Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

BIẾN ĐỔI CỦA VĂN HÓA VIỆT NAM TRONG GIAO LƯU TIẾP BIẾN VĂN HÓA NHẬT BẢN VÀO THẾ KỶ XX ĐẾN NA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.91 KB, 26 trang )

MỤC LỤC


BIẾN ĐỔI CỦA VĂN HÓA VIỆT NAM TRONG GIAO LƯU TIẾP BIẾN
VĂN HÓA NHẬT BẢN VÀO CUỐI THẾ KỶ XX ĐẾN NAY
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sự tiếp xúc, giao thoa giữa các nền văn hố ln ln diễn ra trong q
trình phát triển của nhân loại. Đó là một nhu cầu tất yếu, một quy luật của phát
triển. Trong q trình giao thoa văn hóa, có thể xảy ra hiện tượng các yếu tố của
nền văn hoá này thâm nhập vào nền văn hoá kia hoặc nền văn hóa này vay
mượn các yếu tố của nền văn hố kia rồi cải biến điều chỉnh cho phù hợp dẫn
đến sự tiếp biến văn hóa. Việt Nam cũng khơng ngoại lệ. Sự tiếp xúc giao thoa
giữa văn hóa Việt Nam với văn hóa nhân loại, đặc biệt là với văn hóa Nhật Bản
đã diễn ra mạnh mẽ vào thế kỉ XX đến nay. Sự tác động của Nhật Bản đối với
đất nước Việt Nam lần này được khởi đầu bởi những âm vang về chính trị.
Trong bối cảnh Việt Nam bị ách thống trị của thực dân Pháp, nhiều sĩ phu u
nước Việt Nam đang dị tìm con đường cứu dân tộc khỏi ách ngoại xâm thì hình
ảnh một nước Nhật "phú quốc cường binh" thật là có sức hấp dẫn. Đối với họ,
Nhật Bản là dân tộc cũng có điều kiện giống với Việt Nam nhưng do tiến hành
duy tân khai hóa, tiếp nhận văn minh kỹ thuật Âu Mỹ nên đã chẳng những
không bị nạn ngoại xâm phương Tây mà còn trở thành một quốc gia hùng mạnh
đánh bại cả đế quốc Nga "da trắng”. Nhiều người nuôi niềm hy vọng có thể dựa
vào Nhật như dựa vào vị cứu tinh của các dân tộc "da vàng" để đánh đuổi thực
dân Pháp. Do đó, nhân dân ta tuỳ nơi tuỳ lúc có thể tiếp nhận hoặc chống đối.
Nhưng cuối cùng là sự lựa chọn những tinh hoa văn hóa nhân loại rồi cải biến
cho phù hợp với tâm thức và mỹ cảm văn hóa của người Việt Nam. Đó chính là
q trình hội nhập để bổ xung những yếu tố mới tiến bộ, hiện đại vào nền văn
hóa truyền thống, làm giàu đẹp hơn, phong phú hơn, hiện đại hơn nền văn hóa
dân tộc trong điều kiện lịch sử mới. Không chỉ vậy, trong những năm gần đây,
cùng với xu thế tồn cầu hóa, các nước trên thế giới đang nỗ lực tăng cường


quan hệ hợp tác, liên kết với nhau nhằm duy trì hịa bình, ổn định và cùng nhau
phát triển, Việt Nam cũng khơng nằm ngồi xu thế chung ấy mà mối quan hệ
hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và Nhật Bản là một điển hình. Nhiều giá trị của
văn hóa Nhật Bản đã đi vào đời sống văn hóa hàng ngày của người Việt Nam
góp phần làm phong phú và đa dạng thêm đời sống văn hóa Việt Nam đương
đại. Bởi những lý do đó nên tơi đã lựa chọn đề tài tiểu luận của bản thân là:
“BIẾN ĐỔI CỦA VĂN HÓA VIỆT NAM TRONG GIAO LƯU TIẾP BIẾN


VĂN HÓA NHẬT BẢN VÀO THẾ KỶ XX ĐẾN NAY”.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Tiểu luận làm rõ, phân tích về văn hóa vật chất và tinh thần của Nhật
Bản. Từ đó nêu ra những biến đổi tích cực và tiêu cực của văn hóa Việt Nam
trong giao lưu tiếp biến văn hóa Nhật Bản và nêu ra một số phương hướng, giải
pháp để phát huy những biến đổi tiêu cực và hạn chế những biến đổi tích cực.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích bối cảnh của sự biến đổi văn hóa Việt Nam trong giao lưu tiếp
biến văn hóa Nhật Bản vào thế kỷ XX đến nay
- Làm rõ những nét đặc trưng trong văn hóa Nhật Bản, về mặt vật chất, tinh
thần
- Phân tích sự ảnh hưởng, biến đổi của văn hóa Việt Nam trong giao lưu
tiếp biến văn hóa Nhật Bản vào thế kỷ XX đến nay
- Đưa ra những phương hướng, giải pháp để phát huy những biến đổi tiêu
cực và hạn chế những biến đổi tích cực.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng tượng nghiên cứu
Biến đổi của văn hóa Việt Nam trong q trình giao lưu tiếp biến văn hóa
Nhật Bản từ thế kỷ XX đến nay
3.2. Phạm vi nghiên cứu

Tiểu luận chỉ tập trung làm rõ biến đổi của văn hóa Việt Nam trong q
trình giao lưu tiếp biến văn hóa Nhật Bản trong khoảng thời gian từ thế kỷ XX
đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp cụ thể chủ yếu được sử dụng trong luận văn là: lịch sử và
logic; phân tích và tổng hợp, phương pháp quan sát xã hội…
5. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn
5.1. Ý nghĩa lý luận
Tiểu luận góp phần làm rõ nội dung biến đổi của văn hóa Việt Nam trong
giao lưu tiếp biến văn hóa Nhật Bản vào thế kỷ XX đến nay.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn
Từ đề tài này người thực hiện có thể khái quát hơn những kiến thức về
biến đổi của văn hóa Việt Nam trong giao lưu tiếp biến văn hóa Nhật Bản vào
thế kỷ XX đến nay.
6. Cấu trúc tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, tiểu luận gồm


4 chương, 22 tiết.


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: BỐI CẢNH VÀ HÌNH THỨC GIAO LƯU TIẾP BIẾN VĂN
HÓA VIỆT NAM VÀ VĂN HÓA NHẬT BẢN TỪ THẾ KỶ XX ĐẾN NAY
1.1. Bối cảnh giao lưu tiếp biến văn hóa Việt Nam và văn hóa Nhật Bản hiện
nay
1.1.1. Thời gian
Có thể coi những năm đầu thế kỷ XX là một giai đoạn giao lưu văn hóa
rất tốt đẹp giữa hai dân tộc Nhật – Việt. Với Đông Kinh Nghĩa thục của Phan
Bội Châu, việc đề cao dân trí bằng giáo dục mà Nhật Bản là mẫu hình đã được

chú ý tại Việt Nam. Đáng tiếc là do sự cam kết tôn trọng đặc quyền của Pháp ở
Đơng Dương nên sau đó chính phủ Nhật Bản đã gây áp lực với cụ Phan Bội
Châu và các học sinh Việt Nam, buộc họ phải rời Nhật Bản. Đến năm 1909,
phong trào Đông Du coi như bị chấm dứt. Những năm sau đó quan hệ giữa hai
nước trở nên rất mờ nhạt biểu hiện trên lĩnh vực thương mại với lượng kim
ngạch ít ỏi, cho dù Chính phủ Nhật Bản có mở tịa lãnh sự tại Hải Phịng năm
1920 và tại Sài gòn vào năm 1921.
Đến những năm 30 của thế kỷ XX, Nhật Bản phát động cuộc chiến tranh
Đại Đơng Á dưới danh nghĩa giải phóng các dân tộc Châu Á thoát khỏi ách
thống trị của thực dân phương Tây nhưng thực chất là nhằm thơn tính những
nước này. Sau khi xâm chiếm một loạt các nước Châu Á, tháng 9 năm 1040
Nhật Bản đã tiến vào Việt Nam, mở đầu một giai đoạn xấu nhất trong lịch sử
quan hệ giữa hai nước. Trong những tháng năm có mặt tại Việt Nam, chính
quyền phát xít Nhật cũng đã thực hiện chính sách truyền bá văn hóa Nhật Bản.
Tại Hà Nội, Sài Gịn và các đơ thị lớn, người ta bắt đầu được nghe các từ như
“võ sĩ đạo”, “trà đạo”, “nghệ thuật cắm hoa”. Chính quyền thống trị Nhật Bản
cịn tài trợ cho nhiều tờ báo như Đơng Dương tạp chí, Tạp chí Tây Á.. cùng với
việc lơi kéo những nghệ sĩ người Việt làm bồi bút cho bọn phát xít quân phiệt.
Bằng những việc làm như vậy bên cạnh những kết quả tun truyền có tính nơ
dịch, văn hóa Nhật Bản cũng đã hiện diện tại Việt Nam ở một mức độ nhất định.
Đáng chú ý là trong giai đoạn này đã có một số thanh niên Việt Nam (khoảng 20
người) được đưa sang Nhật để du học. Ngược lại cũng có một số thanh niên
Nhật Bản được đưa sang học tiếng Việt tại Việt Nam. Phía Nhật Bản còn mở
trường Nam Dương học viện (Nan’yo Gakuin) ở Sài gòn để đào tạo những
thanh niên Nhật Bản hoạt động trên lĩnh vực thương mại và kinh doanh ở Đơng
Dương và Đơng Nam Á. Có thể nói, việc giao lưu học tập này là để phục vụ


mục đích thống trị lâu dài của chính quyền quân Phiệt Nhật Bản ở Việt Nam và
Đơng Dương nói chung. Tuy nhiên, tháng Tám năm 1945, phát xít Nhật đã bại

trận phải tuyên bố đầu hàng quân Đồng minh vô điều kiện. Tại Việt Nam, cuộc
Cách mạng tháng Tám do Đảng Lao động Việt Nam lãnh đạo đã dẫn tới sự ra
đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đem lại chính quyền về tay nhân dân
lao động. Nhiều tri thức Việt Nam - sản phẩm của quá trình đào tạo trong giai
đoạn Nhật chiếm đóng đã trở thành những người có cống hiến to lớn cho sự
nghiệp khơi phục và xây dựng kinh tế và văn hóa của đất nước, đóng góp rất
tích cực cho việc hàn gắn, phát triển nhịp cầu hữu nghị giữa hai dân tộc trong
thời kỳ sau đó như Tiến sĩ Lương Đình Của, Bác sĩ Đặng Văn Ngữ, Tiến sĩ
Nguyễn Xuân Oánh…
Năm 1945 đã khép lại một giai đoạn đen tối nhất trong quan hệ giữa hai
nước để bước vào một thời kỳ mới với những giai đoạn phát triển quan hệ giữa
hai nước mang những đặc thù khác nhau. Như chúng ta biết, tháng Tám năm
1945 nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa ra đời, sau đó khơng lâu Việt Nam bị
chia cắt thành hai miền : miền Nam và miền Bắc. Miền Bắc với chính quyền
Việt Nam Dân chủ Cộng hịa đã tiến hành công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã
hội; miền Nam thuộc chính quyền Việt Nam Cộng hịa - chính quyền do Đế
quốc Mỹ dựng lên và hậu thuẫn. Cả hai miền bước vào những tháng năm chiến
tranh khốc liệt nhất như một trong những tâm điểm của vòng xốy Chiến tranh
Lạnh trên phạm vi tồn cầu giữa hai phe, một bên là Tư bản chủ nghĩa do Mỹ
đứng đầu và một bên là Xã hội chủ nghĩa do Liên xô làm trụ cột. Do bị ràng
buộc với Mỹ, đặc biệt là bởi “Hiệp ước an ninh Nhật – Mỹ”, chính sách đối
ngoại của Nhật Bản hồn tồn lệ thuộc vào chiến lược tồn cầu của Mỹ. Cũng
vì vậy, Nhật Bản đã đứng về phía Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ
tại Việt Nam, cơng nhận chính quyền Sài Gòn và chia sẻ trách nhiệm cùng với
Mỹ giúp chính quyền Sài Gịn đứng vững. Quan hệ văn hóa Việt - Nhật trong
thời kỳ này chủ yếu thể hiện ở quan hệ giữa Nhật Bản và Chính quyền Việt
Nam Cộng hịa. Tính cho đến ngày chính quyền bù nhìn này sụp đổ, Nhật Bản
trở thành một trong những nước viện trợ ODA nhiều nhất. Trên cơ sở mối quan
hệ kinh tế đó đó, văn hóa Nhật Bản đã có sự ảnh hưởng nhất định tại miền Nam
Việt Nam trong giai đoạn này. Đáng chú là vào thời điểm cuộc chiến tranh ở

miền Nam trở lên khốc liệt nhất (năm 1974-1975) đã có nhiều (khoảng 1000
người) thanh niên tại nửa miền đất nước này sang Nhật Bản du học. Phần lớn
trong số họ là những học sinh tự túc. Nhiều người trong đó đã tham gia phong
trào sinh viên Việt Nam tại Nhật để đấu tranh địi hịa bình và thống nhất đất
nước. Sau khi chiến tranh kết thúc, một số đã trở về góp phần đắc lực vào công


cuộc xây dựng tổ quốc, một số ở lại Nhật Bản làm việc đóng vai trị quan trọng
cho nhịp cầu hữu nghị Nhật - Việt. Cũng trong thời gian nói trên đã có một số
sách báo của Nhật như văn học, triết học, lịch sử, tơn giáo, văn hóa và một số
lĩnh vực khác được dịch sang tiếng Việt và phổ biến với số lượng đáng kể tại
nửa miền đất nước.
Quan hệ của Nhật Bản với chính quyền Bắc Việt Nam mãi tới những năm
1970 mới được khai thông mở đầu bằng cuộc gặp khơng chính thức giữa hai
bên vào năm 1971. Tuy nhiên, cho đến trước khi Việt Nam thống nhất vào năm
1975, quan hệ này chỉ diễn ra chủ yếu trên lĩnh vực kinh tế; quan hệ văn hóa
hầu như mờ nhạt. Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, so với lượng khá đông sinh
viên Việt Nam lưu học tại Nhật thì chỉ có một số rất ít sinh viên người Nhật có
trình độ đại học và sau đại học đến lưu học tại Việt Nam. Sự thống nhất của Việt
Nam năm 1975 đã mở sang một giai đoạn mới trong lịch sử quan hệ văn hoá
Việt Nam – Nhật Bản. Tuy nhiên kể từ đó đến nay, cũng giống trong các lĩnh
vực khác, quan hệ văn hóa giữa hai nước có những giai đoạn phát triển khác
nhau với những bước thăng trầm nhất định.
Đáng chú ý là từ năm 1986, trong bối cảnh Việt Nam bắt đầu tiến hành
cơng cuộc "đổi mới", Việt Nam và Nhật Bản có những động thái gia tăng quan
hệ trở lại. Các dự án viện trợ của Nhật Bản cho các hoạt động giao lưu văn hoá
hai nước lúc này tuy chưa nhiều nhưng đã tạo ra những ấn tượng rất tốt đẹp về
Nhật Bản trong nhân dân Việt Nam. Tuy nhiên thực tế cho thấy, cho đến giai
đoạn này sự hiểu biết về Nhật Bản nói chung và văn hóa Nhật Bản nói riêng ở
Việt Nam cịn rất hạn chế. Nhất là ở các tỉnh phía bắc, người dân chủ yếu biết

đến Nhật Bản qua những chiếc ôtô Toyota, xe máy Honda đầy ma lực bắt đầu
xuất hiện lác đác trên các đường phố của các thành phố lớn, những chiếc tủ lạnh
Hitachi vừa đẹp, vừa bền trong một số rất ít gia đình được coi là khá giả. Cịn
văn hóa Nhật Bản đối với họ vẫn là cái gì đó huyền bí, xa xơi. Tình hình đó có
ngun nhân từ chỗ đơng đảo người Việt Nam chưa có điều kiện giao lưu để
hiểu biết rõ về văn hóa Nhật Bản.
Bắt đầu từ năm 1992, quan hệ Việt Nam - Nhật Bản bước sang một giai
đoạn phát triển mới. Một trong những nguyên nhân quan trọng của việc này
xuất phát từ sự biến chuyển của cục diện chính trị thế giới, của khu vực và lợi
ích phát triển của cả hai nước. Sự tan rã của Liên bang Xô Viết, rồi của phe Xã
hội chủ nghĩa đã đánh dấu sự kết thúc Chiến tranh Lạnh trên phạm vi toàn cầu.
Các nước xã hội chủ nghĩa cịn lại đều ra sức tìm tịi những con đường phát
triển phù hợp cho riêng mình để phù hợp với tình hình mới. Từ chính sách ngoại
giao ảnh hưởng của Chiến tranh Lạnh, Việt Nam đã "đổi mới" mở rộng quan hệ


với tất cả các nước theo phương châm “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các
nước” với tinh thần “khép lại quá khứ, hướng tới tương lai”. Đối với Việt Nam,
Nhật Bản là một đầu tàu kinh tế của khu vực Châu Á, là nước có tiềm năng dồi
dào về vốn và công nghệ tiên tiến cũng như kinh nghiệm phát triển kinh tế. Đối
với Nhật Bản thì Việt Nam là một thị trường có nhiều tiềm năng về đầu tư và
thương mại. Nhật Bản rất coi trọng vị trí chiến lược của Việt Nam trong khu vực
Đơng Nam Á và nhìn ra xu thế hội nhập tất yếu của Việt Nam trong khu vực
trọng yếu này. Chính vì vậy ngay từ năm 1990, cùng với diễn biến tích cực của
tình hình Campuchia, quan hệ Việt - Nhật đã nhanh chóng thể hiện những diễn
biến phát triển trở lại, nhưng phải đến 1992 sự thay đổi trong quan hệ hai nước
mới diễn ra thực sự. Có thể nói, quan hệ hợp tác văn hoá Việt Nam và Nhật
Bản từ năm 1992 đến nay là giai đoạn diễn ra mạnh mẽ nhất và nhịp độ gia tăng
nhanh nhất kể từ trước đến nay. Do khn khổ có hạn của một bài viết, chúng
tôi chỉ điểm qua những nét chủ yếu nhất của một số lĩnh vực quan hệ văn hoá

quan trọng.
1.1.2. Khơng gian
Nhật Bản là đất nước có vùng vị trí địa lí rất gần với việc Mặt Trời mọc
buổi sáng. Theo các nghiên cứu của các nhà địa lý chỉ ra rằng: Nếu như các
nước Châu Á cùng ngắm Mặt Trời mọc, thì đứng tại Nhật Bản sẽ cho bạn nhìn
thấy Mặt Trời to nhất và rõ nhất. Chính vì thế, nước Nhật mới được gọi là đất
nước Mặt Trời mọc.
Với diện tích gần 400.000km2, trải dài từ bờ biển Okhotsk ở phía Bắc
đến phía Nam biển Đơng Hải của Trung Quốc. Phía Đơng giáp với Hàn Quốc
và Nga đã tạo cho Nhật Bản một địa thế giao thương thuận lợi. Đặc biệt, Nhật
bản cịn là đất nước có nhiều đảo nhất thế giới với hơn 6800 hòn đảo, Nước
Nhật có 4 đảo lớn theo thứ tự từ Bắc xuống Nam là: Hokkaido, Honshu,
Shikoku và Kyushu cùng hàng ngàn đảo nhỏ chung quanh và gần 3/4 lãnh thổ là
núi. Việc sở hữu số lượng đảo nhiều nhất, khiến cho diện tích đất liền quốc gia
này bị giảm sút rõ rệt. Không chỉ vậy, Nhật Bản nằm trên vành đai núi lửa với
hơn 60 ngọn núi lửa đang hoạt động, là vùng đất thường xuyên bị thảm họa
động đất, sóng thần, khí hậu chênh lệch giữa các vùng miền. Dân số hiện tại của
Nhật Bản là 126.096.196 người vào ngày 23/05/2021 theo số liệu mới nhất từ
Liên Hợp Quốc (hiện chiếm 1,60% dân số thế giới), Nhật Bản đang đứng thứ 11
trên thế giới trong bảng xếp hạng dân số các nước và vùng lãnh thổ. Với mật độ
dân số ở các thành phố lớn rất đông nhưng Nhật Bản vẫn có mức sống cao.
Mặc dù chịu nhiều thiên tai, lại rất khan hiếm tài nguyên thiên nhiên và
khoáng sản, nhưng Nhật Bản luôn là một quốc gia đứng đầu thế giới về khoa


học công nghệ, đứng thứ 2 thế giới về tổng sản phẩm nội địa và là đứng thứ 5
trên thế giới trong lĩnh vực đầu tư cho quốc phịng. Khơng chỉ vậy, Nhật Bản
còn xếp thứ 4 thế giới về xuất khẩu và đứng thứ 6 thế giới về nhập khẩu. Quốc
gia này là thành viên thường trực của Tổ chức Liên Hợp Quốc, G8, G4 và
APEC.



CHƯƠNG 2: ĐẶC TRƯNG VĂN HĨA NHẬT BẢN
2.1. Văn hóa vật chất
Nền văn hóa Nhật Bản từ xa xưa đã mang nhiều nét độc đáo và đặc sắc
riêng. Với vị trí địa lý đặc biệt khi bao quanh hồn tồn bởi biển và do các hòn
đảo lớn ghép lại với nhau. Nhật Bản có những lợi thế về khí hậu cũng như tài
nguyên thiên nhiên. Tuy nhiên cũng phải hứng chịu nhiều thiên tai như động
đất, sóng thần, làm thiệt hại về người và của nghiêm trọng. Mặc dù vậy với ý
chí kiên cường và tinh thần đồn kết, người Nhật đã đưa đất nước của mình
vươn lên sánh ngang các cường quốc hàng đầu khiến cả thế giới phải ngưỡng
mộ.
2.1.1. Ẩm thực
Mỗi một quốc gia, vùng miền đều có nét văn hoá ẩm thực độc đáo riêng.
Ẩm thực Nhật Bản cũng là một nét văn hoá đặc sắc và nổi tiếng của đất nước
này. Ẩm thực Nhật Bản là một phần văn hóa đặc trưng của người Nhật. Cũng
giống như những nét văn hoá khác, ẩm thực Nhật Bản cũng khiến mọi người
thán phục và mê mẩn về độ tinh tế, đặc sắc và mang đậm tinh thần của người
Nhật. Ẩm thực Nhật Bản rất phong phú và đặc biệt, bao gồm sushi, trà đạo và
một vài món bánh bằng bột gạo. Món ăn Nhật Bản hầu hết đều tuân theo một
triết lý chung là "tam ngũ" gồm ngũ pháp, ngũ sắc, ngũ vị. Ngũ pháp gồm
chiên, hấp, ninh, nướng và sống. Ngũ sắc sẽ có các màu đỏ, đen, trắng, xanh và
vàng. Với ngũ vị sẽ gồm: Chua, cay, mặn, đắng và ngọt. Đặc biệt khác với nhiều
nước, ẩm thực Nhật Bản chú trọng đến hương vị tinh khiết từ nguyên liệu món
ăn như đậu nành, cá, rong biển, rau củ và gạo, hạn chế việc sử dụng các loại gia
vị. Các món ăn được người đầu bếp sắp xếp tinh tế và đầy khéo léo, hài hòa
giữa màu, mùi và vị
Trà đạo được biết đến như một loại nghệ thuật thưởng thức trà trong văn
hóa Nhật Bản được phát triển trong thế kỷ XII, một cao tăng thuộc phái thiền
Rinzai của Nhật Bản là Thiền sư Eisai (1141-1215). Khi trở về nước, ngài mang

theo một số hạt trà về trồng trong sân chùa. Sau này chính Eisai là người đã
sáng tác ra cuốn sách "Khiết Trà Dưỡng Sinh Ký" (Kissa Yojoki), nội dung ghi
lại những mẩu chuyện liên quan tới thú vui uống trà. Từ đó, cơng dụng giúp thư
giãn đầu óc lẫn tính hấp dẫn đặc biệt trong hương vị của trà đã thu hút rất nhiều
người dân Nhật đến với thú vui tao nhã này. Họ đã kết hợp việc uống trà với
tinh thần Thiền tịnh của Phật giáo để nâng cao nghệ thuật thưởng thức trà, phát
triển nghệ thuật này trở thành Trà Đạo, một giá trị văn hóa trà đặc sắc mang
đậm bản sắc người Nhật.


Nếu nói đến nét đẹp trong văn hóa ẩm thực của Nhật Bản, hẳn chúng ta
không thể bỏ qua sushi, một món ăn kết hợp hải sản sống hoặc chín với cơm
trắng. Các cách thức để lên men khác nhau đã giảm bớt thời gian chờ, đồng thời
sử dụng thêm dấm làm gia vị, và bây giờ người Nhật sử dụng cả cơm cùng cá
muối. Hiện nay khơng cịn cơng đoạn cá muối mà người ta thưởng thức trực tiếp
cá sống và hải sản tươi sống cùng với cơm trộn dấm. Khái niệm của Sushi tại
Nhật Bản được Hanaya Yohei phát minh vào cuối thời kỳ Edo (1603 – 1868) và
Sushi bắt đầu như một loại thức ăn giá rẻ, như một món ăn nhanh, được dùng
khi thưởng thức một buổi biểu diễn sân khấu.
2.1.2. Trang phục
Kimono là loại y phục truyền thống của Nhật Bản cũng giống như áo dài
ở Việt Nam. Kimono không đơn thuần là trang phục truyền thống mà còn được
xem là một tác phẩm nghệ thuật. Người Nhật đã sử dụng Kimono trong vài trăm
năm. Ngày nay, Kimono thường chỉ được sử dụng vào các dịp lễ tết. Phụ nữ
Nhật mặc Kimono phổ biến hơn nam giới, thường có màu và hoa văn nổi bật.
Phái nam dùng Kimono chủ yếu trong lễ cưới và buổi lễ trà đạo, và Kimono
dành cho nam giới thường không có hoa văn, và màu tối hơn. Trong những năm
gần đây, từ này được sử dụng để nói đến bộ quần áo Nhật truyền thống. Những
bộ Kimono mà ta biết đến ngày nay được ra đời vào thời Heian (794 - 1192). Từ
thời Nara (710 - 794), tới lúc đó, người Nhật thường mặc một bộ gồm phần trên

và phần dưới (quần hoặc váy) tách rời hoặc một bộ quần áo liền. Nhưng vào
triều đại Heian, một công nghệ làm kimono mới đã được phát triển. Những bộ
phù hợp với mọi thời tiết. Chúng còn được mặc ở bên trong để tạo sự ấm áp
trong mùa đông. Kimono làm từ những loại vải mát như lanh rất thích hợp cho
mùa hè có tên là Yukata. Những lợi thế này giúp cho kimono trở thành một phần
trong cuộc sống của những người dân Nhật. Qua thời gian, Kimono trở thành
thời trang, người Nhật bắt đầu quan tâm đến việc phối hợp những bộ Kimono và
họ đã phát triển một độ nhạy cao hơn cho màu sắc. Ngày nay, người Nhật hiếm
khi mặc Kimono trong cuộc sống hàng ngày. Họ để dành chúng cho những dịp
như đám cưới, đám ma, tiệc trà hay những sự kiện đặc biệt khác như lễ hội mùa
hè.
2.1.3. Kiến trúc
Kiến trúc nhà ở của Nhật Bản mang nhiều phong cách, rất đa dạng và vô
cùng độc đáo. Trước hết, Phong cách Shinden xuất hiện trong thời Nara (710794), chín muồi vào cuối thời Heian (794-1185), kiến trúc thường là khu nhà
một tầng gồm 1 nhà chính và khu ngoại vi, cất trên những cột gỗ chôn xuống
đất, bao quanh là các hành lang bằng gỗ có bậc thang lên xuống. Nền và mặt


hiên bằng gỗ, khơng sơn, mái lợp ván, có một vài vách ngăn trong nội thất giản
dị, người ta thường ngồi trên những tấm thảm (tatami), khu vực riêng tư ngăn
bằng những mảnh cuốn có vẽ những bức họa nổi tiếng. Phong cách Shoin có cội
nguồn từ thời Muromachi (1333 – 1573), có lẽ khi nghiên cứu tơi thấy phong
cách này có ảnh hưởng rất lớn, và hay xuất hiện trong các câu chuyện Nhật Bản.
Nét đặc trưng của nó bao gồm: hốc lõm âm tường, giá kệ, bàn giấy và cửa trang
trí, thiết kế các phịng khơng giống nhau, nó vẫn mang những đặc điểm của
Shinden. Căn phịng Shoin (thư phịng) thường có các tấm thảm tatami trên
tường đối nhau, xiên góc, có những bức màn kéo (fusuma) được dùng để ngăn
khơng gian bên trong, và có thể tháo ra để tạo không gian rộng lớn hơn. Những
cánh cửa lùa lưới gỗ được phủ bằng giấy gạo trong suốt (shõji), và những cánh
cửa nặng bằng gỗ có thể đóng lại ban đêm hoặc khi thời tiết khắc nghiệt. Hiện

nay nhà truyền thống Nhật Bản (Motra) vẫn còn, là kế thừa của phong cách
Shoin và Sukija (phiên bản của Shoin với một số thay đổi phù hợp với cuộc
sống thường nhật như tạo bầu khơng khí dân dã hơn, kết hợp với phong cách trà
thất – một phong cách tinh tế và sành sỏi nói lên văn hóa Nhật Bản mà thế giới
khơng có được). Motra thường có các mái hiên cao, làm lối đi từ nhà ra vườn
quanh, có mái che, cửa ra vào bằng mành tre có thể hạ thấp.
2.2. Văn hóa tinh thần
2.2.1. Ngơn ngữ
Ngơn ngữ Nhật được viết trong sự kết hợp của của ba kiểu chữ hán tự
hay kanji và hay kiểu chữ đơn âm mềm Hiragana và đơn âm cứng katakana.
Kanji dùng để viết các từ Hán hoặc các từ mà người Nhật dùng chữ Hán để thể
hiện rõ nghĩa. Hiragana dùng để ghi các từ gốc Nhật và các thành tố ngữ pháp
như trợ từ, trợ động từ, tính từ,… Katakana dùng để phiên âm các từ vựng nước
ngoài.
2.2.2. Nghệ thuật
2.2.2.1. Âm nhạc
Âm nhạc Nhật Bản đã mượn nhiều nhạc cụ và phong cách từ các nước
láng giềng và phát triển thêm các nét đặc trưng của riêng mình, điển hình như
đàn Koto xuất hiện vào thế kỷ X. Âm nhạc Phương Tây được giới thiệu vào
Nhật Bản cuối thế kỷ XIX giờ đã trở thành một phần nội tại quan trọng trong
văn hóa Nhật Bản. Nước Nhật thời hậu chiến tranh thế giới lần thứ hai bị ảnh
hưởng nặng nề bởi nhạc Mỹ và nhạc hiện đại châu âu điều này dẫn đến sự phát
triển của dòng nhạc J-pop. karaoke là hoạt động văn hóa phổ biến ở Nhật.
2.2.2.2. Văn học
Văn học Nhật Bản là một trong những nền văn học dân tộc lâu đời nhất


và giàu có nhất thế giới nảy sinh trong mơi trường nhân dân rộng lớn từ thuở
bình minh của các bộ tộc Nhật Bản, rất lâu trước khi quốc gia Nhật Bản được
thành lập. Nhật bản hiện nay đã có ba nhà văn từng giải Nobel đó là Kawabata

Yasunari (1968), Ōe Kenzaburō (1994), Ishiguro Kazuo (2017).
2.2.3. Tôn giáo
Nhật Bản là nước có nhiều tơn giáo. Thần đạo, tơn giáo lâu đời nhất ở
Nhật Bản, là sự phức hợp của những tín ngưỡng sơ khai ở Đơng Á. Thần đạo có
các vị thần được gọi là "kami" có thể ban phúc lành, chẳng hạn như một cuộc
hôn nhân. Kami, linh hồn, có ở mọi nơi và bất cứ cái gì hiện hữu đều có thể là
kami (Từ giờ xin gọi kami là thần để bạn đọc tiện theo dõi). Những vật tự nhiên
như đá, cây cối, núi sông, thác nước, động vật, sấm chớp… tất cả đều có thể là
kami, nhất là với những vật hoặc hiện tượng có phần kì lạ và nổi bật. Không
phải tất cả các vật tự nhiên đều là thần, nhưng Thần đạo khuyến khích việc tơ
trọng những vật tự nhiên, vì ngay cả những vật bình thường nhất cũng có thể có
các linh hồn trú ngụ bên trong.
Vào thế kỉ thứ VI, Phật giáo hệ phái Bắc Tông du nhập vào Nhật Bản qua
Triều Tiên. Nghệ thuật và kiến trúc tinh tế của đạo Phật khiến cho tôn giáo này
thu hút được sự quan tâm của triều đình lúc đó và Phật giáo trở thành quốc giáo
của Nhật Bản. Đạo Phật nhanh chóng được truyền bá khắp Nhật Bản và nhiều
tông phái Phật giáo đã ra đời và phát triển, trong đó nổi tiếng nhất ở phương
Tây là Thiền tơng (Zen). Đây chính là tơn giáo chính của Nhật Bản hiện nay bởi
số lượng người Nhật tham gia đạo Phật rất lớn đã thể hiện ưu thế hơn so với các
đạo khác. Theo như thống kê tính đến năm 2014 đã có hơn 377,000 tu sĩ Phật
giáo, đại đức và các nhà lãnh đạo Phật giáo tại Nhật Bản. Đạo Phật là tơn giáo
chính của Nhật Bản hiện nay
Thiên chúa giáo do người Bồ Đào Nha du nhập vào Nhật Bản năm 1549
và được khá nhiều người Nhật tin theo. Ngày nay ở Nhật không có một tơn giáo
nào nổi trội và trên thực tế, có nhiều người Nhật cùng lúc tin theo nhiều tơn giáo
khác nhau. Nhưng Phật giáo vẫn được xem là quốc giáo của Nhật Bản với
khoảng 90 triệu tín đồ và ảnh hưởng của nó vơ cùng to lớn, sâu sắc vào mọi mặt
trong văn hóa, xã hội và lối sống của người Nhật.
2.2.4. Một số lễ hội
Có tới hàng trăm lễ hội được tổ chức tại Nhật Bản hàng năm. Tuy nhiên

lễ hội được mong chờ và yêu thích nhất phải kể tới lễ hội Shogatsu. Đây là một
trong các lễ hội Nhật Bản đặc sắc được tổ chức để chào mừng năm mới. Lễ hội
này diễn ra vào mùng 1 tháng 1 dương lịch. Nó được xem là lễ hội lớn nhất của
Nhật Bản. Khác với các nước khác trong khu vực, Nhật tổ chức mừng năm mới


theo lịch dương. Vào ngày này tại Nhật diễn ra rất nhiều hoạt động ăn mừng đại
lễ khác nhau. Vào những ngày này, người Nhật sẽ đi chùa và ăn bữa cơm tất
niên cùng với những người thân của mình. Trong bữa ăn sẽ có rất nhiều món ăn
truyền thống của người Nhật Bản. Sau đó sẽ diễn ra tục lì xì đầu năm và trẻ nhỏ
sẽ được chơi các trị chơi dân gian như cầu lơng Hanetsuki hay Tokoage. Mọi
người ai nấy đều xúng xính trong trong trang phục kimono truyền thống. Ngoài
ra, khi tổ chức lễ hội mừng năm mới, người Nhật còn viết thư pháp để gửi tới
những lời chúc tốt đẹp, may mắn đến với mọi người. Sau đó vào ngày mùng 4,
các cửa hàng, cửa hiệu sẽ bắt đầu mở cửa buôn bán.
Lễ hội Hanami là lễ hội ngắm hoa anh đào diễn ra hàng năm ở Nhật từ
tháng 3 tới đầu tháng 4. Hoa sẽ nở sớm ở những vùng miền nam ấm áp hơn như
đảo Okinawa. Hanami có nghĩa là ngắm nhìn, thưởng lãm hoa anh đào, và được
gọi là hội hoa anh đào. Đây là tập quán thưởng thức vẻ đẹp của hoa anh đào,
chúc mừng nhau và cảm nhận khơng khí mùa xuân của người Nhật. Lễ hội này
đã có một lịch sử lâu đời từ hàng ngàn năm nay, và được coi là quốc lễ của Nhật
Bản và là một nét đẹp khơng thể thiếu trong văn hóa Nhật Bản. Hoa anh đào là
quốc hoa của đất nước mặt trời mọc, tượng trưng cho sự thanh khiết, mỏng
manh và trong trắng. Hanami sẽ diễn ra trong vòng 10 ngày và vào dịp này, du
khách và người dân thường chọn một vị trí đẹp và ngồi dưới những tán cây anh
đào để tổ chức tiệc tùng, ăn uống, hát hò. Cảm giác thật tuyệt vời khi vào mùa
lễ hội hoa anh đào, bạn sẽ vừa được thưởng hoa lại được trò chuyện tíu tít bên
cạnh những người thân u của mình.
Lễ hội cá chép Kodomo-no-hi được tổ chức vào ngày 5 tháng 5 hàng
năm. Đây là lễ hội được tổ chức nhằm mục đích nguyện cầu những điều bình

an, sức khỏe đến cho mọi nhà, mọi người đặc biệt là những đứa trẻ. Vào dịp này
du khách sẽ được chiêm ngưỡng rất nhiều chiếc lồng đèn cá chép rất đẹp và nổi
bật của xứ sở hoa anh đào. Những chiếc đèn lồng cá chép này gắn với câu
chuyện tương truyền từ xa xưa của Nhật Bản. Khi xưa, cá chép được xem là lồi
động vật tượng trưng cho sự trí tuệ, lịng dũng cảm và nghị lực kiên cường. Do
đó, người Nhật hy vọng những đứa trẻ trong nhà sẽ được thừa hưởng những đức
tính cao đẹp đó. Chính vì vậy, khi nhắc tới các lễ hội đặc sắc nhất của xứ sở Phù
Tang, người ta sẽ luôn nhớ tới lễ hội Kodomo-no-hi độc đáo này.


CHƯƠNG 3: BIẾN ĐỔI VĂN HÓA VIỆT NAM DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA
GIAO LƯU TIẾP BIẾN VĂN HÓA NHẬT BẢN TỪ THẾ KỶ XX ĐẾN NAY
3.1. Tích cực
3.1.1 Văn hóa vật chất
Trà đạo là nét văn hóa có nguồn gốc từ Nhật Bản, nó được đưa vào Việt
Nam trong những năm đầu thế kỷ XIII, khi Phật giáo bén rễ vào giới quyền thế.
Dần dần, đến thế kỷ XX, những nghệ sĩ học giả phương Tây đến Nhật Bản, bị
cuốn hút trong đạo lý siêu cao của nền văn hóa Nhật Bản và say mê các cổ trà
gốm Đại Việt tại Nhật Bản. Việt Nam cũng có tục uống trà từ lâu đời. Nếu như
Nhật Bản cần có phịng thất, thì đến với chén chè ở Việt Nam chủ yếu là nét
bình dân, giản dị. Trà Việt có ở khắp mọi nơi khi con người cần nó. Có mặt
trong buổi sáng sớm của các cụ già, buổi trưa của bác nông dân đi cày, buổi tối
của tình làng nghĩa xóm.
Khơng chỉ vậy, kiến trúc của Việt Nam cũng có nét biến đổi trong giao
lưu văn hóa với Nhật Bản ngay cuối thế kỷ XVIII, khi chúa Nguyễn và chính
quyền Nhật cho xây dựng Hội An với những ngôi nhà phố với sân trong tương
tự nhà ở Kyoto của Nhật, cho đến nay nó vẫn cịn lưu giữ phong cách cổ xưa
của đô thị cổ Việt Nam. Hay chùa Cầu là cầu Nhật Bản (Nhật Bản kiểu) với
những cột vuông mái cong. Cùng với đó kiến trúc và cách bài trí nội thất của
chùa Cầu chứa đựng nhiều nét văn hóa của xứ Phù Tang với mái ngói mềm mại,

độ dốc nhỏ.
3.1.2. Văn hóa nghệ thuật
Trong quan hệ văn hóa giữa hai nước thì các hoạt động giao lưu lẫn nhau
có ý nghĩa rất quan trọng. Ngay từ đầu những năm 1990, đã có sự trao đổi biểu
diễn của những đồn nghệ thuật của hai nước, nhiều giáo viên tình nguyện Nhật
Bản đã sang Việt Nam để dạy cắm hoa. Cùng với những hoạt động này là hàng
loạt các cuộc hội thảo trao đổi thông tin về kinh tế, khoa học, lịch sử được tổ
chức. Các năm tiếp theo những giao lưu văn hóa dưới hình thức trao đổi thơng
tin vẫn tiếp tục với mức độ cao hơn. Nhiều đoàn nghệ thuật Việt Nam, nhất là
các đoàn nghệ thuật dân tộc đã sang Nhật Bản biểu diễn. Những tiết mục âm
nhạc Việt Nam được biểu diễn bằng những nhạc cụ dân tộc như đàn bầu, đàn
tam thập lục ngay từ đầu đã thu hút được sự mến mộ của đông đảo khán giả
Nhật Bản. Đồng thời những buổi biểu diễn của các đoàn nghệ thuật dân tộc
Nhật Bản cũng đã tạo nên sự hấp dẫn, ngưỡng mộ của người Việt Nam thông
qua những loại hình độc đáo như kịch No, Kabuki…Hiện nay các hoạt động
giao lưu văn hóa Nhật Bản diễn ra rất thường xuyên tại Việt nam. Tại thủ đô Hà


Nội không kể những năm 2003, 2008 là năm kỷ niệm 30 năm, 35 năm hai nước
thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức, có rất nhiều sự kiện văn hóa được tổ
chức một cách rộng khắp và thường xuyên tại các thành phố và địa phương ở
Việt Nam với quy mơ chưa từng có; trong các năm khác hầu như tháng nào
cũng có một sự kiện văn hóa như hòa nhạc, biểu diễn võ thuật, liên hoan phim,
biểu diễn trà đạo, triển lãm du học hay thi hùng biện tiếng Nhật, thể hiện sự đa
dạng của các hoạt động tuyên truyền văn hóa Nhật Bản tại Việt Nam.
Trong lĩnh vực văn học, từ những năm 90 trở lại, công chúng yêu văn học
Việt Nam đã dần dần được tiếp xúc với nền văn học nghệ thuật Nhật Bản với
những tác phẩm đa dạng thuộc nhiều thể loại phản ánh cuộc sống và con người
của đất nước này trên nhiều bình diện. Điều đáng ghi nhận là các tác phẩm văn
học Nhật Bản được giới thiệu rộng rãi với công chúng yêu văn học thông qua

phần lớn các nhà xuất bản và các tờ báo lớn có uy tín như Nhà xuất bản Văn
học, Nhà xuất bản Lao động, Nhà xuất bản Hội nhà văn, Nhà xuất bản Hà Nội,
Báo Văn nghệ, Tác phẩm mới, Văn học nước ngoài, Tạp chí văn học, Nghiên
cứu Nhật Bản và Đơng Bắc Á,... Bên cạnh những tác phẩm dịch người đọc còn
được tiếp xúc với nhiều cơng trình nghiên cứu về văn học Nhật Bản, giới thiệu
những gương mặt nhà văn tiêu biểu và những khuynh hướng văn học đa dạng
của nền văn học nghệ thuật xứ anh đào. Thông qua mảng nghiên cứu và phê
bình văn học Nhật Bản người ta được biết đến các gương mặt tiêu biểu của văn
học đất nước này như Matsuo Basho, Natsume Soscki, Mori Ogai, Ykawabata
Ysunari, A.Kobe, Kezaburo Oe, Haruki Murakami.. Tuy nhiên, trong lĩnh vực
dịch thuật văn học Nhật Bản cũng cần nhận rõ điểm yếu hiện nay là các tác
phẩm được dịch tuy đã nhiều hơn các giai đoạn trước đây, song vẫn chưa ngang
tầm với tốc độ phát triển nhanh chóng của quan hệ giao lưu giữa hai nước hiện
nay. Hơn thế nữa các tác phẩm văn học Nhật Bản cho đến ngày nay vẫn phần
nhiều được dịch sang tiếng Việt từ một ngôn ngữ khác chứ không trực tiếp từ
tiếng Nhật. Điều này khơng tránh khỏi những thiếu sót trong việc khơng chuyển
tải hết nội dung và giá trị thẩm mỹ vốn có của văn học Nhật Bản với bản sắc
riêng của nó.
Trong lĩnh vực văn hóa giải trí hiện nay ảnh hưởng của văn hóa của Nhật
Bản ở Việt Nam khá rõ nét, trước hết phải kể đến Manga hay truyện tranh Nhật
Bản. Từ những năm 1990 truyện tranh Nhật Bản đã ảnh hưởng đến Việt Nam và
lập tức chiếm được sự mến mộ của các độc giả nhỏ tuổi. Cũng thông qua truyện
tranh đã giúp trẻ em Việt Nam hiểu thêm về đất nước, con người, tập quán và xã
hội Nhật Bản. Nói đến thâm nhập của văn hóa Nhật Bản trong lĩnh vực văn hóa
giải trí tại Việt Nam khơng chỉ có có truyện tranh mà cịn có nhiều loại hình


hoạt động khác như hát karaoke. Bắt nguồn từ Nhật Bản, karaoke du nhập vào
Việt Nam từ những năm đầu thập kỷ 90 và đã nhanh chóng thu hút được sự chú
ý của nhiều lứa tuổi và tầng lớp trong xã hội Việt Nam. Được hỗ trợ bởi những

thành tựu kỹ thuật âm thanh hiện đại và mức sống của người dân không ngừng
được cải thiện, trong thời gian không lâu các bar karaoke đã trở thành một hiện
tượng “bùng nổ” trong khắp các đô thị và lan truyền về tận các vùng nông thôn
Việt Nam. Điểm độc đáo của loại hình văn hóa giải trí này là ở chỗ, nó có khả
năng giúp tất cả mọi người tham gia trực tiếp vào hoạt động biểu diễn và cảm
thụ âm nhạc. Cũng chính vì vậy mà tính thực dụng của nó rất cao. Loại hình hát
giải trí này vẫn đang tiếp tục được thịnh hành, tuy hiện nay cũng có những biểu
hiện lệch lạc do khơng thể hiện đúng tính chất giải trí thực sự của nó.
3.1.3. Giáo dục, nghiên cứu
Phong trào học tiếng Nhật tại Việt Nam đang ngày một gia tăng. Nếu như
tính từ năm 1986 trở về trước tại Việt Nam chỉ có một số ít các cơ sở đào tạo
tiếng Nhật với quy mô hạn chế như Đại học Ngoại thương, Đại học Ngoại ngữ
Hà Nội thì sau khi quan hệ mới giữa hai nước được khai thông, việc học tiếng
Nhật đã thực sự trở thành một trào lưu trong giới trẻ. Hiện nay ngoài các trường
đào tạo tiếng Nhật thuộc các trường quốc lập như Đại học Ngoại thương, Đại
học Ngoại ngữ Hà Nội, Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học KHXH&NV Thành
phố Hồ Chí Minh .v.v..cịn có nhiều trường dân lập cũng tiến hành đào tạo tiếng
Nhật ở những mức độ khác nhau như Đại học Dân lập Đông đô, Đại học Dân
lập Thăng Long, Đại học Dân lập Phương Đông, Nhật ngữ Nangaku (Nam
Học), Nhật ngữ Đông Du ...v..v. Đấy là chưa kể đến những trung tâm đào tạo
tiếng Nhật cỡ vừa và nhỏ dành cho những người có quan tâm đến Nhật Bản như
làm việc tại các công ty Nhật Bản, đi du lịch hay đi lao động tại Nhật Bản.
Ngoài ra cịn có những cơ sở đào tạo tiếng Nhật trực tiếp do người Nhật quản lý
và điều hành. Hiện tại việc giảng dạy môn tiếng Nhật đang được xúc tiến triển
khai tại một số trường phổ thông cơ sở của Việt Nam.
Về phía Nhật Bản, cùng với sự phát triển của quan hệ Nhật -Việt thì sự
quan tâm đến Việt Nam trong những người Nhật cũng không ngừng tăng. Điều
này được biểu hiện bằng ngày một gia tăng những người Nhật quan tâm đến
tiếng Việt và học tập tiếng Việt tại Việt Nam hoặc tại những cơ sở dạy tiếng Việt
ở Nhật Bản. Chỉ tính riêng tại Đại học KHXH & NV Thành phố Hồ Chí Minh

tính từ năm 1990 đến 1993 có khoảng 1000 lượt sinh viên Nhật Bản đến học tập
và nghiên cứu. Nửa đầu năm 1993 đã có khoảng 150 sinh viên Nhật Bản đến
học ở khoa Việt Nam học của trường. Con số này tăng nhanh chóng trong
những năm gần đây.


Hợp tác nghiên cứu khoa học kỹ thuật, đặc biệt là trong nghiên cứu khoa
học xã hội cũng là một trong số các hoạt động sôi nổi của hoạt động giao lưu
văn hóa. Năm 1991, trường Đại học Tokyo đã cử một đoàn các nhà khoa học
sang Việt Nam cùng các nhà khảo cổ học Việt Nam hợp tác khai quật một số địa
điểm tại Nghệ An. Các nhà khảo cổ học Nhật Bản cũng đã hợp tác với phía Việt
Nam nghiên cứu đồ gốm thời Mạc…Một chương trình hợp tác nghiên cứu giữa
các nhà khoa học hai nước trong những năm 1993-1995 trên quy mô khá lớn
mang tên: “Chương trình nghiên cứu đồng bằng sơng Hồng” được sự tài trợ của
Bộ giáo dục Nhật Bản trong thời gian 3 năm. Các nhà khoa học đã tiến hành
những nghiên cứu tổng thể các mặt của làng người Việt ở khu vực đồng bằng
sông Hồng như các vấn đề kinh tế hộ gia đình, vấn đề thủy lợi, vấn đề mơi
trường, vấn đề dòng họ và lịch sử của làng. Những kết quả đạt được đã đem lại
cho chúng ta những hiểu biết rất quan trọng về làng xã vùng châu thổ sơng
Hồng. Ngồi ra cịn hàng loạt các dự án hợp tác nghiên cứu khác như “Nạn đói
năm 1945 ở Việt Nam - Những nhân chứng lịch sử”, “Ruộng đất, nông nghiệp
và nông thôn Việt Nam trong giai đoạn Cận thế”, “Nghiên cứu so sánh vai trò
của nhà nước trong phát triển kinh tế ở Việt Nam và Nhật Bản”.v.v. Sự hợp tác
nghiên cứu khoa học giữa hai nước đã làm mối quan tâm của các nhà khoa học
Nhật Bản đối với Việt Nam tăng lên nhanh chóng. Tính riêng Đại học Tokyo
năm 2001 đã có 102 nhà nghiên cứu, giáo sư sang thăm và làm việc tại Việt
Nam. Các dự án hợp tác nghiên cứu của các nhà khoa học hai nước được thực
hiện liên tục trong những năm qua với mọi quy mô và ngày một tăng về nhịp
độ. Trong dịp kỷ niệm 30, 35 năm quan hệ Việt Nam - Nhật Bản phía Nhật Bản
cũng đã tài trợ cho nhiều cuộc hội thảo khoa học và công trình nghiên cứu khoa

học nhằm tổng kết, đánh giá, rút ra những kinh nghiệm để thúc đẩy sự phát triển
có hiệu quả hơn nữa mối quan hệ hữu nghị giữa hai nước. Đáng chú ý là những
hoạt động khoa học đó có sự tham gia đơng đảo của khơng chỉ các nhà khoa
học hai nước Việt Nam và Nhật Bản mà cịn có các nhà khoa học của các nước
trong khu vực ASEAN, Trung Quốc.. Cũng thông qua những hoạt động đó đã
thắt chặt hơn mối quan hệ hợp tác giữa các nhà khoa học hai nước nói riêng và
trong khu vực nói chung.
Từ năm 1992 đến nay đã xuất hiện một loạt các cơ sở nghiên cứu và đào
tạo về Nhật Bản hay nói cách khác ngành nghiên cứu Nhật Bản học tại Việt
Nam đã ra đời và đang từng bước phát triển nhanh chóng. Năm 1994, Bộ giáo
dục và Đào tạo Việt Nam đã quyết định thành lập Khoa Đông phương học tại
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh trong đó có Bộ
mơn Nhật Bản học. Cuối năm 1995, Khoa Đơng phương học với cơ cấu tương


tự như trên cũng đã được thành lập trong Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
tại Hà Nội. Những năm tiếp sau đó, Khoa Đơng phương học trong đó có mơn
Nhật Bản học cũng được thành lập tại một số cơ sở đào tạo tư thục bậc cao như
Đại học Dân lập Phương Đông, Đại học Dân lập Đông Đô ở khu vực Hà Nội;
Đại học Ngoại ngữ - Tin học (Huflit), Đại học Dân lập Hồng Bàng ở khu vực
Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận.v.v. Sinh viên tốt nghiệp các trường
này đều được trang bị những kiến thức cơ bản về lịch sử, văn hóa và ngơn ngữ
Nhật Bản bên cạnh những khả năng chuyên môn khác nhau. Hiện nay mỗi năm
các cơ sở đào tạo này đã đem lại cho Việt Nam hàng ngàn người có khả năng để
đảm nhận những cơng việc có liên quan đến Nhật Bản. Có thể nói đây là một
hoạt động có đóng góp thật là to lớn cho quá trình phát triển nguồn nhân lực của
Việt Nam trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo đường lối
của Đảng Cộng sản Việt Nam nói chung cũng như tăng cường củng cố mối quan
hệ hợp tác Việt - Nhật nói riêng.
Một sự kiện đáng chú ý đánh dấu sự trưởng thành trong quan hệ Nhật

Việt là Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản thuộc Trung tâm Khoa học xã hội và
Nhân văn Quốc gia (nay là Viện Khoa học xã hội Việt Nam) được thành lập
ngay từ năm 1993. Sự ra đời của Trung tâm phản ánh tầm quan trọng của mối
quan hệ Nhật - Việt và nhu cầu cấp thiết trong việc hiểu mọi mặt về Nhật Bản
tại Việt Nam. Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản có nhiệm vụ nghiên cứu Nhật
Bản trên nhiều lĩnh vực mà chủ yếu là kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, lịch sử
nhằm cung cấp những luận cứ cho việc hoạch định chính sách phát triển của đất
nước và cung cấp thông tin để nâng cao hiểu biết về Nhật Bản tại Việt Nam.
Hiện nay Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản đã mở rộng chức năng nghiên cứu và
được đổi tên là Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á lấy việc nghiên cứu Nhật Bản là
trụ cột chính, là cơ sở nghiên cứu về Nhật Bản duy nhất ở Việt Nam có đội ngũ
các nhà nghiên cứu viên có trình độ, đơng đảo và có khả năng bao quát mọi lĩnh
vực nghiên cứu về Nhật Bản. Trung bình hàng năm Trung tâm cho ra mắt bạn
đọc từ 4 đến 6 đầu sách, đem lại những tri thức mọi mặt về tình hình Nhật Bản.
Ngay trong năm 2008 này, trong số đầu sách mà cơ quan cơng bố có nhiều tác
phẩm rất đáng chú ý như “Tìm hiểu chế độ tam quyền phân lập của Nhật Bản”,
“Tư tưởng Thần đạo và xã hội Nhật Bản cận-hiện đại”, “Quản lý nguồn nhân
lực ở các doanh nghiệp Nhật Bản”,..v.v. Đáng chú ý là Tạp chí Nghiên cứu Nhật
Bản, nay là Tạp chí Nghiên cứu Đơng Bắc Á với tư cách cơ quan ngôn luận của
Trung tâm với số lượng phát hành 12 số một năm đã đóng vai trị quan trọng
trong việc truyền bá những kiến thức về Nhật Bản, cung cấp những thông tin
cập nhật và tập trung nhất về nghiên cứu Nhật Bản trong và ngoài nước cho các


nhà nghiên cứu và những bạn đọc quan tâm đến Nhật Bản.
3.1.4. Các lễ hội
Việt Nam - Nhật Bản thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 21/9/1973. Trong
những năm gần đây, quan hệ Việt Nam và Nhật Bản phát triển nhanh chóng.
Trong bối cảnh hiện nay, quan hệ đối tác chiến lược sâu rộng Việt Nam - Nhật
Bản đang tiếp tục phát triển tốt đẹp, mạnh mẽ và thực chất trên nhiều lĩnh vực.

Kể từ năm 2016, Lễ hội Hoa anh đào lần đầu tiên được tổ chức tại Việt
Nam đã góp phần gia tăng mối quan hệ hợp tác sâu sắc giữa Việt Nam và Nhật
Bản. Trở thành một sự kiện thường niên diễn ra vào cuối tháng Ba, thơng qua lễ
hội, vơ số những nét đẹp văn hóa của hai bên được quảng bá và giới thiệu rộng
rãi đến người tham quan, góp phần tăng cường sự hiểu biết về những nét độc
đáo cũng như tình hữu nghị giữa hai nước láng giềng. Cùng sự hiện diện nét đẹp
trong văn hóa Nhật Bản như trình diễn múa Yosakoi, trình diễn thư pháp, biểu
diễn trà đạo, mặc thử áo kimono và biểu diễn nghệ thuật truyền thống của Nhật
Bản, Lễ hội cịn có sự đan xen của những hoạt động truyền thống trong văn hóa
dân tộc Việt Nam như hát ca trù, xẩm, biểu diễn cắm tỉa hoa, giới thiệu văn hóa
ẩm thực… Theo ghi nhận của giới báo chí, Lễ hội Hoa anh đào ln là điểm đến
của người dân trong khu vực và các tỉnh lân cận, đồng thời ngắm hoa anh đào
Nhật Bản đã trở thành một nét đẹp truyền thống của Việt Nam. Mỗi năm, hàng
nghìn du khách ghé thăm những khu vực có mặt của hoa anh đào để có thể trải
nghiệm được nét đẹp độc đáo của riêng nước Nhật. Gần đây nhất là năm 2019,
Lễ hội này mở rộng cả về quy mô và chất lượng với 20.000 cành hoa anh đào,
300 cây hoa anh đào và nhiều loài hoa đặc trưng của Việt Nam như cẩm tú cầu,
mẫu đơn, hoa lan…
3.2. Tiêu cực
Bên cạnh những biến đổi vơ cùng tích cực của văn hóa Nhật Bản đối với văn
hóa Việt Nam cũng khơng thể khơng có những những ảnh hưởng tiêu cực.
Nhưng có thể thấy những ảnh hưởng tiêu cực của văn hóa Nhật Bản đem tới cho
Việt Nam khơng q nổi bật. Tuy nhiên, trong quá trình giao lưu tiếp biến văn
hóa của Việt Nam với Nhật Bản nói riêng cũng như với các nước khác nói
chung chúng ta khơng khỏi thấy một tình trạng hạn chế từ phía Việt Nam, đó là
hiện tượng giao lưu văn hóa ít nhiều mang tính một chiều. Cụ thể là Việt Nam
tiếp nhận ảnh hưởng từ bên ngoài là chủ yếu, sự ảnh hưởng theo chiều ngược lại
còn rất mờ nhạt. Dù sao thì đây cũng là một tình trạng khơng tốt, song việc khắc
phục nó quả là một vấn đề nan giải bởi phụ thuộc vào điều kiện phát triển của
kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Trong lĩnh vực giải trí, giới trẻ đang bị cuốn hút

và mải mê chạy theo những trào lưu du nhập từ nước ngoài, thậm chí vấn đề đã


lên đến mức báo động. Sức trẻ cộng với tâm lý thích khám phá những điều mới
lạ, bắt kịp các trào lưu đang thịnh hành trên thế giới, như: manga (truyện tranh
Nhật Bản), anime (phim hoạt hình Nhật Bản), thời trang Kawaii (Nhật Bản)


CHƯƠNG 4: PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN NHỮNG BIẾN ĐỔI TÍCH
CỰC VÀ HẠN CHẾ NHỮNG BIẾN ĐỔI TIÊU CỰC TRONG GIAO LƯU
TIẾP BIẾN VĂN HÓA GIỮA VIỆT NAM VÀ NHẬT BẢN HIỆN NAY
4.1. Tổ chức các lễ hội giao lưu văn hóa
Giao lưu văn hóa là hoạt động nổi bật nhất trong quan hệ văn hóa giữa
Việt Nam - Nhật Bản kể từ khi quan hệ ngoại giao được hâm nóng trở lại. Hàng
năm, Festival Văn hóa - Du lịch Việt Nam được tổ chức tại nhiều thành phố của
Nhật Bản và ngược lại Lễ hội văn hóa Nhật Bản cũng được tổ chức ở Việt Nam,
thu hút sự quan tâm của nhân dân hai nước. Thường xuyên tổ chức các chương
trình như: Giao lưu thể thao, Giao lưu văn hóa - nghệ thuật, Giao lưu nhạc nhẹ,
lễ hội giao lưu văn hóa Việt Nam - Nhật Bản với nhiều nội dung như nghệ thuật
trà đạo, nghệ thuật ẩm thực… đã có hàng chục ngàn người tham gia. Nhằm tăng
cường giao lưu văn hóa giữa hai nước. Các lễ hội Việt Nam tại Nhật Bản được
diễn ra như một động lực, món ăn tinh thần khơng thể thiếu trong hoạt động
giao lưu văn hóa giữa hai nước. Lễ hội mỗi năm là dịp để giới thiệu và trải
nghiệm một “Việt Nam hơm nay”, sống động như chính tại Việt Nam, với các
vật phẩm thủ cơng mỹ nghệ và loại hình nghệ thuật biểu diễn tiêu biểu cho văn
hóa truyền thống Việt Nam như áo dài hay ẩm thực vốn đã được cơng chúng
Nhật Bản đón nhận và đánh giá cao lâu nay, những tiết mục biểu diễn của các
nghệ sĩ mới đang được yêu chuộng ở cả hai nước, hàng loạt món ăn ngon và bổ
dưỡng của Việt Nam lại phù hợp với khẩu vị của người Nhật. Các hoạt động
giao lưu trong lĩnh vực văn hóa là kết quả của mối quan hệ hợp tác tốt đẹp giữa

Việt Nam và Nhật Bản. Kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao cách đây 43 năm,
quan hệ Việt Nam - Nhật Bản đã có những bước tiến dài, phát triển vượt bậc,
tồn diện và sâu sắc. Đặc biệt, thơng qua những hợp tác trao đổi và giao lưu văn
hóa giữa hai nước, Việt Nam đã tiếp thu được những kinh nghiệm nhất định từ
Nhật Bản trong việc xây dựng nền văn hóa dân tộc trên cơ sở tiếp thu những
thành tựu của văn hóa nước ngồi, trong việc bảo tồn và phát huy những giá trị
văn hóa truyền thống trong điều kiện mới. Nhiều giá trị của văn hóa Nhật Bản
đã đi vào đời sống văn hóa hàng ngày của người Việt Nam góp phần làm phong
phú và đa dạng thêm đời sống văn hóa Việt Nam đương đại.
4.2. Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc
Trong q trình giao lưu tiếp biến văn hóa với Nhật Bản nhất là trong thời
điểm hội nhập quốc tế hiện nay, chúng ta cần chú trọng bảo tồn và phát triển các
giá trị văn hóa, bản sắc và truyền thống dân tộc. Coi trọng sưu tầm, khai thác
các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể. Tiếp tục tổ chức ngày hội văn hóa của


một số dân tộc thiểu số có bản sắc văn hóa tiêu biểu nhằm nâng cao ý thức giữ
gìn và tơn vinh giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc trong cộng đồng các
dân tộc Việt Nam. Gìn giữ các tác phẩm nghệ thuật, bảo vật, cổ vật và di vật có
giá trị đặc sắc. Nâng cao chất lượng các tác phẩm văn học nghệ thuật, cơng trình
văn hóa, có kế hoạch đầu tư cho khâu sáng tác kịch bản, dàn dựng chương trình,
vở diễn, đào tạo tài năng nghệ thuật; tổ chức các cuộc thi sáng tác các tác phẩm
văn học nghệ thuật để có những tác phẩm đỉnh cao, các chương trình nghệ thuật
hấp dẫn, có tính giáo dục tư tưởng thẩm mỹ cao phục vụ nhân dân, đẩy lùi các
hoạt động tiêu cực trong hoạt động văn hóa. Đồng thời tích cực xây dựng đời
sống văn hóa đại chúng và mơi trường văn hóa lành mạnh. Phát triển xã hội hóa
các hoạt động văn hóa, nghệ thuật. Huy động các nguồn lực và sức sáng tạo
trong xã hội để đầu tư xây dựng các công trình và thiết chế văn hóa, khuyến
khích các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình, đồn thể tham gia hoạt động văn hóa,
nghệ thuật, quản lý và bảo vệ di tích, di sản văn hóa. Nâng cao chất lượng và

mở rộng diện phổ biến các sản phẩm văn hóa đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn
hóa ngày càng cao và đa dạng của các tầng lớp nhân dân; làm cho văn hóa thấm
sâu vào từng khu dân cư, từng gia đình, từng người, hồn thiện hệ giá trị mới
của con người Việt Nam. Mở rộng hợp tác giao lưu văn hóa quốc tế. Tiếp thu có
chọn lọc các giá trị nhân văn, khoa học, tiến bộ của nước ngồi. Tích cực giới
thiệu rộng rãi những tinh hoa, bản sắc văn hóa Việt Nam, những thành tựu to
lớn của hơn hai mươi năm đổi mới đất nước và chính sách hội nhập quốc tế của
Đảng và Nhà nước ta, góp phần nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế và
tranh thủ nguồn tài trợ của các nước cho phát triển sự nghiệp văn hóa.


KẾT LUẬN
Trong những năm qua, cùng với sự tăng cường quan hệ Việt Nam - Nhật
Bản trên các mặt kinh tế, ngoại giao; quan hệ văn hóa giữa hai nước đã bước
vào thời kỳ phát triển nhanh chóng chưa từng có. Thành tựu giao lưu văn hóa có
được hơm nay không chỉ là kết quả của những nỗ lực giữa chính phủ và nhân
dân hai nước mà cịn bắt nguồn từ chiều sâu lịch sử lâu dài của hai dân tộc Việt
- Nhật. Ngày nay, nhìn lại quá trình giao lưu đó để rút ra nhưng bài học kinh
nghiệm là việc làm rất cần thiết góp phần củng cố mối quan hệ hợp tác hữu nghị
giữa hai nước nói chung cũng như tăng cường hiệu quả giao lưu văn hóa nói
riêng.
Nhìn lại lịch sử quan hệ văn hóa Việt Nam - Nhật Bản đã qua chúng ta
thấy đó là một lịch sử lâu dài với những thăng trầm nhất định. Chặng đường 35
năm qua kể từ khi hai nước chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao và đặc biệt
là từ năm 1992 sau khi Nhật Bản nối lại viên trợ ODA cho Việt Nam (1991) là
giai đoạn quan hệ giao lưu văn hóa phát triển nổi bật nhất từ trước tới nay. Hiện
nay, sự giao lưu và hợp tác văn hố giữa hai nước có rất nhiều lợi thế. Trước
hết, Việt Nam và Nhật Bản là hai dân tộc gần gũi về địa lý, có nhiều nét tương
đồng về văn hóa. Hàng nghìn năm cùng tồn tại trong điều kiện văn minh nông
nghiệp lúa nước, cùng tiếp thu ảnh hưởng của Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo đã

tạo nên một cơ sở quan trọng để hai nước phát triển và củng cố mối quan hệ
giao lưu và hợp tác văn hóa lâu bền hiện nay và trong tương lai. Mặt khác,
công cuộc “đổi mới” ở Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đã mở
ra một thời kỳ mới tốt đẹp và đầy triển vọng cho quan hệ hai nước trên nhiều
mặt nói chung và trên lĩnh vực văn hóa nói riêng. Quan hệ giao lưu văn hóa Việt
- Nhật trong thời gian vừa qua đã góp phần quan trọng trong việc tăng cường sự
hiểu biết lẫn nhau giữa nhân dân hai nước và góp phần quan trọng không thể
thiếu cho sự hợp tác phát triển trên lĩnh vực kinh tế và các lĩnh vực khác. Thông
qua những hợp tác, trao đổi và giao lưu văn hóa giữa hai nước Việt Nam đã tiếp
thu được những kinh nghiệm nhất định từ Nhật Bản trong việc xây dựng nền
văn hóa dân tộc trên cơ sở tiếp thu những thành tựu của văn hóa nước ngồi,
trong việc bảo tồn và phát triển những giá trị văn hóa truyền thống trong điều
kiện mới. Nhiều giá trị của văn hóa Nhật Bản đã đi vào đời sống văn hóa hàng
ngày của người Việt Nam góp phần làm phong phú và đa dạng thêm đời sống
văn hóa Việt Nam đương đại. Hiện nay đang là lúc đã có đủ những yếu tố cần
thiết để đẩy nhanh hơn nữa sự hợp tác toàn diện giữa hai nước. Với sự nỗ lực
của hai chính phủ và nhân dân hai nước chúng ta có sơ sở để tin tưởng rằng mối
quan hệ hợp tác Nhật - Việt trên mọi lĩnh vực, nhất là trong giao lưu và hợp tác


văn hóa sẽ có những bước phát triển vững chắc và nhiều kết quả tốt đẹp trong
những thập niên tới ngang tầm đối tác chiến lược trong thế kỷ XXI.


×