Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (90.52 KB, 3 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>1. Tác giả:</b>
Nguyễn Đình Thi (1924-2003) là một nghệ sĩ có tài năng về nhiều mặt. Khơng chỉ nổi tiếng với
những tác phẩm thơ, văn, nhạc, kịch, ông cịn là một cây bút lí luận phê bình sắc sảo. Ông tham gia
vào các hoạt động văn nghệ từ khá sớm, trên mỗi lĩnh vực đều để lại những tác phẩm nổi tiếng.
"Là người nghệ sĩ đa tài, Nguyễn Đình Thi sáng tác nhiều thể loại: thơ, nhạc, văn xi, kịch,
tiểu luận phê bình và ở thể loại nào cũng có những đóng góp đáng ghi nhận. Cuộc đời sáng tạo nghệ
thuật của Nguyễn Đình Thi gắn bó chặt chẽ với cuộc đời hoạt động cách mạng bền bỉ của ơng, đặc
biệt trên mặt trận văn nghệ. Do đó, ơng ln có những tìm tịi mang ý nghĩa tiên khởi trên cơ sở
những yêu cầu thực tiễn của cách mạng và đời sống văn học dân tộc.
Nguyễn Đình Thi cũng là cây bút lí luận sắc sảo. Ơng bắt đầu bằng những tác phẩm giới thiệu triết
học phổ thông (năm 1942) và triết học đã có ảnh hưởng thực sự đến sự nghiệp văn học của Nguyễn Đình
Thi. Tham gia hoạt động văn hóa cứu quốc, ơng viết nhiều tiều luận tiến bộ dưới ảnh hưởng quan điểm
văn nghệ mác xít: <i>Sức sống của dân tộc Việt Nam trong ca dao, xây dựng con người. </i>Đi vào kháng chiến
trước yêu cầu thực tiễn của đời sống văn nghệ kháng chiến ông viết <i>Thực tại với văn nghệ, </i>đặc biệt <i>nhận</i>
<i>đường</i>, có tác dụng tích cực trong việc hướng định văn nghệ sĩ hồ nhập với cơng cuộc sống kháng chiến
và sáng tác phục vụ kháng chiến. Những cơng trình: <i>Mấy vấn đề văn nghệ, công việc của người viết tiều</i>
<i>thuyết... </i>là những đóng góp thiết thực có giá trị của Nguyễn Đình Thi với đời sống văn học. Vốn học vẫn
vững chãi, khả năng tư duy lí luận chặt chẽ, cách phân tích tinh tế, sắc sảo, nghệ thuật diễn đạt tài hoa, độc
đáo là cơ sở cho những thành cơng của tiểu luận phê bình Nguyễn Đình Thi (<i>Từ điển văn học</i>, Sđd).
<b>2. Tác phẩm:</b>
- Tác phẩm đã xuất bản: <i>Xung kích</i> (tiểu thuyết, 1951); <i>Thu đông năm nay</i> (truyện, 1954);
<i>Người chiến sĩ </i>(thơ, 1956, 1958); <i>Mấy vấn đề Văn học</i> (tiểu luận, 1956 - 1958); <i>Bên bờ sông Lô</i>
(truyện ngắn, 1957); <i>Một số vấn đề đấu tranh tư tưởng trong Văn nghệ hiện nay</i> (tiểu luận, 1957);
<i>Bài thơ Hắc Hải</i> (thơ, 1959 - 1961); <i>Con nai đen</i> (kịch, 1961); <i>Cái tết của mèo con</i> (truyện thiếu
nhi, 1961); <i>Vỡ bờ</i>, tập I (tiểu thuyết, 1962, 1970); <i>Công việc của người viết tiểu thuyết</i> (tiểu luận,
1964); <i>Vào lửa</i> (tiểu thuyết, 1966); <i>Mặt trận trên cao</i> (tiểu thuyết, 1967); <i>Vỡ bờ</i> (tập II, tiểu thuyết,
1970); <i>Dòng sông trong xanh </i>(thơ, 1974); <i>Hoa và Ngần</i> (kịch, 1975); <i>Tia nắng </i>(thơ, 1983); <i>Giấc</i>
<i>mơ </i>(kịch, 1983); <i>Tiếng sóng</i> (kịch, 1985); <i>Hòn cuội </i>(kịch, 1987).
- Nhà văn đã được nhận: Giải nhì truyện và ký sự giải thưởng Văn nghệ 1951-1952 của Hội
Văn nghệ Việt Nam (<i>Xung kích</i>, tiểu thuyết) - Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật
(1996).
Tiểu luận <i>Tiếng nói của văn nghệ</i> được Nguyễn Đình Thi viết năm 1948, in trong cuốn <i>Mấy</i>
<i>vấn đề văn học </i>(lí luận phê bình, xuất bản năm 1956), có nội dung lí luận sâu sắc, được thể hiện qua
những rung cảm chân thành của một trái tim nghệ sĩ.
<b>3. Tóm tắt:</b>
Bài viết có bố cục khá chặt chẽ, được thể hiện qua hệ thống luận điểm lơ gích, mạch lạc. Giữa
các luận điểm vừa có sự tiếp nối tự nhiên vừa bổ sung, giải thích cho nhau:
Văn nghệ khơng chỉ phản ánh thực tại khách quan mà cịn là nhận thức mới mẻ, là tư tưởng,
tình cảm của cá nhân nghệ sĩ.
Tiếng nói của văn nghệ rất cần thiết với cuộc sống của con người, nhất là trong hồn cảnh
những năm đầu kháng chiến.
Văn nghệ có khả năng cảm hố, có sức lơi cuốn thật kì diệu bởi đó là tiếng nói của tình cảm,
II - Giá trị tác phẩm
Bài viết có bố cục ba phần: phần mở bài, phần thân bài và phần kết bài. Có thể hiểu nội dung
chính của từng phần như sau:
ở phần mở bài, tác giả đặt vấn đề về <i>tiếng nói của văn nghệ</i> bằng cách đề cập đến mối quan hệ
giữa văn nghệ với thực tế cuộc sống, nói chính xác là vấn đặc trưng phản ánh cuộc sống của văn
nghệ: "Tác phẩm nghệ thuật nào cũng xây dựng bằng những vật liệu mượn ở thực tại. Nhưng nghệ
sĩ khơng những ghi lại cái đã có rồi mà muốn nói một điều gì mới mẻ". Tác phẩm nghệ thuật nào
cũng bắt nguồn từ cuộc sống, bằng cách phản ánh cuộc sống mà người nghệ sĩ bộc lộ cái "mới mẻ"
trong sự khám phá, cách nhìn nhận của riêng mình, qua đó góp tiếng nói của mình vào sự phát triển
của đời sống.
Vậy người nghệ sĩ phản ánh, thể hiện những gì trong tác phẩm của mình? Những nội dung ấy
tác động đến cuộc sống chung quanh bằng con đường nào? Tác giả làm rõ những vấn đề này trong
phần chính của bài viết.
Trước hết, tác giả khẳng định rằng mục đích của văn nghệ khơng phải chỉ nhằm đáp ứng nhu
cầu hiểu biết của con người. Mục đích đặc thù của văn nghệ chân chính là "làm chúng ta rung động
với cái đẹp", sức mạnh lâu bền của văn nghệ là làm tái sinh những sự sống tươi trẻ trong tâm hồn
con người. Có như vậy văn nghệ mới có cho mình những nội dung đặc thù khác với nội dung của
các lĩnh vực hoạt động tinh thần khác. Tác giả chỉ rõ: "Lời gửi của nghệ thuật khơng những là một
bài học luận lí hay một triết lí về đời người, hay những lời khuyên xử thế, hay một sự thực tâm lí,
hoặc xã hội. Lời của nghệ thuật còn là "những say sưa, vui buồn, yêu ghét, mơ mộng, phẫn khích,
và biết bao nhiêu tư tưởng, (...) bao nhiêu hình ảnh đẹp đẽ mà đáng lẽ chúng ta không nhận ra được
hằng ngày chung quanh ta, một ánh nắng, một lá cỏ, một tiếng chim, bao nhiêu bộ mặt con người
trước kia chúng ta chưa biết nhìn thấy, bao nhiêu vẻ mới mẻ, bao nhiêu vấn đề mà ta ngạc nhiên tìm
ra ngay trong tâm hồn chúng ta". Với những nội dung ấy, tác phẩm văn nghệ có khả năng tác động,
Tiếng nói của văn nghệ làm cho ta "được cười hả dạ hay rỏ giấu một giọt nước mắt". Có được
những khoảnh khắc như thế là nhờ văn nghệ có sức mạnh tác động đến tâm hồn, tình cảm của con
người bằng chính tâm hồn, tình cảm của con người. Nói cách khác, văn nghệ khích lệ, tác động đến sự
sống bằng chính sự sống.
"Sự sống" trong tiếng nói của văn nghệ nhìn chung là toàn diện, tuy nhiên sức mạnh ưu thế mà
văn nghệ có được là nhờ "văn nghệ nói nhiều nhất với cảm xúc, nơi đụng chạm của tâm hồn với
cuộc sống hằng ngày. (...) Chỗ đứng của văn nghệ chính là chỗ giao nhau của tâm hồn con người
với cuộc sống hành động, cuộc đời sản xuất, cuộc đời làm lụng hằng ngày, giữa thiên nhiên và giữa
những người làm lụng khác". Với việc phân tích đặc điểm điểm này của tiếng nói văn nghệ, Nguyễn
Đình Thi đã khẳng định câu nói của đại văn hào Nga Tơn-xtơi: Nghệ thuật là tiếng nói của tình
cảm. Khi một tác phẩm nghệ thuật nào đó được xem là có giá trị thì có nghĩa là tác phẩm ấy, bằng
tiếng nói tình cảm của mình, tác động tích cực, có hiệu quả tới đời sống tình cảm của cơng chúng.
Nhưng ngồi tình cảm, thế giới tinh thần của con người cịn có phương diện tư tưởng. Tiếng
nói văn nghệ cịn là tiếng nói tư tưởng. Và như thế, bằng tư tưởng, văn nghệ tác động đến tư tưởng
của con người. Khẳng định điều này, tác giả đồng thời chỉ ra rằng: "Tư tưởng của nghệ thuật khơng
bao giờ là trí thức trừu tượng một mình trên cao"; mà là "tư tưởng từ ngay cuộc sống hằng ngày nảy
ra, và thấm trong tất cả cuộc sống". Mặt khác, không giống sự tác động tư tưởng của những lĩnh
vực nhận thức khác, tư tưởng của tác phẩm nghệ thuật đến với công chúng bằng cách "làm cho
chúng ta nhìn, nghe, rồi từ những con người, những câu chuyện, những hình ảnh, những nỗi niềm
của tác phẩm sẽ khơi mung lung trong trí óc ta những vấn đề suy nghĩ".
rèn luyện tình cảm thẩm mĩ, nuôi dưỡng, phát triển những khả năng thẩm mĩ của con người.
Với những ưu việt như trên, hoàn toàn thuyết phục khi tác giả đưa ra nhận định kết luận: "Nghệ
thuật giải phóng được cho con người khỏi những biên giới của chính mình, nghệ thuật xây dựng
con người, hay nói đúng hơn làm cho con người tự xây dựng được. Trên nền tảng cuộc sống của xã
hội, nghệ thuật xây dựng đời sống tâm hồn cho xã hội".
Có thể nói <i>Tiếng nói của văn nghệ</i> là một bài tiểu luận đạt đến trình độ cao của nghệ thuật nghị
luận. Hệ thống các luận điểm được bố cục hợp lí, triển khai mạch lạc. Các lí lẽ đều được tác giả thuyết
phục bởi những dẫn chứng cụ thể sinh động với sự phân tích tinh tế, sắc sảo. Các dẫn chứng về Truyện
Kiều, về An-na Ca-rê-nhi-na, nhất là những trải nghiệm trực tiếp trong thực tế sáng tác,... giúp tác giả lí
giải xác đáng những vấn đề đặc điểm phản ánh của văn nghệ, khả năng tác động của văn nghệ,...
Nguyễn Đình Thi vốn là một người chun sáng tác, và nhờ vậy, khơng khó khăn gì khi ơng vận dụng
lối viết giàu hình ảnh vào nghị luận.