét xử công khai tại tòa án, trọng
tài lại hoạt động theo nguyên tắc xét xử kín, các quyết định của trọng tài khơng được
cơng khai, nếu không được sự đồng ý của các bên.
2.2.2 Hạn chế, tồn tại, bất cập
Mặc dù, số vụ tranh chấp được giải quyết qua Trọng tài thương mại đã gia tăng
trong những năm gần đây nhưng nhìn chung, tổng số vụ việc mà các trung tâm Trọng tài
thương mại tại Việt Nam giải quyết được hàng năm vẫn còn khiêm tốn so với khối lượng
tranh chấp thương mại rất lớn mà ngành Tòa án phải xử lý. Cụ thể, số vụ việc giải quyết
tại VIAC chưa tới 1% số vụ việc được giải quyết tại Tòa án 6. Nguyên nhân của vấn đề
này có thể chỉ ra ở một số nội dung sau:
Thứ nhất, phần lớn các tranh chấp được giải quyết bằng phương pháp trọng tài ở
Việt Nam tính đến thời điểm hiện tại chủ yếu có yếu tố nước ngoài. Các nhà đầu tư nước
ngoài phải bỏ ra chi phí khá lớn để thuê luật sư, chuyên gia am hiểu về lĩnh vực tranh
chấp và pháp luật Việt Nam. Hơn nữa, kết quả giải quyết tranh chấp căn cứ pháp luật Việt
Nam cũng khó để các bên cơng nhận, dẫn đến hệ quả họ có thể kiện các cơ quan tài phán
quốc tế, điều này sẽ ảnh hưởng đến điều kiện phát triển kinh tế của Việt Nam và quan hệ
giao thương của các doanh nhân nước ta nói riêng.
Thứ hai, trọng tài là tổ chức phi chính phủ nên phán quyết của trọng tài khơng nhân
danh Nhà nước, điều này có lẽ sẽ là lỗ hổng về sự vô tư của Trọng tài viên khi ra phán
quyết. Các nhà kinh doanh chưa thật sự tin tưởng khi lựa chọn trọng tài, bởi họ chưa tin
tưởng vào tính độc lập, vơ tư, khách quan của Trọng tài viên. Vì lý do nào đó mà Trọng
tài viên đưa ra phán quyết sai, khơng khách quan thì họ khơng biết phải dựa vào cơ chế
6 TS. Lê Cương Kiên, Trường Đại học Trưng Vương: Phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh bằng Trọng tài
thương mại trong hội nhập kinh tế quốc tế


23


nào để bảo vệ quyền lợi của chính mình ngồi việc khơng thi hành phán quyết đó và khởi
kiện tại Tòa kinh tế thuộc Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương 7.
Thứ ba, theo quy định của pháp luật Việt Nam, với phán quyết của trọng tài trong
nước được thi hành ngay nhưng phán quyết của trọng tài nước ngồi phải thơng qua thủ
tục cơng nhận tại Tịa án thì cơ quan thi hành án mới tổ chức thi hành. Như vậy, theo quy
định này thì giữa phán quyết trọng tài trong nước với phán quyết trọng tài nước ngồi
chưa thật sự “bình đẳng”.
Thứ tư, do không phải là cơ quan nhà nước nên hoạt động của Trọng tài thương mại
khơng mang tính quyền lực, điều này gây khơng ít khó khăn cho Trọng tài viên khi giải
quyết tranh chấp cũng như khó khăn cho các thương nhân khi yêu cầu việc công nhận và
cho thi hành phán quyết của trọng tài. Hơn nữa, số lượng Trọng tài viên còn quá khiêm
tốn, cơ sở vật chất trang bị đầu tư chưa tương xứng, kỹ năng giải quyết các tranh chấp
chưa mang tính chuyên nghiệp… Mặt khác, đa số các doanh nhân nước ta chưa thật sự
thông hiểu đầy đủ về pháp luật trọng tài, chưa thấy hết tính ưu việt của phương thức giải
quyết này.
Thứ năm, số lượng trung tâm trọng tài ở nước ta được thành lập tương đối nhiều so
với các nước trong khu vực và trên thế giới. Trong khi đó, cơ sở vật chất của phần lớn các
trung tâm trọng tài chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu để phục vụ cho hoạt động của các trọng
tài viên; công tác quản lý, điều hành của một số trung tâm cịn thiếu tính chuyên nghiệp,
chưa hiệu quả8.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Từ những nghiên cứu tại chương 2, nhóm nghiên cứu rút ra một số kết luận:
7 ThS. Lê Văn Sua: Một số bất cập quy định của Luật Trọng tài thương mại năm 2010, kiến nghị hồn thiện; Cổng
thơng tin điện tử Bộ Tư pháp ngày 7/12/2015
8 TS. Lê Cương Kiên, Trường Đại học Trưng Vương: Phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh bằng Trọng tài
thương mại trong hội nhập kinh tế quốc tế


24


Một là, Luật Trọng tài thương mại năm 2010 đã có những quy định về phương
thức giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài thương mại nhưng hiện nay sau nhiều năm áp
dụng thì Trọng tài thương mại vẫn là hình thức giải quyết tranh chấp rất mới mẻ và xa lạ
với các bên trong tranh chấp thương mại. Có rất nhiều lí do làm cho hoạt động giải quyết
tranh chấp Trọng tài thương mại không được phổ biến. Một trong những lí do cần kể đến
đầu tiên đó là những quy định của Luật Trọng tài thương mại chưa thực sự được hoàn
thiện, dẫn đến những tâm lý e ngại, không mạnh dạn lựa chọn Trọng tài thương mại để
giải quyết tranh chấp của các bên trong tranh chấp thương mại
Hai là, bức tranh về trọng tài thương mại tại Việt Nam vẫn chưa thật sự khởi
sắc do vẫn còn rất nhiều hạn chế, bất cập. Ưu điểm của phương thức giải quyết này có thể
kể đến như: thủ tục tiện lợi, linh hoạt và nhanh chóng; phán quyết của trọng tài thường
chính xác, khách quan và có độ tin cậy cao; giải quyết tranh chấp bằng trọng tài luôn có
khả năng giữ bí mật rất cao. Trái lại, phương thức này cũng có nhiều bất cập. Nguyên
nhân là do những quy định của pháp luât hiện hành còn nhiều thiếu sót, chồng chéo, chưa
rõ ràng cụ thể. Luật trọng tài thương mại năm 2010 mặc dù đáp ứng phần nào yêu cầu
thực tế song sau một thời gian đi vào hoạt động đã bộc lộ nhiều thiếu sót, bất hợp lý.
Chưa kể, thói quen, tập quán của thương nhân Việt Nam tin tưởng tòa án hơn trọng tài.
Hơn nữa, trình độ trọng tài viên ở Việt Nam đều là những người kiêm nhiệm trong lĩnh
vực thương mại. Cho nên, một số trọng tài viên còn chưa chuyên nghiệp. Trong khi đó,
các tranh chấp thương mại ngày càng phức tạp, nhất là tranh chấp có yếu tố nước ngồi.
Để hội nhập vào nền kinh tế thế giới một cách nhanh chóng và bền vững, Việt Nam cần
từng bước hồn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về trọng tài nói riêng cho
phù hợp với xu thế phát triển chung của thế giới.

25



×