Tải bản đầy đủ (.docx) (328 trang)

VAN 9 HKI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 328 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>NGỮ VĂN 9 HỌC KÌ I HỌ TÊN:……………………………………………….

<span class='text_page_counter'>(2)</span> BIỂU ĐIỂM CỦA CÁC DẠNG CHÉP ĐÚNG I. Chép thuộc lòng thơ:  Trừ 0,25/ 2 lỗi:.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> − Sai lỗi chính tả − Không viết hoa − Thiếu dấu câu − Thiếu dấu thanh  Trừ 0,25/ 1 lỗi: − Sai, thiếu, thừa một từ − Thiếu tên bài thơ và tên tác giả  Trừ 0,50 điểm: Thiếu một câu thơ hoặc đảo trật tự một câu thơ  Trừ 1 điểm: Chép một câu thơ ở khổ thơ khác.  Trừ 0,25 điểm/ 1 ý  Trừ 0,25 điểm/ 2 lỗi diễn đạt, chính tả. II. Dạng tiểu sử tác giả: 1. Năm sinh? Năm mất? Hiệu? Tên thật? Quê quán? 2. Gia thế? 3. Xã hội? 4. Bản thân? 5. Tác phẩm chính? 6. Đặc điểm sáng tác  Chú ý: − Các tác giả lớn như: Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu đáp ứng đủ 6 mục trên. − Các tác giả còn lại chỉ có 4 mục (1, 4, 5, 6). III. Viết đoạn văn:  Trừ 0,25 điểm:.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> − Sử dụng không chính xác hoặc thiếu yêu cầu của đề về đơn vị tiếng Việt. − Có sử dụng nhưng không gạch chân và chú thích − Diễn đạt ngắn hoặc dài hơn yêu cầu đề − Tách làm hai đoạn  Trừ 0,25 điểm/ 2 lỗi: Lỗi diễn đạt, chính tả  Trừ 0,50 điểm: − Không giải thích từ ngữ chủ đề − Nội dung không rõ. IV. Dạng nhận biết tiếng Việt 1 điểm: − Trả lời được ½ số điểm − Giải thích được ½ số điểm. BAØI 1. PHONG CAÙCH HOÀ CHÍ MINH I. GIỚI THIỆU VĂN BẢN: Taùc giaû: Leâ Anh Traø II. ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN: 1. Vốn tri thức văn hóa nhân loại của Hồ Chí Minh sâu rộng: − Nói và viết thạo nhiều thứ tiếng ngoại quốc: Pháp, Anh, Hoa,… − Am hieåu veà caùc daân toäc, nhaân daân, vaên hoùa, ngheä thuaät thế giới sâu sắc, uyên thâm..

<span class='text_page_counter'>(5)</span> * Người có vốn kiến thức sâu rộng như vậy vì: − Người đã tiếp xúc văn hóa nhiều vùng, nhiều nước trên thế giới cả phương Đông và Phương Tây. − Đi đến đâu người cũng học hỏi tìm hiểu. 2. Loái soáng bình dò, raát Vieät Nam, raát phöông Ñoâng cuûa Baùc: − Nơi ở và làm việc: nhà sàn nhỏ và bằng gỗ, vài phòng để tiếp khách, họp làm việc và ngủ, đồ đạc mộc mạc đơn sơ. − Trang phuïc: Boä quaàn aùo baø ba naâu, chieác aùo traán thuû, ñoâi deùp loáp. − Ăn uống: đạm bạc, những món ăn dân tộc bình dị: cá kho, rau luoäc.. 3. Lối sống của Bác kết hợp giữa giản dị và thanh cao: Lối sống giản dị, gần gũi cuộc sống đời thường của nhân dân, đậm chất dân tộc, tự nhiên, dân dã, … -> biểu hiện của nét đẹp thanh cao. 4. Cảm nhận của các em về nét đẹp trong phong cách Hồ Chí Minh: Phong caùch soáng giaûn dò maø thanh cao cuûa Baùc laø caùch sống văn hóa trở thành quan điểm thẩm mĩ của các nhà hiền triết xöa nhö Nguyeãn Traõi hay Nguyeãn Bænh Khieâm vaø coøn laø caùch sống văn hóa để chúng ta noi theo. * Dặn dò: HTL nghi nhớ SGK/8 _____________________ CÁC PHƯƠNG CHÂM HỘI THOẠI I. BAØI HOÏC: 1. Phương châm về lượng. 2. Phöông chaâm veà chaát.. HTL 2 ghi nhớ SGK/9,10..

<span class='text_page_counter'>(6)</span> II. LUYEÄN TAÄP: 1/10. a) Thừa cụm từ “nuôi ở nhà” bởi từ “gia súc” đã hàm chứa nghóa “thú nuôi trong nhaø” b) Tất cả các loài chim đều có hai cánh. Vì thế cụm từ “có hai cánh” là thừa. 2/10. a) nói có sách, mách có chứng b) noùi doái c) noùi moø d) noùi nhaêng noùi cuoäi e) noùi traïng 3/11. Vi phạm phương châm về lượng (hỏi: “Rồi có nuôi được không?”  hỏi điều rất thừa). 4/11. a) Để bảo đảm tuân thủ phương châm về chất, người nói phải dùng những cách nói trên là tính xác thực của nhận định hay thông tin mà mình đưa ra chưa được kiểm chứng. b) Để đảm bảo phương châm về lượng, người nói phải dùng những cách nói trên nhằm báo cho người nghe biết về việc nhắc lại nội dung đã cũ là do chủ ý của người nói. 5/11. − AÊn ñôm noùi ñaët: vu khoáng, ñaët ñieàu, bòa chuyeän cho người khác..

<span class='text_page_counter'>(7)</span> − Ăn ốc nói mò: nói không có căn cứ. − AÊn khoâng noùi coù: vu khoáng, bòa ñaët − Caõi chaøy caõi coái: coá tranh cãi nhöng khoâng coù lí leõ. − Khua môi múa mép: nói năng ba hoa, khoác lác, phô tröông − Noùi dôi noùi chuoät: noùi laêng nhaêng, linh tinh, khoâng xaùc thực. − Hứa hươu hứa vượn: hứa để được lòng rồi không thực hiện lời hứa. => Các thành ngữ trên đều chỉ những cách nói, nội dung nói khoâng tuaân thuû phöông chaâm veà chaát. _____________________ MOÄT SOÁ BIEÄN PHAÙP NGHEÄ THUAÄT TRONG VAÊN BAÛN THUYEÁT MINH I. BAØI HOÏC: HTL ghi nhớ SGK/13 II. LUYEÄN TAÄP: 1/13. a). Vaên baûn laø moät truyeän vui coù tính chaát thuyeát minh (hay là văn bản thuyết minh có sử dụng một số biện pháp nghệ thuaät). − Tính chất thuyết minh thể hiện ở chỗ giới thiệu loài ruồi rất có hệ thống: những tính chất chung về họ, giống, loài, về các tập tính sinh sống, sinh đẻ, đặc điểm cơ thể cung cấp các kiến thức chung đáng tin cậy về loài ruồi, thức tỉnh ý thức giữ gìn vệ sinh, phòng bệnh, ý thức diệt ruồi..

<span class='text_page_counter'>(8)</span> − Những phương pháp thuyết minh đã được sử dụng. + Định nghĩa: thuộc họ côn trùng hai cánh, mắt lưới. + Phân loại: các loại ruồi + Số liệu: số vi khuẩn, số lượng sinh sản của một cặp ruoài. + Liệt kê: mắt lưới, chân tiết ra chất dính. b). Bài thuyết minh rắt đặc biệt vì đã vận dụng thành công các biện pháp nghệ thuật, bài thuyết minh được trình bày dưới hình thức một truyện vui. - Những biện pháp nghệ thuật đã được sử dụng: nhân hóa, xây dựng thành cốt truyệt có tình tiết. c). Những biện pháp nghệ thuật được sử dụng vẫn làm nổi nội dung cần thuyết minh đồng thời làm cho bài thuyết minh sinh động, hấp dẫn lôi cuốn người đọc. 2/15. Biện pháp nghệ thuật: lấy sự ngộ nhận hồi nhỏ để làm đầu mối dẫn dắt câu chuyện. ________________________ LUYỆN TẬP SỬ DỤNG MỘT SỐ BIỆN PHÁP NGHỆ THUAÄT TRONG VAÊN BAÛN THUYEÁT MINH. Học sinh làm ở nhà ________________________ BAØI 2: ĐẤU TRANH CHO MỘT THẾ GIỚI HÒA BÌNH I. GIỚI THIỆU:.

<span class='text_page_counter'>(9)</span> 1. Taùc giaû: Ga-bri-en Gaùc-xi-a Maùc keùt (nhaø vaên Coâ-loâm-bi-a) sinh 1928 2. Thể loại: Văn bản nhật dụng II. ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN: 1. Luận điểm và hệ thống luận cứ của văn bản. a) Luaän ñieåm: Chieán tranh haït nhaân laø moät hieåm hoïa khuûng khiếp đang đe dọa toàn thể loài người. Vì vậy nhiệm vụ cấp bách của mọi người là phải đấu tranh để bỏ nguy cơ ấy. b) Hệ thống luận cứ: − Lí lẽ: Kho vũ khí hạt nhân đang tàng trữ có khả năng hủy diệt cả trái đất và các hành trình khác. − Dẫn chứng: cuộc chạy đua vũ trang đã làm mất đi việc cải thiện nhiều mặt cho đời sống biết bao người: y tế, lương thực, giáo dục,… − Lí lẽ: chiến tranh hạt nhân không chỉ đi ngược lại lí trí của loài người mà còn ngược lại lí trí của tự nhiên, phản lại sự tieán hoùa. − Lí leõ: vì vaäy, taát caû chuùng ta coù nhieäm vuï phaûi ngaên chặn cuộc chiến tranh hạt nhân, đấu tranh cho một thế giới hòa bình. 2. Cách lập luận để chỉ ra nguy cơ chiến tranh hạt nhân đe dọa loài người và toàn bộ sự sống trên trái đất, trong đoạn đầu bài: Phần mở đầu thu hút người đọc và gây ấn tượng mạnh mẽ về tính chất hệ thống của vấn đề. − Dẫn chứng: Hôm nay là ngày 8/8/1986 hơn 50.000 đầu đạn hạt nhân được bố trí..

<span class='text_page_counter'>(10)</span> − Lí lẽ 1: mỗi người trên trái đất ngồi trên 4 tấn thuốc noå. − Lí lẽ 2: phá hủy các hành tinh quanh hệ mặt trời. 3. Những chứng cứ cho sự tốn kém và tính chất vô lí của cuoäc chaïy ñua vuõ trang haït nhaân: Sự tốn kém − 100 máy bay neùm bom − 10 chieác taøu saân bay − 149 tên lửa MX − 2 chieác taøu ngaàm haït. Tính chaát voâ lí − Coù theå lo cho 500 trieäu treû em ngheøo − Có thể lo y tế cho 1 tỉ người − Có thể lo thức ăn cho 575 triệu người − Có thể xóa nạn mù chữ cho. nhaân toàn thế giới. 4. a). Chiến tranh hạt nhân “… đi ngược lí trí con người… lí trí tự nhieân….” − Đi ngược lí trí con người: thay vì lo cho phúc lợi của nhân loại thì lại chế tạo vũ khí hủy diệt. − Đi ngược lí trí tự nhiên (qui luật của tự nhiên, logic tất yếu của tự nhiên). Để làm rõ luận điểm này, tác giả đã đưa ra những chứng cứ khoa học và cổ sinh học về nguồn gốc và sự tiến hóa của sự sống trên trái đất: + Trải qua 380 triệu năm con bướm mưới bay được. + Trải qua 180 triệu năm nữa bông hồng mới nở. + Trải qua bốn kỉ địa chất, con người mới hát được. => Kết luận: chiến tranh hạt nhân phản tự nhiên, phản tiến hóa vì nếu xảy ra thì sẽ đầy lùi sự tiến hóa của loài người về điểm xuất phát ban đầu..

<span class='text_page_counter'>(11)</span> b). Suy nghĩ của em trước lời cảnh báo: Làm mọi người thức tỉnh trước nguy cơ hiểm họa hạt nhân và thấy đó là sự đầu tư vô ích lại vô cùng tốn kém cho nhân loại, đây còn là lời phản đối gay gắt. (Học sinh nên tự viết.) 5. Văn bản được đặt tên: “Đấu tranh cho một thế giới hòa bình” vì: Nguy cô chieán tranh haït nhaân laø thaûm hoïa huûy dieät cuûa toàn thế giới. Qua lời cảnh báo của mình nhà văn muốn cả thế giới phải tham gia chống lại hiểm họa này. (học sinh tự viết) * Dặn dò: HTL ghi nhớ SGK/21 _______________________________ CÁC PHƯƠNG CHÂM HỘI THOẠI (tt) I. BAØI HOÏC: 1. Phöông chaâm quan heä 2. Phương châm cách thức 3. Phương châm lịch sự. HTL 3 ghi nhớ SGK trang 21, 22, 23. II. LUYEÄN TAÄP: 1/23. Những câu tục ngữ, ca dao trên đã khẳng định vai trò của ngôn ngữ trong đời sống và khuyên ta trong giao tiếp nên dùng lời lẽ lịch sự, nhã nhặn.. * Một số câu tục ngữ, ca dao có nội dung tương tự: − “Chim khoân keâu tieáng raûnh rang. Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe” − “Nói ngọt lọt đến xương” − “Moät caâu nhòn chín caâu laønh”.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> − “Vàng thì thử lửa thử than, Chuông kêu thử tiếng, người ngoan thử lời”. 2/23. Phép tu từ từ vựng có liên quan trực tiếp đến phương chaâm lòch sự laø pheùp noùi giaûm noùi traùnh. VD: Bài thơ của anh dở quá!  Bài thơ của anh chưa được hay lắm  nói giảm nói tránh. 3/23. a) noùi maùt b) nói hớt c) noùi moùc d) noùi leo e) nói ra đầu ra đũa – liên quan đến phương châm cách thức.  Liên quan đến phương châm lịch sự 4/23. a) Khi người nói chuẩn bị hỏi về một vấn đề không đúng vào đề tài mà hai người đang trao đổi, để tránh người nghe hiểu laø mình khoâng tuaân thuû phöông chaâm quan heä. b) Trong giao tiếp, đôi khi vì một lí do nào đó, người nói phải nói một điều mà người đó nghĩ là sẽ làm tổn thương đến thể diện người đối thoại. Để giảm nhẹ ảnh hưởng, tức là xuất phát từ việc chú ý tuân thủ phương châm lịch sự, người nói sẽ dùng cách diễn đạt trên..

<span class='text_page_counter'>(13)</span> c) Báo hiệu cho người đối thoại biết là người đó đã không tuân thủ phương châm lịch sự và phải chấm dứt sự không tuân thủ đó. 5/24. − Noùi baêm noùi boå: noùi boáp chaùt, xæa xoùi, thô bạo − Nói như đấm vào tai: nói mạnh, trái ý, khó tiếp thu − Ñieàu naëng tieáng nheï: noùi traùch moùc, chì chieát − Mồm loa mép giải: lắm lời, đanh đá, nói át người khác. − Nói như dùi đục chấm mắm cáy: nói không khéo, thô coäc, thieáu teá nhò.  Phương châm lịch sự. − Nửa úp nửa mở: nói mập mờ, ỡm ờ, không ra hết ý Phương châm cách thức. − Đánh trống lảng: lảng ra, né tránh, không muốn tham dự, đề cập đến vấn đề người đối thoại đang trao đổi.  Phương châm quan hệ. _________________________ BAØI 3. TUYÊN BỐ THẾ GIỚI VỀ SỰ SỐNG CÒN, QUYỀN ĐƯỢC BẢO VỆ VAØ PHÁT TRIỂN CỦA TRẺ EM Đọc hiểu văn bản: 1. Boá cuïc: 3 phaàn (Sau hai phần đầu khẳng định quyền được sống, quyền được phát triển của trẻ em trên thế giới và kêu gọi khẩn thiết toàn nhân loại phải quan tâm đến vấn đề này).. .

<span class='text_page_counter'>(14)</span> − Phần I: “Phần sự thách thức”: Nêu lên những thực tế, những con số về cuộc sống cực khổ trên nhiều mặt, về tình trạng bị rơi vào hiểm họa của nhiều trẻ em trên thế giới hiện nay. − Phần II: “Phần cơ hội”: Khẳng định những điều kiện thuận lợi cơ bản để cộng đồng quốc tế có thể đẩy mạnh việc chaêm soùc, baûo veä treû em. − Phần III: “Phần nhiệm vụ” Xác định những nhiệm vụ cụ thể mà từng quốc gia và cả cộng đồng quốc tế cần làm vì sự sống còn, phát triển của trẻ em. Những nhiệm vụ có tính cấp bách này được nêu lên một cách hợp lí bởi dựa trên cơ sở điều kiện thực tế. * Văn bản có bố cục hợp lí chặt chẽ vì: 2 mục đầu khẳng định quyền của mọi trẻ em trên thế giới sau đó kêu gọi khẩn thiết toàn nhân loại hãy quan tâm đến vấn đề này. 2. Thực tế cuộc sống của trẻ em trên thế giới: − Nạn nhân của chiến tranh, bạo lực, phân biệt chủng tộc, xâm lược, ….. của nước ngoài. − Chịu đựng thảm họa của đói nghèo, vô gia cư, dịch bệnh, mù chữ, môi trường xuống cấp. − Trẻ em chết do suy dinh dưỡng và bệnh tật ngày càng nhieàu. => Thấm thía nỗi đau của trẻ em trên thế giới, ta sẵn sàng, đóng góp để chống lại hiểm họa cho trẻ em..

<span class='text_page_counter'>(15)</span> 3. Những điều kiện thuận lợi cho việc chăm sóc trẻ em trong ñieàu kieän hieän nay: − Sự liên kết giữa các quốc gia ngày càng cao và cộng đồng quốc tế đã có công ước về quyền làm chủ của trẻ em. − Sự đoàn kết quốc tế ngày càng hiệu quả trên nhiều lĩnh vực. Giải trừ quân bị, tạo cơ hội cho tài nguyên phục vụ kinh tế, cải thiện phúc lợi xã hội. => Cả thế giới đang tích cực tạo mọi điều kiện thuận lợi. 4. Những điểm mà cả quốc gia và cộng đồng quốc tế đang nổ lực phối hợp hành động vì trẻ em: − Tăng cường sức khỏe và chế độ dinh dưỡng, phát triển giaùo duïc. − Quan tâm, chăm sóc nhiều cho trẻ tàn tật, hoành cảnh soáng ñaëc bieät khoù khaên. => Từ việc củng cố gia đình đến việc xây dựng môi trường xã hội, từ việc đảm bảo quyền bình đẳng nam nữ đến khuyến khích trẻ tham gia vào sinh hoạt văn hóa, xã hội nhằm nâng cao đời sống tinh thần,… cùng vì lợi ích và phát triển của trẻ em. 5. Tầm quan trọng của vấn đề bảo vệ, chăm sóc trẻ em, sự quan tâm của cộng đồng quốc tế đối với vấn đề này: − Bảo vệ quyền lợi, chăm lo sự phát triển của trẻ em là nhiệm vụ hàng đầu của quốc gia vừa có ý nghĩa cấp bách, vừa có yù nghóa quan troïng..

<span class='text_page_counter'>(16)</span> − Em hiểu được chủ trương chính sách qua hành động đối với việc bảo vệ và chăm sóc trẻ em => thể hiện trình độ văn minh cuûa xaõ hoäi. − Đây là vấn đề lớn, cấp bách được cộng đồng quốc tế quan tâm thích đáng bằng những chủ trương, nhiệm vụ đề ra rất cụ thể và toàn diện. * Dặn dò: HTL ghi nhớ SGK/35 ___________________________ CÁC PHƯƠNG CHÂM HỘI THOẠI (tt) I. BAØI HOÏC: 1. Quan hệ giữa phương châm hội thoại với tình huống giao tiếp. 2. Những trường hợp không tuân thủ phương châm hội thoại. II. LUYEÄN TAÄp: 1/38. Ơng bố không tuân thủ phương châm cách thức. Vì một đứa bé năm tuổi không thể nhận biết được “Tuyển tập truyện ngắn Nam Cao” để nhờ đó mà tìm quả bóng (cần chú ý đến tình huoáng giao tieáp). 2/38. Thái độ và lời nói của chân, tay, tai, mắt đã vi phạm phương châm này không có lý do chính đáng. Vì trong tình huống này, các vị khách không chào hỏi gì mà nói ngay với chủ nhà những lời lẽ giận dữ, nặng nề (trái với nghi thức giao tiếp thông thường). ________________________.

<span class='text_page_counter'>(17)</span> XƯNG HÔ TRONG HỘI THOẠI I. BAØI HOÏC: Từ ngữ xưng hô và việc sử dụng từ ngữ xưng hô? (HTL ghi nhớ SGK/39) II. LUYEÄN TAÄP: 1/39. Thay vì nói “chúng em” hoặc “chúng tôi” thì cô học viên người Châu Âu lại dùng “chúng ta” làm cho người đọc hiểu nhầm đây là lễ thành hôn giữa cô học viên và ông giáo sư. Vì trong tiếng Việt có sự phân biệt giữa phương tiện xưng hộ chỉ “ngôi gộp” (tức chỉ một nhóm ít nhất là hai người trong đó có người nói và cả người nghe như “chúng ta”) và phương tiện xưng hô chỉ “ngôi trừ” (tức chỉ một nhóm ít nhất là hai người, trong đó có người nói nhưng không có người nghe như “chúng tôi”, “chuùng em”) coøn trong tieáng Anh thì khoâng coù. 2/40. Vì: − Tăng tính khách quan cho những luận điểm khoa học. − Thể hiện sự khiêm tốn của tác giả (nhưng khi muốn nhaán maïnh caù nhaân thì neân xöng laø “toâi”). 3/40. Đứa bé gọi mẹ của mình theo cách gọi thông thường nhưng xưng hô với sứ giả thì sử dụng từ “ta –ông” -> cách xưng hô cho thấy Thánh Gióng là một đứa bé khác thường. 4/40..

<span class='text_page_counter'>(18)</span> Vị tướng, tuy đã trở thành nhân vật nổi tiếng, có quyền cao chức trọng, nhưng vẫn gọi thầy cũ của mình là “thầy” và xưng là “con” thể hiện thái độ kính cẩn và lòng biết ơn với thầy cũ => tôn sư trọng đạo. 5/40. Trước 1945, nước ta là nước phong kiến do vua đứng đầu. Vua không bao giờ xưng với dân mình là “tôi” mà là “trẫm”. Cách xưng hô của Bác thể hiện sự gần gũi, thân thiết giữa lãnh tụ và nhân dân => nước dân chủ. 6/41. Từ xưng hô của chị Dậu xưng với tên cai lệ -> sự phản kháng quyết liệt của người bị dồn đến đường cùng. Cai lệ với vợ chồng Chị Dậu -> sự trịch thượng hống haùch. ________________________ BAØI 4. CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG I. GIỚI THIỆU: 1. Tác giả: Nguyễn Dữ (chưa rõ năm sinh – mất) quê tỉnh Hải Döông. 2. Taùc phaåm: “Truyền kì mạn lục” (gồm 20 truyện bằng chữ Hán; nhân vật: phụ nữ/ trí thức. II. ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN: 1. Boá cuïc: 3 phaàn.

<span class='text_page_counter'>(19)</span> − Đoạn 1: Từ đầu …. cha mẹ đẻ mình -> cuộc hôn nhân giữa Trương Sinh và Vũ Nương, sự xa cách vì chiến tranh và phẩm hạnh của nàng trong thời gian xa cách. − Đoạn 2: “Qua năm sau… qua rồi” -> Nỗi oan khuất và caùi cheát bi thaûm cuûa Vũ Nương. − Đoạn 3: Phần còn lại: cuộc gặp gỡ giữa Phan Lang và Vũ Nương trong động Linh Phi . Vũ Nương được giải oan 2. Nhân vật Vũ Nương được miêu tả trong nhiều hoàn cảnh và những đức tính được bộc lộ: a) Thuở con gái: tính tình thùy mị nết na, tư dung tốt đẹp b) Khi làm vợ Trương Sinh: Luôn giữ gìn khuôn phép, không từng lúc nào để vợ chồng thất hòa -> Hòa thuận trong gia đình. c) Khi tieãn choàng ñi lính: − Khoâng troâng mong vinh hieån, coâng danh chæ mong chồng bình yên trở về. − Caûm thoâng noãi vaát vaû gian lao cuûa Trương Sinh. − Nỗi khắc khoải nhớ mong. − Yeâu thöông, lo laéng cho choàng. d) Khi xa choàng: − Thủy chung, yêu thương, chờ mong chồng. − Thuốc thang, chăm sóc lo tang cho mẹ chồng chu đáo. − Moät mình nuoâi daïy con thô. Vợ thủy chung, mẹ hiền, dâu thảo. e) Khi bò choàng nghi oan: − Phân trần để Trương Sinh hiểu..

<span class='text_page_counter'>(20)</span> − Đau đớn thất vọng khi bị đối xử bất công. − Thất vọng tột cùng, để tự minh oan Vũ Nương tự vẫn ở dòng Hoàng Giang. Xem troïng phaåm haïnh. => Người phụ nữ xinh đẹp, nết na, đảm đang tháo vát, hiếu thaûo, thuûy chung heát loøng vun ñaép haïnh phuùc gia ñình. 3. Vuõ Nöông phaûi chòu oan khuaát vì: − Cuoäc hoân nhaân coù phaàn khoâng bình ñaúng (Trương Sinh cưới vợ 100 lạng vàng, Vũ Nương con kẻ khó). − Trương Sinh tính cách đa nghi, lúc trở về mẹ mất. − Tình huống bất ngờ. Lời của Đản. − Cách xử sự hồ đồ độc đoán (không nghe vợ thanh minh, haøng xoùm khuyeân giaûi). => Thân phận của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến: xã hội phong kiến xem trọng quyền uy kẻ giàu, người đàn ông trong gia đình, người phụ nữ đức hạnh không được bênh vực mà còn chòu nhieàu baát coâng, oan nghieät. 4. Cách dẫn dắt tình tiết câu chuyện, những lời trần thuật, đối thoại trong truyện: Trên cơ sở cốt truyện có sẵn, tác giả sắp xếp một số tình tiết, thêm bớt hay tô đậm một số tình tiết có ý nghĩa, có tính quyết định đến quá trình diễn biến của truyện. Lời thoại và lời tự bạch của nhân vật đặt đúng chỗ góp phần không nhỏ cho vieäc khaéc hoïa taâm lyù, tính caùch nhaân vaät. 5. Những yếu tố kì ảo trong truyện:.

<span class='text_page_counter'>(21)</span> − Phan Lang naèm moäng roài thaû ruøa, Phan Lang laïc vaøo động rùa được đãi yến tiệc, gặp Vũ Nương, được rẽ nước đưa về döông theá. − Hình aûnh Vũ Nương veà traàn gian khi Trương Sinh laäp đàn gải oan. => Đưa những yếu tố kì ảo đan xen yếu tố thực (địa danh, thời điểm lịch sử, nhân vật sự kiện lịch sử, trang phục mỹ nhân..) làm cho thế giới kì ảo lung linh trở nên gần gũi cuộc đời thực, tăng độ tin cậy, khiến người đọc không cảm thấy ngỡ ngàng. * Dặn dò: HTL ghi nhớ SGK/51 CÁCH DẪN TRỰC TIẾP VAØ CÁCH DẪN GIÁN TIẾP I. BAØI HOÏC: 1. Cách dẫn trực tiếp 2. Cách dẫn gián tiếp: HTL Ghi nhớ SGK/54 II. LUYEÄN TAÄP: 1/54. a) “A! Lão già… này à?” -> lời dẫn trực tiếp. Đây là ý nghó maø nhaân vaät gaùn cho con choù. b) “Cái vườn… rẻ cả”… -> lời dẫn trực tiếp, là ý nghĩa của nhaân vaät. 2/54. a) – Tạo lời dẫn trực tiếp Trong “báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của đảng”, chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “chúng ta phải…” − Tạo câu có lời dẫn gián tiếp..

<span class='text_page_counter'>(22)</span> Trong “Baùo caùo chính… Hoà Chí Minh khaúng ñònh raèng chuùng ta phaûi……. b) – Tạo câu có lời dẫn trực tiếp: Trong “chuû tòch Hoà Chí Minh, tinh hoa vaø khí phaùch cuûa daân toäc, lương tâm thời đại” thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nêu rõ: “giản dò…..” − Tạo câu có lời dẫn gián tiếp: Trong “Chủ tịch… thời đại” thủ tướng … đã khẳng định rằng giản dò…. * Dựa vào đó học sinh tự viết đoạn văn. 3/55. (Hôm sau… đưa Phan Lang ra khỏi nước). Vũ Nương nhân đó cũng đưa gửi một chiếc hoa vàng và dặn Phan nói hộ với chàng Trương (rằng) nếu chàng Trương còn nhớ chút tình xưa nghĩa cũ, thì xin lập một đàn giải oan ở bến sông. Đốt đèn thần chiếu xuống nước, Vũ Nương sẽ trở về. ______________________________ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TỪ VỰNG I. BAØI HOÏC: Sự biến đổi và phát triển nghĩa của từ ngữ (HTL ghi nhớ SGK/56) II. LUYEÄN TAÄP: 1/56. a) Từ “chân” dùng với nghĩa gốc. b) Từ “chân” chuyển theo phương thức hoán dụ..

<span class='text_page_counter'>(23)</span> c) và d) chuyển theo phương thức ẩn dụ. 5/57……………… phép tu từ ẩn dụ. Không vì chỉ có tính chất lâm thời. 2/57. Trừ “trà” trong những cách dùng: Trà a-ti-sô, trà hà thủ ô, trà sâm, trà linh chi… (được dùng với nghĩa chuyển theo phương thức ẩn dụ) có nghĩa là sản phẩm từ thực vật, được chế biến thành dạng khô, dùng để pha uống. 3/57. Trong những cách dùng như “đồng hồ điện, đồng hồ nước, đồng hồ xăng… từ đồng hồ được dùng chuyển nghĩa theo phương thức ẩn dụ có nghĩa: Chỉ những khí cụ để đo có bề ngoài giống đồng hồ. 4/57. a) Hội chứng − Nghĩa gốc: Tập hợp nhiều triệu chứng xuất hiện của beänh. VD: Hội chứng miễn dịch mắc phải − Nghĩa chuyển: tập hợp nhiều hiện tượng, sự kiện biểu hiện một tình trạng, một vấn đề xã hội cùng xuất hiệt ở nhiều nôi. VD: lạm phát, thất nghiệp là hội chứng của tình trạng suy thoái kinh tế. b) Ngaân haøng − Nghĩa gốc: Tổ chức kinh tế hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh vaø quaûn lí caùc nghieäp vuï tieàn teä, tín duïng..

<span class='text_page_counter'>(24)</span> VD: Ngân hàng ngoại thương….. − Nghĩa chuyển 1: Kho lưu trữ những thành phần, bộ phận cơ thể để sử dụng khi cần. VD: Ngaân haøng maùu, ngaân haøng gen. − Nghĩa chuyển 2: Tập hợp các dữ liệu liên quan đến một lĩnh vực, được tổ chức để tiện tra cứu, sử dụng. VD: Ngân hàng đề thi,…. c) Soát − Nghĩa gốc: Tăng nhiệt độ cơ thể lên quá mức bình thường do bệnh. VD: bò soá 400. − Nghĩa chuyển: Trạng thái tăng đột ngột về nhu cầu, kiến hàng trở nên hiếm, gia tăng. VD: Cơn sốt đất, cơn sốt vàng… d) Vua Nghĩa gốc: Người đứng đầu nhà nước quân chủ. VD: Vua Leâ. Nghĩa chuyển: Người được coi là nhất trong một lĩnh vực nhất ñònh. VD: Vua bóng đá. _______________________ BAØI 5. CHUYEÄN CUÕ TRONG PHUÛ CHUÙA TRÒNH I. GIỚI THIỆU VĂN BẢN: 1. Taùc giaû: Phaïm Ñình Hoå (SGK) 2. Thể loại: Tùy bút.

<span class='text_page_counter'>(25)</span> II. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN: 1. a). Thoùi aên chôi xa xæ cuûa phuû chuùa: Xây nhiều đền đài, cung điện. − Thường xuyên yến tiệc dạo chơi (mỗi tháng ba bốn. lần); đông người hầu hạ (binh lính dàn hầu quanh bốn mặt hồ); bày trò lố lăng tốn kém (nội thần ăn mặc như đàn bà, bày bán quanh hoà). − Tìm thu vật quý trong thiên hạ để điểm tô phủ chúa nhưng thực chất là cướp đoạt (chúa đều ra sức thu lấy; cây đa cổ thụ cả cơ binh mới khiêng nổi). => Miêu tả cụ thể, chân thực, khách quan, kèm phép liệt kê đã khắc họa ấn tượng cảnh xa xỉ ở phủ chúa. b). Mỗi đêm thanh vắng, chim kêu vượn hót kêu khắp bốn bề, ồn ào như trận mưa ra gió táp, vỡ tổ tan đàn… kẻ thức giả biết đó là triệu bất tường.  Cảnh ở phủ chúa đã cố công bày vẻ cho đẹp vậy mà chỉ tạo cảm giác ghê rợn trước sự tan tác đau thương mang điềm gỡ, chaúng laønh. => Báo trước sự suy vong tất yếu của một triều đại chỉ lo hưởng lạc trên xương máu nhân dân. 2. Những thủ đoạn nhũng nhiễu dân lành của bọn quan lại trong phuû chuùa: − Ỷ thế nhà chúa mà hoành hành, tác oai tác quái “Nhờ gió bẻ măng, dò xem nhà nào có chậu hoa cây cảnh đẹp, chim tốt thì biên “phụng thủ”, đêm đến lẻn vào lấy đi rồi vu tội đem giấu vật cung phụng để dọa lấy tiền”..

<span class='text_page_counter'>(26)</span> => Vừa ăn cướp vừa la làng, người dân bị cướp của hai lần. − Người dân muốn tránh tai vạ phải tự hủy bỏ vật quý cuûa mình  Voâ lí, baát coâng. => Bọn quan lại sâu dân mọt nước được dung túng để làm caøn. * Dẫn chứng của tác giả về chuyện có thật ở nhà ông “Nhà ta ở… vì cớ ấy”- Bà mẹ của ông cho chặt 2 cây lựu quý để tránh tai vạ  chi tiết chân thực trên làm bài viết thêm phong phú và sinh động, tăng tính hiện thực => thái độ bất bình phê phán kín đáo. 3. Sự khác nhau giữa “tùy bút” và “truyện”: − Thể truyện: thường có cốt truyện và nhân vật. Cốt truyện được triển khai, nhân vật được khắc họa nhờ hệ thống chi tiết nghệ thuật phong phú đa dạng. Hiện thực cuộc sống được phản ánh qua số phận con người…. − Tùy bút: Ghi chép về con người, sự việc cụ thể có thật  bộc lộ cảm xúc, suy nghĩ, đánh giá của tác giả về con người, cuộc sống tùy theo cảm hứng chủ quan không gò bó … vẫn tuân theo cảm xúc chủ đạo. * Dặn dò: HTL ghi nhớ SGK/63. ____________________________. HOAØNG LÊ NHẤT THỐNG CHÍ.

<span class='text_page_counter'>(27)</span> I. GIỚI THIỆU: 1. Taùc giaû: Ngoâ Gia Vaên Phaùi 2. Thể loại: Thể chí (lối văn ghi chép sự vật – việc) 3. Vị trí đoạn trích: Hồi thứ 14 (17 hồi) II. TÌM HIEÅU VAÊN BAÛN: 1. − Đại ý đoạn trích: Miêu tả chiến thắng lẫy lừng của cua Quang Trung, sự thảm hại của quân Tướng nhà Thanh và số phận lũ vua quan phản nước, hại dân. − Boá cuïc: 3 phaàn (ghi trong SGK) 2. Hình tượng anh hùng Quang Trung: − Con người hành động mạnh mẽ, quyết đoán, xông xáo, nhanh goïn. + Ñònh “thaân chinh caàm quaân ñi ngay” + Trong một tháng ông đã:  Tế cáo trời đất, lên ngôi hoàng đế  Xuaát binh ra Baéc  Tuyeån moä binh lính  Mở cuộc duyệt binh ở Nghệ An  Phủ dụ tướng sĩ  Định kế hoạch hành quân và cả kế hoạch đối phó với nhà Thanh sau khi chiến thắng. => Làm việc có chủ đích, quả quyết, lo xa, hành động mạnh mẽ. − Trí tueä saùng suoát nhaïy beùn:.

<span class='text_page_counter'>(28)</span> + Phân tích tình hình thời cuộc và thế tương quan giữ ta vaø ñòch. + Sáng suốt nhạy bén trong việc dùng người − YÙ chí quyeát thaéng vaø taàm nhìn xa roäng: + Mới xuất binh đã khẳng định sẽ thắng. + Tính kế hoạch ngoại giao − Taøi duøng binh nhö thaàn: + 4 ngày (ngày 25-29/tháng chạp) vượt đèo núi đi 350km Hueá Ngheä An (ñi boä) + Ngaøy 30 thaùng chaïp xuaát quaân heïn 07/1 (aâm lòch) aên tết ở Thăng Long. + Ñi xa, quaân luoân chænh teà. − Hình ảnh lẫm liệt trên chiến trường: + Là tổng chỉ huy chiến dịch thực sự. + Đội quân thắng những trận đánh đẹp.  Người anh hùng được khắc họa đậm nét với tính cách quả caûm, maïnh meõ, trí tueä saùng suoát, nhaïy beùn, taøi duøng binh nhö thần, là người tổ chức và là linh hồn của chiến công vĩ đại. 3.. Sự thảm bại của quân Thanh và vua tôi nhà Lê:. a) Bọn quân tướng nhà Thanh: − Tôn Sĩ Nghị: bất tài kiêu căng, tự mãn, chủ quan, khinh địch, cho quân lính mặc sức ăn chơi. − Khi quân Tây Sơn đánh tới nơi, sợ mất mật, ra hàng. − Khi thua trận và bị rượt đuổi, giẫm đạp lên nhau chạy..

<span class='text_page_counter'>(29)</span> b) Số phận thảm hại của bọn vua tôi nhà Lê phản nước, hại daân: − Đem vận mệnh dân tộc đặt vào tay kẻ thù xâm lược: “cõng rắn cắn gà nhà”, “rước voi giày mả tổ”. − Khoâng coøn tö caùch cuûa quaân vöông  Tình cảnh khốn khổ của vua Lê (chạy theo đám tàn quân của giaëc, bò boû rôi). 4.. Ngoøi buùt mieâu taû 2 cuoäc thaùo chaïy (Quaân Thanh vaø vua. toâi Leâ Chieâu Thoáng) raát khaùc bieät: − Đoạn tả quân Thanh: Nhịp điệu nhanh mạnh, hối hả “Ngựa không kịp…. Người không kịp… hoảng hồn, tan tác bỏ chạy… tranh nhau qua… xô đẩy..”  Miêu tả khách quan nhưng vẫn hàm chứa vẻ hả hê sung sướng của người thắng trận. − Đoạn tả vua tôi nhà Lê: Nhịp điệu chậm, miêu tả tỉ mỉ: những giọt nước mắt của người Thổ hào, nước mắt tủi hổ của vua Lê… âm hưởng ngậm ngùi, chua xót. => Tất cả đều tả thực với những chi tiết cụ thể nhưng âm điệu khác nhau. * Dặn dò: HTL ghi nhớ SGK/72 SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TỪ VỰNG (tt) I. BAØI HOÏC: 1. Tạo từ ngữ mới 2. Mượn từ: HTL 2 Ghi nhớ SGK/73-74 II. LUYEÄN TAÄP:.

<span class='text_page_counter'>(30)</span> 1/74. − X+điện tử: Thư điện tử , giáo dục điện tử, thương mại điện tử, báo điện tử, cân điện tử… − X + Hoùa: OÂ-xi hoùa, thöông maïi hoùa, coâng nghieäp hoùa, hiện đại hóa… 2/74. − Cơm bụi: cơm giá rẻ, bán ở hàng quán nhỏ, tạm bợ. − Công viên nước: Công viên chủ yếu là những trò chơi dưới nước. − Thöông hieäu: nhaõn hieäu thöông maïi. − Đường cao tốc: đường được xây dựng chuẩn đặc biệt dành cho xe cơ giới chạy tốc độ cao. − Kinh tế: (ở bài trước đã học) 3/74. Từ mượn ngôn ngữ châu Âu: xà phòng, ô tô, ra-đi-ô, ô xi, caø pheâ, ca noâ. ( Các từ coøn laïi laø goác Haùn) 4/74. − Phaùt trieån veà nghóa: − Phát triển về số lượng từ ngữ: tạo từ ngữ mới hoặc mượn tiếng nước ngoài.  Phải thay đổi. ________________________ BAØI 6. TRUYEÄN KIEÀU CUÛA NGUYEÃN DU I. NHỮNG NÉT CHÍNH VỀ TÁC GIẢ: 1. Cuộc đời:.

<span class='text_page_counter'>(31)</span> − Sinh 1765 maát 1820 − Sinh trưởng trong một thời đại có nhiều biến động lịch sử. − Xuất thân trong một gia đình quý tộc, nhiều đời làm quan vaø coù truyeàn thoáng vaên hoïc. − Baûn thaân coù voán soáng phong phuù vaø nhieàu naêm soáng phieâu baït neân thaáu hieåu noåi khoå cuûa nhaân daân. − Được cử làm chánh sứ sang Trung Quốc. 2. Sự nghiệp sáng tác: Một thiên tài văn học với nhiều tác phẩm có giá trị bằng chữ Hán lẫn chữ Nôm, các sáng tạo đều thấm đẫm tinh thần nhân đạo chủ nghĩa lớn – xuất sắc nhất là “Đoạn đường tân thanh” - Truyeän Kieàu. II. TAÙC PHAÅM TRUYEÄN KIEÀU: 1. Giới thiệu: Phóng tác từ tiểu thuyết chữ Hán “Kim Vân Kiều truyện” cuûa taùc giaû Trung Quoác laø Thanh Taâm Taøi Nhaân. Nguyeãn Du chuyển tác phẩm về thể thơ lục bát của dân tộc và chữ Nôm, với tên tác phẩm “Đoạn trường tân thanh” hay thường gọi là “Truyeän Kieàu”. 2. Toùm taét taùc phaåm: Thúy Kiều là một thiếu nữ tài sắc xuất thân từ một gia ñình trung löu löông thieän, naøng coù hai em laø Thuùy Vaân vaø Vöông Quan. Trong buoåi du xuaân nhaân teát thanh minh, naøng gaëp văn nhân tài hoa Kim Trọng (bạn học của Vương Quan). Giữa họ.

<span class='text_page_counter'>(32)</span> đã nảy nở mối tình đẹp và hai người đã tự do đính gước với nhau. Khi Kim Troïng veà queâ thoï tang chuù, gia ñình Kieàu bò maéc oan, nàng phải bán mình chuộc cha nên nhờ em gái là Thúy Vân thay mình lấy Kim Trong để trả nghĩa. Nàng rơi vào tay bọn buôn người: Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh; Kiều trở thành gái lầu xanh. Ở đây, nàng được Thúc Sinh – khách hàng chơi hào phóng – chuộc ra. Nhưng Kiều bị vợ cả của Thúc Sinh ghen tuông, đày đọa. Nàng trốn vào nương nhờ cửa phật với sự cưu mang của sư Giác Duyên. Vô tình sư gửi Kiều cho Bạc Hà – kẻ buôn người – Kiều lại rơi vào lầu xanh. Lần này, nàng gặp Từ Hải – Một người anh hùng – cứu vớt và giúp nàng báo oán trả ân. Vì cả tin tên trọng thần Hồ Tôn Hiến, Kiều vô tình hại Từ Hải bị giết. Kiều phải hầu đàn rựu cho hắn mừng chiến công và bị ép gả cho viên thổ quan. Đau đớn tủi nhục Kiều nhảy sông Tiền Đường tự vẫn và lại được sư Giác Duyên cứu. Kim trọng dù kết duyên với Thúy Vân nhưng trong lòng vẫn thương nhớ người tình xưa, chàng đi tìm Kiều, họ gặp nhau, gia đình đoàn tụ. Chiều ý mọi người trong gia đình, Kim – Kiều nối duyên nhưng nguyện ước xem nhau laø “duyeân baïn baày” * Daën doø: HTL taùc giaû Nguyeãn Du. ______________________________ CHỊ EM THUÙY KIỀU Trích “Truyện Kiều” I. GIỚI THIỆU: 1. Vị trí đoạn trích: Đoạn thơ ở phần đầu của tác phẩm..

<span class='text_page_counter'>(33)</span> 2. Bố cục – kết cấu đoạn thơ: − Bốn câu đầu: giới thiệu khái quát về hai chị em. − Bốn câu tiếp: gợi tả vẻ đẹp của Thúy Vân. − Mười hai câu tiếp: gợi tả sắc và tài của Kiều. − Boán caâu cuoái: Nhaän xeùt chung cuoäc soáng cuûa hai chò em. II. ĐỌC – HIỂU ĐOẠN THƠ: 1. Giới thiệu vẻ đẹp của hai chị em: − Tố nga -> xinh đẹp − Mai cốt cách, tuyết tinh thần => ước lệ, mượn thiên nhiên tả con người => gợi tả vẻ đẹp duyên dáng, thanh cao, trong trắng của hai chị em (vẻ đẹp lí tưởng). 2. Vẻ đẹp của Thúy Vân: − Trang trọng khác vời  Vẻ đẹp cao sang, quí phái − Các đường nét: Khuôn mặt (khuôn trăng), mái tóc (mây thua), làn da (tuyết nhường), nụ cười (hoa), giọng nói (ngọc thoát)…  Ẩn dụ, nhân hóa, so sánh, liệt kê với những thứ cao quý, xinh đẹp nhất trên đời.  Vẻ đẹp quý phái. => Vẻ đẹp của Vân tạo sự hòa hợp, êm đềm với xung quanh cuộc đời bình lặng, suông sẻ. 3. Vẻ đẹp của Thúy Kiều: a) Saéc:.

<span class='text_page_counter'>(34)</span> − Làn thu thủy  mắt trong, đẹp như nước mùa thu − Neùt xuaân sôn  loâng maøy thanh tuù nhö neùt nuùi muøa xuaân. => Ước lệ, đặc tả, từ ngữ mang giá trị tuyệt đối vẻ đẹp sắc nét, trẻ trung, tươi tắn,sống động  Thiên nhiên phải hờn, ghen (hoa ghen, liễu hờn)  nhân hóa. b) Taøi: − Thi, hoïa, ca, ngaâm ña taøi. − Cung thöông…. moät tröông  Cực tả tài năng (tài đánh đàn “là sở trường, năng khiếu trên đời khó ai sánh kịp). − Cung đàn “bạc mệnh” (Kiều tự sáng tác) chính là sự ghi laïi tieáng loøng cuûa moät traùi tim ña saàu, ña caûm. Nguyeãn Du như dự báo trước số phận éo le. Đau khổ của Kiều. 4. Ca ngợi đức hạnh của hai chị em: − Êm đềm trướng rủ màn che − Ong bướm…… mặc ai => Khẳng định phẩm chất tốt đẹp. * Dặn dò: HTL đoạn thơ và ghi nhớ SGK/85 ______________________________ CAÛNH NGAØY XUAÂN Trích “Truyeän Kieàu” – Nguyeãn Du I. GIỚI THIỆU: 1. Vị trí đoạn trích: − Sau đoạn tả tài, sắc chị em Kiều..

<span class='text_page_counter'>(35)</span> − Đoạn trích tả cảnh hai chị em đi chơi xuân trong tiết thanh minh. 2. Kết cấu đoạn trích: Thời gian của cuộc du xuân. − 4 câu đầu: Khung cảnh ngày xuân − 8 caâu tieáp: Khung caûnh leã hoäi. − 6 câu cuối: Cảnh chị em Kiều du xuân trở về. II. ĐỌC – HIỂU ĐOẠN THƠ 1. Bức tranh thiên nhiên ngày xuân: + Chim én đưa thoi  thời gian trôi mau + Thiều quang  ánh sáng đẹp.  Vừa nói thời gian vừa gợi tả không gian ngày xuân trôi mau, tiết trời sang tháng ba. − Bức họa mùa xuân: + Cỏ non xanh tận chân trời + Caønh leâ traéng ñieåm……. vaøi boâng hoa  Gợi tả màu sắc, đường nét hài hòa  Maøu xanh cuûa coû non traûi roäng laøm neàn, hoa leâ traéng ñieåm xuyết gợi sự hài hòa: mới mẻ, tinh khôi, giàu sức sống, khoáng đạt, trong trẻo. 2. Caûnh leã hoäi trong tieát thanh minh: − Leã taûo moä − Hội đạp thanh − Các từ ghép + Tính từ: gần xa, nô nức  gợi tả tâm trạng náo nức của người đi hội..

<span class='text_page_counter'>(36)</span> + Danh từ: yến anh, tài tử, giai nhân  gợi sự đông vui, naùo nhieät. + Động từ: sắm sửa, dập dìu  gợi sự náo nhiệt  Không khí nhộn nhịp vui tươi, tấp nập. Nhất là những tài tử giai nhaân. 3. Cảnh chị em du xuân trở về: − Bóng ngã về tây  thời gian và không gian thay đổi nhạt dần, mờ dần. − Tà tà, thơ thẩn, thanh thanh, nao nao  từ láy  vừa miêu tả khung cảnh thiên nhiên, vừa bộc lộ tâm trạng con người bâng khuaâng xao xuyeán veà moät ngaøy xuaân saép taøn vaø linh caûm coù ñieàu gì saép xaûy ra. * Dặn dò: HTL đoạn thơ + ghi nhớ SGK/87 ______________________________ THUẬT NGỮ I. BAØI HOÏC 1. Khái niệm: Thuật ngữ là gì? 2. Đặc điểm của thuật ngữ: HTL 2 ghi nhớ SGK/88-89 II. LUYEÄN TAÄP: 1/89. a) Lực. (Vaät lí). b) Xâm thực. (Ñòa lí). c) Hiện tượng hóa học. (Hoùa hoïc). d) Di chæ. (Lịch sử).

<span class='text_page_counter'>(37)</span> e) Thụ phaán. ( Sinh hoïc). f) Lưu lượng. ( Ñòa líù). g) Trọng lực. (Vaät Lí). h) Khí aùp. (Ñòa lí). i) Đôn chaát. (Hoùa hoïc). j) Thò toäc phuï heä. (Lịch sử). k) Đường trung trực. (Toán học). 2/90. “Điểm tựa” là một thuật ngữ vật lí, có nghĩa: điểm cố định của một đòn bẩy, thông qua đó lực tác động được truyền tới lực cản. Trong đoạn trích này, “điểm tựa” không được dùng như thuật ngữ vật lí. Ở đây, “điểm tựa” chỉ nơi làm chỗ dựa chính. 3/90. a. Câu a: Từ “hỗn hợp” được dùng như thuật ngữ. b. Câu b: Từ “hỗn hợp” dùng theo nghĩa thông thường Đặt câu: Cháo dinh dưỡng là thức ăn hỗn hợp dành cho trẻ em. 4/90. − Định nghĩa từ “cá” theo thuật ngữ sinh học: cá là động vật có xương sống, ở dưới nước, bơi bằng vây, thở bằng mang. − Theo cách hiểu thông thường của người Việt (thể hiện qua cách gọi cá voi, cá heo) cá không nhất thiết phải thở bằng mang. 5/90 ..

<span class='text_page_counter'>(38)</span> Không vi phạm nguyên tắt một thuật ngữ, một khái niệm đã nêu ở phần ghi nhớ. Vì hai thuật ngữ này được dùng ở hai lĩnh vực khoa học riêng biệt, chứ không phải trong cùng một lĩnh vực. ________________________________ MIÊU TẢ TRONG VĂN TỰ SỰ I. BAØI HOÏC: HTL ghi nhớ SGK/92. II. LUYEÄN TAÄP: 1/92. Gợi ý: a) Tả người trong đoạn “chị em Thúy Kiều”: − Thúy Vân chỉ tả sắc -> gợi tương lai êm đềm. − Tả Kiều cả sắc lẫn tài, cách gợi tả dự báo trước cuộc đời đầy trắc trở. * Nghệ thuật: Thủ pháp so sánh, ước lệ tượng trưng -> thủ pháp quen thuoäc vaø noåi baät của thô coå. b) Tả cảnh trong đoạn “Cảnh ngày xuân” tác giả đã chọn những chi tiết rất tiêu biểu của cảnh ngày xuân. HS dựa vào 2 văn bản đoạn trích đã học để làm câu này. 2+3*/92. Giáo viên hướng dẫn học sinh tự làm. _________________________________ BAØI 7. KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH I. ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN: 1. Vị trí đoạn trích: Rơi vào lầu xanh, Kiều định tự vẫn. Tú Bà dụ ngọt nàng và đưa đến lầu Ngưng Bích để chờ cơ hội..

<span class='text_page_counter'>(39)</span> 2. Kết cấu đoạn thơ: − 6 cầu đầu: hoàn cảnh cô đơn tội nghiệp của Kiều. − 8 câu kế: Nỗi nhớ thương Kim Trọng (4 câu) và cha mẹ (4 caâu) − 8 caâu cuoái: Taâm traïng ñau buoàn, aâu lo theå hieän qua caùch nhìn caûnh vaät. II. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN: 1. Hoàn cảnh cô đơn tội nghiệp của Kiều: − Non xa, traêng gaàn − Caùt vaøng, buïi hoàng  Khoâng gian meânh moâng hoang vaéng -> taâm traïng coâ ñôn cuûa Kieàu. − Mây sớm đèn khuya  Thời gian tuần hoàn khép kín như giam hãm con người. Kiều rơi vào hoàn cảnh cô đơn tuyệt đối. 2. Nỗi lòng thương nhớ những người thân yêu: a) Nhớ Kim Trọng (4 câu trên) − Tưởng người dưới nguyệt chén đồng − Tin sương……….. rày trông mai chờ − Tấm son…………..bao giờ cho phai. => Ngôn ngữ độc thoại nội tâm  Kiều nhớ buổi thề nguyền đính ước năm xưa, nhớ về Kim Trọng với tâm trạng đau xót. Tình yeâu thaém thieát vaãn veïn nguyên trong tim naøng. b) Nhớ cha mẹ (4 câu dưới) − Tựa cửa hôm mai..

<span class='text_page_counter'>(40)</span> − Quạt nồng ấp lạnh thành ngữ − Sân lai, gốc tử  điển cố – cha mẹ già − Cách mấy nắng mưa  thời gian xa cách đã lâu. => Nghĩ tới song thân Thúy Kiều thươngvà xót (thương cha mẹ già ngóng tin mình và xót xa lúc cha mẹ đã già mà không được chăm sóc). 3. Noãi buoàn coâ ñôn tuyeät voïng: − Điệp ngữ: Buồn trông -> điệp khúc của tâm trạng, tạo âm hưởng trầm buồn. − Cửa bể chiều hôm − Thấp thoáng cách buồn xa xa Nhớ quê hương, gia đình − Noäi coû raàu raàu − Chân mây mặt đất…. màu xanh xanh  Những tháng này sống vô vọng (màu xanh gợi không gian voâ taän) − Ngọn nước mới sa − Hoa troâi man maùc Số phận mình sẽ như cánh hoa trôi giữa dòng nước -> nổi trôi voâ ñònh. − Gioù cuoán maët dueành. − Ầm aàm tieáng soùng…… quanh gheá ngoài Kiều dự cảm quãng đời giông tố sắp ập đến.  Điệp ngữ liên hoàn, từ láy, tả cảnh ngụ tình nỗi buồn cô đơn, đau đớn, bế tắc, xót xa, tuyệt vọng..

<span class='text_page_counter'>(41)</span> * Dặn dò: HTL đoạn thơ, ghi nhớ SGK/93,96 _________________________________ MAÕ GIAÙM SINH MUA KIEÀU I. ĐỌC HIỂU CHÚ THÍCH: Vị trí đoạn trích: thuộc phần “gia biến và lưu lạc” – mở đầu kiếp đoạn trường của Thúy Kiều. II. TÌM HIEÅU VAÊN BAÛN: 1. Nhaân vaät Maõ Giaùm Sinh: a) Ngoại hình: − Lai lịch: + Vieãn khaùch + Hoûi teân raèng: Maõ Giaùm Sinh + Hoûi queâ: Huyeän Laâm Thanh cuõng gaàn khoâng roõ raøng. − Lời nói: + Hoûi teân raèng: “Maõ Giaùm Sinh” + Hoûi queâ raèng: “Huyeän…..) Cộc lốc, thô lỗ, vô lễ (không thưa gửi, đầu đuôi, chủ ngữ) − Dieän maïo: + Ngoại tứ tuần + Maøy raâu nhaün nhuïi + Áo quaàn baûnh bao Chải chuốt, lố lăng, sai lệch tuổi  không phù hợp − Cử chỉ, thái độ: + Gheá treân ngoài toùt soã saøng.

<span class='text_page_counter'>(42)</span> + Thầy tớ lao xao Bất lịch sự, hỗn hào, trơ trẽn.  Tả thực, ngôn ngữ miêu tả trực diện hoàn chỉnh về diện mạo, tính cách, là loại người vô học, mang nét điển hình về bản chaát cuûa boïn löu manh, giaû doái, baát nhaân. b) Baûn chaát. − Giả dối từ lai lịch đến tướng mạo, tính danh, tuổi tác. − Baát nhaân, vì tieàn -> baûn chaát con buoân. + Ñaén do caân saéc caân taøi. + Ép cung cầm nguyệt, thử bài…. + Cò kè bớt một thêm hai + Ngaõ giaù. Lột trần cuộc hôn nhân giả dối  thực chất là cuộc mua bán. Vì tiền mà chà đạp lên nhân phẩm, số phận con người. 2. Hình aûnh Thuùy Kieàu: − Một bước… lệ mấy hàng − Ngại ngùng dợn gió e sương − Ngừng hoa….. thẹn, trông gương mặt dày  Đau đớn, tái tên trước hoàn cảnh của mình  Đáng thương khi bị xem là món hàng 3. Tấm lòng nhân đạo của tác giả: − Toá caùo xaõ hoäi phong kieán: * Xem trọng đồng tiền (sức mạnh vô song của đồng tiền chà đạp nhân phảm, số phận người lương thiện). * Baát nhaân, taøn baïo, dung tuùng keû baát löông.

<span class='text_page_counter'>(43)</span> − Thương cảm, xót xa trước số phận con người bị chà đạp. * Dặn dò: HTL đoạn thơ, ghi nhớ SGK/97,99 ________________________________ TRAU DỒI VỐN TỪ I. BAØI HOÏC: 1. Rèn luyện để nắm vững nghĩa của từ và cách dùng: 2. Rèn luyện để làm tăng vốn từ: HTL 2 ghi nhớ SGK/100,101. II. LUYEÄN TAÄP: 1/101. − Haäu quaû. (b). − Đoạt. (a). − Tinh tuù. (b). 2/101. a) Tuyeät: a1: Dứt, không còn gì − Tuyeät chuûng: bò maát haún gioáng noøi − Tuyệt giao: cắt đứt giao thiệp − Tuyệt tự: không có người nối dỗi. − Tuyệt thực: nhịn đói không chịu ăn để phản dối – một hình thức đấu tranh. a2: Cực kì, nhất: − Tuyệt đỉnh: điểm cao nhất, mức cao nhất − Tuyệt mật: cần được giữ bí mật tuyệt đối.

<span class='text_page_counter'>(44)</span> − Tuyệt tác: tác phẩm văn học, nghệ thuật hay, đẹp đến mức coi như không còn có thể có cái hơn. − Tuyệt trần: nhất trên đời, không có gì sánh bằng. b). đồng:. b1: Cuøng nhau, gioáng nhau: − Đồng âm: có âm giống nhau − Đồng bào: những người cùng một giống nòi, một dân tộc, một tổ quốc – với hàm ý có quan hệ thân thiết như ruột thịt. − Đồng bộ: phối hợp với nhau một cách nhịp nhàng. − Đồng chí: người cùng chí hướng chính trị. − Đồng dạng: có một dạng như nhau − Đồng khởi: cùng vùng dậy dùng bạo lực để phá ách kìm keïp. − Đồng môn: cùng học một thầy, một trường hoặc cùng moân phaùi. − Đồng niên: Cùng một tuổi. − Đồng sự: cùng làm việc ở một cơ quan – nói về những người ngang hàng với nhau. b2: Treû em − Đồng ấu: Trẻ em khoảng 6-7 tuổi − Đồng dao: lời hát dân gian của trẻ em, − Đồng thoại: truyện viết cho trẻ em. b3: (Chất) đồng − Trống đồng: nhạc khí gõ thời cổ, hình cái trống, đúc bằng đồng, trên mặt có chạm những họa tiết trang trí..

<span class='text_page_counter'>(45)</span> 3/102. − Dùng sai từ “im lặng” (từ này dùng để nói về con người, cảnh tượng con người) (nhưng có thể nói: “ Đường phố ơi! Hãy im lặng.” vì được nhân hóa). Thay từ “im lặng” bằng: yên tĩnh, vắng lặng, tĩnh lặng, …. − Dùng sai từ “thành lập” (từ này có nghĩa: lập nên, xây dựng nên một tổ chức như nhà cửa, đảng, công ty,…) Thay từ “thành lập” bằng “thiết lập” (Quan hệ ngoại giao không phải là một tổ chức). − Dùng sai từ “cảm xúc” (sự rung động trong lòng do tiếp xúc với sự việc gì). Thay từ “cảm xúc” bằng “xúc động, cảm phục”. 4/102. Bình luaän yù kieán cuûa Cheá Lan Vieân Tiếng Việt của ta là một ngôn ngữ trong sáng và giàu đẹp. Điều đó được thể hiện trước hết qua ngôn ngữ của những người nông dân. Muốn gìn giữ sự trong sáng và giàu đẹp của ngôn ngữ dân tộc phải học tập lời ăn tiếng nói của họ. 5/103. Dựa vào ý kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, em sẽ thực hiện những việc sau đây để làm giàu vốn từ: − Chú ý quan sát, lắng nghe lời nói hằng ngày của những người xung quanh và trên các phương tiện thông tin đại chúng như đài phát thanh, truyền hình, báo chí…..

<span class='text_page_counter'>(46)</span> − Đọc sách báo, nhất là những tác phẩm văn học mẫu mực của những nhà văn nổi tiếng. − Ghi chép lại những từ mới đã nghe được, đọc được. Gặp những từ ngữ khó không tự giải thích được thì tra từ điển hoặc hỏi người khác, nhất là hỏi thầy, cô giáo. - Tập sử dụng những từ mới trong hoàn cảnh giao tiếp thích hợp. 6/103. a) Ñieåm yeáu b) Muïc ñích cuoái cuøng c) Đề bạt d) Laùu taùu e) Hoảng loạn 7/103. a) Nhuận bút: tiền trả cho người viết một tác phẩm. Đặt câu: Chúng tôi kính mời tác giả của bài viết “Tiếp sức mùa thi” đến tòa soạn nhận nhuận bút. Thù lao : trả công/khoản tiền trả công để bù đắp vào sức lao động đã bỏ ra. (Nghóa cuûa “thuø lao” roäng hôn “nhuận bút”). Đặt câu: Một giờ lao động của công nhân được trả thù lao ba nghìn đồng là quá thấp. b) Tay traéng: khoâng coù chuùt voán lieáng, cuûa caûi gì. Đặt câu: Công ty của anh ấy bị phá sản, anh ấy – giám đốc – trở thành kẻ trắng tay..

<span class='text_page_counter'>(47)</span> c) Kiểm điểm: Xem xét, đánh giá lại từng cái hoặc từng việc để có được nhận định chung. Ñaët caâu: Toâi phaûi vieát baûn kieåm ñieåm noäp cho coâ giaùo vì hành vi thiếu trung thực trong giờ kiểm tra. Kiểm kê: Kiểm lại từng cái, từng món để xác định số lượng và chất lượng của chúng. Đặt câu: Cửa hàng hôm nay đóng cửa để kiểm kê. d) Lược khảo: nghiên cứu một cách khái quát về những cái chính, khoâng ñi vaøo chi tiết. Đặt câu: Đây là văn bản báo cáo mang tính lược khảo về vấn đề “chung sống với lũ ở đồng bằng sông Cửu Long”. Lược thuật : kể, trình bày tóm tắt Đặt câu: Phóng viên Văn Thông của báo Tuổi Trẻ lược thuật về tình hình chiến sự ở Li- Băng đã kịp thời cung cấp cho độc giả những thông tin nóng hổi về cuộc chiến ở đây. 8/104. a). Từ ghép − Bảo đảm – đảm bảo − Khổ cực- cực khổ − Thöông yeâu – yeâu thöông − Đợi chờ – chờ đợi − Ñôn giaûn – giaûn ñôn − Yeâu daáu – daáu yeâu − Dòu hieàn – hieàn dòu. b) Từ láy.

<span class='text_page_counter'>(48)</span> − Toái taêm – taêm toái − Đớn đau – đau đớn − Nhớ nhung – nhung nhớ − Tha thieát – thieát tha − Hững hờ – hờ hững − Mịt mờ – mờ mịt 9/104. − Baát. : baát bieán, baát coâng, baát dieät, baát chính. − Bí. : bí maät, bí danh, bí aån, bí quyeát. − Ña. : đa diện, đa đảm, đa giác, đa nghĩa. − Ñe à. : đề bạt, đề nghị, đề cao, đề xuất. − Gia. : gia coá, gia haïn, gia vò. − Giaùo. : giaùo vieân, giaùo huaán, giaùo khoa, giaùo sö. − Hoài. : hoài höông, hoài sinh, hoài taâm. − Khai. : khai buùt, khai hoang, khai giaûng. − Quaûng. : quảng giao, quảng cáo, quảng đại. − Suy. : suy nhược, suy thái, suy tàn. − Thuaàn1. : (roøng, khoâng pha taïo): thuaàn khieát, thuaàn chuûng.. − Thuû. : thuû khoa, thuû lónh, thuû tröông. − Thuaàn2 (thaät): thuaàn haäu, thuaàn phaùt − Thuûy. : thủy chiến, thủy lợi, thủy điện.. − Thuần3 (dễ bảo): thuần dưỡng, thuần phục − Tö − Trữ. : tư hữu, tư lợi, tư nhân : trữ lượng, lưu trữ, tích trữ.

<span class='text_page_counter'>(49)</span> − Trường. : trường ca, trường chinh. − Troïng. : trọng tâm, trọng đại, trọng điểm. − Voâ. : voâ boå, voâ bieân, voâ chuû, voâ danh. − Xuaát. : xuaát baûn, xuaát chinh, xuaát gia. − Yeáu. : yếu điểm, yếu nhân, yếu lược.. _____________________________ BAØI 8. LỤC VÂN TIÊN CỨU KIỀU NGUYỆT NGA I. ĐỌC – HIỂU CHÚ THÍCH: 1. Taùc giaû: − Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) ở Gia Định. − Nhà thơ yêu nước, chống ngoại xâm − Cuộc đời đầy nghị lực 2. Những tác phẩm chính: Luïc Vaân Tieân, Vaên Teá Nghóa Só Caàn Giuoäc, Ngö tieàu y thuật vấn đáp,… 3. Taùc phaåm Luïc Vaân Tieân: − Là truyện thơ Nôm sáng tác những năm 50 của thế kỉ 19. − Vaên baûn hieän coù 2082 caâu thô luïc baùt 4. Toùm taét vaên baûn: 4 phaàn − Phần 1: Lục Vân Tiên đánh cướp cứu Kiều Nguyệt Nga. − Phần 2: Lục Vân Tiên gặp nạn và được cứu giúp − Phaàn 3: Kieàu Nguyeät Nga vaãn một loøng chung thuûy − Phaàn 4: Luïc Vaân Tieân vaø Kieàu Nguyeät Nga gặp nhau.

<span class='text_page_counter'>(50)</span> => Kết cấu chương hồi -> với mục đích truyền bá đạo lí làm người. 5. Xuất xứ: Sau phần giới thiệu về gia đình Lục Vân Tiên, Vân Tiên đi thi. II. TÌM HIEÅU VAÊN BAÛN: 1. Hình aûnh Luïc Vaân Tieân: a) Với bọn cướp: − Beû caây laøm gaäy − Tả đột hữu xông  Lục Vân Tiên hành động theo bản chất của người anh hùng nghĩa hiệp. Dù không có vũ khí nhưng sẵn sàng cứu giúp người bò naïn. b) Với Kiều Nguyệt Nga: − Hoûi “Ai than khoùc…” Cái dõng dạc của người làm việc nghĩa – “Vân Tiên nghe nói động lòng”  Trọng nghĩa và cũng rất từ tâm nhân hậu. − “Khoan khoan ngoài…… ta laø phaän trai”  Cách xử sự của người có văn hóa, biết giữ lễ. − “Vaân Tieân nghe noùi….. phi anh huøng”  Làm việc nghĩa là bổn phận, lẽ đương nhiên của con người troïng nghóa khinh taøi..

<span class='text_page_counter'>(51)</span>  Với những nét tính cách đó, Lục Vân Tiên là một hình ảnh đẹp, hình ảnh lí tưởng mà Nguyễn Đình Chiểu gửi gắm niềm tin và ước vọng của mình. 2. Hình aûnh Kieàu Nguyeät Nga: − Xưng hô: quân tử, tiện thiếp − Nói năng: văn vẻ, dịu dàng, mực thức. − Trình bày vấn đề: rõ ràng, khúc chiết − Là người chịu ơn cứu mạng – cả cuộc đời trong trắng, áy náy, ăn năn tìm cách trả ơn dù hiểu rằng không thể nào trả đủ ôn saâu. Là cô gái khuê các, thùy mị, có học thức, sống ân nghĩa, thuûy chung. 3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật Nhân vật được bộc lộ qua ngôn ngữ, lời nói, cử chỉ, hành động Vì truyện lưu truyền bằng cách kể thơ, nói thơ (nhân vật gây ấn tượng cho người đọc chủ yếu qua hành động, lời nói,…)  Truyện Lục Vân Tiên gần với truyện dân gian 4. Ngôn ngữ của tác giả trong đoạn trích: − Ngôn ngữ mộc mạc, bình dị mang đậm sắc thái Nam Boä, gaàn guõi nhaân daân. − Thiếu trau chuốt nhưng phù hợp ngôn ngữ người kể chuyện, tự nhiên dễ đi vào quần chúng. − Ngôn ngữ đa dạng, phù hợp với diễn biến, tình tiết. * Dặn dò: HTL tiểu sử tác giả, đoạn trích, ghi nhớ _____________________.

<span class='text_page_counter'>(52)</span> LUÏC VAÂN TIEÂN GAËP NAÏN I. ĐỌC HIỂU CHÚ THÍCH: 1. Vị trí đoạn trích: Nằm ở phần II của truyện 2. Boá cuïc: 2 phaàn − 8 câu đầu − 32 caâu coøn laïi 3. Chủ đề của đoạn trích: Sự đối lập giữa cái thiện và cái ác (8 câu đầu là hành động tội ác của Trịnh Hâm và 32 câu sau miêu tả việc làm nhân đức, cuộc sống trong sạch, nhân cách cao cả của ông Ngư). II. TÌM HIEÅU VAÊN BAÛN: 1. Nhaân vaät Trònh Haâm: a) Hành động tội ác: − Ñeâm khuya….. − Trònh Haâm + Ra tay + Giả tiếng kêu trời + Cho người… lời phui pha => Với âm mưu sắp đặt kỹ lưỡng, chặt chẽ: lợi dung đêm khuya để có những hành động bất nhân, bội nghĩa hòng gây tội ác dã man với Lục Vân Tiên. b) Động cơ gây tội ác: − Đố kị, ganh ghét tài năng, lo cho con đường tiến thân..

<span class='text_page_counter'>(53)</span> − Lục Vân Tiên đã bị mù vẫn tìm cách hãm hại. => Sự ác độc đã ngấm vào máu thịt, trở thành bản chất. 2. Vieäc laøm cuûa oâng Ngö: a) Hành động: − Vớt ngay lên bờ − Hối con vầy lửa − OÂng hô buïng, muï hô maët  Lời thơ mộc mạc, ngôn ngữ bình dị  Gợi tả được sự chân tình, tốt bụng của gia đình ông Ngư. b) Lời nói: − Người ở cùng ta − …………với nhà cho vui − Ngö raèng………….traû ôn  Lời nói chân tình, tha thiết Thaáy vieäc nghóa thì laøm, khoâng toan tính c) Cuoäc soáng : − Raøy doi, mai vònh − Ngày kia hứng gió, đêm này chơi trăng ….. thong thả, ngheâu ngao, vui thaàm, thung dung…..  Thích tự do phóng thoáng, thoát ra ngoài vòng danh lợi. Một lối sống thơ mộng, chân thực.  Ông Ngư đã thể hiện những phẩm chất tốt đẹp của người lao động bình thường, bao dung, nhân ái, hào hiệp và sống cuộc sống đẹp chan hòa cùng thiên nhiên. 3. Chọn đoạn thơ em thích và cảm nhận…...

<span class='text_page_counter'>(54)</span> Ñoạn thô “Raøy doi………………….. ………………….Haøn Giang” − Ý tứ phóng thoáng sâu xa − Lời lẽ thanh thoát, uyển chuyển − Hình ảnh thơ đẹp, gợi cảm − Một khoảng thiên nhiên cao rộng (doi, vịnh, chích, đầm, bầu trời, đất, gió, trăng). − Con người hòa nhập trong thế giới thiên nhiên ấy (vui vaày, thung dung…)  Ta coù caûm giaùc nhö chính taùc giaû ñang nhaäp thaân vaøo nhaân vật để nói lên khát vọng sống và niềm tin yêu cuộc đời. * Dặn dò: HTL đoạn thơ, ghi nhớ ____________________________ BAØI 9. TỔNG KẾT TỪ VỰNG I. TỪ ĐƠN VAØ TỪ PHỨC 1. a). Từ đơn: là từ chỉ gồm 1 tiếng tạo thành. b). Từ phức: là những từ gồm hai hay nhiều tiếng. + Từ ghép: Là những từ phức được tạo ra = cách ghép các tiếng có quan hệ với nhau về nghĩa. + Từ láy: là những từ phức có quan hệ âm giữa các tiếng. 2. Từ ghép. Từ láy. - Ngặt nghèo, giam giữ. Nho nhoû, gaät guø, laïnh luøng,. - Boù buoäc, töôi toát. xa xoâi, laáp laùnh. - Boït beøo, coû caây.

<span class='text_page_counter'>(55)</span> - Đưa đón, nhường nhịn - Rôi ruïng, mong muoán 3. Từ láy giảm nghĩa. Từ láy tăng nghĩa. Traêng traéng. Saïch saønh sanh. Đèm đẹp. Saùt saøn saït. Nho nhoû. Nhaáp nhoâ. Laønh laïnh Xoâm xoáp II. THAØNH NGỮ 1. Thành ngữ: là loại cụm từ có cấu tạo cố định, biểu thị một ý nghĩa hoàn chỉnh. 2. a). Thành ngữ Câu b: đánh đống bỏ dùi: làm việc không đến nơi đến chốn, bỏ dở, thiếu trách nhiệm. Câu d: “Được voi đòi tiên” tham lam, được cái nầy lại muoán caùi khaùc hôn. Câu e: “Nước mắt cá sấu” sự cảm thông, thương xót giả dối nhằm đánh lừa người khác. b). Tục ngữ Câu a: “Gần mực……….sáng” : hoàn cảnh, môi trường xã hội có ảnh hưởng quan trọng đến tính cáh, đạo đức. Câu c: “Chó trèo mèo đậy”: Muốn giữ gìn thức ăn, với chó thì phải treo lên, với mèo thì phải đậy lại”. 3. a). Hai thành ngữ có yếu tố chỉ động vật.

<span class='text_page_counter'>(56)</span> − “ Cưỡi ngựa xem hoa”: qua loa, đại khái, không tìm hieåu kó. − “Đổi thay nhạn yến”: thời gian đã được một năm b). Hai thành ngữ có yếu tố chỉ thực vật − “Cạn tàu ráo máng”: chỉ sự đối xử tàn nhẫn, thiếu tình nghĩa giữa người với người. − “Đơm đó ngọn tre”: chế giễu người nào mong đợi những điều viễn vông. HS tự đặt câu. 4. Việc sử dụng thành ngữ trong văn chương: a) “Vợ chàng quỉ quái tinh ma” b) Phen naøy keû caép baø giaø gaëp nhau. (Truyeän Kieàu – Nguyeãn Du) “Kieán boø mieäng cheùn chöa laâu” Mưa sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa. (Truyeän kieàu – Nguyeãn Du) c) Thân em vừa trắng lại vừa tròn Bảy nổi ba chìm với nước non. (“Bánh trôi nước” – Hồ Xuân Hương) II. NGHĨA CỦA TỪ 1. Nghĩa củ từ: là nội dung sự vật, hoạt động, tính chất, quan hệ mà từ biểu thị. 2. Chọn cách đúng Choïn caùch (a).

<span class='text_page_counter'>(57)</span> 3. Chọn cách (b) là đúng vì: cách giải thích (a) vi phạm một nguyên tắc quan trọng phải tuân thủ khi giải thích nghĩa của từ. Vì đã dùng một cụm từ có nghĩa thực thể (đức tính rộng lượng, dễ cảm thông với người có sai lầm và dễ tha thứ – cụm danh từ) để giải thích cho một từ chỉ đặc điểm, tính chất (độ lượng – tính từ). IV. TỪ NHIỀU NGHĨA VAØ HIỆN TƯỢNG CHUYỂN NGHĨA CỦA TỪ 1. a). Từ nhiều nghĩa: là những từ mang sắc thái ý nghãi khác nhau do hiện tượng chuyển nghĩa. b). Chuyển nghĩa: Là hiện tượng thay đổi nghĩa của từ để tạo nên những từ nhiều nghĩa. 2. Từ “hoa” trong “ lệ hoa” và “thềm hoa” được dùng theo nghĩa chuyển. Tuy nhiên không thể coi đây là hiện tượng chuyển nghĩa làm xuất hiện tượng chuyển nghĩa vì nghĩa chuyển từ “hoa” là nghĩa lâm thời, nó chưa thể làm thay đổi nghĩa của từ, chưa thể đưa vào từ điển. II. TỪ ĐỒNG ÂM a). Từ đồng âm: là những từ giống nhau về âm thanh nhưng nghĩa khác nhau, không liên quan gì đến nhau. b). Khaùc nhau: Từ đồng âm Là những từ giống nhau. Từ đồng nghĩa. Là những từ có âm thanh. veà aâm thanh nhöng nghóa khaùc nhau nhöng nghóa gioáng khaùc xa nhau, khoâng lieân nhau..

<span class='text_page_counter'>(58)</span> quan gì đến nhau. 2. a). Lá (lá phổi) là kết quả chuyển nghĩa của từ “lá” (lá xa caønh) b). Từ “đường” Là hiện tượng đồng âm. VI. TỪ ĐỒNG NGHĨA 1. Từ đồng nghĩa: Là những từ có nghĩa giống nhau hay gần gioáng nhau. 2. Choïn caùch hieåu (d) 3. “ Xuân”: Chỉ mùa xuân trong năm, khoảng thời gian tương ứng 1 tuổi (lấy bộ phận chỉ toàn thể (hoán dụ) => thể hiện tinh thần lạc quan, để tránh lập từ “tuổi tác”. VII. TỪ TRÁI NGHĨA 1. Từ trái nghĩa: là những từ có nghĩa trái ngược nhau. 2. Cặp từ trái nghĩa: Xấu – đẹp; xa – gần ; rộng – hẹp. 3. Nhoùm 1: − Soáng – cheát − Chaún – leû − Chieán tranh – hoøa bình => Nhóm này là trái nghĩa đối lập nhau Nhoùm 2: − Giaø – treû − Cao – thaáp − Noâng – saâu.

<span class='text_page_counter'>(59)</span> − Giaøu – ngheøo => Khaúng ñònh caùi naøy khoâng coù nghóa phuû ñònh caùi kia. VIII. CẤP ĐỘ KHÁI QUÁT NGHĨA CỦA TỪ 1. Khái niệm: Là nghĩa của một từ ngữ có thể rộng hơn (khái quát hơn) hay hẹp hơn (ít khái quát) nghĩa của từ ngữ khác (nghóa roäng, nghóa heïp). 2. Vieát trong SGK IX. TRƯỜNG TỪ VỰNG 1. Trường từ vựng: là tập hợp của những từ có ít nhất một nét chung veà nghóa. 2. Tác giả dùng từ “tắm” và “bể” => tăng giá trị biểu cảm của câu nói: có sức tố cáo mạnh mẽ. BAØI 10. ĐỒNG CHÍ I. GIỚI THIỆU: 1. Tác giả: Chính Hữu (Trần Đình Đắc) SGK. 2. Hoàn cảnh sáng tác: Khi tác giả cùng đơn vị tham gia chiến dòch Vieät Baéc. (Thu Ñoâng 1947). II. TÌM HIEÅU VAÊN BAÛN: 1. Cơ sở của tình đồng chí: Queâ anh. cuøng. laøng toâi. nước mặn. queâ. nghèo đất. đồng chua. ngheøo. cày lên sỏi đá. Ra traän  quen nhau  thaønh tri kæ.

<span class='text_page_counter'>(60)</span> 1.  Tương đồng về cảnh ngô, cùng giai cấp. 2.  “Súng bên súng, đầu sát bên đầu Ñeâm reùt chung chaên…. tri kæ”  Cùng mục đích, lí tưởng  xa lạ  tập hợp trong quân ngũ  quen nhau. 3.  Cuøng chung nhieäm vuï.  Hình ảnh chân thực, gợi cảm, từ ngữ bình dị  giới thiệu hoàn cảnh xuất thân, tình đồng đội đã nảy nở, bền chặt, cùng chung nhieäm vuï taïo neân tình tri kæ thaâm saâu. 2. Cảm nhận về từ “Đồng Chí” ở câu 7: Câu thơ chỉ một từ với hai chữ “Đồng Chí” kết hợp với dấu chấm than cuối câu tạo một nốt nhấn, vang lên như một sự phát hiện, một lời khẳng định đồng thời như một bản lề gắn kết đoạn đầu và đoạn sau. 3. Những biểu hiện cụ thể của tình đồng chí: − Ruộng nương …………… gửi……………… − Gian nhaø………………………….maëc keä……………. − Giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính => Sự cảm thông những tâm tư, nỗi lòng của nhau và cùng gác cái riêng vì nghĩa lớn (nghệ thuật dùng từ, nhân hóa, ẩn dụ…) − Anh – tôi biết từng cơn ớn lạnh − Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi − AÙo anh – raùch vai − Quaàn toâi – vaøi maûnh vaù − ………..cười buốt giá.

<span class='text_page_counter'>(61)</span> − Chaân khoâng giaøy => Xây dựng những câu thơ sóng đôi, đối ứng nhau, liệt kê tả thực, từ gợi tả, ngôn ngữ bình dị => cùng chia sẻ gian lao thiếu thốn của cuộc đời người lính. - Thöông nhau tay naém laáy baøn tay => Vừa thể hiện tình cảm gắn bó vừa gián tiếp thể hiện sức maïnh cuûa tình caûm. 4. Vẻ đẹp và hình ảnh của người lính trong ba câu thơ cuối: Coù 3 hình aûnh gaén keát Người lính. khaåu suùng. vaàng traêng. − Sức mạnh tình đồng chí đã giúp họ vượt lên tất cả những cái khắc nghiệt của thời tiết và mọi thiếu thốn gian khổ, đã sưởi ấm lòng họ. − Người lính trong lúc phục kích giữa rừng khuya còn có người bạn là “vầng trăng” − “Đầu súng trăng treo” là hình ảnh được nhận ra từ những đêm hành quân phục kích của chính tác giả. Mang ý nghĩa biểu tượng được gợi ra với những liên tưởng phong phuù. − Hình ảnh “Đầu súng trăng treo” Suùng – traêng.

<span class='text_page_counter'>(62)</span> Gaàn vaø xa. chieán só. thực tại. chaát. trữ tình Vaø thi só. vaø mô moäng. tình vaø Chiến đấu. => Biểu tượng thơ ca kháng chiến (chất hiện thực và lãng mạn).. 5. Bài thơ viết về tình đồng đội của những người lính được đặt tên là “Đồng chí” vì: Có cùng chung lí tưởng, chí hướng: “Đấu tranh vì Tổ quốc” thì những con người xa lạ mới tụ về và là đồng đội của nhau nên họ gọi nhau hai tiếng thiêng liêng “Đồng chí” -> cũng là ngầm khẳng định lí tưởng cách mạng của họ. 6. Hình ảnh anh bộ đội thời kháng Pháp − Xuất thân từ nông dân, sẵn sàng bỏ lại tất cả ra đi vì nghĩa lớn. − “Mặc kệ” nói lên cái dứt khoát, mạnh mẽ mang dáng dấp “trượng phu” nhưng họ vẫn nặng lòng với làng quê, không hề vô tình “giếng nước…. ra lính” − Trải qua gian lao vẫn lạc quan, sáng lên nụ cười. * Dặn dò: HTL tác giả, bài thơ, ghi nhớ _______________________________ BAØI THƠ VỀ TIỀU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH I. ĐỌC HIỂU CHÚ THÍCH: 1. Taùc giaû: Phaïm Tieán Duaät (1941) Phuù Thoï. (SGK).

<span class='text_page_counter'>(63)</span> 2. Xuất xứ: Bài thơ nằm trong chùm thơ của Phạm Tiến Duật được tặng giải I cuộc thi thơ của báo văn nghệ 1969 – được trích trong tập thơ “Vầng trăng quầng lửa” II. TÌM HIEÅU VAÊN BAÛN: 1 .a) Nhan đề bài thơ: − Nhan đề có vẻ thừa nhưng lại thu hút người đọc ở cái vẻ lạ, độc đáo của nó. Nhan đề đã làm nổi bật hình ảnh cả bài. − Hình ảnh “những chiếc xe không kính” trong bài thơ là một phát hiện thú vị của tác giả -> am hiểu + gắn bó hiện thực chieán tranh. − Hai chữ “bài thơ” tác giả muốn nói về chất thơ của cái hiện thực ấy, chất thơ của tuổi trẻ hiên ngang. b) Hình ảnh độc đáo trong bài thơ: “ Những chiếc xe không kính” vốn không hiếm trong chiến tranh nhưng phải có hồn thơ nhạy cảm với nét ngang tàng, tinh nghịch, thích cái lạ như Phạm Tiến Duật mới nhận ra được và đưa nó vào hình tượng thơ độc đáo thời kháng Mỹ. 2. a) Hình ảnh những chiếc xe không kính đã làm nổi bật hình ảnh người lính Trường Sơn..

<span class='text_page_counter'>(64)</span> Hình aûnh. Những chiếc xe không kính. những người lính lái xe.  Bom đạn, khói lửa. trên tuyến đường. chieán tranh. Trường Sơn.  Miêu tả thực. Ung dung. baát chaáp. tình. Hieân ngang. khoù khaên. đồng đội. yù chí chiến đấu. b) Hình ảnh người lính lái xe − Tư thế hiên ngang, dũng cảm, coi thường gian khổ. − Có tâm hồn sôi nổi, có tình đồng chí. − Ý chí chiến đấu, giải phóng miền Nam − Thiếu đi những phương tiện vật chất tối thiểu lại là dịp để họ bộc lộ những phẩm chất cao đẹp, sức mạnh tinh thần lớn lao, duõng caûm, baát chaáp khoù khaên. => Gioïng thô ngang taøng, caâu thô gaàn chaát caâu vaên xuoâi -> hình ảnh những chiếc xe không kính đã làm nổi rõ những phẩm chất tốt đẹp của người lính. 3. Ngheä thuaät cuûa baøi thô:.

<span class='text_page_counter'>(65)</span> − Gioïng thô ngang taøng, baát chaáp gian khoå theå hieän roõ trong cấu trúc được lập lại “Ừ thì”, “Chưa cần”… những chi tiết “phì pheøo”, “ha ha”,… − Thể thơ, kết hợp rất linh hoạt thể 7 chữ và 8 chữ  tạo bài thơ có điệu thơ gần với lời nói tự nhiên, sinh động. => Tác giả diễn tả gợi cảm, cụ thể những ấn tượng cảm giác của người lính  người đọc có thể hình dung rõ ràng những ấn tượng, cảm giác ấy như chính mình đang ở trên chiếc xe. 4. a). Cảm nghĩ của em về thế hệ trẻ thời kháng Mỹ qua hình ảnh người lính trong bài thơ: Họ là những người trẻ tuổi giàu tình yêu nước và bầu nhiệt huyết, sự hăng say. Khó khăn, nguy hiểm, thiếu thốn với họ chỉ là môi trường để trui rèn họ trở nên cứng cáp. Họ anh dũng, hiên ngang trước mưa bom, bão đạn. Họ thật đẹp mà cũng thaät bình dò gaàn guõi. b) So sánh hình ảnh người lính trong bài này và bài ‘Đồng Chí”. Ở “Đồng chí” người lính xuất thân từ tầng lớp cùng khổ – nông dân- họ chỉ mới ở giai đoạn “nhận đường” Họ đầu quân cũng vì độc lập dân tộc  Mục đích chiến đấu cao cả. Người lính trong baøi naøy cuõng theá nhöng hoï coù nieàm haêng say, nhieät huyeát, dũng cảm của tuổi trẻ. Ở họ đậm chất lính. Tóm lại, mục đích chiến đấu thì họ hoàn toàn giống nhau, cùng chịu đựng gian khổ như nhau. Nhưng họ khác nhau về phong cách có thể do giai đoạn chiến đấu khác..

<span class='text_page_counter'>(66)</span> * Dặn dò: HTL tác giả, bài thơ, ghi nhớ. KIỂM TRA VỀ TRUYỆN TRUNG ĐẠI Có đầy đủ trong tài liệu cô phát ôn thi giữa kì ______________________________________ TỔNG KẾT VỀ TỪ VỰNG (tt) I.. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TỪ VỰNG. 1.. Các cách phát triển từ vựng. PT nghĩa của từ. PT số lượng từ ngữ Từ ngữ mới. Từ vay mượn. được cấu tạo. của nước ngoài. 2. Tìm dẫn chứng minh họa a) Phát triển từ vựng bằng cách phát triển nghĩa của từ: ñau coå (nghóa goác) coå aùo, coå chai Coå. coåphaàn,. nghóa chuyeån. Cổ động viên. b) Phát triển từ vựng bằng cách tăng số lượng từ ngữ. − Tạo từ mới: Rừng phòng hộ, sách đỏ, thị trường chứng khoáng, sàn giao dịch, cư dân mạng,….

<span class='text_page_counter'>(67)</span> − Mượn từ ngữ của tiếng nước ngoài: côta (quota), chat, in-ter-neùt,… 3. Không. Nếu không có sự phát triển nghĩa thì mỗi từ chỉ có moät nghóa.. Để đáp ứng yêu cầu ngày càng tăng của người. bản ngữ thì số lượng từ ngữ sẽ tăng lên gấp nhiều lần => Đó chỉ là một giả định không xảy ra đối với một ngôn ngữ nào trên thế giới. Nói cách khác, mọi ngôn ngữ nhân loại đều phát triển từ vựng theo tất cả những cách thức đã nêu. II. TỪ MƯỢN: 1. Khái niệm: Là từ vay mượn của tiếng nước ngoài để biểu thị những sự vật, hiện tượng, đặc điểm… mà tiếng Việt chưa có từ thật thích hợp để diễn đạt. 2. Choïn câu c. 3. Những từ: săm, lốp (bếp) ga, xăng, phanh,… tuy là vay mượn nhưng nay đã được Việt hóa hoàn toàn về âm, nghĩa và cách dùng những từ này không khác gì so với từ thuần Việt. − Còn những từ: Axit, ra – đi – ô, vi ta min.. là những từ vay mượn nhưng còn mang nét ngoại lai -> chưa được Việt hóa hoàn toàn.Mỗi từ được cấu tạo bởi nhiều âm tiết và mỗi âm tiết trong từ chỉ có chức năng cấu tạo vỏ âm thanh cho từ chứ không coù nghóa. III. TỪ HÁN VIỆT: 1. Khái niệm: Từ Hán Việt là những từ gốc Hán được phát âm theo kiểu người Việt. 2. Chọn câu đúng:(b).

<span class='text_page_counter'>(68)</span> IV. THUẬT NGỮ VAØ BIỆT NGỮ XÃ HỘI: 1. Khaùi nieäm: a.Thuật ngữ: Là những từ biểu thị khái niệm khoa học công nghê và được dùng trong các văn bản khoa học, công nghệ. b. Biệt ngữ xã hội: là những từ ngữ được dùng trong một tầng lớp xã hội nhất định. 2. Vai trò của thuật ngữ trong đời sống hiện nay: − Chúng ta đang sống trong thời đại khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ và có ảnh hưởng đến đời sống con người. − Trình độ dân trí không ngừng nâng cao − Nhu cầu giao tiếp, nhận thức của mọi người về những vấn đề khoa học, công nghệ tăng lên chưa từng thấy. => Thuật ngữ đóng vai trò quan trọng và ngày càng quan troïng hôn. 3. Liệt kê một số từ ngữ là biệt ngữ xã hội: Trúng tủ, cúp cua, trượt vỏ chuối, đội sổ, cháy giáo án, cậu, mợ….. V. TRAU DỒI VỐN TỪ: 1. Các hình thức trau dồi vốn từ: − Rèn luyện để biết rõ nghĩa của từ và cách dùng từ − Rèn luyện để làm tăng vốn từ về số lượng. 2. Giải thích nghĩa của từ: − Bách khoa toàn thư: từ điển bách khoa, ghi đầy đủ tri thức của các ngành..

<span class='text_page_counter'>(69)</span> − Baûo hoä maäu dòch: (Chính saùch) baûo veä saûn xuaát trong nước chống lại sự cạnh tranh của hàng hóa nước ngoài trên thị trường nước mình. − Dự thảo: thảo ra để đưa thông qua (động từ) bản thảo để đưa thông qua (danh từ). − Đại sứ quán: Cơ quan đại diện chính thức và toàn diện của một nhà nước ở nước ngoài, do một đại sứ đặc mệnh toàn quyền đứng đầu (khác lãnh sự quán). − Hậu duệ: con cháu của người đã chết. − Khẩu khí: khí phách của con người được toát ra từ lời noùi. − Môi sinh: môi trường sống của sinh vật. 3. Sửa lỗi dùng từ: a) Sai từ “béo bổ”  từ này chỉ tính chất cung cấp nhiều chất bổ dưỡng cho cơ thể.  Sửa lại “béo bở”: dễ mang lại nhiều lợi nhuận b) Dùng sai “đạm bạc”: Có ít thức ăn, toàn thứ rẻ tiền, chỉ đủ ở mức tối thiểu. Sửa lại “tệ bạc”: không nhớ gì ơn nghĩa, không giữ trọn tình nghĩa trước sau trong quan hệ xã hội. Dùng sai “tấp nập”: gợi tả quang cảnh đông người. c). qua lại không ngớt. Sửa lại “tới tấp”: liên tiếp, dồn dập, các này chưa qua, cái khác đã đến. ______________________________________.

<span class='text_page_counter'>(70)</span> BAØI 11. ĐOAØN THUYỀN ĐÁNH CÁ I. GIỚI THIỆU: 1. Taùc giaû: Huy Caän (1919-2005) SGK 2. Hoàn cảnh sáng tác: Baøi thô saùng taùc naêm 1958 khi mieàn Baéc ñang ñi leân xaây dựng chủ nghĩa xã hội và tác giả đi thực tế ở vùng mỏ Quảng Ninh. II. TIEÀM HIEÅU BAØI THÔ: 1. a). Boá cuïc: 3 phaàn − Phần 1: Hai khổ đầu: cảnh đoàn thuyền ra khơi − Phần 2: 4 khổ giữa: cảnh hoạt động của đoàn thuyền đánh cá giữa cảnh biển trời đêm. − Phần 3: khổ cuối: đoàn thuyền trở về. b) Thời gian và không gian được miêu tả trong bài thơ − Thời gian: là nhịp tuần hoàn của vũ trụ từ lúc hoàng hôn đến bình minh, cũng là thời gian của một chuyến ra khơi rồi trở về của đoàn thuyền đánh cá: mặt trời xuống biển, cả trời đất vào đêm, trăng lên cao, đêm thở, sao lùa… rồi sao mờ, mặt trời đội biển nhô lên trong một ngày mới => Điểm nhịp thời gian cho công việc của đoàn thuyền đánh cá là nhịp tuần hoàn của thieân nhieân, vuõ truï. − Không gian: rộng lớn, bao la với mặt trời, biển, trăng, sao, maây, gioù. 2. Vẻ đẹp của hình ảnh người lao động: Bài thơ kết hợp hai nguồn cảm hứng:.

<span class='text_page_counter'>(71)</span> − Về lao động − Veà thieân nhieân – vuõ truï. Hình ảnh người lao động và công việc của họ. − Caâu haùt caêng buoàm cuøng gioù khôi − Thuyeàn ta……….bieån baèng − Đoàn thuyền ……………..mặt trời. => Người lao động và công việc của họ: ở đây là đoàn thuyền được đặt vào không gian rộng lớn của biển trời, trăng sao.  Tăng kích thước, vị thế, tầm vóc của con người (nghệ thuật phóng đại kết hợp liên tưởng mạnh, bất ngờ -> sáng tạo hình ảnh người lao động)  Sự hài hòa giữa người lao động và thiên nhiên, vũ trụ còn thể hiện ở sự nhịp nhàng giữa thời gian của thiên nhiên, vũ trụ và trình tự công việc của con người. − Mặt trời lặn -> đoàn thuyền ra khơi => đều đặn thường xuyeân. − Ra khôi: gioù laøm laùi, traêng laøm buoàm, goõ thuyeàn ñuoåi cá vào lưới cũng theo nhịp trăng sao. − Đêm sắp tàn, lưới sắp kéo, bình minh lên, mặt trời đội biển  đoàn thuyền trở về, khoang cá nặng và đoàn thuyền vẫn đua cùng mặt trời. => Cảm hứng lãng mạn hòa quyện trong những hình ảnh về thiên nhiên, vũ trụ tạo nên vẻ đẹp tráng lệ mà vẫn gần gũi với con người kết hợp với sự liên tưởng độc đáo, thú vị, các phép tu.

<span class='text_page_counter'>(72)</span> từ (so sánh, nhân hóa, phóng đại…) giọng thơ sôi nổi, tươi vui, khoûe khoaén. 3. Những hình ảnh tráng lệ thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động: a) Caûnh bieån vaøo ñeâm (khoå 1) “Mặt trời xuống biển…. sập cửa” => Thiên nhiên vừa rộng lớn vừa gần gũi với con người. “Đoàn thuyền ………..gió khơi” Câu hát cùng sự phấn khởi của con người đã hòa cùng gió biển đẩy thuyền ra khơi. b) Cảnh đoàn thuyển đánh cá trên biển (khoå 3,5 vaø 7) − “Thuyeàn ta…………. vaây giaêng” Con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé trước biển cả bao la trở thành kì vó, khoång loà: laùi gioù, buoàm traêng, maây caùo, bieån baèng, doø buïng bieån, daøn ñan theá traän,… − Ta haùt… traêng cao − Sao mờ… cá nặng => Công việc lao động nặng nhọc của người đánh cá đã thành bài ca đầy niềm vui, nhịp nhàng cùng thiên nhiên. c) Hình ảnh đẹp lộng lẫy của các loài cá trên biển (khổ 4, 6). − Caù thu………………….luoàng saùng − Caù song………… vaøng choùe − Vaåy baïc………………raïng ñoâng − Maét caù………………….daëm phôi..

<span class='text_page_counter'>(73)</span> => Bức tranh sơn mài lung linh, huyền ảo (dệt biển, lấp lánh, quẫy trăng, vàng chóe, vẩy bạc, đuôi vàng…)của những loài cá biển giữa ánh trăng sao. 4. Bài thơ là một khúc ca của người lao động (những ngư dân) với âm hưởng khỏe khoắn sôi nổi, phơ phới, bay bổng; lời thơ dõng dạc; điệu thơ như khúc hát say mê hào hứng (“hát” xuất hiện 4 lần), cách gieo vần biến hóa linh hoạt. 5. …………….cái nhìn và cảm xúc của tác giả trước thiên nhiên và con người lao động mới: Miền Bắc tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội -> đất nước đổi mới con người từ thân phận nô lệ đứng lên làm chủ bản thân và vận mệnh đất nước. Thời đại mới, cuộc sống mới làm bừng tỉnh con người và thiên nhiên cây cỏ, đất trời,……, tất cả đều tràn trề sức sống. . Dặn dò: HTL bài thơ, ghi nhớ, tác giả. _______________________________ BẾP LỬA I. GIỚI THIỆU: 1. Taùc giaû: teân thaät: Nguyeãn Vieät Baèng (1941) queâ Haø Taây (SGK) 2. Hoàn cảnh ra đời của bài thơ: − Sáng tác năm 1963 khi tác giả học ngành luật ở Liên Xoâ. − Trích trong tập thơ “Hương cây – Bếp lửa” – tập thơ đầu tay của tác giả và Lưu Quang Vũ..

<span class='text_page_counter'>(74)</span> II. TÌM HIEÅU VAÊN BAÛN: 1.. a). Bài thơ là lời của đứa cháu nay đã trưởng thành hồi. tưởng và suy ngẫm về hình ảnh người bà và bếp lửa b). boá cuïc: 4 phaàn − Phần 1: 3 dòng đầu (khổ 1) là phần mở đầu: Hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cho dòng hồi tưởng, cảm xúc về bà. − Phần 2: (Bốn khổ tiếp theo) hồi tưởng những kỉ niệm tuổi thơ sống bên bà và hình ảnh bà gắn liền với bếp lửa. − Phần 3: ( Khổ 6) suy ngẫm về bà và cuộc đời bà. − Phần 4: (Khổ cuối) người cháu đã trưởng thành, đi xa nhưng không nguôi nhớ về bà. 2. a). Hồi tưởng về bà và tình bà cháu Bếp lửa Chờm vờn sương sớm. aáp iu nồng đượm.  Khôi nguoàn caûm xuùc cho maïch thô. − Đói mòn đói mỏi  điệp ngữ  gợi nhớ về bà − Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy − Giặc đốt làng − Cháu cùng bà nhóm lửa Tuổi thơ có bóng đen ghê rợn của nạn đói 1945, có mối lo giặc đốt phá làng xóm, “Mẹ và cha đi công tác bận không về” cháu sống trong sự cưu mang dạy dỗ của bà và sớm có ý thức tự laäp.  Kỉ niệm về bà và tuổi thơ cùng với hình ảnh bếp lửa..

<span class='text_page_counter'>(75)</span> − Chỉ nhớ khói…………mắt cháu − Nghó laïi……….. soáng muõi coøn cay. − …………bếp lửa bà nhen. => Bếp lửa hiện diện như tình bà ấm áp, như chỗ dựa tinh thaàn. b) Những suy ngẫm về bà và hình ảnh bếp lửa: − Lận đận đời bà − Vẫn giữ thói quen dậy sớm  Sự tần tảo, đức hy sinh, chăm lo cho mọi người. Bếp lửa ấp iu Nhoùm. Nieàm yeâu thöông Cả những tâm tình tuổi thơ.  Bếp lửa bà nhóm lên mỗi sớm mai là nhóm lên niềm yêu thương, niềm vui sưởi ấm, san sẻ. 3. Phân tích hình ảnh bếp lửa ý nghĩa: Laø tình baø aám noùng Beáp. Laø baøn tay baø chaêm chuùt. lửa. Gắn với những khó khăn gian khổ đời bà Ngày ngày bà nhóm bếp lửa là nhóm niềm vui, sự sống, niềm yêu thương dành cho con cháu và mọi người. Tác giả cảm nhận được trong hình ảnh “bếp lửa” bình dị,. thân thuộc mà thiêng liêng “ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa”. 4.. Là người nhóm lửa Người bà. Là người giữ lửa.

<span class='text_page_counter'>(76)</span> Còn là người đã truyền lửa – ngọn lửa của sự sống, của niềm tin cho caùc theá heä noái tieáp. Tác giả nhận ra một điều sâu xa: bếp lửa được nhen lên không phải chỉ bằng nhiên liệu bên ngoài mà chính là nhen lên từ ngọn lửa trong lòng bà:ngọn lửa của sức sống, lòng yêu thöông, nieàm tin. 5. Giaù trò ngheä thuaät vaø noäi dung cuûa baøi thô (caâu hoûi phuï khoâng có ở SGK): a) Ngheä thuaät − Kết hợp nhuần nhuyễn giữa biểu cảm với tự sự và bình luaän. − Sáng tạo hình ảnh bếp lửa gắn với hình ảnh người bà, làm điểm tựa khơi gợi mọi kỉ niệm, cảm xúc và suy nghĩ về tình baø chaùu. − Ngôn ngữ mộc mạc, chân thành giản dị như lời thủ thỉ tâm sự. b) Noäi dung: − Qua hồi tưởng và suy ngẫm cảu người cháu đã trưởng thành, bài thơ gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động của tình bà chaùu. − Bài thơ thể hiện lòng kính yêu trân trọng và biết ơn đối với bà. Và quê hương đất nước. 6. (Caâu 5 SGK).

<span class='text_page_counter'>(77)</span> − Caûm nhaän cuûa em veà tình baø chaùu trong baøi thô: tình baø chaùu yeâu thöông saâu naëng. Baø heát loøng yeâu thöông, chaêm chuùt hi sinh cho chaùu. Coøn chaùu thì cuõng heát loøng yeâu thöông kính troïng và biết ơn bà. Dù sau này cháu đã trưởng thành, đi xa nhưng hình ảnh người bà cùng tình thương cháu nồng ấm mãi như ngọn lửa sưởi ấm lòng cháu. − Tình caûm baø chaùu – tình caûm gia ñình thieâng lieâng gaén liền với tình yêu quê hương đất nước.  Dặn dò: HTL ghi nhớ, bài thơ, tiểu sử tác giả. _______________________________ TỔNG KẾT TỪ VỰNG (tt) I. TỪ VỰNG THANH – TỪ TƯỢNG HÌNH: 1. Khaùi nieäm: a) Từ tượng thanh: là từ mô phỏng âm thanh của tự nhiên và của con người. b) Từ tượng hình: là từ gợi tả hình ảnh dáng vẻ, trạng thái của sự vật. 2. Những tên loài vật là từ tượng thanh: VD: taéc keø, (chim) cu, boø, meøo…. 2. Xác định từ tượng hình và giá trị sử dụng trong đoạn trích: − Từ tượng hình: Lốm đốm, lê thê, loáng thoáng, lồ lộ. − Tác dụng: miêu tả hình ảnh đám mây được cụ thể, sinh động. II. MỘT SỐ PHÉP TU TỪ VỰNG:.

<span class='text_page_counter'>(78)</span> 1. Khaùi nieäm: a) So sánh: là đối chiếu sự vật, sự việc này với sự vật, sự việc khác có nét tương đồng làm tăng sức gợi hình gợi cảm cho sự diễn đạt. b) Ẩn dụ: gọi tên sự vật, hiện tượng này bằng tên gọi sự vật hiện tượng khác có nét tương đồng làm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt. c) Nhân hoá: Là gọi hoặc tả con vật, cây cối, đồ vật… bằng những từ ngữ vốn được dùng để gọi hoặc tả con người làm cho thế giới loài vật, cây cối, đồ vật… trở nên gần gũi, biểu thị được tình cảm của con người. d) Nói quá: là biện pháp tu từ phóng đại mức độ quy mô tính chất của sự vật, hiện tượng được miêu tả để nhấn mạnh, gây ấn tượng, tăng sức biểu cảm. e) Nói giảm nói tránh: là một biện pháp tu từ dùng cách diễn đạt tế nhị, uyển chuyển, tránh gây cảm giác đau buồn, ghê sợ, nặng nề, tránh thô tục, thiếu lịch sự. f) Điệp ngữ: Khi nói hoặc viết người ta có thể dùng biện pháp lặp lại từ ngữ (hoặc cả một câu) để làm nổi bật ý, gây cảm xúc mạnh. Cách lặp lại như vậy gọi là phép điệp ngữ, từ ngữ được lặp lại gọi là điệp ngữ. g) Chơi chữ: là lợi dụng đặc sắc về âm, về nghĩa của từ ngữ để tạo sắc thái dí dỏm, hài hước…. làm câu văn hấp dẫn, thú vò..

<span class='text_page_counter'>(79)</span> h) Hoán dụ: Là gọi tên sự vật, hiện tượng, khái niệm này bằng tên của một sự vật, hiện tượng, khái niệm khác có quan hệ gần gũi với nó nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt. 2. a). Ẩn dụ: Hoa , cánh  chỉ Thúy Kiều và cuộc đời nàng.  Cây, lá  chỉ gia đình Thúy Kiều và cuộc đời họ. => TK bán mình để cứu gia đình b). So saùnh:  So sánh tiếng đàn của Thúy Kiều với tiếng hạc, tiếng suối, tiếng gió thoảng, tiếng trời đổ mưa. c) Nói quá  Thúy Kiều có sắc đẹp đến mức thiên nhiên phải ghen tị. Thúy Kiều không những đẹp mà còn có tài. Nhờ biện pháp này mà Nguyễn Du thể hiện đầy ấn tượng một nhân vật tài sắc vẹn toàn. d) Noùi quaù Gác Quan Âm, nơi Hoạn Thư bắt Kiều ra chép kinh rất gần phòng đọc sách của Thúc Sinh. Gần nhau trong gang tất nhưng giờ đây hai người cách trở gấp mười quan san. Tác giả cực tả sự xa cách giữa thân phận, cảnh ngộ của Thúy Kiều và Thuùc Sinh e) Ghép chơi chữ “tài’ và “tai” 3. a) Điệp ngữ “còn” và dùng từ đa nghĩa “say sưa”. − Vừa hiểu là chàng trai vì uống nhiều rượu mà say − Vừa được hiểu là chàng trai say đắm vì tình..

<span class='text_page_counter'>(80)</span> => Nhờ cách nói này mà chàng trai đã thể hiện tình cảm của mình dành cho cô gái một cách mạnh mẽ mà kín đáo. b) Noùi quaù Sự lớn mạnh của nghĩa quân Lam Sơn. c) So saùnh Giúp miêu tả sắc nét và sinh động âm thanh của tiếng suối và cảnh rừng dưới đêm trăng (trăng rất sáng khiến cảnh vậ hiện rõ đường nét). d) Nhaân hoùa  Nhaân hoùa aùnh traêng, bieán traêng thaønh tri aâm tri kỉ (trăng nhòm.. đòi thơ) => Làm thiên nhiên trong bài thơ sống động hơn, có hồn hơn và gắn bó với con người hơn. e) AÅn duï:  “Mặt trời” trong câu thơ thứ hai chỉ em bé trên lưng mẹ  thể hiện sự gắn bó của đứa con với người mẹ. Đó là nguồn sống, nguồn nuôi dưỡng niềm tin của mẹ vào ngày mai. _______________________________ BAØI 12: KHÚC HÁT RU NHỮNG EM BÉ LỚN TRÊN LÖNG MEÏ I. GIỚI THIỆU : 1. Taùc giaû : Nguyeãn Khoa Ñieàm (SGK) 2. Xuất xứ : Bài thơ sáng tác năm 1971 khi ông đang công tác ở chiến khu Tây Thừa Thiên. Bài thơ được in trong tập “Đất và khát voïng”..

<span class='text_page_counter'>(81)</span> II. TÌM HIEÅU VAÊN BAÛN: 1. … Cách lặp đi lặp lại, cách ngắt nhịp như thế đã tạo nên âm điệu dìu dặt, vấn vương của lời ru.  Giọng điệu trữ tình đã thể hiện một cách đặc sắc tình cảm thiết tha, trìu mến của người mẹ. (Sự lặp lại này có tăng tieán). 2. Hình ảnh người mẹ Tà Ôi: − Mẹ giã gạo nuôi bộ đội + Nhòp chaøy nghieâng + Moà hoâi meï rôi + Vai meï gaày  Câu thơ giàu sức gợi cảm  diễn tả công việc vất vả của người mẹ. − Meï ñang tæa baép + Löng nuùi to maø löng meï nhoû  Mẹ cùng anh trai, chị gái tham gia chiến đấu giành trận cuối. Tham gia chiến đấu với tinh thần quyết tâm, với lòng tin vào thắng lợi.  Người mẹ ấy tha thiết yêu con và cũng nặng tình thương buôn làng, quê hương, bộ đội, khát khao đất nước được tự do độc lập. 3. Tình cảm người mẹ đối với con qua 2 câu thơ: “Mặt trời của bắp … ……………………… treân löng”  Hình ảnh “mặt trời của bắp … trên đồi” và hình ảnh “mặt trời” trong câu thơ thứ hai được chuyển nghĩa, tượng trưng hóa .

<span class='text_page_counter'>(82)</span> Con là mặt trời của mẹ, là nguồn hạnh phúc ấp áp vừa gần gũi vừa thiêng liêng của đời mẹ. Chính con đã góp phần sưởi ấm loøng tin yeâu, yù chí cuûa meï trong cuoäc soáng, trong cuoäc khaùng chieán naøy. 4. Công việc mẹ làm gắn bó với ước vọng, tình cảm của mẹ qua những khúc hát ru: − Meï giaõ gaïo : Con mô cho meï haït gaïo traéng − Mẹ tỉa bắp : Con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều. − Meï ñòu con ñi tham gia khaùng chieán : con mô cho meï được thấy Bác Hồ.  Cụm từ “Con mơ cho mẹ”  người mẹ đã gửi trọn niềm tin mong moûi vaøo giaác mô cuûa con : −. Mẹ mong con ngủ ngoan và có những giấc mơ đẹp. −. Với cụm từ này, giọng điệu lời ru càng tin tưởng thiết. tha. Câu cuối của khúc hát ru vừa là nỗi nhớ mong vừa là niềm tin tưởng, tự hào của mẹ.  Sự phát triển tình cảm, ước vọng của người mẹ qua 3 khuùc ru: − Đoạn 1 và 2 : Tình thương con gắn với thương buôn làng, bộ đội, quê hương  mong có hạt gạo, hạt bắp, con mau lớn khôn trong lao động sản xuất. − Đoạn 3: Tình thương con gắn liền với đất nước đang anh dũng kháng chiến  là người lính chiến đấu vì độc lập tự do, mong ước con là người dân tự do, đất nước độc lập..

<span class='text_page_counter'>(83)</span>  Qua 3 khúc hát ru  tình cảm, khát vọng của người mẹ càng ngày càng lớn rộng, hòa với cuộc kháng chiến gian khổ của quê hương, đất nước. 5. Tình yêu thương của con người mẹ gắn với tình yêu thương buôn làng, bộ đội, đất nước và cuộc kháng chiến vệ quốc:  Qua những khúc hát ru, ta thấy dân ta có ý chí mạnh mẽ đầy quyết tâm trong kháng chiến với ước mong giành được độc lập, tự do.  Dặn dò: HTL ghi nhớ, bài thơ, tiểu sử tác giả. _________________________________ AÙNH TRAÊNG I. GIỚI THIỆU: 1. Taùc giaû : Nguyeãn Duy (SGK) 2. Xuất xứ : - Bài thơ được sáng tác 1978 tại TP. HCM - Trích trong tập thơ “Ánh trăng” (được tặng giải A của hội nhaø vaên Vieät Nam - 1984) II. TÌM HIEÅU VAÊN BAÛN: 1. a). Nhaän xeùt veà boá cuïc baøi thô: − 3 khổ đầu : Giọng kể nhịp thơ chảy trôi chảy bình thường. − Khổ 4 : Giọng thơ đột ngột cất cao, ngỡ ngàng với bước ngoặt của sự việc, vầng trăng xuất hiện. − 2 khoå cuoái: Gioïng traàm laéng, thieát tha cuøng caûm xuùc vaø suy tö..

<span class='text_page_counter'>(84)</span> b). Khổ 4 với sự kiện ánh điện vụt tắt, phòng buyn - đinh tối om, mở tung cửa sổ và bắt gặp vầng trăng tròn là bước ngoặt để tác giả bộ lộ cảm xúc, thể hiện chủ đề tác phẩm. 2. a). Hình aûnh vaàng traêng mang nhieàu yù nghóa − Laø hình aûnh cuûa thieân nhieân, hoàn nhieân, töôi maùt, laø người bạn tri kỉ từ thuở nhỏ và thời chiến tranh ở rừng. − Biểu trưng cho quá khứ nghĩa tình, là vẻ đẹp giản dị và vĩnh hằng của đời sống. − Vaàng traêng khoâng chæ laø chuyeän cuûa rieâng nhaø thô maø còn có ý nghĩa với nhiều người và nhiều thời bởi nó đặt ra vấn đề thái độ đối với quá khứ, những người đã khuất và với cả chính mình. b). Khổ thơ tập trung ý nghĩa biểu tượng của vầng trăng nhiều nhaát: khoå cuoái (khoå 6) − “Trăng cứ tròn …” tượng trưng cho quá khứ đẹp đẽ, vẹn nguyên chẳng thể phai mờ. − “Ánh trăng im phăng phắc”  chính là người bạn – nhân chứng vừa nghĩa tình vừa nghiêm khắc nhắc nhở : con người có thể vô tình, lãng quên nhưng thiên nhiên và nghĩa tình quá khứ thì luôn tròn đầy, bất diệt. 3. Nhaän xeùt veà keát caáu, gioïng ñieäu baøi thô  taùc duïng theå hieän chủ đề, tạo nên sức truyền cảm cho tác phẩm: − Keát caáu : baøi thô nhö moät caâu chuyeän rieâng, coù keát caáu hài hòa tự sự và trữ tình..

<span class='text_page_counter'>(85)</span> − Giọng điệu: giọng tâm tình bằng thể thơ 5 chữ (nhịp thơ khi thì trôi chảy tự nhiên nhịp nhàng theo lời kể – khi thì đột ngột ngỡ ngàng, khi thì trầm lắng suy tư) 4.. a) Xác định thời điểm sáng tác bài thơ và liên hệ cuộc đời tác. giả  chủ đề bài thơ Nguyeãn Duy queâ Thanh Hoùa. OÂng tham gia khaùng chieán chống Mỹ. Ông viết bài này 1978, khi đất nước thống nhất và ông sống ở TP.HCM b) Chủ đề bài thơ Từ câu chuyện riêng, bài thơ cất lên lời tự nhắc nhở thấm thía về thái độ, tình cảm đối với những năm tháng quá khứ gian lao, tình nghĩa; đối với thiên nhiên đất nước bình dị, hiền hậu. − “AÙnh traêng” khoâng chæ laø chuyeän rieâng cuûa nhaø thô, chuyện của một người mà có ý nghĩa với cả một thế hệ, với nhiều nghề vì nó đặt ra vấn đề thái độ đối với quá khứ, với những người đã khuất và với cả chính mính. − “Ánh trăng” nằm trong mạch cảm xúc “uống nước nhớ nguồn”, gợi lên đạo lí sống thủy chung đã trở thành truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.  Dặn dò: HTL bài thơ, tiểu sử tác giả, ghi nhớ. _________________________________ TỔNG KẾT VỀ TỪ VỰNG (Luyện tập tổng hợp) 1/138..

<span class='text_page_counter'>(86)</span> − Gật đầu (trong dị bản thứ nhất): cúi đầu xuống rồi ngẩng lên ngay, thường để chào hỏi hay tỏ sự đồng ý. − Gật gù (trong dị bản thứ 2) : gật nhẹ, nhiều lần, biểu thị thái độ đồng tình tán thưởng.  Vậy “gật gù” thể hiện ý thích hợp hơn ý nghĩa cần biểu đạt. Vì tuy món ăn rất đạm bạc nhưng đôi vợ chồng nghèo ăn rất ngon miệng vì họ biết chia sẻ những niềm vui đơn sơ trong cuộc soáng. 2/158. Người vợ không hiểu nghĩa của cách nói “chỉ có một chân sút”. Cách nói này có nghĩa là cả một đội bóng chỉ có một người gioûi ghi baøn thoâi. 3/158. − Nghóa goác: mieäng, chaân , tay − Nghóa chuyeån:. hoán dụ: vai ẩn dụ: đầu. 4/159. Các từ (áo) đỏ, (cây) xanh, (ánh) hồng; (ánh) hồng, lửa, cháy, tro tạo thành 2 trường từ vựng: − Trường từ vựng chỉ màu sắc. − Trường từ vựng chỉ lửa và những sự vật, hiện tượng có quan hệ liên tưởng với lửa.  Các từ thuộc hai trường từ vựng lại có quan hệ chặt chẽ với nhau. Màu áo đỏ của cô gái thắp lên trong mắt của chàng trai (và bao người khác) ngọn lửa. Ngọn lửa đó lan tỏa trong con.

<span class='text_page_counter'>(87)</span> người anh làm anh say đắm, ngất ngây (đến mức có thể cháy thaønh tro) vaø lan caû ra khoâng gian, laøm khoâng gian cuõng bieán saéc (caây xanh nhö cuõng aùnh theo hoàng)  Nhờ nghệ thuật dùng từ trên, bài thơ đã xây dựng được những hình ảnh gây ấn tượng mạnh với người đọc. Qua đó thể hiện độc đáo một tình yêu mãnh liệt và cháy bỏng. 5/159. − Các sự vật, hiện tượng đó được gọi tên theo cách dùng từ ngữ có sẵn với một nội dung mới dựa vào đặc điểm của sự vật, hiện tượng được gọi tên. − Tìm 5 ví dụ về những sự vật, hiện tượng được gọi tên theo cách dựa vào đặc điểm riêng biệt của chúng: − Cà tím :quả cà tròn, màu tím, hay nửa tím nửa trắng − Caù kim : caù bieån coù moû daøi vaø nhoïn nhö caùi kim − Cheø moùc caâu : cheø buùp nhoïn, caùnh saên, nhoû vaø cong hình moùc caâu. − Chim lợn : cú có tiếng kêu éc như lợn. − Chuột đồng : chuột sống ngoài đồng, ở hang, thường phá hoại mùa màng − Gấu chó : gấu cỡ nhỏ, tai nhỏ, lông ngắn, mặt giống maët choù. − Ong ruoài : ong maät, nhoû nhö ruoài. − Mực : động vật ở biển, thân mềm, chân ở đầu và có hình tua, có túi chứa chất lỏng đen như mực..

<span class='text_page_counter'>(88)</span> − Xe cuùt kít : xe thoâ sô coù moät baùnh goã vaø hai caøng, do người đẩy, khi chạy thường có tiếng kêu “cút kít”. 6/159. Ông chồng chữa lại lời bà vợ gọi (bác sĩ) là “đốc tờ”  gây cười  phê phán thói sính dùng từ nước ngoài của một số người. ________________________ BAØI 13. LAØNG I. GIỚI THIỆU: 1. Taùc giaû: Kim Laân (1920 – Baéc Ninh) SGK 2. Thể loại : Truyện ngắn II. TÌM HIEÅU VAÊN BAÛN: 1. Tác giả đặt nhân vật ông Hai vào một tình huống gay cấn để làm bộc lộ sâu sắc tình cảm yêu làng, yêu nước của ông. Tình huống ấy là cái tin làng ông theo giặc (ông nghe từ miệng những người dưới xuôi tản cư lên). 2. a) Diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật ông Hai từ lúc nghe tin làng mình theo giặc đến kết thúc truyện: − Khi nghe tin quá đột ngột, ông Hai : “Cổ ông lão nghẹn đắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được”  sững sờ, đau xót khi nghe tin làng theo giaëc. − Từ lúc ấy, trong tâm trí ông chỉ còn cái tin dữ ấy xâm chiếm, ám ảnh day dứt … “cúi gằm mặt xuống mà đi … Về đến nhà, ông nằm vật ra giường, tủi thân khi nhìn đàn con” nước mắt.

<span class='text_page_counter'>(89)</span> ông lão cứ giàn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian … chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi …”  tủi hổ. − Suốt mấy ngày, ông không dám đi đâu, một đám đông túm lại, dăm bảy tiếng cười nói xa xa … Lúc nào ông cũng nơm nớp … ông lủi ra một góc nhà, nín thít” …  sợ hãi, tâm trạng caøng luùc caøng naëng neà.  Taùc giaû dieãn taû caûnh cuï theå noãi aùm aûnh naëng neà bieán thành sự sợ hãi thường xuyên trong ông Hai cùng với nỗi đau xót, tủi hổ trước cái tin làng ông theo giặc. b) Ông Hai thấy đau đớn, tủi hổ khi nghe tin làng mình theo giặc vì : Ông rất yêu làng và từng tự hào về làng mình, đi đâu ông cũng khoe làng mình yêu nước, hăng say chống giặc. Ông rất yêu làng và yêu nước nên khi nghe tin làng theo giặc hai tình cảm ấy đã dẫn đến xung đột nội tâm ở ông Hai. Tuy ông đã choïn : “Laøng thì yeâu thaät, nhöng laøng theo Taây thì phaûi thuø”  tình yêu nước đã rộng lớn hơn, bao trùm lên tình cảm với làng quê. Nhưng dù xác định như thế nhưng ông vẫn không thể dứt bỏ tình cảm với làng quê  càng đau xót, tủi hổ. 3.. … Ông Hai trò chuyện như thế đối với đứa con nhỏ vì trong. taâm traïng bò doàn neùn vaø beá taéc (muï chuû nhaø muoán ñuoåi gia ñình ông đi, mà biết đi về đâu? Không ai chứa Việt gian”, còn về làng thì cũng không được, vì như thế là theo Tây) ông chỉ còn biết trút nỗi lòng của mình vào những lời thủ thỉ tâm sự với đứa con nhỏ coøn raát ngaây thô..

<span class='text_page_counter'>(90)</span>  Qua những lời tâm sự với đứa con nhỏ, thực chất là lời tự nhủ với mình, tự giãi bày nỗi lòng mình, ta thấy rõ ở ông Hai: − Tình yêu sâu nặng làng chợ Dầu (ông muốn đứa con nhỏ ghi nhớ câu “nhà ta ở làng chợ Dầu”) − Tấm lòng thủy chung với kháng chiến với cách mạng mà biểu tượng là Cụ Hồ (anh em đồng chí … bố con ông). Tình cảm ấy sâu nặng, bền vững và thiêng liêng (cái lòng bố con … ñôn sai).  Tình yêu làng và lòng yêu nước ở ông Hai gắn bó bền chặt thiêng liêng với nhau. Tình yêu làng phát triển thành lòng yêu nước. 4. Nhận xét nghệ thuật miêu tả tâm lý và ngôn ngữ nhân vật oâng Hai: − Ngheä thuaät mieâu taû taâm lí nhaân vaät: + Tác giả đặt nhân vật vào tình huống thử thách bên trong để bộc lộ chiều sâu tâm trạng. + Tác giả miêu tả rất cụ thể, gợi cảm các diễn biễn của nội tâm qua các ý nghĩ, hành vi, ngôn ngữ … đặc biệt, diễn tả rất đúng và gây ấn tượng mạnh mẽ về sự ám ảnh, day dứt trong tâm traïng nhaân vaät. − Ngôn ngữ của ông Hai: + Ngôn ngữ mang đậm tính khẩu ngữ và lời ăn tiếng nói của người nông dân (lúa má, chúng mày ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm, sai sự mục đích, …)..

<span class='text_page_counter'>(91)</span> + Lời trần thuật và lời nhân vật có sự thống nhất về sắc thái, giọng điệu, do truyện được trần thuật chủ yếu theo điểm nhìn cuûa nhaân vaät oâng Hai (maëc duø vaãn duøng caùch traàn thuaät ngôn ngữ thứ ba). + Ngôn ngữ nhân vật ông Hai vừa có nét chung của người nông dân, lại mang đậm cá tính của nhân vật nên rất sinh động.  Dặn dò: HTL tiểu sử tác giả, tóm tắt tác phẩm, ghi nhớ. ________________________ CHÖÔNG TRÌNH ÑÒA PHÖÔNG (Phaàn Tieáng Vieät) 1/175. a) Chỉ các sự vật, hiện tượng, … không có tên gọi trong các phương ngữ khác và trong ngôn ngữ toàn dân: So đũa, bình linh, kèo nèo, rau bợ, bồn bồn, … (phương ngữ Nam) b) Đồng nghĩa nhưng khác về âm với những từ ngữ trong các phương ngữ khác hoặc trong ngôn ngữ toàn dân. Phương ngữ Bắc Muõ. Phương ngữ Trung Noùn. Phương ngữ Nam Noùn. Boá. Ba. Tía. (chuối) sứ. (chuối) sứ. (chuoái) xieâm. (caùi) baùt (caùi) cheùn (caùi) cheùn c) Đồng âm nhưng khác về nghĩa với những từ ngữ trong các phương ngữ khác hoặc trong ngôn ngữ toàn dân..

<span class='text_page_counter'>(92)</span> Phương ngữ Bắc OÁm: bò beänh. Phương ngữ Trung OÁm: gaày. Phương ngữ Nam OÁm: gaày. Hòm: vật chứa đồ. Hoøm: quan taøi. Hoøm: quan taøi. Cheø (uoáng). Cheø (aên). Cheø (aên). Beùo: maäp 2/175.. Béo: nhiều dầu mỡ. Beùo:nhieàu daàu. Có những từ ngữ địa phương như trong mục 1.a vì có những sự vật, hiện tượng xuất hiện ở địa phương này nhưng không xuất hiện ở địa phương khác. Điều đó cho thấy Việt Nam là một đất nước có sự khác biệt giữa các vùng, miền về điều kiện tự nhiên, đặc điểm tâm lí, phong tục tập quán, … Tuy nhiên sự khác biệt đó không quá lớn, bằng chứng là những từ ngữ ở nhoùm naøy khoâng nhieàu. ( Lưu ý : Một số từ ngữ địa phương trong phần này có thể chuyển thành từ ngữ toàn dân vì những sự vật, hiện tượng mà những từ ngữ này gọi tên vốn chỉ xuất hiện ở một địa phương nhưng sau đó dần xuất hiện phổ biến trên cả nước, chẳng hạn nhö : saàu rieâng, choâm choâm, …) 3/175. Những từ ngữ (ở trường hợp b) và cách hiểu (ở trường hợp c) thuộc phương ngữ Bắc được coi là thuộc về ngôn ngữ toàn daân. 4/175. Những từ ngữ địa phương có trong đoạn thơ : chi, rứa, nờ, tui, cờ răng, ưng, mụ..

<span class='text_page_counter'>(93)</span> Những từ ngữ này thuộc phương ngữ Trung (được dùng phổ biến ở các tỉnh Bắc Trung Bộ như Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên -Huế). Tác dụng của những từ ngữ địa phương này : “Mẹ Suốt” là bài thơ Tố Hữu viết về một bà mẹ Quảng Bình anh hùng. Những từ ngữ địa phương trên đây góp phần thể hiện chân thực hôn hình aûnh cuûa moät vuøng queâ vaø tình caûm, suy nghó, tính caùch của một bà mẹ trên vùng quê ấy  làm tăng sự sống động, gợi caûm cuûa taùc phaåm. __________________________________ ĐỐI THOẠT, ĐỘC THOẠI VAØ ĐỘC THOẠI NỘI TÂM TRONG VĂN TỰ SỰ I. BAØI HOÏC: 1. Đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm? 2. Đối thoại? 3. Độc thoại? 4. Độc thoại nội tâm? HTL ghi nhớ SGK/178 II. LUYEÄN TAÄP: 1/178. Phân tích tác dụng của hình thức đối thoại trong đoạn trích: Đây là cuộc đối thoại diễn ra không bình thường của vợ chồng ông Hai. Có 3 lượt lời trao (lời bà Hai) nhưng chỉ 2 lời đáp..

<span class='text_page_counter'>(94)</span> − Lời thoại đầu của bà, ông Hai đáp lại “nằm rũ ra ở trên giường không nói gì” − Câu hỏi thứ 2 của bà được ông Hai “khẽ nhúc nhích” đáp loằng một câu hỏi bà với một từ “Gì?” − Lần thứ ba, ông cũng chỉ đáp lại lời bà bằng một câu cuït luûn, gioïng gaét leân : “Bieát roài!”  Làm nổi bật tâm trạng chán chường, buồn bã, đau khổ và thaát voïng cuûa oâng Hai trong caùi ñeâm nghe tin laøng mình theo giaëc./. 2/179. Viết đoạn văn. HS tự làm. __________________________________ BAØI 14. LAËNG LEÕ SA PA I. GIỚI THIỆU: 1. Taùc giaû: Nguyeãn Thaønh Long (1925 - 1991) Quaûng Nam SGK 2. Hoàn cảnh sáng tác : Truyeän ngaén laø keát quaû cuûa chuyeán ñi Laøo Cai trong muøa hè 1970 của tác giả, rút từ tập “Giữa trong xanh” in 1972. II. ĐỌC - HIỂU CÂU HỎI: 1. Coát truyeän ñôn giaûn: − Tình huoáng cô baûn cuûa truyeän : xoay quanh moät tình huống gặp gỡ bất ngờ giữa ông họa sĩ già, cô kĩ sư trẻ với anh thanh niên làm công tác ở trạm khí tượng trên đỉnh Yên Sơn thuoäc SaPa..

<span class='text_page_counter'>(95)</span> − Tác phẩm là “một bức chân dung” của nhân vật anh thanh niên qua cái nhìn và suy nghĩ của những nhân vật : Bác lái xe, coâ kó sö treû, oâng hoïa só giaø. 2. Nhaän vaät anh thanh nieân – nhaân vaät chính: − Tình huống nhân vật xuất hiện : anh xuất hiện sau lời giới thiệu đầy ấn tượng của nhân vật phụ – bác lái xe : “người cô độc nhất thế gian … hai mươi bảy tuổi, sống trên đỉnh Yên Sơn cao hai nghìn sáu trăm mét, làm công tác khí tượng kiêm vật lí ñòa caàu”.  Cách xuất hiện gây ấn tượng, chú ý. − Quan hệ với các nhân vật khác: chân thành, cởi mở và rất quan tâm đến mọi người : “củ tam thất cháu vừa đào, gửi bác gái ngâm rượu … bác gái vừa ốm dậy”, hái hoa tặng cô kĩ sư trẻ, pha chè mời họ, tặng làn trứng cho ông họa sĩ và cô kĩ sư. − Hoàn cảnh sống và làm việc : một mình trên đỉnh núi cao, quanh năm suốt tháng giữa cỏ cây và mây núi SaPa. Công việc : đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây … báo trước thời tiết hằng ngày phục vụ sản xuất và chiến đấu  đòi hỏi phải tỉ mỉ, chính xác và có tinh thần trách nhiệm cao (nửa đêm, đúng giờ “ốp” thì dù mưa tuyết, giá lạnh thế nào cũng phải trở dậy làm công việc đã qui định). Gian khổ nhất là phải vượt qua sự cô đơn, vaéng veû, quanh naêm suoát thaùng moät mình treân ñænh nuùi cao không một bóng người  Hoàn cảnh đặc biệt. − Suy nghó cuûa anh veà coâng vieäc vaø cuoäc soáng:.

<span class='text_page_counter'>(96)</span> + Ý thức về công việc của mình, lòng yêu nghề, thấy được công việc thầm lặng mình làm có ích cho cuộc sống, cho mọi người (khi biết một lần do góp phần phát hiện đám mây khô mà anh đã góp phần vào chiến thắng của không quân ta bắn rơi nhiều máy bay Mỹ trên bầu trời Hàm Rồng anh thấy mình “thật haïnh phuùc”) + Có nhũng suy nghĩ đúng và sâu sắc về công việc đối với cuộc sống con người (khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được … gắn liền với công việc của bao anh em … cất nó đi, cháu buồn đến chết mất). + Có niềm vui khi đọc sách, xem sách như là người bạn để trò chuyện. + Biết tổ chức, sắp xếp cuộc sống một mình ở trạm khí tượng thật ngăn nắp, chủ động: trồng hoa, nuôi gà, tự học và đọc sách ngoài giờ làm việc.  Có suy nghĩ và quan niệm sống tích cực và đúng đắn. − Những nét tính cách và phẩm chất đáng mến : sự cởi mở, chân thành, rất quý trọng tình cảm của mọi người, khao khát được gặp gỡ trò chuyện với mọi người (tình thân của anh với bác lái xe, thái độ ân cần chu đáo, sự cảm thông, vui mừng của anh khi có khách xa đến thăm bất ngờ). Anh còn là người khiêm tốn, thành thực, cảm thấy công việc và những đóng góp của mình là nhoû beù (khi oâng hoïa só muoán veõ chaân dung anh, anh nhieät thaønh giới thiệu với ông những người khác đáng cảm phục hơn nhiều). 3. Nhaân vaät oâng hoïa só:.

<span class='text_page_counter'>(97)</span> − Vò trí cuûa nhaân vaät trong truyeän: duø khoâng phaûi laø nhaân vaät chính nhöng nhaân vaät oâng hoïa só coù vò trí quan troïng trong truyện. Tuy không dùng cách kể từ ngôi thứ nhất, nhưng hầu như người kể đã nhập vào cái nhìn và suy nghĩ của nhân vật ông họa sĩ để quan sát và miêu tả từ cảnh thiên nhiên đến nhân vật chính của truyện – người thanh niên. − Suy nghĩ về nghệ thuật của con người: đi tìm đối tượng của nghệ thuật, bắt gặp một điều ông vẫn ao ước … một nét thôi đủ khẳng định một tâm hồn. Con người với lí tưởng sống đẹp, mang những phẩm chất đáng mến, một tâm hồn đẹp là đối tượng để nghệ thuật hướng đến. − Cảm xúc trước người thanh niên : ông muốn ghi lại hình ảnh anh thanh niên “người con trai ấy đáng yêu thật, nhưng laøm cho oâng nhoïc quaù”.  Nhân vậy này cùng với các nhân vật phụ khác đã góp phần tô đậm hình ảnh người thanh niên trong truyện. a) Cô kỹ sư: cuộc gặp gỡ làm cho cô “bàng hoàng … hiểu theâm veà cuoäc soáng” b) Bác lái xe: lời kể của bác lái xe “giới thiệu một trong những người cô độc nhất thế gian”, … giúp cho người đọc hiểu theâm veà anh thanh nieân.  Xây dựng nhân vật chính anh thanh niên thông qua những caûm xuùc, suy nghó cuûa caùc nhaân vaät phuï, ñaây laø moät thuû phaùp nghệ thuật mà tác giả sử dụng thành công trong việc xây dựng nhaân vaät..

<span class='text_page_counter'>(98)</span> 4. Chất trữ tình (chất thơ) của tác phẩm: − Từ phong cảnh thiên nhiên đẹp và đầy thơ mộng của SaPa. − Từ cuộc gặp gỡ tình cờ mà thú vị của những con người bình dị, lặng lẽ vì đất nước. − Có dáng dấp như một bài thơ trữ tình, không khí trữ tình.  Tác dụng : tạo một không khí trữ tình cho tác phẩm, nâng cao ý chí và vẻ đẹp của những sự việc, con người rất bình dị được miêu tả trong truyện, nhờ thế mà chủ đề của truyện được rõ neùt vaø saâu saéc. 5. Chủ đề của truyện: Ca ngợi những con người lao động như anh thanh niên làm công tác khí tượng và cái thế giới những con người như anh. Tác giả muốn nói với người đọc: “Trong cái im lặng của SaPa… có những con người làm việc và lo nghĩ như vậy cho đất nước”. Đồng thời qua câu chuyện về anh thanh niên, tác phẩm cũng gợi ra những vấn đề ý nghĩa và niềm vui của lao động tự giác, vì những mục đích chân chính đối với con người.  Dặn dò: HTL Tác giả, ghi nhớ, tóm tắt truyện. __________________________________ BAØI 15. CHIẾC LƯỢC NGAØ I. GIỚI THIỆU: 1. Taùc giaû : Nguyeãn Quang Saùng -1932 – An Giang (SGK) 2. Hoàn cảnh sáng tác :.

<span class='text_page_counter'>(99)</span> Truyện được viết 1966 (khi tác giả hoạt động ở chiến trường Nam Bộ) và được đưa vào tập truyện cùng tên. II. ĐỌC - HIỂU ĐOẠN VĂN: 1. a). Tóm tắt cốt truyện của đoạn trích Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến. Mãi đến khi con gái lên tám tuổi, ông mới có dịp về thăm nhà, thăm con. Bé Thu không nhận ra cha vì vết sẹo trên mặt làm ba em không còn giống với người trong ảnh chụp với má em mà em biết. Em đối xử với ba như người xa lạ. Đến lúc Thu nhận ra cha, tình cha con thức dậy mãnh liệt trong em thì cũng là lúc ông Sáu phải ra đi. Ở khu căn cứ, người cha dồn hết tình cảm yêu quý, nhớ thương đứa con vào việc làm một chiếc lược bằng ngà voi để tặng cô con gái bé bỏng. Trong một trận càn, ông hi sinh. Trước lúc nhắm mắt, ông còn kịp trao cây lược cho người bạn. b). Tình huống bộc lộ sâu sắc và cảm động tình cha con của oâng Saùu vaø beù Thu − Hai cha con gaëp nhau sau 8 naêm xa caùch, nhöng thaät trớ trêu là bé Thu không nhận cha, đến lúc em nhận ra và biểu lộ tình caûm thaém thieát thì oâng Saùu laïi phaûi ra ñi (tình huoáng cô baûn của truyện)  bộc lộ tình cảm mãnh liệt của bé Thu với ba. − Ở khu căn cứ, ông Sáu dồn tất cả tình yêu thương và mong nhớ đứa con gái vào việc làm cây lược ngà để tặng con, nhưng ông đã hi sinh khi chưa kịp trao món quà ấy cho con gái  Biểu lộ tình cảm sâu sắc của người cha đối với con..

<span class='text_page_counter'>(100)</span> 2. Diễn biến tâm lí, hành động của bé Thu trong lần gặp cho cuoái cuøng  Tính caùch beù Thu: a) Thái độ và hành động của Thu trước khi nhận ra ông Saùu laø cha: Trong khi người cha vui mừng thì bé Thu lại tỏ ra : ngờ vực, lãng tránh  lạnh nhạt, xa cách (hốt hoảng, mặt tái đi, vụt chạy, kêu thét lên, không chịu gọi cha, nhất định không nhờ ông chắt nước nồi cơm, hất trứng cá mà ông gắp cho, ông Sáu tức giận đánh, Thu bỏ về nhà bà)  cá tính mạnh mẽ, cứng cỏi, tình cảm sâu sắc nhưng cũng thật dứt khoát. b) Thái độ và hành động của Thu khi nhận ra người cha: Trước khi ông Sáu ra đi thì bé Thu đã đột ngột thay đổi hoàn toàn thái độ và hành động  tình cảm thay đổi (cất tiếng gọi “ba”, tiếng kêu như xé, chạy xô tới, ôm chặt lấy cổ ba, dang cả hai chân câu chặt lấy cổ ba)  trong phút chia tay với người cha, tình yêu và nỗi nhớ mong với người cha xa cách đã bị dồn neùn baáy laâu, nay buøng ra thaät maïnh meõ vaø hoái haû cuoáng quyùt, coù xen lẫn sự ân hận và nuối tiếc  Tình cảm mạnh mẽ, hồn nhiên, ngaây thô.  Nhaän xeùt veà ngheä thuaät mieâu taû taâm lí cuûa taùc giaû : Qua caùch mieâu taû taâm lí cuûa beù Thu, ta thaáy taùc giaû toû ra raát am hieåu tâm lí trẻ em và diễn tả rất sinh động với tấm lòng yêu mến, trân trọng những tình cảm trẻ thơ. 3. Tình cảm cao đẹp và sâu nặng của ông Sáu đối với con  nét đẹp tâm hồn:.

<span class='text_page_counter'>(101)</span> − Khi gaëp con : voäi vaøng, keâu to, khoâng ghìm noãi xuùc động, run run, … − Khi tiếp xúc với con : lúc nào cũng vỗ về con, mong được nghe một tiếng “ba”… Tình thương con rất thắm thiết và saâu naëng − Khi ở căn cứ làm chiếc lược ngà: hớt hải chạy về, hớn hở, cưa thận trọng, tỉ mỉ, trước lúc hi sinh còn trao chiếc lược lại cho người bạn …  Nỗi đau thương, mất mát, éo le do chiến tranh 4. − Truyện được kể theo lời người bạn của ông Sáu, người đã chứng kiến những cảnh ngộ éo le của cha con ông. Cảnh ngộ ấy đã gợi lên bao nhiêu xúc động ở nhân vật kể chuyện. − Chọn vai kể chuyện như thế khiến cho câu chuyện trở nên đáng tin cậy. Người kể chuyện lại hoàn toàn chủ động điều khiển nhịp kể theo trạng thái cảm xúc của mình, chủ động xen vào những ý kiến bình luận, suy nghĩ để dẫn dắt sự tiếp nhận của người đọc, người nghe.  Dặn dò: HTL Tác giả, ghi nhớ, tóm tắt truyện..

<span class='text_page_counter'>(102)</span> Đề 1: Phân tích tác phẩm “Người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ. DÀN BÀI A. MỞ BÀI: − Trong xã hội phong kiến tàn bạo và bất công, người phụ nữ Việt Nam tuy chịu nhiều bất hạnh nghiệt ngã song họ vẫn sáng ngời vẻ đẹp hình thể lẫn tâm hồn, là cảm hứng sáng tác cho văn chương. − “Chuyện người con gái Nam Xương” trích từ tập truyện “ Truyền kỳ mạn lục” của Nguyễn Dữ là một minh chứng làm ta vô cùng cảm động. B. THÂN BÀI: 1.. Tóm lược tác phẩm:. Vũ Thị Thiết – quê ở Nam Xương – là người con gái thùy mị nết na, tư dung lại tốt đẹp, lấy chồng là Trương Sinh, con nhà giàu, ít học lại có tính hay ghen. Về làm dâu nhà họ Trương, hiểu tính chồng nên nàng hết mực giữ gìn khuôn phép, tránh để vợ chồng phải thất hòa. Lấy nhau chưa được bao lâu thì xảy ra chiến tranh, Trương Sinh phải đi lính. Chồng đi vừa đầy tuần, Vũ Nương.

<span class='text_page_counter'>(103)</span> ở nhà sinh con, nuôi dạy con một mình, phụng dưỡng mẹ chồng khi đau ốm, lo ma chay khi mất như cha mẹ đẻ. Năm sau, Trương Sinh trở về, vì nghe lời ngây thơ của con trẻ đã ngờ oan vợ thất tiết. Vũ Nương hết lời giải bày nhưng chồng không tin, nàng nhảy xuống sông tự vẫn nhưng được Linh Phi cứu. Ở thủy cung, nàng gặp Phan Lang người cùng làng, nhờ Phan nhắn chồng lập đàn giải oan, nàng hiện về đa tạ tình nghĩa của chồng nhưng từ chối trở lại nhân gian. 2.. Giá trị nội dung: a. Giá trị hiện thực:. − Lên án chiến tranh phong kiến: nguyên nhân của cảnh biệt li, chết chóc. Đối với Vũ Nương, chiến tranh là điểm khởi đầu của một loạt biến cố: chia li, mẹ chồng chết, chồng nghi oan vợ, vợ tự vẫn bất hạnh. − Tố cáo hàng rào lễ giáo phong kiến nghiệt ngã, bất công, chế độ nam quyền gây nhiều đau khổ cho người phụ nữ. Điều này được gửi gắm qua nhân vật Trương Sinh: ít hiểu biết, hay ghen, gia trưởng, vũ phu, ngờ oan vợ nhưng không nghe lời giái thích, đối xử tàn nhẫn, dồn vợ đến bước đường cùng. b. Giá trị nhân đạo: làm nên sức sống cho tác phẩm:. . Xây dựng hình tượng một người. phụ nữ đẹp với những đức tính đáng quý: − Nàng không chỉ “nết na thùy mị” mà còn tư dung tốt đẹp”; trong đạo vợ chồng, nàng “hết sức khôn khéo”, “rất mực chú trọng giữ gìn khuôn phép, không từng lúc nào để đến vợ chồng phải.

<span class='text_page_counter'>(104)</span> thất hòa” những mong hạnh phúc nhưng hạnh phúc thật mong manh. − Qua lời tống biệt chồng ra trận, ta thấy Vũ Nương dịu dàng, thiết tha với hạnh phúc, không màng hư danh, hết mực lo lắng, yêu thương chồng. − Khi chồng ra trận vắng nhà, người thiếu phụ đáng thương ấy một mình ra sức tảo tần nuôi dạy con thơ, phụng dưỡng mẹ chồng, thuốc thang khi đau ốm, lo ma chay khi mẹ chồng mất. Nàng đã thay chồng chăm sóc gia đình chồng chu đáo, trọn đạo làm dâu, làm vợ, làm mẹ. Lời người mẹ chồng trước lúc lâm chungmong nàng được bù đắp, sống hạnh phúc- là một một minh chứng cho đức hạnh và tấm lòng của nàng. Những oan khổ mà người phụ nữ bất hạnh phải.  gánh chịu:. − Ba năm chồng chinh chiến xa nhà, Vũ Nương ở nhà trọn đạo vợ hiền dâu thảo, mong mỏi ngày đoàn viên, gia đình hạnh phúc, những tưởng nàng được chồng bù đắp những tháng ngày cơ cực nhưng bất hạnh ập đến: nàng bị chồng ngờ oan không nghe lời biện minh và đối xử tàn nhẫn. Để giải nỗi oan tình nàng phải gieo mình tự vẫn thà chết chứ không chịu tiếng nhuốc nhơ giàu lòng tự trọng. − Vũ Nương không chết mà được Linh Phi cứu giúp, nàng gặp người cùng làng là Phan Lang và nhờ nhắn với chồng lập đàn giải oan cho nàng. Nàng hiện về, oan tình được giải nhưng nàng không bao giờ trở lại nhân gian nữa. Đoạn kết kì ảo này càng làm.

<span class='text_page_counter'>(105)</span> tăng thêm bi kịch trong tâm hồn nàng. Lời buộc tội nhân gian phong kiến thiếu tình người, một người phụ nữ từng khát khao cuộc sống gia đình hạnh phúc nay từ chối trở lại dương gian vì nơi ấy quá bất công. 3.. Giá trị nghệ thuật:. − Cách khắc họa nội tâm nhân vật đã làm nổi rõ tính cách nhân vật. − Kết hợp tài tình giữa phương thức tự sự trữ tình và kịch, giữa ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ tác giả, giữa văn xuôi và văn biền ngẫu. Lời văn cô động, súc tích, chặt chẽ, hài hòa và sinh động. Tác giả nhiều lần để cho Vũ Nương nói khi thì thắm thiết, khi thì thống thiết  người đọc vô cùng xúc động. − Cách xây dựng tình huống thắt nút mở nút đầy bất ngờ, đầy kịch tính càng làm cho nỗi oan hiện rõ với tất cả cái bi thảm của nó. Lời nói ngây thơ của con trẻ và sự đa nghi thiếu hiểu biết, cố chấp của người chồng đã tạo bi kịch cho gia đình và bất hạnh cho người phụ nữ. − Truyện thêm đoạn Vũ Nương ở dưới thủy cung. Đây là phần sáng tạo độc đáo của tác giả. Yếu tố kì ảo này tạo bất ngờ cho phần kết của câu chuyện, nhấn mạnh nỗi bất hạnh của Vũ Nương. 4.. Đánh giá chung về tác phẩm:. C. KẾT BÀI: − Sáng tạo trong nghệ thuật của Nguyễn Dữ đã làm cho tác phẩm sâu sắc và hấp dẫn hơn . − Xót thương cho người phụ nữ ngày xưa..

<span class='text_page_counter'>(106)</span> − Tự hào cho người phụ nữ ngày nay không còn chịu nhiều đau khổ. .................------ ................ BÀI LÀM THAM KHẢO A.. MỞ BÀI: Xã hội phong kiến Việt Nam bên cạnh những thời kì lịch sử. mà nhà nước hong kiến đã làm tròn vai trò của mình, còn có những thời kì mà người dân lương thiện phải sống trong những hoàn cảnh hết sức thương tâm, phi lý dưới chế độ thống trị bất công bạo ngược và những lễ giáo phong kiến nghiệt ngã – đặc biệt là người phụ nữ. Hạnh phúc đối với họ mong manh tựa sương khói, hư ảo bấp bênh như chiếc bóng trên tường. Vượt lên trên những bạo tàn và bất công, người phụ nữ Việt Nam vẫn rất đẹp, vẻ đẹp của hình thể, của tâm hồn và tính cách. Họ đã mang đến cho văn chương nhiều cảm hứng. Không phải ngẫu nhiên mà ta thấy những tác phẩm có giá trị nhân đạo và hiện thực sâu sắc nhất thường là những tác phẩm lấy nhân vật phụ nữ làm trung tâm. Chúng ta đã từng xót xa, day dứt cho nàng Kiều của Nguyễn Du, người chinh phụ của Đoàn Thị Điểm,người phụ nữ thấp thoáng trong thơ của Hồ Xuân Hương,… và giờ đây nhân vật Vũ Nương trong “ Chuyện người con gái Nam Xương” trích từ tập truyện “Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ đã khiến cho người đọc phải rớm lệ. Vì sao câu chuyện về người thiếu phụ Nam Xương với.

<span class='text_page_counter'>(107)</span> nhiều tình tiết li kỳ đã gây nên xúc động cho người Việt Nam trong mấy trăm năm qua? Đi vào khai thác tác phẩm phần nào ta sẽ rõ. B.. THÂN BÀI: 1. Tóm lược tác phẩm: Vũ Thị Thiết – quê ở Nam Xương – là người con gái thùy. mị nết na, tư dung lại tốt đẹp, lấy chồng là Trương Sinh, con nhà giàu, ít học lại có tính hay ghen. Về làm dâu nhà họ Trương, hiểu tính chồng nên nàng hết mực giữ gìn khuôn phép, tránh để vợ chồng phải thất hòa. Lấy nhau chưa được bao lâu thì xảy ra chiến tranh, Trương Sinh phải đi lính. Chồng đi vừa đầy tuần, Vũ Nương ở nhà sinh con, nuôi dạy con một mình, phụng dưỡng mẹ chồng khi đau ốm, lo ma chay khi mất như cha mẹ đẻ. Năm sau, Trương Sinh trở về, vì nghe lời ngây thơ của con trẻ đã ngờ oan vợ thất tiết. Vũ Nương hết lời giãi bày nhưng chồng không tin, nàng nhảy xuống sông tự vẫn nhưng được Linh Phi cứu. Ở thủy cung, nàng gặp Phan Lang người cùng làng, nhờ Phan nhắn chồng lập đàn giải oan, nàng hiện về đa tạ tình nghĩa của chồng nhưng từ chối trở lại nhân gian. 2. Giá trị nội dung: b. Giá trị hiện thực: Trước hết,tác phẩm mang giá trị hiện thực khá rõ nét. Truyện đã lên án chiến tranh phong kiến. Trong tác phẩm, tác giả viết: “ Cuộc sum vầy chưa được bao lâu thì xảy ra việc triều đình bắt lính đi đánh giặc Chiêm. Trương tuy con nhà hào phú nhưng không có học nên tên phải ghi trong sổ lính đi vào loại đầu”. Bao giờ cũng thế, đời xưa cũng như đời nay, chiến tranh luôn luôn.

<span class='text_page_counter'>(108)</span> là nguyên nhân của bao cảnh biệt li và chết chóc.Đối với Vũ Nương, chiến tranh là điểm khởi đầu của một loạt biến cố xảy ra dồn dập sau này: chia li, mẹ chồng chết, chồng nghi oan vợ, vợ đau khổ đến mức phải tự tử… Ở đây chiến tranh không phải nguyên nhân trực tiếp làm tan vỡ hạnh phúc gia đình nhưng chính nó góp phần đưa đến nỗi bất hạnh bất ngờ sau này. Truyện còn tố cáo hàng rào lễ giáo phong kiến nghiệt ngã, bt61 công đã gậy nhiều đau khổ cho người phụ nữ. Điều ấy đã được tác giả gửi gắm qua nhân vật Trương Sinh. Vốn tính hay ghen, lại gia trưởng, vũ phu, Trương Sinh đã đối xử với vợ hết sức tàn nhẫn. Giấu biệt lời con nói, Trương Sinh đã “ mắng nhiếc” và “đánh đuổi nàng”. Vợ phân trần thì không tin, hàng xóm khuyên can cũng chẳng ăn thua gì. Chính chồng và con – những người thân yêu nhất – đã xô đẩy nàng đến vực thẳm. c. Giá trị nhân đạo: Nhưng có thể nói chính giá trị nhân đạo đã làm nên sức sống cho tác phẩm. Giá trị nhân đạo trước hết biểu hiện ở việc tác phẩm đã xây dựng được một hình tượng phụ nữ đẹp với những đức tính đáng quý – mà Vũ Nương là một minh chứng. Đọc truyện, ta thấy Vũ Nương đúng là một mẫu mực của người phụ nữ trong xã hội phong kiến với những phẩm chất đáng quý. Nàng không chỉ “thùy mị nết na” mà còn có “tư dung tốt đẹp”. Trong đạo vợ chồng, nàng rất mực khôn khéo, hết sức chú trọng “giữ gìn khuôn phép”, không từng để vợ chồng phải đến thất hòa. Với hai yếu tố quan trọng nhất của người phụ nữ - nhan sắc và.

<span class='text_page_counter'>(109)</span> đức hạnh – nàng cũng đã đủ để có một cuộc sống hạnh phúc. Thế nhưng hạnh phúc đến với nàng thật mong manh và ngắn ngủi, chỉ một lần vào giây phút ban đầ khi về làm vợ chàng Trương. Qua lời tống biệt chồng ra trận, ta thấy hiện lên một Vũ Nương dịu dàng, thiết tha với hạnh phúc, không hư danh và giàu lòng vị tha. Nàng nghĩ đến sự khó nhọc gian nguy của chồng trước rồi mới nghĩ đến sự lẻ loi của mình: “chàng đi chuyến này thiếp chẳng mong đeo ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ mong ngày về mang theo được hai chữ bình yên thế là đủ rồi…”Trong những năm tháng chồng còn ngoài nơi chiến địa, người thiếu phụ đáng thương ấy đã ra sức tần tảo nuôi dạy con thơ, phụng dưỡng mẹ chồng, ngày đêm giữ gìn hạnh phúc mà nàng mong đợi. Đối với mẹ chồng, nàng giữ vẹn đạo làm dâu thảo. Vũ Nương hết lòng chăm sóc lo thuốc thang khi mẹ chồng ốm đau và cả việc lo ma chay tế lễ khi mẹ chồng mất,… Nhà văn đã tỏ ra già dặn, đã để cho chính bà mẹ chồng ấy nhận xét về tấm lòng thơm thảo của nàng dâu trước khi bà qua đời. Trong đôi mắt của người mẹ chồng, nàng là người có “lòng lành”. Sự đảm đang hiếu nghĩa ấy cũng phần nào thể hiện tấm lòng son của nàng với Trương Sinh. Nàng đã trọn vẹn đạo làm con, làm vợ, làm mẹ. Giá trị nhân đạo còn thể hiện ở việc tác phẩmđã đề cập đến những oan khổ bất hạnh mà người phụ nữ phải gánh chịu. Dõi theo câu chuyện, ta thấy người thiếu phụ Nam Xương này hoàn toàn vô tội. Ba năm chồng đi chinh chiến nàng vẫn ngày đêm mong chồng trở về. Vậy mà nàng có ngờ đâu phút giây đoàn viên hạnh.

<span class='text_page_counter'>(110)</span> phúc nhất cũng là phút giây bất hạnh nhất. Nàng có ngờ đâu hành động dùng cái bóng trên tường để khỏa lấp nỗi nhớ thương chồng ngày nào lại trở thành bi kịch thảm khốc. Giờ đây Vũ Nương không chỉ đau đớn ngậm đắng nuốt cay chịu đựng những đòn roi và những lời mắng nhiếc đuổi xua cay nghiệt mà còn phải mang lấy nỗi oan lớn nhất, đau đớn nhất của người phụ nữ đó là sự thất tiết. Thật còn oan hơn Thị Kính. Vì Thị Kính còn biết vì sao mình bị ngờ oan, còn Vũ Nương chỉ biết mình bị kết tội oan uất mà không biết nguyên cớ vì đâu bởi hỏi chồng thì chồng nhất định không nói. Bão tố oan khiên dậy đất đã dồn nàng vào kết cục bi thảm nhất là phải tuẫn tiết ở sông Hoàng Giang để tỏ lòng trinh bạch, giải nỗi oan tình. Ai trong chúng ta lại không khỏi cảm thấy xốn xang, nhức nhối khi nghe vọng lại lời thề nguyền thống thiết của nàng trước trời cao sông thẳm: “ Kẻ bạc phận này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ…”. Đó là tiếng khóc nghẹn ngào ai oán của Vũ Nương hay cũng là tiếng kêu thương chung cho những kẻ má hồng mệnh bạc. Đó cũng là lời tố cáo mạnh mẽ xã hội nam quyền độc đoán lúc bấy giờ…Một người mẹ hết lòng thương con lại phải đau đớn chọn cái chết, phải xa lìa đứa con mà nàng hết mực yêu thương. Phải bị dồn đến bước đường cùng thì người mẹ ấy mới chọn con đường biệt ly đau đớn ấy. Hạnh phúc đối với nàng sao mà quá xa xôi. Bao nhiêu cố gắng của người đàn bà bất hạnh hầu giữ lấy hạnh phúc gia đình đều vô vọng. Người thiếu phụ Nam Xương ấy thật đáng thương mà cũng đáng trọng: Bày tỏ tấm lòng của mình.

<span class='text_page_counter'>(111)</span> không được thì tự vẫn chứ không sống “ chịu tiếng nhuốc nhơ”. Thật là khí khái và giàu lòng tự trọng. Câu chuyện có thể được khép lại nơi đây, thế nhưng tác giả lại thêm vào chi tiết Vũ Nương ở dưới thủy cung nhằm tô đậm hơn tính cách cao đẹp của Vũ Nương đồng thời còn gián tiếp bộc lộ thái độ đồng cảm và thương yêu của tác giả trước số phận con người. Dù đã chết người thiếu phụ ấy vẫn còn tình xưa nghĩa cũ, ẫn còn vọng với quê hương xưa khác nào “Ngựa Hồ gầm gió Bắc, chim Việt đậu cành Nam”.Tấm lòng son sắt thủy chung của nàng thật đáng quý! Cũng chính lớp màn lung linh kì ảo ấy đã làm tăng thêm bi kịch trong tâm hồn nàng. Dù đã chết được thần linh chứng giám và sống trong vòng tay ân đức của Linh Phi, thế nhưng nàng vẫn cảm thấy ray rứt, giày vò đau khổ, tủi thẹn vì nỗi oan thất tiết còn đeo đẳng xuống chốn tuyền đài. Lời buộc tội cái nhân gian phong kiến đầy bất công xưa kia khép lại câu chuyện đầy thương tâm ấy cũng là một vẻ đẹp của giá trị nhân đạo mà câu chuyện mang lại. Tuy khát khao hạnh phúc, yêu thương chồng con, gắn bó thiết tha với cuộc sống trần thế nhưng khi chồng lập đàn giải oan như ước nguyện thì nàng lại từ chối cuộc sống trần thế. Trước hết đó là do nàng cảm được ân đức của Linh Phi “thề sống chết không bỏ”. Điều ấy cho ta thấy đó là một người phụ nữ có trước có sau, trọn nghĩa, trọn tình. Nhưng có lẽ căn nguyên sâu xa là cuộc sống nơi nhân gian kia thiếu hẳn ân đức của Linh Phi, cái dương gian kia chỉ cho nàng.

<span class='text_page_counter'>(112)</span> những tháng năm chờ đợi mỏi mòn, vò võ cô đơn và những nỗi oan khổ bất hạnh. Dù đã nghe tiếng chồng gọi, người chồng vẫn chưa cạn tình người, đã thấu nỗi oan của vợ và có nỗi đau, sự ăn năn hối hận của chàng nhưng nàng cũng chỉ đau đớn đa tạ và đau đớn trở lại cuộc sống thủy cung, có nghĩa là nàng đớn đau chấp nhận khước từ thiên chức lớn lao, hạnh phúc lớn lao của người phụ nữ là làm vợ, làm mẹ. Lời đa tạ cuối cùng của nàng đối với chồng nghe sao xúc động thảm thiết! 3. Giá trị nghệ thuật: Truyện lôi cuốn người đọc không chỉ vì nội dung cảm động giàu ý nghĩa mà còn bởi cách viết tài hoa của Nguễn Dữ. Ông đặc biệt chú ý đến cách khắc họa nội tâm của nhân vật qua đó tính cách nhân vật được thể hiện một cách rõ nét. Chẳng hạn ở trường đoạn người chồng bắt đầu ngờ vực lòng chung thủy của người vợ và bắt đầu ghen tuông cho đến khi Vũ Nương gieo mình xuống sông tự tử thì truyện cổ tích “Vợ chàng Trương” chỉ ghi có vài dòng, còn trong truyện ngắn của Nguyễn Dữ thì đã phát triển thành cao trào, xung đột nội tâm được khắc họa khá tinh tế qua ngôn ngữ đối thoại trong tác phẩm. Tác phẩm kết hợp tài tình, nhuần nhuyễn những phương thức tự sự trữ tình và cả kịch, giữa ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ tác giả, giữa văn xuôi và văn biền ngẫu. Lời văn cô đọng, xúc tích chặt chẽ, hài hòa và sinh động. Tác giả đã để cho nhân vật Vũ Nương nhiều lần nói trong tác phẩm, giọng điệu khi thắm thiết, lúc thống thiết càng làm cho người đọc thêm xúc động..

<span class='text_page_counter'>(113)</span> Cách xây dựng tình tiết mở nút thắt nút đầy bất ngờ kịch tính càng làm cho nỗi oan của Vũ Nương càng hiện rõ hơn với tất cả cái bi thảm của nó. Trước hết phải nói đến cách thắt nút bằng yếu tố bất ngờ. Tác giả đã khéo léo cân nhắc, chọn lọc câu nói phản ánh đúng suy nghĩ của đứa trẻ. Chỉ một câu nói ngây thơ của con trẻ mà bão tố nổi lên cuốn trôi hạnh phúc gia đình khi phúc giây đoàn viên chưa thỏa.Câu nói ấy đã tạo nên cơn bão nghi kị, ghen tuông trong lòng một người chồng – đa nghi và thiếu trí tuệ vừa đi xa trở về. Ngay cả người đọc cũng cảm thấy bàng hoàng sửng sốt. Cách gỡ nút cũng thật tự nhiên, bởi vì tìm ra sự thật cũng chính là người chồng đa nghi thiếu trí tuệ ấy. Thật trớ trêu thay, cái bóng của Vũ Nương trên tường buộc mối oan khiên thì cái bóng của chàng Trương trên tường lại mở mối oan tình ấy. Truyện lẽ ra kết thúc ở đoạn Vũ Nương trầm nình cũng được xem là hoàn chỉnh nhưng tác giả lại thêm đoạn Vũ Nương ở dưới thủy cung. Đây là sự sáng tạo trong việc xây dựng cốt truyện. Với phần hai, “Câu chuyện về vợ chàng Trương” không còn là một câu chuyện cổ tích đã được lưu truyền trong dân gian. Chính lớp màn kì ảo ấy đã tạo ra giá trị đặc sắc cho tác phẩm, đưa Nguyễn Dữ vào những ngôi đền lớn của dân tộc với trái tim nhân hậu bao la. Không bảo vệ được nhân vật phụ nữ của mình ở cõi nhân gian đầy bất hạnh đã để cho nhân vật mà mình yêu thương phải sống trong sự đọa đày, hành hạ, xúc phạm nhân phẩm của người chồng đa nghi và sẵn sàng dùng thế lực của kẻ mạnh, tác giả đành để cho Vũ Nương sống trong thế giớ kí ảo, thế giới của ước.

<span class='text_page_counter'>(114)</span> nguyện và trí tưởng tượng. Ở nơi đó mọi người sống với nhau thật ân nghĩa. Phần hai của truyện với màu sắc hoang đường và kết thúc có hậu thường có trong truyện cổ tích tưởng chừng làm dịu nỗi đau nhân thế ở tác giả, người đọc và cả Vũ Nương. Nhưng đọc đến cuối tác phẩm thì người đọc hết sức bàng hoàng, một kết thúc không như ý của cả nhân vật, cả người đọc đã xảy ra. Nghe những lời nói chia li đau đớn của Vũ Nương khi từ chối trở về nhân gian thì nỗi đau, lòng thương cảm và cảm xúc ở người đọc tăng lên gấp bội. Nước mắt trong văn chương, nước mắt ngoài cuộc đời. 5. Đánh giá chung về tác phẩm (Cảm nhận của bản thân về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm). Truyện “ Người con gái Nam Xương” có giá trị về nội dung sâu sắc và đầy cảm động. Qua tác phẩm, chúng ta hiểu hơn về thân phận của người phụ nữ trong xã hội cũ – có nhan sắc, nết na nhưng cuộc đời lại quá nhiều bất hạnh. Số phận truân chuyên ấy không chỉ vận vào mỗi Vũ Nương mà còn có nàng Kiều trong “ Truyện Kiều” của Nguyễn Du, người chinh phụ trong “ Chinh phụ ngâm khúc” của Đoàn Thị Điểm hay người phụ nữ trong thơ của Hồ Xuân Hương,…Tác phẩm còn là bản án nghiêm khắc dành cho xã hội phong kiến thối nát bất công và chiến tranh phi nghĩa. Để tạo nên sức sống mạnh mẽ trên, Nguyễn Dữ đã tỏ ra là bậc thầy trong nghệ thuật viết truyện. Tài năng cũng chưa đủ làm nên sức lay động kì dịêu của tác phẩm mà phải có một trái tim yêu thương, cảm thông sâu sắc với thân phận người phụ nữ chịu nhiều bất công đau khổ trong xã hội phong kiến bạo tàn,.

<span class='text_page_counter'>(115)</span> khe khắc.Tài năng và tấm lòng của ông đáng cho những người cầm bút hôm nay học hỏi. C. KẾT BÀI: Mặc dầu truyện còn phảng phất không khí thần linh, sử dụng văn biền ngẫu nhưng với cách tạo bố cục truyện bất ngờ, lý thú, tác phẩm đã làm sống dậy hình ảnh người phụ nữ trong quá khứ với nhiều phẩm chất tốt đẹp nhưng cuộc đời thật bấp bênh, oan trái. Hiện thực đời sống xã hội cùng trí tưởng tượng và khả năng sáng tạo của Nguyễn Dữ đã làm nên cái hay cái đẹp của “ Chuyện Người con gái Nam Xương”. Tấm lòng và nỗi oan của người thiếu phụ đã làm rơi nước mắt của người Việt Nam trong mấy trăm năm qua. Đọc lại truyện ngắn đặc sắc của tập truyện được mệnh danh là “ thiên cổ kì bút”, ta vừa thương cảm cho “người đàn bà hôm qua”(Lưu Trọng Lư) vừ cảm thấy tự hào hơn về người phụ nữ ngày nay. Họ không còn phải chịu đựng nỗi oan như nỗi oan Thị Kính, không còn là những hòn đá vọng phu mà là những người phụ nữ “khỏe mạnh, lành mạnh”( Nguyễn Tuân) vừa đảm đang, thương chồng, thương con vừa yêu nước… .................------ ................ Đề: PTNV Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương”- Nguyễn Dữ.. DÀN BÀI A. MỞ BÀI:.

<span class='text_page_counter'>(116)</span> − Dẫn bài thơ “Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương. − Liên hệ thân phận người phụ nữ trong bài thơ với Vũ Nương trong tác phẩm “Người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ( đảm đang, hiếu nghĩa, thủy chung mà hạnh phúc chỉ hư ảo, bấp bênh). B. THÂN BÀI: 1. Tóm lược về tác phẩm: ( Xem phần phân tích tác phẩm) 2.Cảm nhận về nhân vật Vũ Nương: a. Vũ Nương là một mẫu mực của người phụ nữ phong kiến với những phẩm chất đáng quý: − Nàng không chỉ “nết na thùy mị” mà còn tư dung tốt đẹp”; trong đạo vợ chồng, nàng “hết sức khôn khéo”, “rất mực chú trọng giữ gìn khuôn phép, không từng lúc nào để đến vợ chồng phải thất hòa” những mong hạnh phúc nhưng hạnh phúc thật mong manh. − Qua lời tống biệt chồng ra trận, ta thấy Vũ Nương dịu dàng, thiết tha với hạnh phúc, không màng hư danh, hết mực lo lắng, yêu thương chồng. − Khi chồng ra trận vắng nhà, người thiếu phụ đáng thương ấy một mình ra sức tảo tần nuôi dạy con thơ, phụng dưỡng mẹ chồng, thuốc thang khi đau ốm, lo ma chay khi mẹ chồng mất. Nàng đã thay chồng chăm sóc gia đình chồng chu đáo, trọn đạo làm dâu, làm vợ, làm mẹ. Lời người mẹ chồng trước lúc lâm chung-.

<span class='text_page_counter'>(117)</span> mong nàng được bù đắp, sống hạnh phúc- là một một minh chứng cho đức hạnh và tấm lòng của nàng. b. Những oan khổ, bất hạnh mà người phụ nữ phải gánh chịu: − Nàng đã trọn đạo vợ hiền, dâu thảo, hết lòng hy sinh cho gia đình chồng. Giây phút đoàn viên hạnh phúc lại là giây phút bất hạnh . Nàng bị chồng ngờ oan cho lòng chung thủy, tiết hạnh sáng trong. Chồng không nghe lời giải bày mà còn mắng chửi, đánh đuổi. Bị dồn đến bước đường cùng, nàng gieo mình xuống sông tự vẫn. Trước khi gieo mình xuống sông, nàng đã cầu mong các đấng thiêng liêng chứng giám cho lòng trinh bạch của nàng. Thật xót xa cho một người phụ nữ đức hạnh vẹn toàn! − Nàng được Linh Phi cứu giúp, nỗi oan tình được giải khi chồng lập đàn giải oan. Người phụ nữ từng khát khao hạnh phúc gia đình lại từ chối trở về nhân gian có lẽ vì nhân gian thiếu cái ân đức của Linh Phi và nơi ấy những người phụ nữ như nàng phải chịu nhiều oan khổ và bất hạnh. Lời từ biệt, đa tạ cuối cùng của nàng đối với chồng sao nghe thật xót xa. 3. Giá trị nghệ thuật: − Khắc họa nội tâm nhân vật để bộc lộ tính cách. − Kết hợp tài tình giữa phương thức tự sự trữ tình và kịch; giữa ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ tác giả; giữa văn xuôi và văn biền ngẫu; lời văn cô đọng, súc tích chặt chẽ, hài hòa và sinh động; tác giả để cho nhân vật Vũ Nương nhiều lần nói trong tác phẩm, khi thì thắm thiết, khi thì thống thiết làm người đọcc vô cùng xúc động..

<span class='text_page_counter'>(118)</span> − Cách xây dựng tình tiết thắt nút, mở nút càng làm cho câu chuyện giàu kịch tính, hấp dẫn. − Chi tiết hoang đường được thêm vào ở cuối truyện càng tăng tính bi kịch. 4. Đánh giá chung: Tài năng và tấm lòng của nhà văn đã ký thác vào nhân vật Vũ Nương. Nàng là một mẫu người phụ nữ lí tưởng. Trước nỗi đau của một nguời mẹ mãi mãi xa lìa đứa con thơ, người vợ thục hiền phải mãi xa lìa người chồng mà nàng hết mực yêu thương, chung thủy, ước nguyện sống trọn đời, ta thật xót xa cho cảnh ngộ của nàng. C. KẾT BÀI: Tấm lòng và nỗi oan của người thiếu phụ đã làm rơi bao nước mắt của người đọc. Thương cho thân phận người phụ nữ xưa, tự hào cho hạnh phúc của người phụ nữ ngày nay. .................------ ................ BÀI LÀM THAM KHẢO A.MỞ BÀI: “ Thân em vừa trắng lại vừa tròn Bảy nổi ba chìm với nước non Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn Mà em vẫn giữ tấm lòng son” (“Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương) Tiếng thơ hay cũng chính là lời than thân phận của nữ sĩ Hồ Xuân Hương, mượn hình ảnh chiếc bánh trôi để nói lên thân phận.

<span class='text_page_counter'>(119)</span> truân chuyên của khách má hồng: dung nhan xinh đẹp, đức hạnh sáng ngời nhưng lại có cuộc đời lắm nỗi truân chuyên. Đem vịnh lời thơ ấy vào cuộc đời của Vũ Nương – nhân vật chính trong tác phẩm “ Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ - ta thấy đúng như vậy. Nàng là một người phụ nữ đảm đang, hiếu nghĩa, thủy chung son sắt thế mà hạnh phúc đối với nàng chỉ hư ảo, bấp bênh như chiếc bóng ở trên tường khiến chúng ta không khỏi xúc động khi đọc lại tác phẩm ấy. B.THÂN BÀI: 1. Sơ lược tác phẩm: Vũ Thị Thiết – quê ở Nam Xương – là người con gái thùy mị nết na, tư dung lại tốt đẹp, lấy chồng là Trương Sinh, con nhà giàu, ít học lại có tính hay ghen. Về làm dâu nhà họ Trương, hiểu tính chồng nên nàng hết mực giữ gìn khuôn phép, tránh để vợ chồng phải thất hòa. Lấy nhau chưa được bao lâu thì xảy ra chiến tranh, Trương Sinh phải đi lính. Chồng đi vừa đầy tuần, Vũ Nương ở nhà sinh con, nuôi dạy con một mình, phụng dưỡng mẹ chồng khi đau ốm, lo ma chay khi mất như cha mẹ đẻ. Năm sau, Trương Sinh trở về, vì nghe lời ngây thơ của con trẻ đã ngờ oan vợ thất tiết. Vũ Nương hết lời giải bày nhưng chồng không tin, nàng nhảy xuống sông tự vẫn nhưng được Linh Phi cứu. Ở thủy cung, nàng gặp Phan Lang người cùng làng, nhờ Phan nhắn chồng lập đàn giải oan, nàng hiện về đa tạ tình nghĩa của chồng nhưng từ chối trở lại nhân gian. 2. Giá trị nội dung: . Cảm nhận về nhân vật Vũ Nương:.

<span class='text_page_counter'>(120)</span> a). Đọc truyện, ta thấy Vũ Nương đúng là một mẫu mực của người phụ nữ trong xã hội phong kiến với những phẩm chất đáng quý. Nàng không chỉ “thùy mị nết na” mà còn có “tư dung tốt đẹp”. Trong đạo vợ chồng, nàng rất mực khôn khéo, hết sức chú trọng “giữ gìn khuôn phép”, không từng để vợ chồng phải đến thất hòa. Với hai yếu tố quan trọng nhất của người phụ nữ - nhan sắc và đức hạnh – nàng cũng đã đủ để có một cuộc sống hạnh phúc. Thế nhưng hạnh phúc đến với nàng thật mong manh và ngắn ngủi, chỉ một lần vào giây phút ban đầu khi về làm vợ chàng Trương. Qua lời tống biệt chồng ra trận, ta thấy hiện lên một Vũ Nương dịu dàng, thiết tha với hạnh phúc, không hư danh và giàu lòng vị tha. Nàng nghĩ đến sự khó nhọc gian nguy của chồng trước rồi mới nghĩ đến sự lẻ loi của mình: “chàng đi chuyến này thiếp chẳng mong đeo ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ mong ngày về mang theo được hai chữ bình yên thế là đủ rồi…” Trong những năm tháng chồng còn ngoài nơi chiến địa, người thiếu phụ đáng thương ấy đã ra sức tần tảo nuôi dạy con thơ, phụng dưỡng mẹ chồng, ngày đêm giữ gìn hạnh phúc mà nàng mong đợi. Đối với mẹ chồng, nàng giữ vẹn đạo làm dâu thảo. Vũ Nương hết lòng chăm sóc lo thuốc thang khi mẹ ốm đau và cả việc lo ma chay tế lễ khi mẹ chồng mất,… Nhà văn đã tỏ ra già dặn, đã để cho chính bà mẹ chồng ấy nhận xét về tấm lòng thơm thảo của nàng dâu trước khi bà qua đời. Trong đội mắt của người mẹ chồng, nàng là người có “lòng lành”. Sự đảm đang hiếu nghĩa ấy cũng.

<span class='text_page_counter'>(121)</span> phần nào thể hiện tấm lòng son của nàng với Trương Sinh. Nàng đã trọn vẹn đạo làm con, làm vợ, làm mẹ. b).Tác phẩm còn đề cập đến những oan khổ bất hạnh mà người phụ nữ phải chịu đựng.Dõi theo câu chuyện, ta thấy người thiếu phụ Nam Xương này hoàn toàn vô tội. Ba năm chồng đi chinh chiến nàng vẫn ngày đêm mong chồng trở về. Vậy mà nàng có ngờ đâu phút giây đoàn viên hạnh phúc nhất cũng là phút giây bất hạnh nhất. Nàng có ngờ đâu hành động dùng cái bóng trên tường để khỏa lấp nỗi nhớ thương chồng ngày nào lại trở thành bi kịch thảm khốc. Giờ đây Vũ Nương không chỉ đau đớn ngậm đắng nuốt cay chịu đựng những đòn roi và những lời mắng nhiếc đuổi xua cay nghiệt mà còn phải mang lấy nỗi oan lớn nhất, đau đớn nhất của người phụ nữ đó là sự thất tiết. Thật còn oan hơn Thị Kính. Vì Thị Kính còn biết vì sao mình bị ngờ oan, còn Vũ Nương chỉ biết mình bị kết tội oan uất mà không biết nguyên cớ vì đâu bởi hỏi chồng thì chồng nhất định không nói. Bão tố oan khiên dậy đất đã dồn nàng vào kết cục bi thảm nhất là phải tuẩn tiết ở sông Hoàng Giang để tỏ lòng trinh bạch, giải nỗi oan tình. Ai trong chúng ta lại không khỏi cảm thấy xốn xang, nhức nhối khi nghe vọng lại lời thề nguyền thống thiết của nàng trước trời cao sông thẳm: “ Kẻ bạc phận này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ…”. Đó là tiếng khóc nghẹn ngào ai oán của Vũ Nương hay cũng là tiếng kêu thương chung cho những kẻ má hồng mệnh bạc. Đó cũng là lời tố cáo mạnh mẽ xã hội nam quyền độc đoán lúc bấy giờ…Một người mẹ hết lòng thương con lại phải.

<span class='text_page_counter'>(122)</span> đau đớn chọn cái chết, phải xa lìa đứa con mà nàng hết mực yêu thương. Phải bị dồn đến bước đường cùng thì người mẹ ấy mới chọn con đường biệt li đau đớn ấy. Hạnh phúc đối nàng sao mà quá xa xôi. Bao nhiêu cố gắng của người đàn bà bất hạnh hầu giữ lấy hạnh phúc gia đình đều vô vọng. Người thiếu phụ Nam Xương ấy thật đáng thương mà cũng đáng trọng: Bày tỏ tấm lòng của mình không được thì tự vẫn chứ không sống “ chịu tiếng nhuốc nhơ”. Thật là khí khái và giàu lòng tự trọng. Câu chuyện có thể được khép lại nơi đây, thế nhưng tác giả lại thêm vào chi tiết Vũ Nương ở dưới thủy cung nhằm tô đậm hơn tính cách cao đẹp của Vũ Nương đồng thời còn gián tiếp bộc lộ thái độ đồng cảm và thương yêu của tác giả trước số phận con người. Dù đã chết người thiếu phụ ấy vẫn còn tình xưa nghĩa cũ, ẫn còn vọng với quê hương xưa khác nào “Ngựa Hồ gầm gió Bắc, chim Việt đậu cành Nam”.Tấm lòng son sắt thủy chung của nàng thật đáng quý! Cũng chính cái lớp màn lung linh kì ảo ấy đã làm tăng thêm bi kịch trong tâm hồn nàng. Dù đã chết được thần linh chứng giám và sống trong vòng tay ân đức của Linh Phi, thế nhưng nàng vẫn cảm thấy ray rứt, giày vò đau khổ, tủi thẹn vì nỗi oan thất tiết còn đeo đẳng xuống chốn tuyền đài. Lời buộc tội cái nhân gian phong kiến đầy bất công xưa kia khép lại câu chuyện đầy thương tâm ấy cũng là một vẻ đẹp của giá trị nhân đạo mà câu chuyện mang lại. Tuy khát khao hạnh phúc, yêu thương chồng con, gắn bó thiết tha với cuộc sống trần thế.

<span class='text_page_counter'>(123)</span> nhưng khi chồng lập đàn giải oan như ước nguyện thì nàng lại từ chối cuộc sống trần thế. Trước hết đó là do nàng cảm được ân đức của Linh Phi “thề sống chết không bỏ”. Điều ấy cho ta thấy đó là một người phụ nữ có trước có sau, trọn nghĩa, trọn tình. Nhưng có lẽ căn nguyên sâu xa là cuộc sống nơi nhân gian kia thiếu hẳn ân đức của Linh Phi, cái dương gian kia chỉ cho nàng những tháng năm chờ đợi mỏi mòn, vò võ cô đơn và những nỗi oan khổ bất hạnh. Dù đã nghe tiếng chồng gọi, người chồng vẫn chưa cạn tình người, đã thấu nỗi oan của vợ. Nỗi đau đớn, sự ăn năn hối hận của chàng nhưng nàng cũng chỉ đau đớn đa tạ và đau đớn trở lại cuộc sống thủy cung, có nghĩa là nàng đớn đau chấp nhận khước từ thiên chức lớn lao, hạnh phúc lớn lao của người phụ nữ là làm vợ, làm mẹ. Lời đa tạ cuối cùng của nàng đối với chồng nghe sao xúc động thảm thiết! 3.Giá trị nghệ thuật: Truyện lôi cuốn người đọc không chỉ vì nội dung cảm động giàu ý nghĩa mà còn bởi cách viết tài hoa của Nguễn Dữ. Ông đặc biệt chú ý đến cách khắc họa nội tâm của nhân vật qua đó tính cách nhân vật được thể hiện một cách rõ nét. Chẳng hạn ở trường đoạn người chồng bắt đầu ngờ vực lòng chung thủy của người vợ và bắt đầu ghen tuông cho đến khi Vũ Nương gieo mình xuống sông tự tử thì truyện cổ tích “Vợ chàng Trương” chỉ ghi có vài dòng, còn trong truyện ngắn của Nguyễn Dữ thì đã phát triển thành cao trào, xung đột nội tâm được khắc họa khá tinh tế qua ngôn ngữ đối thoại trong tác phẩm..

<span class='text_page_counter'>(124)</span> Tác phẩm kết hợp tài tình, nhuần nhuyễn những phương thức tự sự trữ tình và cả kịch, giữa ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ tác giả, giữa văn xuôi và văn biền ngẫu. Lời văn cô đọng, xúc tích chặt chẽ, hài hòa và sinh động. Tác giả đã để cho nhân vật Vũ Nương nhiều lần nói trong tác phẩm, giọng điệu khi thì thắm thiết, khi thì thống thiết càng làm cho người đọc càng xúc động. Cách xây dựng tình tiết mở nút thắt nút đầy bất ngờ kịch tính càng làm cho nỗi oan của Vũ Nương càng hiện rõ hơn với tất cả cái bi thảm của nó. Trước hết phải nói đến cách thắt nút bằng yếu tố bất ngờ. Tác giả đã khéo léo cân nhắc, chọn lọc câu nói phản ánh đúng suy nghĩ của đứa trẻ. Chỉ một câu nói ngây thơ của con trẻ mà bão tố nổi lên cuốn trôi hạnh phúc gia đình khi phúc giây đoàn viên chưa thỏa.Câu nói ấy đã tạo nên cơn bão nghi kị, ghen tuông trong lòng một người chồng – đa nghi và thiếu trí tuệ - vừa đi xa trở về. Ngay cả người đọc cũng cảm thấy bàng hoàng sửng sốt. Cách gỡ nút cũng thật tự nhiên, bởi vì tìm ra sự thật cũng chính là người chồng đa nghi thiếu trí tuệ. Thật trớ trêu thay, cái bóng của Vũ Nương trên tường buộc mối oan khiên thì cái bóng của chàng Trương trên tường lại mở mối oan tình ấy. 4. Đánh giá chung về nhân vật: Có thể nói tài năng và tấm lòng của nhà văn dường như đã kí thác tất cả vào nhân vật trung tâm của tác phẩm. Đọc truyện, ta thấy Vũ Nương được Nguyễn Dữ khắc họa bằng ngòi bút thật trân trọng. Nàng đúng là mẫu người phụ nữ lý tưởng theo quan niệm.

<span class='text_page_counter'>(125)</span> xã hội lúc bấy giờ. Thế mà sự mất mát và đớn đau của nàng quá lớn, người mẹ đáng thương ấy phải mãi mãi xa lìa đứa con thơ dại, người vợ thục hiền giờ phải mãi mãi xa lìa người chồng mà nàng đã nguyện với lòng suốt đời chung thủy, gắn bó. Bao nhiêu cố gắng của người đàn bà bất hạnh hầu giữ gìn lấy hạnh phúc đều vô vọng, hạnh phúc đã chuồi khỏi đời nàng. Ai trong chúng ta không cảm thấy xốn xang nhức nhối khi nghe vọng lại lời thề nguyền thống thiết của nàng trước trời cao sông thẳm! Thiết nghĩ nếu nhà văn thiếu đi chữ tâm trên từng trang sách thì câu chuyện về người thiếu phụ bất hạnh của Nguyễn Dữ đâu có thể làm day dứt xốn xang lòng người đọc đến thế. C.KẾT BÀI 1: Mặc dầu truyện còn phảng phất không khí thần linh, sử dụng văn biền ngẫu nhưng với cách tạo bố cục truyện bất ngờ, lý thú, tác phẩm đã làm sống dậy hình ảnh người phụ nữ trong quá khứ với nhiều phẩm chất tốt đẹp nhưng cuộc đời thật bấp bênh, oan trái. Hiện thực đời sống xã hội cùng trí tưởng tượng và khả năng sáng tạo của Nguyễn Dữ đã làm nên cái hay cái đẹp của “ Chuyện Người con gái Nam Xương”. Tấm lòng và nỗi oan của người thiếu phụ đã làm rơi nước mắt của người Việt Nam trong mấy trăm năm qua. Đọc lại truyện ngắn đặc sắc của tập truyện được mệnh danh là “ thiên cổ kì bút”, ta vừa thương cảm cho “người đàn bà hôm qua”(Lưu Trọng Lư) vừ cảm thấy tự hào hơn về người phụ nữ ngày nay. Họ không còn phải chịu đựng nỗi oan như nỗi oan Thị Kính, không còn là những hòn.

<span class='text_page_counter'>(126)</span> đá vọng phu mà là những người phụ nữ “khỏe mạnh, lành mạnh”( Nguyễn Tuân) vừa đảm đang, thương chồng, thương con vừa yêu nước… KẾT BÀI 2: Hình ảnh người phụ nữ phong kiến xưa kia là thế đó. Dịu dàng, xinh đẹp nhưng cũng thật là đắng cay. Nhân vật Vũ Nương trong truyện người con gái Nam Xương là như thế. Là một người phụ nữ xinh đẹp, nết na đức hạnh nhưng hạnh phúc đối với nàng thật mỏng manh. Cuộc đời đấy bất hạnh và oan khổ của nàng đã gợi biết bao suy nghĩ cho người đọc từ xưa đến nay.. Cảm nhận về “Chuyện cũ phủ chúa” của Phạm Đình Hổ. A. MỞ BÀI: 1. Giới thiệu đôi nét về tác giả: Phạm Đình Hổ là nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu văn hóa, lịch sử, xã hội cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX. Ông để lại nhiều tác phẩm có giá trị, nhưng đáng chú ý nhất là tập “ Vũ trung tùy bút”. 2. Giới thiệu đôi nét về tác phẩm: Với những trang viết chân thực, sinh động, phản ánh nhiều mặt đời sống xã hội cuối thế kỉ XVIII. “Vũ trung tùy bút” không chỉ là một áng văn xuôi xuất sắc, một thiên tùy bút thời trung đại mẫu mực mà còn là một tư liệu lịch sử - văn hóa quý giá..

<span class='text_page_counter'>(127)</span> 3. Khái quát nội dung của tác phẩm: “Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh” đã tái hiện đời sống xa hoa, thú ăn chơi vô độ của chúa Trịnh Sâm và sự nhũng nhiễu của bọn quan hoạn khiến dân tình điêu đứng. Qua đó ta còn phần nào hiểu được tâm trạng của chính tác giả. B. THÂN BÀI: 1. Cảm nhận về bức tranh hiện thực trong thiên tùy bút: Trước hết, tác phẩm đã kín đáo phê phán thói ăn chơi xa xỉ của chúa Trịnh Sâm. Thói xa hoa phù phiếm ấy được thể hiện qua những chi tiết tinh lọc, đắt giá. Đó là việc xây dựng đền đài liên miên, hao tiền của, tốn sức dân để thỏa mãn nhu cầu hưởng thụ của cá nhân đế vương và việc du hí cầu kì tốn kém, huy động nhiều sức người, cản trở sinh hoạt của nhân dân “ cho binh lính dàn hầu vòng quanh bốn mặt hồ”, bày trò giải trí lố lăng “ cho các nội thần bịt khăn, mặc áo đàn bà, bày bách hóa chung quanh hồ để bán”. Đó còn là việc tước đoạt các thứ của cải quý giá của nhân dân đem về làm của riêng, tô điểm cho đền đài lầu gác. Viết về sự ăn chơi hưởng lạc vô độ của Trịnh Sâm, Phạm Đình Hổ chỉ kể việc, tả cảnh mà không đưa ra lời bình luận trực tiếp nào nhằm đảm bảo tính tin cậy, khách quan của thiên tùy bút. Bản thân sự việc đã nói lên bản chất của đối tượng. Thú vui chơi triền miên của phủ chúa được lột tả qua cụm từ chỉ tần số mang tính khách quan: “tháng ba bốn lần”, lòng tham không đáy của Chúa thể hiện qua chi tiết: “ Buổi ấy bao nhiêu loài trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chậu hoa cây cảnh chốn dân gian, Chúa đều sức thu.

<span class='text_page_counter'>(128)</span> lấy…”. Đắt giá nhất trong các chi tiết lựa chọn là chi tiết cây đa cổ thụ: cây có kích thước khổng lồ được chở qua sông, phải huy động cả một cơ binh khiêng, lại có thêm thanh la đốc thúc. Đó thật là cảnh tượng vô cùng huyên náo, hẳn cũng khiến dân tình khiếp nhược uy quyền và thói ăn chơi tốn của hao công của nhà Chúa. Đó còn là bọn hoạn quan trong phủ Chúa tha hồ hoành hoành hành, tác oai tác quái vét cho đầy túi tham và cũng để phục vụ đắc lực cho thú ăn chơi của Chúa. Chúng dùng thủ đoạn vừa ăn cướp vừa la làng, một mặt dò tìm vật quý, sai người tước đoạt, mặt khác là vu vạ cho người chủ là giấu vật cung phụng. Nhờ vậy, chúng vừa lấy được vật quý dâng lên Chúa lập công, vừa ăn được tiền đút lót của các nhà bị vu oan nộp lên mong thoát tội. Chúng thình lình xông vào nhà người bất kể đêm khuya, gây cảnh náo loạn kêu khóc vang trời, thậm chí còn ngang ngược phá tường để mang vật ra. Mỉa mai và phi lí đến mức độ tột cùng là nhà nào có vật quý đều phải đứt lòng đứt ruột phá bỏ đi để được yên thân, tránh tai bay vạ gió. Nếu không có sự dung túng của kẻ bề trên hẳn bọn hoạn quan không dám làm càn đến mức độ ấy. Sự nhũng nhiễu của chúa tôi nhà Trịnh gây cảnh hỗn loạn trong dân gian, lòng người không yên ổn. Đó là chân dung thực của cảnh “trong nước vô” sự mà Phạm Đình Hổ nói ở đầu thiên tùy bút. Lúc ấy, Trịnh Sâm đã dẹp xong Đàng Trong, tạm thời không còn chiến sự, nhưng hòa ra cảnh “ bốn phương phẳng lặng” chỉ là giả tạo. Cơn sóng ngầm đã nổi lên từ mầm đại loạn trong chính chính quyền phong kiến, mà thói ăn chơi của Chúa Trịnh và tệ hoành hoành của bọn hoạn quan là.

<span class='text_page_counter'>(129)</span> những nguyên nhân dễ trông thấy nhất. Hiện thực trong thiên tùy bút phản ánh một sự thực lịch sử về cuộc khủng hoảng của chế độ phong kiến, về một biểu hiện cụ thể của khối mâu thuẫn gay gắt giữa nhân dân với tầng lớp thống trị. 2. Cảm nhận về chân dung tinh thần của tác giả: Tùy bút được xem là thể tùy bút giàu chất trữ tình trong các loại kí. Điểm đáng chú ý là ở tùy bút cổ, nhà văn tuy cũng xuất hiện trực tiếp, bộc lộ trực tiếp cảm xúc, sự bình luận của mình nhưng chỉ trong chừng mực nhất định. Bên cạnh đó, việc nhận xét, đánh giá còn được thể hiện gián tiếp thông qua các lựa chọn chi tiết, sử dụng từ ngữ. Đặc điểm của tùy bút “Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh” là sự kết hợp tinh tế giữa tính chủ quan qua sự lựa chọn, bộc lộ và tính khách quan của sự tái hiện miêu tả. Trước hết, ngay trong việc lựa chọn chi tiết, cách thức tái hiện hiện thực đã có sự đánh giá ngầm của Phạm Đình Hổ. Việc Trịnh Sâm thích chơi đèn đuốc, xây dựng đền đài, mải mê du hí, thu thập các trân bảo trong thiên hạ, đặc biệt là chuyện cây đa cổ thụ - tất cả các chi tiết đó tự nó đã cho thấy thái độ phê phán của tác giả. Một lần nữa, cách nhà văn miêu tả kĩ lưỡng thủ đoạn nhũng nhiễu dân lành của bọn hoạn quan đã bộc lộ mạnh mẽ sự bất bình củaông, nhất là những chi tiết như: bọn hoạn quan dọa dân lấy tiền, phá tường nhà dân để khiêng cây cối đồ vật ra hay người nhà giàu phải phá bỏ đồ quí mong tránh tai họa. Sự miêu tả tuy khách quan nhưng lại mang ý nghĩa tố cáo sâu sắc..

<span class='text_page_counter'>(130)</span> Đáng chú ý hơn cả là Phạm Đình Hổ thể hiện trực tiếp suy nghĩ cảm xúc của riêng mình. Ông khéo léo đan cài vào lời trần thuật, miêu tả những từ ngữ thể hiện khá rõ sự đánh giá: việc xây dựng các đền đài phục vụ thú ăn chơi của Chúa thì “liên miên”, Chúa thu lấy vật báu trong thiên hạ “ không thiếu một thứ gì”; bọn hoạn quan thì nhờ gió bẻ măng”, ra ngoài dọa dẫm” khiến các nhà bị oan phải “kêu van chí chết”. Cuối phần thứ nhất ông đưa ra lời nhận xét ngắn gọn nhưng mang ý nghĩa sâu xa: “ Mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hót vang khắp bốn bề, hoặ nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn, kẻ thức giả biết đó là triệu bất tường”. Cảm xúc của tác giả bộc lộ rõ, sức tác động đến người đọc cũng mạnh mẽ, bởi một chi tiết về âm thanh, Phạm Đình Hổ đã gợi lên cho người đọc ấn tượng tổng hợp thính giác (tiếng chim kêu vượn hót não nề), thị giác (quang cảnh ảm đạm thê lương khi đêm về nơi phủ Chúa đầy trân cầm dị thú và cổ mộc quái thạch) và linh giá (điềm gỡ về sự suy vong của nhà Trịnh). Âm thanh vọng ra từ phủ Chúa ban đêm không phải là âm thanh khoan hòa, thanh bình mà đầy ma quái, đau thương – nó như là kết tinh của oán khí do nhà Chúa tạo nghiệt gây oan trong thiên hạ. Đó là lời tố cáo mạnh mẽ, bộc lộ rõ ràng chính kiến của tác giả. Đoạn cuối thiên tùy bút cũng thể hiện trực tiếp thái độ của người cầm bút nhưng theo một hình thức khác. Sau khi kể ra những nỗi khốn khổ của dân chúng về nạn hoành hành của bọn hoạn quan trong phủ Chúa, Phạm Đình Hổ xuất hiện trực diện với ngôi nhân xưng “ta” để kể lại chuyện gia đình mình cũng chính là nạn nhân.

<span class='text_page_counter'>(131)</span> của chúa tôi phủ Trịnh: phải chặt bỏ cây quý trong nhà để tránh tai vạ như bao người khác. Dưới hình thức thuật việc, cách bộc lộ thái độ này kín đáo hơn, nhưng tính chất phê phán cũng không kém phần mạnh mẽ. Có thể nói với lối kể chuyện xen lẫn trần thuật khách quan và bình luận, những cách bày tỏ thái độ đa dạng, linh hoạt, Phạm Đình Hổ đã tỏ thái độ đa dạng, linh hoạt, Phạm Đình Hổ đã tỏ ra là một cây bút tài hoa. Điểm nhìn trong tác phẩm là điểm nhìn chủ quan- khách quan, trong- ngoài kết hợp. Yếu tố khách quan làm người đọc tin cậy, lời kể, tả khiến văn bản giữ được chất tư liệu; yếu tố chủ quan lại cuốn hút người đọc, gợi cho họ sự đồng cảm, đồng tình. Tài tình là ở chỗ tác giả biết cách phối hợp hai điểm nhìn đó một cách hợp lí để đem lại cho thiên tùy bút diện mạo sống động, đầy sức thuyết phục, tạo ra hiệu quả tác động tối ưu. Đóng vai trò là nhân chứng lịch sử của thời đại, đem chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh kể lại một cách khách quan, nhưng từ quan điểm Nho giáo chính thống, Phạm Đình Hổ bày tỏ thái độ bất bình với hiện thực nhiễu nhương và những thói hư, tật xáu của những tầng lớp chóp bu trong xã hội.Toát lên từ bài viết là chân dung tinh thần của một bậc tri thức đạo cao đức trọng, thông tuệ thâm trầm. Đứng trên lập trường kẻ thức giả, bậc hiền nho, ông nghiêm khắc phê phán giai cấp thống trị và bày tỏ niềm đau xót trước dân tình điêu đứng, cảnh đời suy đạo hỏng. 3. Cảm nhận về nét đặc sắc của thiên tùy bút:.

<span class='text_page_counter'>(132)</span> Đặc trưng của thể loại tùy bút là tính phóng khoáng tự do, tác giả cứ “tùy theo ngọn bút” mà viết. Tuy nhiên, bề ngoài văn chương có vẻ tản mạn, kết cấu dường như lỏng lẻo nhưng kì thực xuyên suốt tác phẩm luôn có một quan điểm, một tư tưởng bao trùm, đóng vai trò chủ đạo ngòi bút đó chính là cảm hứng phê phán sự xa hoa, nhũng nhiễu của giai cấp thống trị, xuất phát từ lập trường của nhà Nho thanh cao có tâm với đời. “ Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh” cũng mang những nét chung của thể tùy bút là lối viết tương đối phóng khoáng, nội dung xác thực, cảm xúc, thái độ của tác giả bộc lộ thật rõ. Một đặc điểm nội bật của tùy bút là tính xác thực: ghi việc tả người dựa tên sự thật. Tính chân thực của thiên tùy bút này thể hiện ngay từ những dòng đầu: “ Khoảng năm Giáp Ngọ, Ất Mùi trong nước vô sự, Thịnh Vương thích chơi đèn đuốc, thường ngự ở các li cung bên Tây Hồ, núi Tử Trầm, núi Dũng Thúy”. Tác giả đóng vai trò người chứng kiến để kể lại “ những điều trông thấy”, không thêm thắt, xuyên tạc nhưng tác phẩm này vẫn có nét đặc sắc riêng. Đọc bài tùy bút của Phạm Đình Hổ, ta bắt gặp nét gần gũi với văn nghị luận, ở chỗ nó được cấu thành từ một ý tưởng mạch lạc, những nét triển khai hợp lí, những dẫn chứng đắt giá và kèm bình luận. Thiên tùy bút cũng thể hiện một trong những đặc điểm lớn của phong cách văn chương trung đại chuẩn mực và ưa sử dụng nghệ thuật chấm phá, sự miêu tả tuy tỉ mỉ nhưng là cái tỉ mỉ xúc tích không sa đà lan man. C. KẾT BÀI:.

<span class='text_page_counter'>(133)</span> Qua việc kết hợp tinh tế giữa tính khách quan của hiện thực cuộc sống và tính chủ quan trong việc lụa chọn cũng như bộc lộ thái độ tình cảm của mình, “Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh” đã khắc họa sinh động bức tranh lịch sử đầy biến động lúc bấy giờ, cụ thể là sự xa hoa, hưởng lạc của chúa Trịnh Sâm và sự càn quấy của bọn cung giám. Thiên tùy bút còn cho ta thấy cái “Tài” và cái “Tâm” của tác giả họ Phạm. Đây là một áng văn độc đáo, tài hoa góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn học chữ Hán nước ta.. Đề: Phân tích hình tượng người anh hùng Nguyễn Huệ trong “Hoàng Lê nhất thống chí”- hồi thứ 14.. DÀN Ý TỔNG QUÁT A.MỞ BÀI: − Khái quát về nội dung tác phẩm “Hoàng Lê nhất thống chí”… − Hồi thứ 14 đã ca ngợi thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ: lần thứ ba tiến quân ra Bắc đánh tan quân Thanh. B.THÂN BÀI: 1.Sơ lược đoạn trích: 2.Hình ảnh người anh hùng Nguyễn Huệ: − Nhà tổ chức quân sự đại tài. − Người chỉ huy mưu lược thông minh “xuất quỉ nhập thần”. − Vị tướng có bản lĩnh, quyết chiến quyết thắng, thần tốc..

<span class='text_page_counter'>(134)</span> − Biết động viên khích lệ, an ủi binh sĩ, rộng lượng với người dưới quyền khi họ phạm lỗi lầm. − Nhà chính trị ngoại giao có tầm nhìn xa trông rộng về hai nước Trung – Việt sau khi đánh bại quân Thanh. C.KẾT BÀI: − Phản ánh sự thực lịch sử: cuộc xâm lược của quân Thanh và sự thất bại của chúng. − Các tác giả tỏ thái độ cảm phục, ca ngợi thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ, người anh hùng của dân tộc.. BÀI LÀM THAM KHẢO A.MỞ BÀI: “Hoàng Lê nhất thống chí”, một tác phẩm văn xuôi ghi lại những sự kiện lịch sử cụ thể và sinh động về xã hội Việt Nam thời Lê – Trịnh. Tác phẩm là một bức tranh khái quát rộng lớn về những rối ren lục đục, những thối nát đồi bại trong cung vua, phủ chúa. Hồi thứ mười bốn của tác phẩm đã kể lại cuộc xâm lược của giặc Thanh, sự thảm hại của chúng cùng bè lũ tay sai bán nước đồng thời ca ngợi thiên tài quân sự của anh hùng Nguyễn Huệ. Trong cuộc đời oanh liệt của mình, Nguyễn Huệ đã ra Bắc tất cả ba lần. nếu như ở hai lần đầu, người anh hùng ra Bắc để dẹp yên những mâu thuẫn trong nội bộ giai cấp phong kiến thì với lần thứ ba này, Nguyễn Huệ phải đảm đương một nhiệm vụ lịch sử lớn lao: đánh đuổi quân xâm lược và bè lũ tay sai Lê Chiêu Thống. Hình ảnh một Nguyễn Huệ oai hùng, áo bào sạm đen khói súng đã được các tác giả Ngô gia văn phái miêu tả một cách khá chân thực trong hồi thứ.

<span class='text_page_counter'>(135)</span> mười bốn của bộ tiểu thuyết lịch sử nổi tiếng “Hoàng Lê nhất thống chí”. B.THÂN BÀI: 1.Sơ lược đoạn trích: Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế, lấy hiệu là Quang Trung rồi kéo quân ra Bắc. Đến Nghệ An, cho tuyển thêm lính rồi ban hịch để chiêu dụ quân sĩ. Đến Tam Điệp, Quang Trung tha tội lui quân của Sở và Lân, khen chiến thuật rút quân của Ngô Thì Nhậm. Sau khi sửa lễ cúng tế, vua chia quân làm năm đạo tiến quân ra Bắc. Với chiến lược thần tốc, quân Tây Sơn tiến công như vũ bão. Ngày ba tháng giêng chiếm Hà Hồi, ngày năm tháng giêng chiếm Ngọc Hồi, thái thú Sầm Nghi Đống tự thắt cổ chết. Trưa hôm ấy vua Quang Trung tiến chiếm Thăng Long. Quân Thanh đại bại, Tôn Sĩ Nghị đang vui say yến tiệc, nghe cấp báo, sợ mất mật, tháo chạy về hướng Bắc. Quân thanh đại bại giẫm đạp lên nhau chạy về nước. Vua tôi Lê Chiêu Thống bám gót quân Thanh. 2.Tài năng quân sự của Nguyễn Huệ được thể hiện qua những trang văn hào hùng, mang tính sử thi. Bí quyết trong nghệ thuật cầm quân của Nguyễn Huệ được thể hiện rõ nhất qua hai phương diện: thần tốc và bất ngờ. Cho đến nay người ta vẫn chưa hết ngạc nhiên vì sao Nguyễn Huệ có thể vượt quãng đường từ Phú xuân đến Thăng Long chóng vánh đến như vậy. Đi đến đâu là diệt gọn quân địch đến đấy, không cho tên nào trốn thoát! Chính vì thần tốc, mau lẹ, táo bạo mà Quang Trung đã giữ được thế bất ngờ, chủ động. Bất ngờ đến mức khi Nguyễn Huệ kéo quân vào thành, Tôn.

<span class='text_page_counter'>(136)</span> Sĩ Nghị và vua Lê “tuyệt nhiên không nghe cáo cấp gì cả”, “ chỉ chăm chú vào việc yến tiệc vui mừng, không hề lo chi đến việc bất trắc” nên khi nhìn thấy quân Tây Sơn thì kinh ngạc “ tướng ở trên trời xuống, quân ở dưới đất chui lên”. Trong chiến tranh, nắm được thế bất ngờ đã là một nửa chiến thắng. Vậy thì quan quân họ Tôn vốn kiệu căng, hợm hĩnh, không lo binh lược, làm sao có thể chọi được đội quân tinh nhuệ của Tây Sơn? Để đến nỗi, giờ đây phải chuốc lấy sự thất bại thảm hại: “ Quân sĩ các doanh nghe tin, đều hoảng hồn, tan tác bỏ chạy, tranh nhau qua cầu sang sông, xô đẩy nhau mà rơi xuống sông chết rất nhiều. Lát sau cầu bị đứt, quân lính đều rơi xuống nước, đến nỗi nước sông Nhị Hà vì thế mà tắt nghẽn không chảy được nữa”. Giọng văn miêu tả thật hả hê, sảng khoái. Chiến thắng của Quang Trung làm ta nhớ lại xưa kia Lê Lợi đại phá quân Minh: “ Suối Lãnh Câu máu chảy trôi chày, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc- Thành Đan Xá thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen”. Với Nguyễn Huệ, quân Tây Sơn đã là một đội quân bất khả chiến bại. Vua Quang Trung hiện ra trong “ Hoàng Lê nhất thống chí” như kết tinh của chính nghĩa và là biểu tượng đẹp đẽ của truyền thống chống giặc ngoại xâm. Chính vị minh quân này, trước khi ra Bắc đại phá quân Thanh đã chỉ rõ: “ Quân Thanh sang xâm lấn nước ta. Người phương Bắc không phải nòi giống nước ta, bụng dạ ắt khác”. Tầm vóc của Nguyễn Huệ còn được thể hiện ở mưu lược tài tình. Chính Nguyễn Huệ là người không quở mắng các tướng, mà ngược lại, ông còn an ủi và ngợi khen họ biết lo xa, biết làm.

<span class='text_page_counter'>(137)</span> cho kẻ địch quen thói chủ quan kiêu ngạo. Bởi thế chỉ trong mấy ngày, quân Tây Sơn đã đông lên hàng vạn, chiến sĩ một lòng đoàn kết chiến đấu cho Tổ quốc. Nguyễn Huệ cũng là người trù tính kế hoạch một cách kỹ lưỡng: “ Lần này ta ra, thân hành cầm quân, phương lược tiến đánh đã tính sẵn, chẳng qua mươi ngày có thể đuổi được người Thanh”. Có lẽ trong lịch sử quân sự từ xưa đến nay, ít ai lại dám định trước ngày chiến thắng như Quang Trung – Nguyễn Huệ, mà lại là chiến thắng trước một đội quân đông hơn mình hàng chục lần. Phải là một người rất tự tin – tin ở chính nghĩa, tin ở tướng sĩ, tin ở chính bản thân mình thì mới dám quả quyết chắc chắn như vậy. Đánh giặc và chiến thắng chúng, đó là mục đích của lần xuất quân này. Trong trận chiến, người chỉ huy ấy luôn luôn xông pha nơi hiểm yếu “ cưỡi voi đi đốc thúc quân lính”. Với quân lính, Nguyễn Huệ là vị chủ tướng biết khích lệ và động viên họ trong chiến đấu. Ông khơi gợi lòng căm thù giặc, niềm tự hào về ông cha đã bao đời thắng giặc ngoại xâm, kêu gọi binh sĩ đồng tâm hiệp lực để tạo nên chiến công lớn. Đối với tướng sĩ dưới quyền như Sở, Lân,… đã bỏ Thăng Long rút quân về Tam Điệp ông không quở phạt vì ông biết hai tướng này làm như thế là hợp lí.Trước khi trách phạt tướng sĩ ông phải xét tình, lí rất cặn kẽ. Ông còn là người chủ soái hiểu tướng sĩ và rất biết cách dùng người: Hai tướng Sở và Lân là võ tướng chỉ giỏi dùng sức chứ không khéo dùng mưu lược nên ông đã để quân sư Ngô Thì Nhậm ở lại. Vì thế tướng sĩ trên dưới một lòng, quân đội kỉ luật nghiêm.

<span class='text_page_counter'>(138)</span> chỉnh, tuyệt đối tin tưởng ở người cầm quân . Chính điều này đã tạo ra sức mạnh vô địch của nghĩa quân Tây Sơn. Nguyễn Huệ không chỉ là một nhà quân sự thiên tài mà còn là nhà chính trị, nhà ngoại giao có tầm nhìn xa trông rộng. Khi tiến đánh quân Thanh, ông cũng đã nghĩ tới quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc. Ông trù tính trước: bị thua trận chúng “ ắt phải làm thẹn mà lo việc báo thù”, dân phải sống khổ cực. Cách suy nghĩ, cách tính toán cũng như cái tâm sáng, chí cao của Nguyễn Huệ cho thấy người anh hùng áo vải đất Tây Sơn hoàn toàn không phải là loại anh hùng thảo dã, Nguyễn Huệ thật sự là một thiên tài. C.KẾT BÀI: Rõ ràng, các tác giả của “ Hoàng Lê nhất thống chí” là những cựu thần, chịu ơn sâu nặng của nhà Lê, trong khi xây dựng một tượng đài bất hủ về người anh hùng Nguyễn Huệ đã ít nhiều rời bỏ thiên kiến trước đây của họ. Họ không còn sự lựa chọn nào khác vì Nguyễn Huệ thật sự là một người anh hùng dân tộc. Ngẫm ra, lập trường dân tộc và tinh thần yêu nước trong ngòi bút tác giả đã là nguyên nhân để cho lịch sử văn học ta có được sừng sững chân dung một vị anh hùng dân tộc đã từng “giúp dân dựng xiết bao công trình”…. Đề: Phân tích đoạn thơ “Chị em Thuý Kiều” để thấy rõ nghệ thuật tả người của nhà thơ Nguyễn Du. MỞ BÀI 1:.

<span class='text_page_counter'>(139)</span> … “Tiếng đàn xưa đứt ngang dây Hai trăm năm lại càng say lòng người” (Tố Hữu) Sức mạnh trường tồn của “Truyện Kiều” bắt nguồn từ đâu? Đó là do tác phẩm ấy chứa chan lòng nhân đạo của Nguyễn Du thông qua việc tố cáo đanh thép xã hội phong kiến mục ruỗng đương thời, thể hiện ước mơ, khát vọng về tự do công lý… “Truyện Kiều” còn làm say mê tâm hồn mọi thế hệ qua từng nét nhạc lời thơ của tác phẩm, đặc biệt là nghệ thuật tả người linh động… Thông qua những bức chân dung mà tác giả phác hoạ, độc giả có thể hiểu được tâm lí, tính cách và số phận của con người ấy. Đoạn trích “Chị em Thuý Kiều” là một dẫn chứng tiêu biểu. MỞ BÀI 2: “Dẫu súng đạn nặng đường ra hoả tuyến Đi đường dài em giữ Truyện Kiều theo” (Chế lan Viên) Trong khúc quân hành ra trận rộn rã và náo nức của những cháu con đất Việt trong thời chống Mĩ cứu nước, vẫn có cả, vẫn mang theo hình ảnh qúa khứ của cha ông đọng lại qua những trang Kiều với tất cả những tấm lòng yêu thương và thành kính. Tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du đã trở thành “món ăn tinh thần” không thể thiếu được của những con người Việt Nam. Sở dĩ tác phẩm ấy có sức sống mãnh liệt như vậy là do trái tim yêu thương và đa cảm của người nghệ sĩ đã dành cho tình đời và tình người – nhất là những thân phận đàn bà – thông qua việc tố cáo sự.

<span class='text_page_counter'>(140)</span> mục ruỗng của xã hội phong kiến đương thời, thể hiện ước mơ, khát vọng công lý, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của con người. “Truyện Kiều’ còn làm say mê tâm hồn mọi thế hệ qua từng đường nét nghệ thuật của thiên tài Nguyễn Du, tiêu biểu là nghệ thuật tả người. Từ việc khắc học chân dung của nhân vật mà ta cảm nhận được cả tính cách, số phận và cả thái độ tình cảm của tác giả về con người ấy. “Chị em Thuý Kiều” được xem là một trong những đoạn thơ đặc sắc của tác phẩm. THÂN BÀI: Nét đẹp chung của hai chị em họ Vương đã được tác giả miêu tả khái quát trong bốn câu thơ đầu: “Đầu lòng hai ả tố nga Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân Mai cốt cách, tuyết tinh thần Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười” Sử dụng hành ảnh ước lệ quen thuộc “mai” – “tuyết” thi sĩ đã giúp ta hình dung được vóc dáng thanh tú mảnh mai cùng với những suy nghĩ hồn nhiên, tâm hồn trong trắng, thanh tao của họ. Nhịp thơ ba – ba đều đặn đã làm đậm thêm vẻ đẹp hài hoà về dáng vẻ lẫn tâm hồn… Nhìn chung, cả hai chị em đều tuyệt sắc nhưng “mỗi người một vẻ” đẹp khác nhau. Tác giả đi vào miêu tả vẻ đẹp của mỗi người. Trước hết là Thuý Vân: “Vân xem tang trọng khác vời.

<span class='text_page_counter'>(141)</span> Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang Hoa cười, ngọc thốt đoan trang Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da” Mở rộng: Khi miêu tả các nhân vật phản diện, Nguyễn Du thường sử dụng bút pháp hiện thực, ngôn từ bình dân. Chẳng hạn một Mã Giám Sinh sỗ sàng, trân tráo, lố bịch “Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao”…; hay tên Sở Khanh ba hoa, chải chuốt, bịp bợm: “Một chàng vừa trạc thanh xuân Hình dong chải chuốt, áo khăn dịu dàng”…  Khi miêu tả nhân vật chính diện như Thuý Vân – tác giả sử dụng nghệ thuật ẩn dụ được xây dựng bởi những nét ước lệ. Dưới ngòi bút của Nguyễn Du, Thuý Vân hiện lên với một vẻ đẹp “trang trọng”, khuôn mặt sáng, đầy đặn với những nét thanh tú: “Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang”. Từ nụ cười cho đến giọng nói đều mang một vẻ đẹp tự nhiên. Sắc đẹp của Thúy Vân là hình ảnh của một người phúc hậu, thuỳ nị, đaon trang khiến cho tạo hoá phải “thua”, phải “nhường” trước vẻ đẹp khả ái đó. Âm đệiu của đoạn thơ đều đặn, khoan hoà hay đó cũng chính là cuộc đời bình thản, số phận đủ đầy của Thuý Vân mà Nguyễn Du đã dự liệu?  Chuyển: Thuý Kiều là một nhân vật chính mà tác giả tả sau Thúy Vân là có chủ ý mượn nhan sắc, hình dung của người em để đối chiếu và tôn lên vẻ đẹp của người chị. So với Vân – một nét đẹp hồn nhiên, trong sáng, vô tư – thì Kiều là hiện thân của vẻ đẹp.

<span class='text_page_counter'>(142)</span> “sắc sảo mặn mà”. Nàng trội về sắc và hơn Thuý Vân cả về tài năng nữa: “Kiều càng sắc sảo mặn mà So bề tài sắc lại là phần hơn” Nhan sắc của nhân vật trung tâm đã được tác giả dành cả tâm hồn và sức lực để phô diễn: “Làn thu thuỷ, nét xuân sơn Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh” Vẫn sử dụng bút pháp tượng trưng để miêu tả nhưng các hình ảnh ước lệ ở đây đã được tác giả chắc lọc, gọt giũa hợp cùng với các phép tu từ nhân hoá, ước lệ, thậm xưng thi sĩ đã tạo nên một vẻ đẹp thanh thoát, lãng mạn và tột đỉnh: đôi mắt của Kiều trong vắt, tĩnh lặng, đượm buồn như nước vào mùa thu hay đằng sau đôi mắt ấy là cái thăm thẳm dạt dào của tâm hồn Kiều – một cô gái vị tha, đa cảm? Đôi mắt ấy biết rung cảm trước muôn nỗi trầm luân của đời người. Đôi mắt ấy đã nhìn soi thấu nấm mồ hoang lạnh của người kĩ nữ Đạm Tiên và cũng chính là ánh mắt có chiều sâu thăm thẳm, chiều rộng bao la ấy đã “đầm đầm châu sa” trước cơn gia biến… Nét lông mày thật đậm và đẹp như dáng núi vào mùa xuân hay chính là sức trẻ trung và vẻ đẹp duyên dáng, lộng lẫy, kiêu sa của Kiều? Dung nhan tươi thắm ấy khiến cho “hoa” kia phải “ghen”, “liễu” nọ phải “hờn”. Những từ “ghen”, “hờn” như biểu hiện sự đố kỵ, tị hiềm của tạo vật trước vẻ đẹp ấy. Hai từ ấy nghe đã rợn người.

<span class='text_page_counter'>(143)</span> mà điển cố “nghiêng nước nghiêng thành” càng rợn hơn vì theo quan niệm của người xưa và cũng là của Nguyễn Du: “Lạ gì bỉ sắc tư phong Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen” Thì đó chính là linh cảm dự báo con người này phải gánh chịu một phần mệnh khổ sở…Như vậy trong phần giới thiệu sắc đẹp của Kiều, thi tài Nguyễn Du đã sửa soạn cho nàng cả một cuộc đời đau khổ dày vò theo số mệnh tàn nhẫn, độc ác đẩy đưa…  Chuyển: Kiều không những có nhan sắc mà lại còn có tài hơn người: “Thông minh vốn sẵn tính trời Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm Cung thương làu bậc ngũ âm Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương Khúc nhà tay lựa nên chương Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân” Khi miêu tả Thuý Vân, Nguyễn Du không hề đả động hay điểm xuyết một tài năng nào. Ngược lại khi miêu tả Thuý Kiều, tác giả lại khoác cho nàng những tài năng hiếm có. Nàng không chỉ có trí thông minh bẩm sinh mà còn biết đủ cả: thi, hoạ, ca, ngâm và đặc biệt là tài đánh đàn… Là một con người giàu cảm xúc, nên ngay trong việc chơi đàn, Kiều cũng chọn những giai điệu ảo não, những “cung gió thảm mưa sầu” ấy đã làm cho “người trên tiệc cũng tan nát lòng”… Khúc.

<span class='text_page_counter'>(144)</span> nhạc “Bạc mệnh” do chính tay nàng soạn thảo đã đi theo nạn nhân dáng thương này suốt mười lăm năm đoạn trường sau này. Theo quan niệm của tác giả: “Chữ tài liền với chữ tai một vần” – chắn hẳn Kiều sẽ gặp một số phận bạc bẽo, éo le trong chuỗi ngày sắp tới… Độc đoạn trích ta thấy Thuý Kiều đùng là một người phụ nữ lý tưởng theo quan niệm của Nguyễn Du. Độc giả chúng ta thật sự yêu mến và ngưỡng mộ trước sắc đẹp và tài năng của Kiều đồng thời không khỏi cảm thấy âu lo trước lời dự báo của Nguyễn Du về cuộc đời chìm nổi của nàng sau này… Phải chăng đằng sau câu chữ trong đoạn trích đều ẩn chứa niềm yêu thương trước số mệnh con người của tác giả?  Chuyển: Tác giả khép lại bức tranh tả chị em Thuý Kiều bằng bốn câu thơ cuối miêu tả cuộc sống phong lưu, tuổi tác, cách ăn ở cấm cung của hai cô gái họ Vương: “Phong lưu rất mực hồng quần Xuân xanh xấp xỉ, tới tuần cập kê Êm đềm trướng rũ màn che Tường đông ong bướm đi về mặc ai…” Âm điệu “êm đềm” của đoạn thơ hay cũng chính là dòng đời đang trôi chảy, độc giả không thể không có ấn tượng tốt đẹp về hai nhân vật đáng yêu này… KẾT BÀI 1: Thông qua việc khắc họa chân dung nhân vật mà tác giả còn như cho thấy cả bóng dáng cuộc đời của họ, tâm tư tình cảm của thi.

<span class='text_page_counter'>(145)</span> sĩ như ẩn hiện trong đó cùng với việc sắp xếp trình tự miêu tả hợp lý,… đoạn thơ tả “Chị em Thuý Kiều” xứng đáng là một trong những đoạn đặc sắc về nghệ thuật tả người của thiên tài Nguyễn Du… Liên hệ: Mặc dù còn sử dụng bút pháp tượng trưng với nhiều hình ảnh ước lệ, nhưng đoạn thơ vẫn thể hiện tài nghệ điêu luyện và thần tình của tác giả… Chính đoạn thơ đã có sức lôi cuốn chúng ta dõi theo cuộc đời “ba chìm bảy nổi” của một nàng Kiều tài sắc mà phải vật vờ trong dòng đời trong đục của một xã hội phong kiến trên con đường băng hoại… Hoặc: Thiết nghĩ, phải là người có “con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời” thì mới có được cái bút lực ấy.. Đề: Cảm nhận và suy nghĩ của em về hình ảnh Thúy Kiều và tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du trong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”.. Gần ba trăm năm trôi qua, bao biến cố vụt đến, bao sự kiện phát sinh, vật đổi sao dời nhưng như những Kim Tự Tháp sừng sững, “Truyện Kiều” của đại thi hào Nguyễn Du vẫn tồn tại bất chấp năm tháng. Điều đó được giải thích chính là ở tài năng kiệt xuất và tấm lòng của nhà thơ được gói trong từng câu chữ. Đó là tấm lòng nhân đạo được Nguyễn Du thể hiện phần nào trong khi.

<span class='text_page_counter'>(146)</span> miêu tả hình ảnh Thúy Kiều. Đoạn trích chị em Thúy Kiều là một minh chứng. Thật vậy, khi đặt nét bút tả chung chị em Thúy Kiều, nhà thơ dường như mạnh tay tô vẽ: “Mai cốt cách, tuyết tinh thần Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười” Đó là thái độ ca ngợi người phụ nữ giữa những thành kiến cổ hủ của xã hội phong kiến. Đó cũng là một thái độ khá táo bạo biểu hiện tấm lòng của ông dành cho phụ nữ. Nguyễn Du như dành tất cả những ngôn từ tốt đẹp cho hai người con gái họ Vương. Những hình ảnh về hai chị em Kiều đều thể hiện nét đẹp thanh tao, quý phái, vượt lên tên tất cả. Với Thúy Vân, ông dành tặng nét đẹp hiền hậu, đoan trang “hoa cười”, “ngọc thốt”, dành tặng cho nàng vẻ ngời ngời của ánh trăng rằm cũng như số phận sung sướng sau này. Còn Thúy Kiều là nhân vật chính của toàn bộ câu chuyện, Nguyễn Du dành cho nàng những danh xưng đẹp nhất, những hình ảnh tuyệt vời nhất. Thúy Vân đã đẹp đến độ thiên nhiên phải “thua”, phải “nhường” nhưng Thúy Kiều thì: “Kiều càng sắc sảo mặn mà So bề tài sắc lại là phần hơn” Nhà thơ chỉ phác họa một vài nét, thế nhưng chân dung của một bậc giai nhân tuyệt sắc lại hiện ra sinh động: “Làn thu thuỷ, nét xuân sơn Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”.

<span class='text_page_counter'>(147)</span> Tả Thúy Vân, Nguyễn Du tả khuôn mặt, tả Thúy Kiều nhà thơ lại nghiêng về đôi mắt. Đội mắt của Kiều trong veo như làn nước mùa thu. Nhìn vào đôi mắt ấy, tất cả vẻ đẹp như được soi rọi, chiếu sáng. Đôi mắt của Kiều là đôi mắt nhạy cảm của một tâm hồn lãng mạn. Điểm trên đó là nét ngài tươi thắn như dáng núi mùa xuân. Nghệ thuật ước lệ đã được nhà thơ đẩy lên bước tận cùng. Dường như vẻ đẹp của Kiều là thâu tóm tinh hoa toàn bộ các vẻ đẹp khác, một vẻ đẹp thu hút những tinh túy của đất trời khiến cho thiên nhiên, cỏ cây, hoa lá vốn vô tình cũngsinh lòng đố kỵ, hờn ghen. Lối ước lệ nhân hóa ở đây đã khiến câu thơ thêm sinh động và vẻ đẹp của Kiều thêm sức sống. Vẻ đẹp ấy có sức cuốn hút thật mạnh mẽ: “Một hai nghiêng nước nghiêng thành Sắc đành đòi một, tài đành họa hai” Mượn điển cố, giai thoại làm nền, Nguyễn Du đã tôn Thúy Kiều lên hàng giai nhân sắc nước hương trời, từ cổ chí kim không thể sánh được. Không chỉ có nhan sắc đẹp đẽ, Thúy Kiều còn là một tài năng hiếm có: “Thông minh vốn sẵn tính trời Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm Cung thương làu bậc ngũ âm Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương” Những thú vui tao nhã, phong lưu ngày xưa đã được Nguyễn Du đặt vào Kiều với sự ca ngợi không tiếc lời. Những bộ.

<span class='text_page_counter'>(148)</span> môn nghệ thuật Kiều am hiểu, thành thạo. Không chỉ biết làm thơ, biết vẽ và ca hát, nàng còn có sở trường là đánh đàn, soạn nhạc. Có thể nói Kiều là một trang quốc sắc, một người tài hoa. Nguyễn Du cũng có dụng ý khi “cài đặt” số phận kiều vào tiếng đàn, điệu nhạc sầu thuơng não nuột: “Khúc nhà tay lựa nên chương Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân” Hình ảnh của Kiều không chỉ có thế.Những dòng chữ cúôi cùng giới thiệu Kiều lại là những nhận xét mang đầy tính ước lệ: “Êm đềm trướng rũ màn che Tường đông ong bướm đi về mặc ai” Đến đây, chân dung của Kiều mới thật sự hoàn tất. Kín đáo, thiết thực, nết na vốn là bản sắc được quý trọng nơi người phụ nữ Á Đông. Kiều hội đủ những đức tính ấy. Điều này càng tôn thêm vẽ tuyệt mỹ của nhan sắc và tài năng Kiều. Lần đầu tiên trong văn học nước nhà, ta chứng kiến một hình ảnh phụ nữ với những vẻ đẹp tuyệt vời, tâm hồn trong trắng, tài năng hiếm có đến thế. Có thể nói, Kiều trở thành khuôn mẫu, chuẩn mực lý tưởng của những bậc giai nhân. Nguyễn Du đã thể hiện hình ảnh Kiều bằng tất cả tài năng và trái tim của mình. Bên cạnh sự ưu ái dành cho nhân vật Thúy Kiều, ngòi bút của ông luôn tạo ra những hành động tuyệt mỹ nhất về người phụ nữ. So với thời đại của nhà thơ, Nguyễn Du có một trái tim thật nhân đạo. Bởi lẽ, bất chấp sự hà khắc, thiên vị, hẹp hòi của xã hội phong kiến, Nguyễn Du vẫn dành riêng cho người phụ.

<span class='text_page_counter'>(149)</span> nữ tấm lòng ưu ái, trân trọng nhất. Bởi lẽ, ông đã nhìn thấy vẻ đẹp của người phụ nữ từ hình thức tới tâm hồn, từ sắc đẹp, tài năng đến đức hạnh. Chính vì thế, những lời thơ của ông trở thành lời ngợi ca bất tuyệt. Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” là một trong những đoạn thơ thể hiện nghệ thuật tả người tuyệt vời nhất của Nguyễn Du. Chân dung của hai chị em Kiều đã đạt đến mức toàn thiện, toàn mỹ, ông lại ưu ái trân trọng vẻ đẹp của người phụ nữ. Đó chính là tấm lòng nhân đạo tuyệt vời của nhà thơ, một tấm lòng sẵn sàng nghiêng xuống với những số phận chịu nhiều bất công, bất hạnh.. Đề: Phân tích đoạn thơ “Cảnh ngày xuân” (Trích “Truyện Kiều” của Nguyễn Du”). MỞ BÀI: “Truyện Kiều”, một kiệt tác về loại hình tự sự bằng thơ mà ở đó, thiên tài Nguyễn Du đã đan xen nhiều yếu tố: miêu tả, kể việc, trữ tình… thật tinh tế, sinh động, có sức lay động lòng người để biểu hiện con người và cuộc đời. Đoạn thơ “Cảnh ngày xuân” là đoạn thơ có sự đan xen tài hoa như thế. Ở đây ta sẽ được thưởng thức bức tranh thiên nhiên ngày xuân tươi sáng, lại được theo chân chị em Kiều đi tảo mộ, dự hội đạp thanh qua những dòng thơ miêu tả và tự sự tuyệt tác. THÂN BÀI:.

<span class='text_page_counter'>(150)</span> 1.Khung cảnh ngày xuân: sáu câu đầu tả bức tranh thiên nhiên mùa xuân tuyệt đẹp. Đây là đoạn trích mở đầu tác phẩm, sau đoạn tả tài sắc của chị em Thuý Kiều. Lúc này, cơn gia biến chưa xảy ra với gia đình Kiều. Ba chị em đang sống trong những ngày tháng êm đềm. Nhân tiết Thanh minh mất chị em rủ nhau đi trảy hội. Nhà thơ đã gợi tả khung cảnh mùa xuân tuyệt đẹp: “Ngày xuân con én đưa thoi, Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi. Cỏ non xanh tận chân trời, Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.” Bốn câu thơ mở ra một không gian nghệ thuật đầy màu sắc, đường nét, hương thơm, khí trời, cảnh vật vừa nên thơ vừa tràn đầy sức sống. Giữa bầu trời bao la thoáng đãng, những cánh en chao liệng như “thoi đưa”. Cách nói dân gian trong câu thành ngữ “Thời gian thấm thoát thoi đưs” đã được Nguyễn Du sáng tạo thành câu thơ vừa miêu tả không gian vừa miêu tả thời gian và tâm trạng thật độc đáo: thời gian trôi nhanh, ngày xuân rồi cũng chóng tàn, lòng người không khỏi nuối tiếc. Sau cánh én “đưa thoi” là ánh sáng đẹp, ấm áp của mùa xuân “Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”. Cách tính thời gian thật gợi tả, thật ý vị: tiết trời trong sáng đẹp đẽ của chín mươi ngày xuân giờ đã “ngoài sáu mươi”, nghĩa là đã sang đầu tháng ba rồi. Từ “đã ngoài” kết hợp với từ “đưa thoi” gợi ý vị bâng khuâng, tiếc nuối ngày xuân trôi đi nhanh quá!.

<span class='text_page_counter'>(151)</span> Bức hoạ tuyệt đẹp của mùa xuân là hai câu thơ:“Cỏ non xanh tận chân trời / Cành lê trắng điểm một vài bông hoa” được gợi cảm hứng từ hai câu thơ cổ: “Phương thảo liên thiên bích Lê chi sổ điểm hoa” (Cỏ thơm xanh biếc liền trời Cành lê điểm vài bông hoa) Từ ý thơ cổ của người xưa, Nguyễn Du chỉ thêm vào từ “trắng” lại là từ hay nhất, được đặt đúng chỗ theo lối đảo cấu trúc: “trắng điểm” làm cho sắc trắng của hoa lê nổi bật trên cái nền “xanh tận chân trời” tạo thành bức tranh hài hoà, tươi thắm. Bút pháp phối sắc thật tài tình. Tất cả đều gợi lên vẻ đẹp của mùa xuân: sự mới mẻ, non tơ đầy sức sống (cỏ non), khoáng đạt, trong trẻo (xanh tận chân trời), nhẹ nhàng, thanh khiết (trắng điểm). Chữ “điểm” cũng làm cho cảnh vật thêm sinh động, có hồn chứ không hoàn toàn tĩnh lặng. 2.Khung cảnh lễ hội: tám câu thơ tiếp theo tả cảnh tưng bừng của lễ hội mùa xuân. Giữa khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp của mùa xuân, lễ hội diễn ra thật tưng bừng, rộn rã: “Thanh minh trong tiết tháng ba Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh Gần xa nô nức yến anh Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân Dập dìu tài tử giai nhân.

<span class='text_page_counter'>(152)</span> Ngựa xe như nước, áo quần như nêm Ngổn ngang gò đống kéo lên Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay” Lễ tảo mộ - đi viếng mộ, sửa sang, quét dọn, thắp hương, lễ bái, khấn nguyện trước mộ người thân; hội đạp thanh (giẫm lên cỏ xanh) – cuộc vui xuân ở chốn đồng quê của lứa tuổi thanh xuân. Đây là dịp để các chàng trai cô gái, tài tử giai nhân có dịp gặp gỡ, làm quen, hẹn ước… và có thể tìm đến những sợi tơ hồng mai sau (gặp tuần đố lá, thoả lòng tìm hoa). Không khí lễ hội thật đông vui, rộn ràng, náo nức. Người đi lễ, đi chơi hội, những trai thanh gái lịch tấp nập, ngựa xe cuồn cuộn như nước, áo quần đẹp đẽ tươi thắm sắc màu, đông vui trên các nẻo đường. Các từ ngữ “nô nức”, “dập dìu”, các ẩn dụ so sánh “như nước’, “như nêm” Cảnh tiết thanh min có hai hoạt động diễn ra cùng lúc gợi tả cảnh mùa xuân tưng bừng náo nhiệt diễn ra khắp miền quê. Trong đám tài tử giai nhân ấy có chị em Kiều. Câu thơ “Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân” không chỉ là thông báo mà là nỗi niềm trông chờ lễ hội để được du xuân. Hoà vào dòng người ấy, chắc hẳn chị em Kiều cũng có niềm rộn ràng, náo nức, vui tươi của tuổi trẻ.Người đọc cũng đồng cảm với tâm trạng ấy của mấy chị em. Ở đoạn này, Nguyện Du dùng hàng loạt từ có hai âm tiết để diễn tả cảnh lễ hội mùa xuân rộn ràng tươi vui. Những danh từ : yến anh, chị em, tài tử, giai nhân gợi tả sự nhộn nhịp, tấp nập của người qua kẻ lại. Những động từ: sắm sửa, dập dìu gợi tả sự rộng ràng, náo nhiệt do hoạt động của người đi trẩy hội tạo ra. Những.

<span class='text_page_counter'>(153)</span> tính từ: gần xa, nô nức làm nổi rõ tâm trạng hân hoan của người đi dự hội. Tất cả làm sống dậy không khí lễ hội mùa xuân, một nét đẹp tiêu biểu của văn hoá phương Đông. Đời sống tâm linh, phong tục tảo mộ, đốt giấy tiền vàng mã được tác giả nhắc đến một cách đầy hình ảnh: “Ngổn ngang gò đống kéo lên Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay” Quanh những ngôi mộ người đi tảo mộ người thân đốt vàng mã khói bay nghi ngút, rải giấy tiền vàng bạc,… một không khí thật thiêng liêng thàh kính. Sự cách trở âm dương như bị xoá nhoà bởi tấm lòng yêu thương tưởng nhớ người thân của người đi tảo mộ. Có thể ngày nay, suy nghĩ của mỗi chúng ta có thể thay đổi nhưng giá trị nhân bản trong những vần thơ ấy làm ta xúc động. 3.Cảnh chị em Kiều du xuân trở về: sáu câu thơ cuối. Sáu câu thơ cuối gợi tả cảnh chị em Thuý Kiều du xuân trở về. Mặt trời gác núi, lễ hội cũng dần tàn, ngày vui trôi qua nhanh: Tà tà bóng ngã về tây: Chị em thơ thẫn dan tay ra về. Bước dần theo ngọn tiểu khê, Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh. Nao nao dòng nước uốn quanh, Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.” Cảnh vật mang cái thanh thanh, cái dịu dàng của mùa xuân: nắng nhạt, khe suối nhỏ, một dịp cầu nho nhỏ bắc ngang. Mọi chuyển động của cảnh và người đều rất nhẹ nhàng theo nhịp thơ.

<span class='text_page_counter'>(154)</span> chầm chậm: mặt trời thì “tà tà” ngã bóng, tâm tình thì “thơ thẩn”, cử chỉ thì “dan tay”, nhịp chân thì “bước dần”, cái nhìn thì “lần xem”, phong cảnh thì “thanh thanh”, dòng nước thì “uốn quanh”… Cái không khí của lễ hội không còn nữa, tất cả đang nhạt dần. Tâm hồn con người dường như cũng chuyển đổi theo sự thay đổi của thời gian và không gian cô tịch trên dặm đường về. Không gian cảnh vật như mang tâm trạng của con người. Những từ láy “tà tà”, “thanh thanh”, “nao nao” không chỉ biểu đạt sắc thái cảnh vật mà còn bộc lộ nỗi niềm bâng khuâng, man mác của nhân vật. Đặc biệt, từ “nao nao’ dùng đạt nhất, nó đã nhuốm màu tâm trạng lên cảnh vật. Và dòng nước uốn quanh “nao nao” như báo trước sự xuất hiện của nấm mồ Đạm Tiên ngay sau đó. Nhà thơ dùng bút pháp ước lệ và tượng trưng để miêu tả cảnh vật và thời gian rất sống động, gần gũi, nhân quen đối với bất cứ người Việt Nam nào. KẾT BÀI: Đoạn trích giúp ta cảm nhận được nghệ thuật miêu tả tài hoa, điêu luyện của Tố Như tiên sinh.Ông đã kết hợp khéo léo giữa các yếu tố tự sự và trữ tình, sử dụng từ ngữ giàu chất tạo hình để vẽ nên bức tranh thiên nhiên, lễ hội mùa xuân tươi đẹp, trong sáng. Cuộc đời Kiều vốn đa đoan, chìm nổi. Đoạn thơ này tả cảnh, kể việc nhưng cũng điều đó vì tâm trạng Kiều lúc này cũng thật phức tạp: có vui, có buồn, có tiếc nuối, bâng khuâng… Cô gái đa sầu, đa cảm và đa tình ấy lại sắp sửa gặp một nỗi buồn (mộ Đạm Tiên) và một niềm vui (chàng Kim Trọng hào hoa, phong nhã). Cho nên, ngòi.

<span class='text_page_counter'>(155)</span> bút Nguyễn Du tuôn trào cảm xúc nhưng đồng thời cũng mang tính dự báo.. Đề: Có ý kiến cho rằng đoạn thơ “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một bức tranh tâm tình xúc động. Hãy phân tích đoạn thơ để làm rõ. MỞ BÀI: Trong truyện Kiều, thi hào Nguyễn Du đã từng viết: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu, Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?” Thật vật, Nguyễn Du tả cảnh bao giờ cũng lồng tả tình; tả cảnh không chỉ bộc lộ cảm xúc trước thiên nhiên mà đó còn là phương tiện để biểu hiện tâm trạng nhân vật. Trong Truyện Kiều có nhiều bức tranh cảnh – tình độc đáo có tác động sâu xa đến cảm xúc thẫm mĩ của người đọc. Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một tron những bức tranh như thế. Cho nên có ý kiến cho rằng đoạn thơ ấy là một bức tranh tâm tình xúc động. Quả đúng như thế. THÂN BÀI: 1.Cảnh chung và nỗi lòng cô đơn, buồn thảm của Kiều (6 câu thơ đầu)..

<span class='text_page_counter'>(156)</span> Bị Mã Giám Sinh đầy vào lầu xanh, rồi lại bị Tú Bà đánh đập để ra oai, bắt Kiều phải tiếp khách, Kiều tự tử nhưng Tú Bà cứu kịp. Sợ “vốn liếng đi đời nhà ma” nên mụ đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích để thực hiện một âm mưu khác. Nguyễn Du đã đặt Kiều sống trong tâm trạng ấy để nàng tự bộc lộ tâm trạng của mình. Và thế là theo những dòng thơ, tâm trạng Kiều cứ theo cảnh mà hiện ra: “Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung Bốn bề bát ngát xa trông, Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.” Một khung cảnh thiên nhiên mênh mông, vắng lặng, heo hút, không một bóng người. Trong đó, chỏ có “vẻ non xa, tấm trăng gần” như đang ở chung với Kiều và nỗi buồn của nàng như đang lan toả ra cảnh vật. Cảnh có vẻ mờ ảo “vẻ non xa”, có nét rõ ràng “tấm trăng gần”, cảnh vừa xa vừa gần, mênh mông bát ngát càng tô đậm nỗi cô đơn, lẻ loi, trơ trọi. Quay nhìn bốn phía cũng chỉ thấy: “cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia”, những cồn cát vàng nhấp nhô, những đám bụi hồng trải khắp dặmxa… Những vế câu đối xứng nhau và những từ ‘xa – gần”, “nọ - kia” tầng tầng lớp lớp gợi nỗi lòng ngổn ngang, bề bộn trong tâm trạng Thuý Kiều. Ngắm cảnh nghĩ đến mình, Kiều càng thấm thía nỗi buồn: “Bẽ bàng mây sớm, đèn khuya, Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”.

<span class='text_page_counter'>(157)</span> Nơi đất khách quê người, thân bị giam lỏng, cô gái bé bỏng tội nghiệp ấy chỉ biết sớm làm bạn với mây, khuya làm bạn với đèn, không gian và thời gian khép kín, nàng bơ vơ, lạc lỏng, thui thủi một mình. Thật là bẽ bàng, chán ngán buồn tủi, vô vọng. Cảnh buồn, tình cô đơn như chia sẻ lòng Kiều càng thêm tan nát, đau đớn… 2.Niềm thương nỗi nhớ (8 câu thơ kế). Trong tình cảnh đáng thương ấy nàng không nghĩ đến thân mình mà thương nhớ, lo nghĩ cho người thân. Tấm lòng của nàng thật hiếm có. Đức hy sinh của nàng thật cao vời. Nàng nhớ đến Kim Trọng, người đã cùng nàng thề nguyền gắn bó, tình yêu tuyệt đẹp và sắc son vĩng cửu của nàng: “Tưởng người dưới nguyệt chén đồng, Tin sương luống những rày trông mai chờ. Bên trời góc bể bơ vơ, Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.” Mới hôm nào đây, chén rượu thề nguyền chưa ráo, vầng trăng hẹn ước còn kia, thế mà hai phương trời cách biệt biết mấy! Hình ảnh ẩn dụ “người dưới nguyệt chén đồng” không chỉ diễn tả nỗi nhớ thương sâu sắc mà còn chứa đựng niềm xót đau vì đã bội ước với lời thề. Nàng nhớ Kim Trọng và thương chàng sẽ nhớ mong tin nàng nhưng “chân trời góc bể” biết nàng ở đâu mà tìm. Nàng thương thân mình bơ vơ nơi đất khách, nàng thấy mình là kẻ có lỗi vì đã phụ bạc chàng Kim và tình yêu son sắc, mãnh liệt nàng dành cho chàng sẽ không bao giờ phai nhạt..

<span class='text_page_counter'>(158)</span> Nhớ Kim Trọng – người yêu trước khi nhớ đến cha mẹ, phải chăng Kiều là cô gái trọng chữ tình hơnn chữ hiếu? Có ở trong hoàn cảnh của Kiều mới hiểu hết những đắng cay mà nàng vừa trải qua. Vì chữ hiếu nàng đã bán mình chuộc cha, nàng đinh ninh mình sẽ là vợ lẽ của tên Mã Giám Sinh. Trên đường về Lâm Tri, tên họ Mã đã cướp đi sự trong trắng của nàng, món quà thiêng liêng liêng và quý giá nhất mà nàng gìn giữ cho Kim Trọng nên giờ đây khi sự việc ê chề nàng đau đớn nhớ về người yêu nay đã cách xa vời vợi. Tấm lòng hiếu nghĩa của nàng cũng thật đáng trân trọng. Sau khi đã có hành động báo hiếu “bán mình chuợc cha’, Kiều vẫn lo lắng cho cha mẹ già: “Xót người tựa cửa hôm mai Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ Sân Lai cách mấy nắng mưa Có khi gốc tử đã vừa người ôm” Nguyễn Du đã dùng từ “xót” thật cảm động để nói về tình cảm của Kiều dành cho cha mẹ. Nàng xót xa khi nghĩ đến cảnh cha mẹ già mỗi ngày “tựa cửa hôm mai” trông ngóng con, “xót” vì không được được gần gũi để chăm sóc hầu hạ cha mẹ già “quạt nồng, ấp lạnh”. Cách dùng điển cố “sân Lai”, “gốc tử” càng khắc sâu thêm nỗi lòng của người con hiếu thảo. 3.Nỗi buồn xuyên thấm vào cảnh vật (8 câu thơ cuối). Sau bao trăn trở về người thân, Kiều não lòng vì hoàn cảnh của mình: “Buồn trông cửa bể chiều hôm,.

<span class='text_page_counter'>(159)</span> Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa? Buồn trông ngọn nước mới xa, Hoa trôi man mác biết là về đâu? Buồn trông nội cỏ rầu rầu, Chân mây mặt đất một màu xanh xanh. Buồn trông gió cuốn mặt duềnh, Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.” Tám câu thơ vừa là nhạc vừa là hoạ. Đó là khúc nhạc buồn, ảo não, thê lương của cuộc đời Kiều. Thể thơ lục bát mềm mại, uyển chuyển, dồi dào âm hưởng. Hàng loạt từ láy vừa gợi âm thanh, vừa gợi hình ảnh “thấp thoáng, xa xa, man mác, rầu rầu, xanh xanh, ầm ầm”. Những từ ấy cộng hưởng với từ điệp từ “buồn trông” tạo âm hưởng trầm buồn man mác, lan toả thấm thía vào tận tâm can người đọc. Bức tranh tâm trạng ấy (buồn trông) còn được thể hiện khéo léo qua các hình ảnh thuyền ai thấp thoáng xa xa qua hình ảnh cánh buồm ở cửa biển(không gian) vào buổi chiều tà(thời gian) gợi sự vắng vẻ, u buồn; hình ảnh ẩn dụ “hoa trôi man mác” giữa dòng nước làm Kiều liên tưởng đến số phận lênh đênh chìm nổi của mình ở hiện tại và trong tương lai, cách hoa bầm dập trong dòng nước xoáy hay chính là thân phận của Kiều giữa dòng đời trong đục; màu xanh ngút ngàn của mây trời, của cỏ cây làm trong lòng Kiều dấy lên một nỗi buồn mênh man khó tả. Ở hai câu thơ cuối, cảnh buồn nhưng không còn bình lặng nữa mà xuất hiện gió cuốn mặt duềnh, tiếng sóng biển ầm ầm dữ dội nơi cửa biển làm Kiều dự cảm đấy là những sóng gió cuộc đời đang chờ chực bủa.

<span class='text_page_counter'>(160)</span> vây nàng. Tâm trạng bất an, buồn thảm, bơ vơ, hoang mang được khắc hoạ rõ qua hàng loạt câu hỏi tu từ. KẾT BÀI: Tóm lại đoạn thơ đúng là “bức tranh tâm tình đầy xúc động”. Nhà thơ đã khéo léo kết hợp các yếu tố thơ – nhạc – hoạ để vẽ nên bức tranh độc đáo ấy để ta cảm nhận được tâm sự đáng thương của Thúy Kiều. Điều đáng quý không chỉ ở tài thơ mà còn ở cái tình lớn mà nhà thơ dành cho nhân vật, cho con người và cho cuộc đời.. Đề: “Buồn trông cửa bể chiều hôm Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa? Buồn trông ngọn nước mới sa Hoa trôi man mác biết là về đâu? Buồn trông nội cỏ rầu rầu Chân mây mặt đất một màu xanh xanh Buồn trông gió cuốn mặt duềnh.

<span class='text_page_counter'>(161)</span> Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”. (“Kiều ở lầu Ngưng Bích” – Nguyễn Du) Em hãy phân tích đoạn thơ trên.. BÀI LÀM THAM KHẢO MỞ BÀI 1: “Cảo thơm đặt trước đèn, tôi giở Mỗi trang Kiều rung một bóng trăng thanh” (“Đọc Kiều” – Chế Lan Viên) Bàn về giá trị nghệ thuật của tác phẩm “Truyện Kiều”, ta không chỉ kể đến nghệ thuật vận dụng ngôn ngữ điêu luyện, tài hoa, cùng với nghệ thuật khắc họa nhân vật linh hoạt, sinh động của tác giả mà chúng ta còn phải nghĩ ngay đến bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc của một thiên tài. Thông qua những bức tranh tả cảnh thi vị, ta còn hiểu được tâm hồn, tình cảm của nhân vật. Đoạn thơ cuối trong “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một dẫn chứng tiêu biểu: “Buồn trông cửa bể chiều hôm Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa? Buồn trông ngọn nước mới sa Hoa trôi man mác biết là về đâu? Buồn trông nội cỏ rầu rầu Chân mây mặt đất một màu xanh xanh Buồn trông gió cuốn mặt duềnh.

<span class='text_page_counter'>(162)</span> Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”. MỞ BÀI 2: (Theo lối nêu xuất xứ) Sau khi nếm trải những đắng cay tủi nhục: bị Mã Giám Sinh làm thất tiết, rồi lại sắp sửa đón nhận những đòn roi phũ phàng của Tú Bà, Kiều đã tự vẫn nhưng không chết. Dù được Tú Bà cho ra sống riêng biệt ở lầu Ngưng Bích, nàng vẫn không thể nào quên được những kỉ niệm cũ với người yêu và bóng dáng những người thân… Nhìn cảnh vật thiên nhiên trong hoàn cảnh đất khách quê người, Kiều thấy dâng lên trong tâm hồn mình nỗi buồn da diết. Tâm trạng ấy đã được tác giả gửi gắm trong đoạn thơ sau: “Trích dẫn đoạn thơ” THÂN BÀI: 1.Giới thiệu vị trí của đoạn trích: Khi biết mình đã rơi vào chốn lầu xanh, nơi ô nhục nhất của xã hội, nàng Kiều đã rút dao tự vẫn. Nhưng nàng không chết, bị đưa ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích. Khung cảnh thiên nhiên nơi đây rất vắng lặng, chỉ có những ngọn núi xa xa, vài cồn cát lơ thơ, từng lớp bụi hồng cuộn lên, có cả vầng trăng mà ngày nào Thúy Kiều đã cùng với Kim Trọng “Đinh ninh hai miệng, một lời song song”. Thiên nhiên rộng lớn mênh mông bao nhiêu thì Kiều lại càng đơn độc bấy nhiêu. Cái vắng lặng của thiên nhiên, cái mênh mông của vũ trụ khiến Kiều thêm lạc lõng bơ vơ, bẽ bàng, tủi nhục: “Bẽ bàng mây sớm đèn khuya”. Tâm trạng “Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng” của nàng giờ đây vẫn đau đáu nhớ thương người yêu “Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng”, lo lắng cho cha mẹ già yếu không người.

<span class='text_page_counter'>(163)</span> chăm sóc: “Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ”, để rồi khi trở về với thực tại Kiều thấy vô cùng tủi nhục, đau đớn, xót xa cho chính thân phận mình. 2.Phân tích: … “Buồn trông cửa bể chiều hôm Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?” Câu thơ mở đoạn chỉ có sáu chữ, không một biện pháp tu từ mà gói trọn cả một tâm trạng thấm buồn “buồn trông”, một không gian buồn “cửa bể”, một thời gian đượm buồn “chiều hôm” của một người đang lẽ loi ngóng đợi. Trước mắt nàng là hình ảnh một cánh buồm bé nhỏ, cô đơn, lẻ loi giữa mênh mông trời nước, bơ vơ trên mặt biển lúc “chiều hôm” vừa ập xuống… Ngay bây giờ đây, hơn lúc nào hết, nàng cần có người bạn tâm giao để giãy bày tâm sự, nhưng tất cả chỉ là vô vọng. “Thuyền ai thấp thoáng” giống như một niềm an ủi trong lúc Kiều cô đơn, dù sao nàng vẫn còn trông thấy những hoạt động sống. “Cánh buồm xa xa” lúc ẩn, lúc hiện, nhạt nhòa mờ ảo dần, vuột khỏi tầm mắt của Kiều. Con thuyền kia lên đênh trên mặt biển hay chính là hình ảnh Kiều bơ vơ, lạc lỏng nơi đất khách quê người. Phải chăng thân phận nàng Kiều rồi đây cũng trôi nổi, không bến bờ neo đậu? Cảnh tượng ấy đã khơi gợi nỗn buồn trống vắng trong tâm hồn Kiều khi nghĩ đến cố hương và bóng dáng những người mến thương yêu dấu. Không biết đến bao giờ mới trở về sum họp? Câu hỏi ấy cứ xoắn chặt lấy tâm trí nàng… Câu hỏi tu từ ở cuối hai câu thơ đầu như xoáy mãi vào tâm can người đọc bao thế hệ, để lại trong ta những nỗi niềm day dứt,.

<span class='text_page_counter'>(164)</span> trăn trở. Nàng Kiều hỏi rồi lại tự mình càng đau đớn, càng xót xa hơn. Những từ tượng hình “thấp thoáng”, “xa xa” gợi lên hình ảnh mơ hồ của con thuyền hay chính là nỗi nhớ mong vô vọng? Âm điệu thơ rã rời, trầm lắng hẳn… Trong tầm nhìn gần hơn, có biết bao hình ảnh thiên nhiên chợt ùa vào trong mắt Kiều: “Buồn trông ngọn nước mới sa Hoa trôi man mác biết là về đâu?” Đọc câu thơ ta như hình dung từ trên cao, một “ngọn nước” đang đổ xuống và in hiện trên dòng nước là những cánh hoa đang cuộn chảy về một phương vô định. Cánh hoa bọt bèo kia hay chính là thân phận nàng Kiều chìm nổi, lênh đênh. Cánh hoa ấy đang bị vùi dập như cuộc đời “bạc mệnh” của Thúy Kiều. Hình ảnh “hoa trôi” – “về đâu” gợi cảm ấy khiến cho Kiều “man mác” buồn khi chạnh nghĩ đến thân phận bèo mây nổi trôi theo dòng đời, số kiếp. Trước mắt, Kiều vẫn chưa biết mình sẽ đi đâu về đâu giữa biển đời rộng lớn này. Số phận nàng dương như vô định. Còn gì đau đớn, còn gì xót xa hơn khi con người ta đã bị mất quyền làm người, tồn tại mà như bị phủ nhận. Nỗi đau trong lòng nàng Kiều nghe sao tê tái, thê lương. Câu hỏi tu từ trở lại trong đoạn thơ như ghi dấu được nỗi niềm phân vân, băn khoăn, thấp thỏm, lo sợ. Nỗi lòng ấy, tam sự ấy không chỉ dừng lại ở đó mà tiếp tục lan ra, bao trùm cảnh vật: “Buồn trông nội cỏ rầu rầu Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”.

<span class='text_page_counter'>(165)</span> Cảnh vật úa tàn hay chính cuộc đời, tâm hồn nàng Kiều đang ngày một tàn tạ, héo úa. Đâu rồi cánh đồng cỏ xanh tươi rạo rực, tràn đầy sức sống trước đôi mắt người thiếu nữ trong buổi du xuân: “Cỏ non xanh tận chân trời Cành lê trắng điểm một vài bông hoa” Mà cỏ ở đây “xanh xanh” héo hắt, ủ dột, cạn kiệt sức sống như ngọn cỏ vàng trên nấm mồ hoang lạnh của người kỹ nữ Đạm Tiên: “Sè sè nắm đất bên đường Dầu dầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh” Hình ảnh cánh đồng cỏ ‘xanh xanh” già cỗi, héo úa trải dài “chân mây mặt đất” mờ mịt, xa xăm quá, phải chăng tương lai phía trước của Thúy Kiều cũng rất mịt mờ cũng quẫn, bế tắc, không lối thoát hay đó cũng chính là nỗi buồn vô tận cho cuộc sống tẻ nhạt vô vị mà nàng đang phải cắn răng chịu đựng. Nhìn cảnh vật thiên nhiên Kiều thấy lo lắng, đau đớn, xót xa và lắng nghe những tiếng động, những âm thanh, nàng bỗng nhiên giật mình, sợ hãi: “Buồn trông gió cuốn mặt duềnh Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi” Thiên nhiên thật là dữ dội, tiếng sóng biển “ầm ầm” quanh bốn phía hòa với những cơn “gió cuốn” gào thét nổi lên khiến cho Kiều vừa buồn, vừa lo sợ hãi hùng khi nàng mường tượng đến chặng đường đầy bão tố đang sắp ập lên cuộc đời mình. Tiếng sóng biển – hay cũng chính là tiếng sóng lòng cuộc đời vang lên tiếng gõ.

<span class='text_page_counter'>(166)</span> cửa của định mệnh, muốn hất tung người con gái đơn côi yếu đuối trên điểm tựa chiếc ghế đời mỏng manh, chông chênh. Nguyễn Du đã để cho Kiều nhìn cảnh vật bằng chính tâm trạng của mình nên mỗi cảnh vật đều gợi lên những bất hạnh đau khổ của cuộc đời nàng. Vương trong con mắt người con gái bán mình đang “buồn trông”, mọi hình ảnh vừa nổi chìm, trôi dạt, vừa có cái gì như mờ mịt, nhạt nhòa. Đó là những hình ảnh thật hay là tưởng tượng, huyễn hoặc trong tâm trạng cô thiếu nữ đáng thương. Cách sắp xếp trình tự miêu tả ở đây khiến ta cảm thấy được nỗi buồn như đang dồn đuổi nàng,… Mỗi cảnh vật đều khơi gợi cho nàng buồn với những cung bật khác nhau: nỗi buồn vì nhớ mong chờ đợi, nỗi sầu khổ băn khoăn day dứt cho số phận, sự chán ngán thất vọng cho hiện tại và bàng hoàng ghê sợ, kinh hoàng khi dự cảm đến tương lai… Điệp ngữ liên hoàn “buồn trông” giống như một điệp khúc trong khúc ca sầu thảm, tạo cho ta cảm giác nỗi buồn ấy cứ trở đi, trở lại khôn nguôi, day dẳng, triền miên, đang ngày càng thấm sâu vào tâm hồn Kiều, nhuộm lên cảnh sắc thiên nhiên, nỗi buồn mênh mang trời đất, thấm đẫm cả không gia và thời gian. Âm điệu trầm lắng của của đoạn thơ cùng với cách chọn lựa hình ảnh, sắc màu, âm thanh, đường nét của tác giả trong đoạn thơ này thật dụng công. Tất cả đều phù hợp với tâm trạng nhân vật. Đọc đoạn trích, ta thấy hình ảnh con người cứ mờ dần đi, chỉ còn lại tâm trạng nổi bật lên trên tâm trạng của thiên nhiên. Từng lời thơ giống như tiếng lòng nàng Kiều đang thưởng thức, tái tê. Toàn bộ đoạn trích kết thành một bức tranh mà trong đó tâm cảnh hòa lẫn với.

<span class='text_page_counter'>(167)</span> ngoại cảnh. Nghệ thuật “tả cảnh ngụ tình” thật tài hoa, đặc sắc biết bao. Nghệ thuật ấy đã trở nên quen thuộc trong văn chương kim cổ, góp phần vào sự thành công của kiệt tác “Truyện Kiều”. KẾT BÀI: Qua việc vận dụng ngòi bút miêu tả tinh tế, điêu luyện, chọn lọc hình ảnh tiêu biểu kết hợp với một giai điệu trầm buồn và bằng cả bức tranh thiên nhiên trữ tình tuyệt tác, đoạn thơ đã diễn tả tinh tế, chân thật tâm trạng “ngổn ngang trăm mối” của nàng Kiều trong một “chặng đường yên tĩnh trước cơn bão tố”. Nguyễn Du thực sự là một bậc thầy trong việc sử dụng nghệ thuật “tả cảnh ngụ tình” và nhiều bút pháp nghệ thuật đặc sắc khác. Có lẽ đó là nguyên do khiến cho ai đã tưng đọc qua “Truyện Kiều” thì khó có thể quên được những phút giây “Kiều ở lầu Ngưng Bích”.. Đề: Một trong những giá trị lớn nhất của “Truyện Kiều” là tinh thần nhân đạo cao đẹp. Em hãy làm sáng tỏ nhận xét trên. MỞ BÀI: “Bà cụ không nhớ tên Nguyễn Du, có gì đâu đáng trách! Một cái tên như bao cái tên thường Như cụ đã gửi lòng trong áng sách.

<span class='text_page_counter'>(168)</span> Theo dõi đời Kiều từng đoạn, từng chương” (“Bài học nhỏ về nhà thơ lớ” – Tế Hanh) Nếu bạn là một khách phương xa đến thăm Việt Nam, nhất là đến thăm những làng quê xa xôi, hẻo lánh, chắc hẳn bạn sẽ vô cùng ngạc nhiên khi nghe đôi ba câu Kiều thốt ra từ cửa miệng những cụ già vẫn thường ngâm nga hát ru cháu ngủ. Ra đời đã hơn hai trăm năm nhưng cho đến bây giờ và muôn đời sau nữa “Truyện Kiều” vẫn là “thức ăn ngọt ngào” (Chế Lan Viên) không thể thiếu đuợc đối với con người Việt Nam, vẫn là một tác phẩm bất hủ, vẫn “làm say lòng người”, gắn bó với mọi thế hệ… Sức mạnh trường tồn của “Truyện Kiều” bắt nguồn từ đâu? Đó là do tác phẩm ấy chứa chan giá trị nhân đạo thông qua việc tố cáo đanh thép xã hội phong kiến mục ruỗng đương thời, khẳng địng và bênh vực giá trị con người, thể hiện ước mơ, khát vọng về tự do công lý, thông qua hình ảnh người con gái tài sắc Thúy Kiều. Lần giở những trang thơ của Nguyễn Du, ta thấy đúng như vậy. THÂN BÀI: Xã hội phong kiến Việt Nam bên cạnh những thời kì lịch sử mà nhà nước phong kiến đã làm tròn vai trò của mình, còn có những thời kì mà người dân lương thiện phải hết sức khổ sở, đặc biệt là người phụ nữ phải sống teong những hoàn cảnh hết sức thương tâm, phi lí dưới chấ độ thống trị bạo ngược và những lễ giáo phong kiến nghiệt ngã. Chính cái xã hội mâu thuẫn, thối nát ấy đã đem đến cho các nhà văn, nhà thơ nguồn cảm hứng vô tận. Nguyễn.

<span class='text_page_counter'>(169)</span> Du và các sáng tác của mình cũng không phải là trường hợp ngoại lệ. Thêm vào đó, Nguyễn Du lại sống ở một thời đại đầy biến động: chế độ Lê – Trịnh mục nát, nạn kiêu binh hoành hành, phong trào Tây Sơn nỗi dậy, rồi Nguyễn Ánh diệt Tây Sơn… Chiến tranh liên miên, dân lành khốn khổ giữa loạn lạc đã đành còn bị chà đạp một cách tàn nhẫn trong chế độ phong kiến đang băng hoại. Chính “những điều trông thấy” của một Nguyễn Du thâm thúy trải đời trong suốt mấy chục năm phiêu bạt, gian truân ấy đã làm ông đau đớn lòng để viết nên thiên tuyệt tác “Truyện Kiều” đậm đà giá trị nhân văn, chứa chan tâm linh nhân ái. Trước hết, “Truyện Kiều” đã tố cáo chế độ phong kiến thối nát, suy tàn chà đạp lên con người lương thiện một cách tàn nhẫn. Bộ mặt của chế độ hiện rõ qua bộ mặt của bọn quan lại. Đó là viên quan chẳng xét việc dân oan uất hay không, mà chỉ lo tra khảo cha ra “ba trăm lạng” làm cho gia đình họ Vương tan tác. Đó còn là viên quan xử án tùy tiện vụ Thúc ông kiện con, lúc đầu ra oai sấm sét, sau đó là dễ dãi tha tội. Hay viên “Tổng đốc đại thần Hồ Tôn Hiến”, đại diện cho triều đình nhưng lại hèn hạ phản trắc, lừa giết một người đã chịu quy hàng chỉ vì không dám để người ấy trở lại sống cuộc sống bình thường, sống cuộc đời theo khuôn phép phong kiến. Như vậy, viên quan xuất hiện đầu tiên đã đẩy Kiều vào vũng bùn, còn viên quan xuất hiện cuối cùng lại không cho người ta sống cuộc đời của một con người..

<span class='text_page_counter'>(170)</span> Dưới tay bọn quan lại như thế, bao nhiêu thế lực hung bạo thi nhau hoành hành. Mẹ con họ Hoạn danh gia ngang nhiên đốt nhà, bắt người về làm nô lệ rồi hành hạ người. Bọn buôn người hoạt động một cách công khai: mua người, lừa gạt, đánh đập, bắt ép những cô gái lương liện vào lầu xanh như Tú Bà, Mã Giám Sinh, Bạc Bà, Bạc Hạnh,… Bọn lưu manh, tay sai của những kẻ có thế lực, sẵn sàng thực hiện bất cứ hành động tội ác nào, miễn là có tiền: bọn sai nha, Ưng Khuyển, Sở Khanh,… Bên cạnh các thế lực thống trị và lũ người hung ác là sức mạnh của đồng tiền. Vì tiền mà bọn buôn người đầy Thúy Kiều vào chốn bùn nhơ, lũ lưu manh bắt bớ, đánh đập người vô tội: “Một người lạ thói sai nha Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền” (Gợi ý: Luật pháp trong xã hội phong kiến là luật pháp mà lòa mà điểu khiển cán cân công lý lại là bọn quan lại xấu xa, coi nặng đồng tiền. Và thế là mặc cho “tiếng oan dậy đất, oán ngờ lòa mây”, chúng vẫn khăng khăng: “Có ba trăm lạng việc này mới xong”. Luật pháp dung túng cho Tú Bà ngang nhiên mắng chửi nàng Kiều vì tội đã rời bỏ lầu xanh để tìm chốn thoát thân và tàn nhẫn thay đã đánh nàng bằng tất cả nỗi căm giận của mụ trùm nhà chứa: “Hung hăng chẳng hỏi chẳng tra Đang tay vùi liễu, dập hoa tơi bời” Để cuối cùng, Kiều phải cúi đầu, chấp nhận tất cả như một lẽ hiển nhiên:.

<span class='text_page_counter'>(171)</span> “Thân lươn bao quản lấm đầu Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa” Chính bọn chúng, lũ buôn người được giấy phép của xã hội phong kiến, đã cấu kết nhau giết chết hết những gì tươi đẹp còn sót lại trong tâm hồn Kiều. Vừa thoát khỏi lầu xanh của Tú Bà, Thúy Kiều lại rơi ngay vào cạm bẫy của Bạc Hạnh, Bạc Bà. Nàng sống làm sao được trong xã hội mà quan hệ với nhau chỉ bằng đồng tiền, khi bọn buôn người nhìn nàng bằng một cái nhìn soi mói: “Thấy nàng mặn phấn tươi son Mừng thầm được mối bán buôn có lời” Nếu như với bọn buôn người, nàng Kiều bị đày đọa một lần thì với những tượng trưng cho quyền lực của chế độ phong kiến, sự đày đọa ấy đã tăng lên gấp mười. Đó là Hoạn Thư, một tiểu thư danh giá mà cũng thâm hiểm chết người: “Bề ngoài thơn thớt nói cười Mà trong nham hiểm giết người không dao” Con người ấy đã tra tấn Kiều dã man và hiểm độc hơn, đã lợi dụng ngón đàn của nàng một cách tinh vi để xoa dịu máu ghen đang bốc lên hừng hực để rồi một bức tranh hiện lên với ba thân phận, ba nỗi lòng khác nhau: “Cùng trong một tiếng tơ đồng Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm” Vùi dập, hành hạ con người đến thế là cùng. Nhưng kẻ đã cướp đi những hy vọng cuối cùng của Kiều, lại chính là quan Tổng đốc đại thần Hồ Tôn Hiến. Mang danh nghĩa là triều đình mà hắn.

<span class='text_page_counter'>(172)</span> lại đi lừa gạt Kiều để dẫn đến cái chết oan uổng của Từ Hải. Và mỉa mai thay, chính hắn lại một lần nữa chà đạp lên cuộc đời Kiều. Thật đáng khinh bỉ cho cái “mặt sắt cũng ngây vì tình” ấy. Làm một viậc đồi bại, sau đó lại “nghĩ mình phương diện quốc gia”, y lại tiếp tục đẩy Kiều vào một đoạn đường tủi nhục mới, đau đớn hơn, dìm sâu hơn số kiếp một con người.) Ý 1: Tinh thần nhân đạo của tác phẩm biểu hiện ở việc ca ngợi những giá trị, phẩm chất tốt đẹp của con người. Kiều là hiện thân của cái đẹp và tài năng tuyệt vời. Nàng kiều diễm, rực rỡ “Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”. Kiều không chỉ đẹp “nghiêng nước nghiêng thành” mà còn có một tài năng tuyệt diệu, rất đáng tự hào: “Thông minh vốn sẵn tính trời Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm” Kiều là một đứa con chí hiếu. Gia đình gặp tai biến, tài sản bị bọn sai nha “Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham”, cha và em trai bị bắt, Kiều đã quyết hi sinh mối tùnh riêng để cứu cha và gia đình. Hành động bán mình chuộc cha của Kiều thấm đượm một tinh thần nhân đạo cao đẹp, làm cho người đọc vô cùng cảm phục và xúc động: “Hạt mưa sá nghĩ phận hèn Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân” … “Thà rằng liều một thân con Hoa dù rã cánh, là còn xanh cây”.

<span class='text_page_counter'>(173)</span> Đọc “Truyện Kiều”, lần theo con đường khổ ải của Kiều, ta vô cùng cảm phục trước tấm lòng đôn hậu, hiếu thảo, tình nghĩa của nàng. Kiều như quên hết nỗi đau của riêng mình mà dành tất cả tình thương thắm thiết cho cha mẹ và hai em. Nàng lo lắng cha mẹ già yếu, buồn đau, không ai chăm sóc đỡ đần: “Xót người tựa cửa hôm mai Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?” Tình tiết trao duyên trong “Truyện Kiều” cũng là một nét rất đẹp của tình cảm nhân đạo. Trước bi kịch cuộc đời “Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”, Kiều đã “cậy em” và trao duyên cho Thúy Vân thay mình trả nghĩa “nước non” với chàng Kim: “Ngày xuân em hãy còn dài Xót tình máu mũ thay lời nước non Chị dù thịt nát xương mòn Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây Chiếc thoa với bức tờ mây Duyên này thì giữ, vật này của chung” Dù sống bơ vơ nơi đất khách quê người, nỗi nhớ về người người yêu – biểu hiện của tình cảm thủy chung vẫn không hề với đi trong tâm hồn người con gái đáng thương này: “Tuởng người dưới nguyệt chén đồng Tin sương luống những rày trông mai chờ Bên trời góc bể bơ vơ Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”.

<span class='text_page_counter'>(174)</span> Ý 2: Số phận con người – đó là điều day dứt khôn nguôi của Nguyễn Du. Trái tim nhân ái bao la của nhà thơ của nhà thơ đã dành cho kiếp người tài sắc bạc mệnh sự cảm thông và xót thương sâu sắc. Có thể nói toàn bộ “Truyện Kiều” là tiếng kêu của cả “thân phận đàn bà”. Nhân vật Đạm Tiên mãi mãi là một ám ảnh đối với mọi người. Người kỹ nữ “Nổi danh tài sắc một thì” nhưng mệnh bạc đau đớn “Sống làm vợ khắp người ta – Hại thay thác xuống làm ma không chồng”. Kiều đứng trước mộ Đạm Tiên, cất lời đồng cảm thê thiết! Kiều khóc Đạm Tiên hay Nguyễn Du khóc thương cho nỗi đau của bao người phụ nữ bị vùi dập trong xã hội cũ? “Đau đớn thay phận đàn bà Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung” Trong tác phẩm này, sự chia sẻ đồng cảm của Nguyễn Du cao đến mức nhiều lần ông đã hóa thân vào nhân vật, cùng tham dự vào cuộc hành trình đau khổ của Kiều trong khúc đoạn trường mười lăm năm. Bước chân của nàng Kiều trong đoạn “Mã Giám Sinh mua Kiều”, không chỉ thấm đẫm giọt nứơc mắt của người con gái bất hạnh ấy mà còn thấm đẫm giọt nước mắt của chính Nguyễn Du: “Nỗi mình thêm tức nỗi nhà Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng Ngại ngùng vịn gió e sương Ngừng hoa bóng thẹn trông gương mặt dày Mối càng vén tóc bắt tay Nét buồn như cúc điệu gầy như mai”.

<span class='text_page_counter'>(175)</span> Sau khi bán mình cho Mã Giám Sinh, Kiều đã trải qua mười năm lưu lạc, nếm đủ mùi đắng cay, nhục nhã “Thanh lâu hai lượt thanh y hai lần”. Từ Hải mắc lừa Hồ Tôn Hiến, bị giết chết, Kiều phải hầu rượu, đánh đàn trong bữa tiệc quan… Quá uất ức, nàng phải nhảy xuống sông Tiền Đường tự vẫn: “Thương thay cũng một kiếp người Hại thay mang lấy sắc tài làm chi Những là oan khổ lưu ly Chờ cho hết kiếp còn gì là thân!” Câu thơ của Nguyễn Du như một tiếng nấc cất lên não lòng. Những từ ngữ “thương thay”, “hại thay”, “làm chi”, “còn gì là thân” tựa như những giọt lệ chứa chan tình nhân đạo, khóc thương cho số đoạn trường. Ý 3: Tinh thần nhân đạo trong “Truyện Kiều” còn là tiếng nói đồng tình, đồng cảm của thi hào Nguyễn Du với những ướ mơ, những khát vọng về tự do công lý, về tình yêu đơi lứa. Từ Hải là một hình tượng mang màu sắc tử thi, một anh hùng xuất chúng có tài năng đích thực và sức mạnh phi thường. Một ngoài hình siêu phàm: “Râu hùm hàm én mày ngài Vai năm tấc rộng thân mười thước cao” Những chiến công hiển hách, lẫy lừng “Huyện thành đạp đổ năm tòa án nam”. Từ Hải là một anh hùng đầy chí khí “Dọc ngang nào biết trên đầu có ai”. Người anh hùng ấy khi đưa lưỡi gươm vung lên là công lý được thực hiện:.

<span class='text_page_counter'>(176)</span> “Anh hùng tiếng đã gọi rằng Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha” Từ Hải đã đem uy lực của người anh hùng ra giúp Kiều “báo ân, báo oán”. Hình tượng Từ Hải là một thành công kiệt xuất của Nguyễn Du trong nghệ thuật xây dựng nhân vật, là một biểu hiện sâu sắc về tinh thần nhân đạo. Vẻ đẹp nhân ái toát lên qua hình tượng này tựa như ánh sao băng lướt qua màn đêm giông bão của nàng Kiều vậy. Tuy ngắn ngủi nhưng sáng ngời hy vọng và niềm tin. Mối tình của Kim Trọng – Thúy Kiều là một thiên diễm tình. Đó là một tình yêu tự nguyện vuợt ra ngoài khuôn khổ lễ giáo phong kiến, rất trong sáng, thủy chung của “Người quốc sắc, kẻ thiên tài”. Nguyễn Du, nhà thơ thiên tài của dân tộc, thông qua số phận và tính cánh nhân vật trung tâm là Thúy Kiều, đã biểu hiện trong áng thơ kiệt tác “Đoạn trường tân thanh” cảm hứng nhân đạo sâu sắc, cảm động. KẾT BÀI: Tóm lại, tinh thần nhân đạo cao cả là nội dung tư tưởng đặc sắc thể hiện vẻ đẹp nhân văn của áng thơ này. Chúng ta vô cùng tự hào về Nguyễn Du, một tâm hồn nhạy cảm với vẻ đẹp của thiên nhiên, một trái im giàu yêu thương, đồng cảm với tâm tư số phận của con người, một tài ăng lớn về thi ca đã làm rạng nền văn học cổ Việt Nam..

<span class='text_page_counter'>(177)</span> Nguyễn Du và truyện Kiều sống mãi trong tâm hồn dân tộc, như tiếng hát, lời ru của mẹ. Cảm hứng nhân đạo của nhà thơ mãi mãi là tiếng thương muôn đời: “Tiếng thơ ai động đất trời Nghe như non nước vọng lời nghìn thu Ngàn năm sau nhớ Nguyễn Du Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày”… (“Kính gửi cụ Nguyễn Du” – Tố Hữu). Đề: Phân tích nhân vật Lục Vân Tiên trong đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga”. MỞ BÀI: “Sự đời thà khuấtđôi tròng thịt Lòng đạo xin tròn một tấm gương” (Nguyễn Đình Chiểu) Sống giữa xã hội đảo điên, nhân tình thế thái đen bạc giữa thế kỉ XIX, nhà chí sĩ Nguyễn Đình Chiểu dù gặp cuộc đời nghiệt ngã, vẫn suốt đời phấn đấu và thực hiện cho được lý tưởng nhân nghĩa – làm việc nghĩa cứu người – mà ông hằng đeo đuổi…Lý tưởng ấy đã được tác giả kí thác trong tác phẩm “Lục Vân Tiên”, một tác phẩm mang tính chất tự thuật được nhiều tầng lớp nhân dân thuộc nằm lòng. Qua hành động “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga”, ta phần nào hiểu được tính cách cao đẹp của người tráng sĩ ấy. THÂN BÀI:.

<span class='text_page_counter'>(178)</span> Sau khi từ giã thầy học của mình, Vân Tiên về quê viếng thăm cha mẹ để lên kinh ứng thí, giữa đường gặp người dân chạy loạn do bọn cướp gây nên, chàng đã hòi ra sự tình và nguyện “Cứu người cho khỏi lao đao buổi này”… Việc thi cử trong xã hội phong kiến là một việc hệ trọng đối với kẻ sĩ. Trong hoàn cảnh bất thường ấy người ta thường né tránh mọi nguy hiểm để bảo toàn tính mạng…Thế nhưng Lục Vân Tiên đã không suy nghĩ theo lối thường tình đó, thấy người bị nạn, chàng đã tìm cách cứu giúp bằng cách “bẻ cây” làm vũ khí và xông vào đánh bọn cướp: Vân Tiên ghé lại bên đàng Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô” Đó là hành động giàu lòng nghĩa hiệp. Tính cách vì nghĩa không chỉ thể hiện ở hành động mà còn đọng lại trong lời kết tội bọn cướp: “Kêu rằng bớ đảng hung đồ Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân” Hành động cao đẹpấy xuất phát từ lòng yêu thương những người dân lương thiện vô tội và cũng vì họ mà chàng sẵn sàng cản ngăn những hành động “hại dân” của lũ côn đồ hung bạo kia. Việc xảy ra giữa đường, những người dân chạy loạn cướp bóc kia đều không có liên quan đến chàng. Thế nhưng thấy việc nghĩa là phải ra tay, việc làm ấy sao giống nghĩa cử của Hớn Monh và ông Ngư,….

<span class='text_page_counter'>(179)</span>  Chuyển: Cũng qua lần chạm trán với bọn cướp Phong Lai, ta thấ Vân Tiên là một người có tài thao lược và tinh thần dũng cảm mặc dù chàng chỉ có một mình, vũ khí chỉ là một cây gậy còn bọn cướp thì đông đảo “Lâu la bốn phía bổ vây bịt bùng”, có gươm gáo và thật hung hãn thế nhưng chàng vẫn không sờn lòng. Người tráng sĩ ấy “tả đột hữu xông” khác nào “Triệu Tử mở vòng Đương Dang”. Sự dũn mãnh ấy khiến hình ảnh của chàng càng trở nên đẹp đẽ và khiến cho mọi người thêm khâm phục… Được sự cổ vũ của lý tưởng nhân nghĩa, do tài năng võ nghệ và sự dũng cảm phi thường, Vân Tiên làm cho bọn lâu la phải “quăng gươm giáo”, còn tên cướp Phong Lai phải bỏ mạng, chàng thư sinh họ Lục hoàn toàn làm chủ trên chiến trường.  Chuyển: Tính cách của Lục Vân Tiên còn được bộc lộ qua cách chàng giao tiếp vớ những người bị nạn mà chàng vừa cứu sống…Chàng đã ân cần, thăm họi những người bị nạn và thật xúc động khi nghe Kiều Nguyệt Nga trần tình. Đó là biểu biện của tấm lòng nhân hậu: “Vân Tiên nghe nói động lòng Đáp rằng: ta đã trừ dòng lâu la”… Không chỉ thực hiện hai chữ “nghĩa”, “nhân” mà Vân Tiên còn biết giữ cho mình chữ “lễ” theo đúng quan niệm Nho gia xưa. Đó là sự giao tế đúng đắn của một người có đọc sách thánh hiền với một người phụ nữ hoàn toàn xa lạ với mình: “Khoan khoan ngồi đó chớ ra Nàng là phận gái ta là phận trai”.

<span class='text_page_counter'>(180)</span> Nhưng có lẽ điều mà khiến cho mọi người càng thêm cảm phục chàng đó là tính cách “trọng nghĩa khinh tài” cao thượng. Khi nghe Nguyệt Nga mời về nhà và tỏ ý “báo đức thù công, Vân Tiên đã khước từ mọi chuyện ân huệ: “Vân Tiên nghe nói liền cười Làm ơn há dễ trông người trả ơn” Trước tấm chân tình “ơn đền nghĩa trả” của nạn nhân vừa được cứu giúp, Vân Tiên chỉ trả lời bằng một nụ cười hồn nhiên của một con người hào hiệp, quen sống vô tư, làm việc nghĩa theo bản tính của mình. Một nụ cười tốt bụng, đôn hậu rất đặc trưng của con người Nam bộ. Nói như nhà thơ Xuân Diệu: “Cái cười đáng yêu, đáng kính sao! Một là cái cười của anh hùng quân tử, hai là cái cười của anh con trai, ba là cái cười của quần chúng rộng lượng, đều ở trên môi Vân Tiên”. Hơn nữa thấy việc nghĩa là phải ra tay đó là nghĩa vụ của kẻ làm trai, là thước đo của một người anh hùng theo quan niệm của Vân Tiên và cũng là quan niệm của Nguyễn Đình Chiểu và nhân dân nói chung… “Nhớ câu kiến ngãi bất vi Làm người thế ấy cũng phi anh hùng” Trong lời nói hào hiệp đó, ta nghe như âm vang tiếng nói của Từ Hải trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du vốn được nhiều người yêu mến và ca tụng: “Anh hùng tiếng đã gọi rằng Giữa đừng dẫu thấy bất bằng chẳng tha”.

<span class='text_page_counter'>(181)</span> Với một chiếc gậy bẻ vội bên đường mà một mình dám xông vào một lũ lâu la vốn quen gươm giáo, việc làm ấy thật nguy hiểm vậy mà chàng trai nghĩa hiệp họ Lục vẫn thản nhiên như không. Đồng thời chỉ đáp lời bằng một nụ cười nhẹ nhàng, đáng yêu và hồn nhiên khi được người bị hại có ý đền ơn. Hành động, tâm tình, tư tưởng của Lục Vân Tiên là bóng dáng cuộc đời của Nguyễn Đình Chiểu. Đó còn là suy nghĩ và hành động vì nghĩa của cả tập thể của cả tệp thể những con người có lý tưởng sống đẹp mà tác giả đã tái hiện trong tác phẩm: một ông Ngư “dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn”, một Hớn Minh nghĩa hiệp,…có thể nói là Nguyễn Đình Chiểu đã đưa vào trận “Cả một đạo quân bừng bừng khí thế, kiên quyết vì chính nghĩa mà chiến đấu và chiến thắng” (Hoài Thanh). Hành động nghĩa hiệp ấy thật đẹp. Nó không cao xa và khác biệt với hành động “vá trời lấp bể” của một trang nam nhi theo quan niệm của Nguyễn Công Trứ… Lý tưởng sống của cụ Đồ Chiểu rất gần với lý tưởng anh hùng của thời đại chúng ta… KẾT BÀI: Qua việc vận dụng nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật theo thủ pháp quen thuộc của truyện cổ dân gian: để cho nhân vật trực tiếp bộc lộ bản chất, tính cánh bằng hành động cụ thể, đoạn trích đã làm ngời lên nhân vật trung tâm của truyện: một con người có bản tính nhân nghĩa hào hiệp, giàu lòng thương người, một hiện thân của cái thiện chống cái ác… Hình ảnh Lục Vân Tiên như nhắc nhở thế hệ trẻ của chúng ta sống phải có trách nhiệm với mọi người, luôn có ý thức mình là.

<span class='text_page_counter'>(182)</span> con cháu của Nguyễn Đình Chiểu, một người mang dòng máu anh hùng, vô tư hào hiệp của nhân dân Nam bộ, của dân tộc Việt Nam… HOẶC: Đọc đoạn trích, ta càng hiểu hơn lý tưởng nhân nghĩa mà ông đã trọn đời dâng hiến, hiểu rõ hơn tài năng và tấm lòng của một nhà thơ dù “đôi mắt đã loà mà tấm lòng của ông vằng vặc như sao Bắc Đẩu” (Bảo Định Giang).. ĐỀ: Cảm nhận về bài thơ “Đồng chí” DÀN BÀI A.MỞ BÀI: 1.Đôi nét về tác giả, tác phẩm: Chính Hữu chủ yếu viết về đề tài người lính và chiến tranh, bút pháp cô đọng, hàm súc, giàu hình ảnh. Bài thơ được xem là thành công nhất của thi sĩ và được nhiều độc giả biết là bài “Đồng chí”. Tác phẩm được viết trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. 2.Nội dung chính của bài thơ: Bài thơ khắc họa vẻ đẹp bình dị mà cao cả của người lính vệ quốc quân trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp từ đó tác giả kín đáo bộc lộ thái độ ca ngợi tình cảm đồng đội, đồng chí giữa họ. “Trích dẫn đề” B. THÂN BÀI: 1. Khổ thơ đầu:.

<span class='text_page_counter'>(183)</span> a). Bốn câu thơ đầu: Giới thiệu cảnh ngộ xuất thân của những người chiến sĩ: “Quê hương anh nước mặn, đồng chua Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá. Anh với tôi đôi người xa lạ Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau,” − Thành ngữ “nước mặn đồng chua”+ hình ảnh “ đất cài lên sỏi đá”  gợi hình ảnh những làng quê lam lũ cực nhọc. − Cấu trúc sóng đôi “quê hương anh- làng tôi”, “nước mặn đồng chua- đất cày lên sỏi đá”, “anh với tôi” Sự đồng cảm về giai cấp khiến cho họ từ những phương trời “xa lạ” đã nhanh chóng trở nên “ quen nhau”. b). Ba câu thơ kế: Chuyển: Ngay những ngày đầu ở thao trường họ đã gắn bó với nhau: “ Súng bên súng, đầu sát bên đầu, Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ. Đồng chí!” − Cấu trúc sóng đôi: “Súng bên súng, đầu sát bên đầu”  họ không chỉ cùng một mục đích chiến đấu mà còn cùng chung lý tưởng. − Từ “đôi” gợi sự gắn bó thân thiết, bền chặt. − Hình ảnh “đêm rét chung chăn” những người chiến sĩ san sẻ cho nhau hơi ấm đồng đội, hình thành tình “tri kỉ” của những người bạn chí cốt, thấu hiểu nhau. Hình ảnh này còn gợi cảm giác ấm cúng của tình đồng đội, nghĩa đồng bào chứ không đơn thuần kể cái nghèo cái rét. − Câu thơ “Đồng chí!” khép lại đoạn mở đầu thật lạ, thật ngắn gọn. Chỉ một từ và dấu chấm cảm mà gợi lên thật nhiều điều..

<span class='text_page_counter'>(184)</span> “Đồng chí!” không chỉ là tiếng xưng hô thiêng liêng mà còn là tiếng lòng, lý tưởng cao đẹp của những người nông dân mặc áo lính. Tình đồng chí là kết tinh cao độ của tình người, tình bạn, tình đồng đội…  Giọng điệu sâu lắng trữ tình, lời thơ và hình ảnh thơ dung dị đã tạo cho khổ thơ đầu những ý thơ bình dị mà sâu sắc như chính hành động vì lý tưởng cao đẹp của những người nông dân mặc áo lính. 2. Khổ 2: Mười câu thơ tiếp theo: a. Chuyển: Người chiến sĩ này nói đến gia cảnh của người kia với tâm trạng bâng khuâng thương cảm: “ Ruộng nương anh gửi bạn thân cày Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.” − Theo tiếng gọi của non sông anh đành “gửi” lại ruộng nương cho người bạn thân cày. − Hai chữ “mặc kệ” thái độ lên đường thật dứt khoát. − Nghệ thuật nhân hóa và cách dùng hình ảnh tượng trưng “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”  diễn tả tinh tế nỗi nhớ nhung luyến lưu của người lính. b. Chuyển: Âm điệu thơ man mác, nao nao bỗng trở nên chậm rãi, trầm lắng, trĩu xuống khi tác giả tái hiện cuộc sống kham khổ nơi chiến trường: “ Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi. Áo anh rách vai Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá Chân không giày.

<span class='text_page_counter'>(185)</span> Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.” − Những người chiến sĩ phải trải qua những cơn sốt rét rừng ác tính “Sốt run người”, thiếu cả thuốc men, quân trang, quân dụng “Áo rách vai”, “Quần có vài mảnh vá”, “ Chân không giày”…Thủ pháp liệt kê được sử dụng khéo léo đã làm nổi bật những thiếu thốn, thử thách khắc nghiệt đối với người chiến sĩ. − Chữ “biết” trong ý thơ “biết từng cơn ớn lạnh” sự nếm trải cay đắng, cùng chung chịu gian nan. − Các câu thơ ngắn gọn, kết hợp với những hình ảnh thơ chân thực sóng đôi đã khắc sâu những nỗi gian nan cay cực đó. Chính những hình ảnh chân thực đúng với cuộc sống đời thường của người lính đã có sức lôi cuốn và gây xúc động mạnh trong lòng người đọc. − Trong hoàn cảnh kham khổ, thiếu thốn ấy, những người chiến sĩ vẫn lạc quan, nụ cười vẫn nở trên môi: “Miệng cười buốt giá” không phải là cái cười lạnh lùng thản nhiên mà là nụ cười của con người trong cảnh mùa đông làm giá buốt cơ thể. Nụ cười của sự lạc quan bình thản, xem thường gian khổ. Nụ cười không chỉ làm ta xúc động mà còn cảm phục.  Những câu thơ đầy xúc động nhưng không bi lụy. − Sức mạnh giúp cho những người lính vượt qua gian khổ thiếu thốn: chính là tình cảm giữa họ “ Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” − Hình ảnh xúc động: bàn tay nóng ấm tình người sưởi ấm cho nhau trong những đêm giá rét. Bàn tay giao cảm thay lời nói. Hình ảnh “bàn tay nắm lấy bàn tay”  không chỉ là đoàn kết, gắn bó,yêu thương cảm thông mà còn chứa đựng lời động viên nhau vượt qua thử thách, niềm tin hứa hẹn lập công….

<span class='text_page_counter'>(186)</span>  Âm điệu đoạn thơ lắng đọng, dàn trãi theo mạch cảm xúc, cách bộc lộ tình cảm của những người chiến sĩ mộc mạc, lặng lẽ nhưng thật chân thành, tha thiết và cảm động. 3. Ba câu thơ cuối: Chuyển: Trong giây phút đối mặt với kẻ thù, tình đồng chí của họ trở nên cao đẹp nhất, thiêng liêng nhất. “ Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo.” − Hình ảnh thơ “rừng hoang sương muối” miêu tả thực cảnh rừng hoang vào mùa đông có sương muối thời tiết sẽ rất giá rét. − Sức mạnh của tình đồng chí, của lý tưởng đã giúp họ vượt lên sự khắc nghiệt của thiên nhiên “ Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới” Tư thế chủ động hiên ngang của người lính. −. Hình ảnh đẹp và thơ mộng nhất: “Đầu súng trăng treo” . hình ảnh thực được nhận ra từ những đêm hành quân, phục kích giặc của chính tác giả. Hình ảnh ấy không chỉ đẹp và thơ mộng trong cuộc sống hiện thực mà nó còn đẹp bởi ý nghĩa tượng trưng: Nếu “súng” tượng trưng cho người lính, cho cuộc chiến đấu thì “trăng” vốn là hình ảnh quen thuộc của người thi sĩ, tượng trương cho cuộc sống thanh bình yên ả. Sự kết hợp “Đầu súng- trăng treo”  toát lên tâm hồn trong sáng, bay bổng của người chiến sĩ , khẳng định ý nghĩa chân chính, cao cả của cuộc chiến tranh vệ quốc. C. KẾT BÀI: Chiến tranh và những ngày tháng gian khổ, mất mát đã đi qua nhưng những năm tháng lịch sử ấy là những giây phút không thể nào quên. Cảm ơn nhà thơ Chính Hữu với bài thơ “Đồng chí” đã góp thêm.

<span class='text_page_counter'>(187)</span> vào trang sử hào hùng của dân tộc một tượng đài về những người chiến sĩ vệ quốc anh dũng.. BÀI LÀM THAM KHẢO A.MỞ BÀI: Đọc thơ Chính Hữu, ta thấy ông chủ yếu viết về đề tài người lính và chiến tranh qua một bút pháp cô động, hàm súc, giàu hình ảnh. Có lẽ một trong những bài thơ thành công nhất của thi sĩ Chính Hữu và được nhiều độc giả biết đến đó chính là bài “Đồng chí”.Tác phẩm được viết trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Bài thơ đã khắc họa vẻ đẹp bình dị mà cao cả của người lính vệ quốc quân trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp đầy gian khó để từ đó tác giả kín đáo bộc lộ thái độ ngợi ca tình cảm đồng chí đồng đội giữa họ. Đi vào khai thác đoạn trích sau, ta phần nào hiểu rõ hơn phong cách viết và tư tưởng tình cảm của thi sĩ: “Trích dẫn đề” B.THÂN BÀI: Mở đầu bài thơ, tác giả đi vào giới thiệu cảnh ngộ xuất thân của người chiến sĩ: “ Quê hương anh nước mặn đồng chua Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá Anh với tôi đôi người xa lạ Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau” Thành ngữ “nước mặn đồng chua” và hình ảnh “đất cày lên sỏi đá” đã gợi lên trong tâm trí chúng ta hình ảnh những làng quê lam lũ cực nhọc. Chính sự đồng cảm về giai cấp đã khiến cho họ từ mọi miền đất.

<span class='text_page_counter'>(188)</span> nước: từ đồng bằng đến vùng đồi núi trung du, từ những phương trời xa lạ đã trở nên “quen nhau”. Ngay những ngày đầu ở thao trường, họ đã gắn bó với nhau: “ Súng bên súng, đầu sát bên đầu Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ Đồng chí!” Qua cấu trúc sóng đôi của câu thơ, ta như hiểu được tác giả muốn nói: họ không chỉ cùng mục đích chiến đấu “súng bên súng”, mà còn cùng chung lý tưởng “đầu sát bên đầu”. Những người chiến sĩ ấy còn biết san sẻ cho nhau hơi ấm đồng đội “đêm rét chung chăn” để làm nên một mối tình “tri kỉ” của những người bạn chí cốt, thấu hiểu lẫn nhau. Hình ảnh “đêm rét chung chăn” gợi cho người đọc cảm giác ấm cúng của tình đồng đội, nghĩa đồng bào chứ không đơn thuần kể nghèo, kể rét. Câu thơ “Đồng chí!” khép lại đoạn mở đầu thật lạ, thật ngắn gọn. Nó chỉ bao gồm một từ và một dấu chấm cảm mà gợi lên thật nhiều điều. Đó không chỉ là tiếng xưng hô thiêng liêng, trang nghiêm; đó còn là tiếng lòng của những người nông dân mặc áo lính vừa được gắn bó với nhau trong cuộc chiến tranh vệ quốc. Tình đồng chí là kết tinh cao độ của tình người, tình bạn,… Ta cũng gặp hình ảnh của người vệ quốc quân năm nào qua nỗi “Nhớ” của thi sĩ Hồng Nguyên: … “ Lũ chúng tôi Bọn người tứ xứ Gặp nhau hồi chưa biết chữ Quen nhau từ buổi “một – hai” Súng bắn chưa quen Quân sự mươi bài”….

<span class='text_page_counter'>(189)</span> Trong đoạn thơ đầu, tác giả đã xây dựng những câu thơ sóng đôi, đối ứng nhau để diễn tả sự gắn bó, sẻ chia, tương đồng về cảnh ngộ: “Quê hương anh – làng tôi”; “Anh với tôi”; Súng bên súng – đầu sát bên đầu”… - Giọng điệu sâu lắng, trữ tình… - Lời thơ, hình ảnh thật dung dị, như không hề trau chuốt về ngôn từ, không tìm thấy ở đây những từ ngữ sáo rỗng,…  Chuyển: Tác giả đã để cho người chiến sĩ này nói đến gia cảnh của người chiến sĩ kia với một tâm trạng bâng khuâng thương xót: “Ruộng nương anh gửi bạn thân cày Gian nhà không mặc kệ gió lung lay Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” Theo tiếng gọi non sông, anh đành gửi lại ruộng nương cho người bạn thân cày xới. Anh lên đường với một quyết tâm cao: quét sạch bóng thù trên quê hương thân yêu. Hai chữ “mặc kệ” đã thể hiện thái độ lên đường thật dứt khoát mạnh mẽ. Nghệ thuật nhân hóa và cách dùng hình ảnh tượng trưng đã diễn tả nỗi nhớ nhung lưu luyến của người lính.  Chuyển: Âm điệu thơ man mác, nao nao bỗng trở nên chậm rãi trầm lắng, trĩu xống khi tác giả tái hiện cuộc sống kham khổ nơi chiến trường: “ Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi Áo anh ránh vai Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá Chân khôn giày.

<span class='text_page_counter'>(190)</span> Thương nhau tay nắm lấy bàn tay…” Những người chiến sĩ ấy phải trải qua những cơn sốt rét rừng ác tính “Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi”, thiếu thuốc men và cả quân trang, quân dụng: “Áo anh rách vai”, “Quần có vài mảnh vá”, “Chân không giày”…Chữ “biết” trong ý thơ “ biết từng cơn ớn lạnh” là sự nếm trải cay đắng, cùng chung chịu gian nan. Các câu thơ trong đoạn này thật ngắn gọn kết hợp với những hình ảnh chân thực đã khắc sâu những nỗi gian nan cay cực đó. Chính nét chân thực đúng như cuộc sống đời thường của những người lính đã có sức lôi cuốn và gây xúc động mạnh trong lòng độc giả. Thơ ca thời kháng chiến chống Pháp đã từng đề cập đến những khó khăn gian khổ trong buổi đầu: “Lột sắt đường tàu Rèn thêm dao kiếm Áo vải chân không Đi lùng giặc đánh” ( “Nhớ” – Hồng Nguyên) Trong hoàn cảnh kham khổ, thiếu thốn ấy, những người chiến sĩ này vẫn lạc quan tươi trẻ, nụ cười vẫn tươi nở trên môi họ: “Miệng cười buốt giá”. Đây không phải là cái cười lạnh lùng thản nhiên mà đây là nụ cười của sự lạc quan bình thản, xem thường gian khổ. Một nụ cười không chỉ gây xúc động mà còn đem đến cho ta niềm cảm phục… Những câu thơ ở đây đầy xúc động nhưng không bi lụy, thảm thương,…  Nhưng có thể nói sức mạnh đã giúp cho người lính vượt qua gian khổ thiếu thốn ấy đó chính là tình cảm giữa họ: “ Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”.

<span class='text_page_counter'>(191)</span> Đây có lẽ là hình ảnh xúc động nhất: bàn tay nóng ấm tình người sưởi cho nhau trong những đêm giá rét. Bàn tay giao cảm thay cho lời nói. Hình ảnh “tay nắm lấy bàn tay” không chỉ biểu hiện cho sự đoàn kết, gắn bó, cho sự yêu thương cảm thông mà nó còn chứa đựng lời động viên nhau vượt qua thử thách, cả niềm ti hứa hẹn lập công…Cách bộc lộ tình cảm của những người chiến sĩ ở đây không ồn ào mà thật lặng lẽ, cảm động. Âm điệu chung trong đoạn thơ này lắng đọng, lúc dàn trãi theo mạch cảm xúc. Chuyển: Và giờ đây, trong những giây phút đối mặt với kẻ thù, tình đồng chí của họ trở nên cao đẹp nhất, thiêng liêng nhất: “ Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo” Giữa một cánh rừng hoang, một màn sương lạnh có hai con người sát cánh bên nhau trong tư thế chủ động “chờ giặc tới”. Sức mạnh của tình đồng đội đã giúp họ vượt lên trên tất cả những khắc nghiệt của thời tiết và mọi gian khổ thiếu thốn. Tình đồng chí đã sưởi ấm lòng họ giữa cảnh rừng hoang về đêm dày đặc sương muối. Trong đoạn cuối này có lẽ hình ảnh đẹp và thơ mộng nhất có lẽ là cảnh tượng “Đầu súng trăng treo’. Đó là hình ảnh có thực được nhận ra từ những đêm hành quân, phục kích của chính tác giả. Hình ảnh ấy không chỉ đẹp và thơ mộng trong cuộc sống hiện thực mà còn đẹp bởi ý nghĩa tượng trưng của nó. Nếu “súng” tượng trương cho người lính, cho cuộc chiến đấu; còn “ánh trăng vốn là hình ảnh quen thuộc của người thi sĩ, nó còn tượng trưng cho cuộc sống thanh bình, yên ả. Sự kết hợp “đầu súng – trăng treo” phải chăng đã làm toát lên tâm hồn trong sáng, bay bổng của người chiến sĩ, đồng thời còn khẳng định ý nghĩa chân chính, cao cả của cuộc chiến tranh vệ quốc..

<span class='text_page_counter'>(192)</span> C.KẾT BÀI: Qua việc vận dụng một âm điệu trữ tình sâu lắng; hình ảnh thơ chân thực, gợi cảm; ngôn ngữ cô đọng hàm súc; cùng kết cấu sóng đôi toàn bài, tác giả đã khắc họa vẻ đẹp bình dị mà cao cả của người lính vệ quốc quân trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp để từ đó tác giả kín đáo bộ lộ thái độ ca ngợi tình cảm đồng chí đồng đội giữa họ…. Chính chất thơ ấy đã làm bồi hồi xao xuyến bao trái tim độc giả khi chợt nghĩ về một thời chiến tranh khói lửa, nghĩ về những con người dù “thuốc súng kém đi chân không, mà lòng người giàu lòng vì nước” trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Hoặc: “Đồng chí” là bài thơ độc đáo viết về anh bộ đội cụ Hồ người nông dân mặc áo lính, những anh hùng áo vải trong thời đại Hồ Chí Minh. Bài thơ là một tượng đài chiến sĩ tráng lệ cao cả và thiêng liêng. “Đồng chí” xứng đáng là bài thơ của một thời và cũng là mãi mãi… NHỮNG CÁCH MỞ BÀI KHÁC: Cách 1: “ Giọt giọt mồ hôi rơi Trên má anh vàng nghệ Anh vệ quốc quân ơi! Sao mà yêu anh thế” ( “Cá nước” – Tố Hữu) Đẹp lắm, đáng yêu lắm anh vệ quốc quân trong ba ngàn ngày khói lửa chống thực dân Pháp cướp nước. Thơ ca giai đoạn này đã dựng lên những tượng đài tráng liệt về người lính “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”…Trong những bài thơ viết về chiến tranh, viết về những người lính trong thời kì đầu kháng chiến chống Pháp, “Đồng chí” của Chính Hữu được xem là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất….

<span class='text_page_counter'>(193)</span> Vẻ đẹp hình tượng anh bộ đội cụ Hồ cùng với mối tình gắn bó sâu nặng của họ đã được nhà thơ miêu tả và ngợi ca đầy ấn tượng… Cách 2: … “ Lũ chúng tôi Bọn người tứ xứ Gặp nhau hồi chưa biết chữ Quen nhau từ buổi “một – hai” Súng bắn chưa quen Quân sự mươi bài”… ( “Nhớ” – Hồng Nguyên) Đoạn thơ đã làm hiện lên hình ảnh những người chiến sĩ vệ quốc quân trong buổi đầu kháng Pháp. Viết về hình tượng anh bộ đội cụ Hồ trong giai đoạn văn học này, chúng ta làm sao có thể quên được bài thơ “Đồng chí” của thi sĩ Chính Hữu… Giới thiệu hoàn cảnh ra đời của bài thơ…. BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH Phạm Tiến Duật A. 1.. MỞ BÀI: Đôi nét về tác giả, tác phẩm: Phạm Tiến Duật là nhà thơ trưởng thành trong phong trào. thơ trẻ của những năm kháng chiến chống Mĩ. Thơ ông thể hiện hình ảnh thế hệ thanh niên trong phong trào chống Mĩ cứu nước qua hình tượng những cô thanh niên xung phong, những anh bộ đội trên tuyến đường Trường Sơn. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” trích từ tập thơ “Vầng trăng- Quầng lửa” được xem là tiêu biểu cho cách viết của thi sĩ..

<span class='text_page_counter'>(194)</span> 2.. Khái quát nội dung: Bài thơ đã khắc họa hình ảnh những chiếc xe không có kính. đang lao nhanh trên tuyến lửa → tác giả kín đáo bộc lộ thái độ ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của những người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn ngày ấy. 3. Trích dẫn đề: B. THÂN BÀI: 1. Khổ 1:  Hai câu thơ mở đầu là lời giải thích của người lính về “xe không kính”→ hiện lên những chiếc xe không có kính vẫn băng ra chiến trường: “Không có kính không phải vì xe không có kính Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi” − Hình ảnh chiếc xe không kính không hiếm trong chiến tranh nhưng phải có một hồn thơ nhạy cảm với nét tinh nghịch rất lính tráng, thích cái lạ mới nhận ra được và xây dựng thành hình tượng thơ độc đáo của thời chiến tranh chống Mĩ. − Những chiếc xe không có kính được lý giải:“Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi” chiến tranh ác liệt, hai động từ mạnh “giật, rung”→ sức tàn phá ghê gớm của chiến tranh, bom đạn. Người lính lái xe không ít lần đối diện với cái chết.  Hai câu thơ gần với câu văn xuôi, giọng thản nhiên,nhẹ nhõm, dung dị như lời nói thường ngày.  Ranh giới giữa sự sống và cái chết gần kề, người lính lái xe bộc lộ những phẩm chất cao đẹp, sức mạnh tinh thần lớn lao..

<span class='text_page_counter'>(195)</span> “ Ung dung buồng lái ta ngồi Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng” − Nghệ thuật điệp ngữ, từ láy “ung dung” + âm điệu ngắn gọn, dứt khoát của điệp từ “nhìn”+ nhịp thơ ngắn  tư thế hiên ngang, ngạo nghễ, dáng vẻ bình thản, thái độ tự tin xem thường cái chết của người lính. − “Nhìn thẳng” nhìn về phía trước, nhìn thẳng vào gian khổ, hy sinh không nao núng, ý chí quyết tâm vững như sắt thép. − Đại từ “ta” vang lên thật tự hào và kiêu hãnh. 2. Khổ 2:.  Khung cửa xe không còn cửa kính chắn gió, người lái xe tiếp xúc trực tiếp với thế giới bên ngoài với những cảm giác kỳ thú: “ Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng Nhìn thấy con đườnng chạy thẳng vào tim Thấy sao trời và đột ngột cánh chim Như sa như ùa vào buồng lái − Điệp từ “nhìn thấy”: nhấn mạnh sự tiếp xúc trực tiếp giữa người lính lái xe trong cabin và thế giới tự nhiên bên ngoài. − “Mắt đắng” vì thao thức lái xe liên tục từ đêm này sang đêm khác. Động từ “xoa” có sức gợi tả mạnh mẽ. − “ Con đường chạy thẳng vào tim”:  Xe bon nhanh, con đường chạy ngược về phía người lái..

<span class='text_page_counter'>(196)</span>  Con đường chiến lược cụ thể được vạch ra để giải phóng dân tộc.  Con đường chiến đấu vì lẽ sống, tình thương, vì độc lập của đất nước và tự do cho dân tộc..  Sự liên tưởng thú vị, độc đáo mới lạ. - Hình ảnh trái tim nhiệt tình, lý tưởng của người lính Trường Sơn. − Hình ảnh “sao trời”, “cánh chim”, “như sa như ùa vào buồng lái” những khó khăn thử thách với người lính lái xe khi xe không có kính miêu tả thực + lãng mạn hình ảnh người lính được nâng ngang tầm với vũ trụ. − Câu thơ cuối có sáu thanh bằng sự phơi phới thênh thênh đầy nghị lực, bất chấp mọi gian khổ. − Nhịp thơ nhanh gấp, nhịp nhàng như bánh xe lăn đều trên tuyến đường. 3. Khổ 3: Sau khi để tâm hồn mình hòa nhập với thiên, họ trở về thực tế của cuộc kháng chiến vệ quốc, với nhiệm vụ thiêng liêng nhuều nguy hiểm: “Không có kính, ừ thì có bụi, Bụi phun tóc trắng như người già Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.” − Cụm từ “không có kính” xem khổ 1. − Những từ “ừ thì”, “chưa cần” vang lên như một thách thức, chấp nhận nhưng rất chủ động ý thức và chấp nhận và.

<span class='text_page_counter'>(197)</span> đã quen gian khổ. Câu thơ mộc mạc mang đậm chất văn xuôi thể hiện rõ tinh thần và cuộc sống của người lính. − “Bụi phun tóc trắng như người già” không có kính che chắn người lái và chiếc xe như đi giữa đất bụi Hình ảnh mới lạ độc đáo, so sánh hóm hỉnh nổi bật sự thử thách. − Hình ảnh “phì phèo châm điếu thuốc”, “Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” làm ta thán phục tinh thần lạc quan không ngại gian lao vất vả của người lính. Cái cười sảng khoái, tiếu táo vô tư sao mà đáng yêu, rạng rỡ mang đậm chất lính. Trong gian khổ, nguy hiểm họ vẫn giữ được nét trẻ trung, hồn nhiên lạc quan, yêu đời, sôi nổi. − Âm điệu thơ nhanh mạnh, ngang tàng làm toát lên vẻ bình thản nơi người lính. 4.Khổ 4: Vẫn giọng điệu và ngôn ngữ ấy, tác giả viết tíếp: “ Không có kính, ừ thì ướt áo Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.” − “Không có kính”, “ừ thì”, “chưa cần” lặp đi lặp lại làm nổi rõ giọng điệu rắn rõi, mạnh mẽ thái độ bất chấp gian khổ, tinh thần cương nghị. − “Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời” những cơn mưa đại ngàn ác liệt sự gian khổ trong công việc của người lính. − Thái độ phớt tỉnh, xem thường thử thách: “Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi” Quả là lời thơ của một thế hệ trẻ..

<span class='text_page_counter'>(198)</span> − Âm điệu nhanh mạnh, câu cuối xuất hiện vần bằng liên tục làm khổ thơ nhẹ thênh thênh thái độ xem thường gian khổ.  Hai khổ thơ giúp ta hiểu những khó nhọc trong những tháng năm lịch sử hào hùng: không chỉ là cơ sở vật chất mà còn nhiều thử thách khắc nghiệt do thiên nhiên mang lại. 5. Khổ 5: Khổ thơ tiếp theo đề cập đến khía cạnh khác trong tâm hồn, tình cảm của họ: “Những chiếc xe từ trong bom rơi Đã về đây họp thành tiểu đội Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.” − Hình ảnh “ những chiếc xe”, “bom rơi” chiến tranh ác liệt. − “Từ trong bom rơi” từ trong ác liệt, trong cái chết trở về. Vì thế cái “bắt tay” qua ô cửa kính vỡ thật đầy ý nghĩa chúc mừng hoàn thành nhiệm vụ, chứa niềm tin, niềm vui, niềm tự hào của người chiến thắng biểu hiện cho sự đoàn kết, động viên, chúc mừng thắng lợi. − Cụm từ “Đã về đây” gợi những chặng đường nguy hiểm vừa trải qua. − Câu thơ “Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới” ý tứ sâu xa những con người cùng chiến tuyến, cùng gặp nhau trên con đường giải phóng miền Nam, càng đi càng gặp nhiều bạn bè..

<span class='text_page_counter'>(199)</span> − Âm điệu thơ nhẹ nhàng, hình ảnh thơ, ngôn ngữ thơ bình dị như lời kể chuyện tâm tình từ cõi chết trở về mà sao nhẹ nhàng thư thái. 6. Khổ 6: Cùng lý tưởng đã khiến họ từ tình đồng đội trở thành tình gia đình thiêng liêng. “ Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy Võng mắc chông chênh đường xe chạy Lại đi, lại đi trời xanh thêm.” − Bếp Hoàng Cầm bếp dã chiến dùng trong hành quân, khi đun khói tản ra để giặc không phát hiện cuộc sống cơ động và nhiều nguy hiểm. − Đại từ “ta” + “dựng giữa trời” sự hiên ngang, đỉnh đạt. − Sinh hoạt của người lính lái xe được tóm lược qua các hình ảnh “ bếp Hoàng Cầm”, “chung bát đũa”, “võng mắc chông chênh” những nét vẽ hiện thực tái hiện cuộc sống của những người lính lái xe Trường Sơn trong thời kì chống Mĩ quyết liệt: tạm bợ, cơ động, gian khổ nhưng cách nhìn của người chiến sĩ về chúng thật tươi tắn cảm động: “gia đình đấy”. Hai tiếng gia đình thật bình dị mà thiêng liêng cùng lý tưởng nên thật dễ gần gũi. − Hình ảnh “võng mắc chông chênh”:  gợi con đường không bằng phẳng, giấc ngủ dao động, hằn lên những vất vả còn trước mắt – Miêu tả thực.

<span class='text_page_counter'>(200)</span>  Gợi con đường giải phóng dân tộc còn nhiều khó khăn thử thách. − Cái “bắt tay” ở khổ thơ trên và hình ảnh “chung bát đũa” ở đây tình cảm đồng đội, đồng chí keo sơn gắn bó thôi thúc họ lên đường. − Điệp ngữ “lại đi” đoàn xe không ngừng tiến tới, khẳng định quyết tâm lên đường mạnh mẽ không khó khăn, hiểm nguy nào làm họ chùng bước. − Hình ảnh “trời xanh thêm” giàu chất thơ và đầy ý nghĩa. “Trời xanh” bầu trời đẹp, yên bình, không gian cao xa rộng lớn là biểu tượng của niềm tin chiến thắng ngày càng gần. − Âm điệu thơ dứt khoát rắn rỏi, sự quyết tâm, niềm tin tất thắng. 7. Khổ 7: khổ thơ cuối là lời lý giải những nhân tố đã làm nên sức mạnh để họ xem thường gian khổ, nguy hiểm: “Không có kính, rồi xe không có đèn Không có mui xe, thùng xe có xước Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước: Chỉ cần trong xe có một trái tim.” − Bút pháp liệt kê và điệp ngữ “không có” nổi bật sự dữ dội và khốc liệt của chiến tranh, kì lạ là những chiếc xe đầy thương tích vẫn băng ra tiền tuyến: “Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước: Chỉ cần trong xe có một trái tim”..

<span class='text_page_counter'>(201)</span> − Hình ảnh hoán dụ “trái tim” ý chí chiến đấu kiên cường để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, trái tim yêu thương miền Nam gian khổ quật cường, trái tim yêu nước, yêu đời, trái tim anh dũng. − Dấu hai chấm cuối dòng thơ và từ “chỉ cần” khẳng định đó là yếu tố quan trọng, cần thiết, không thể thiếu được, có yếu tố ấy là có tất cả. − Sự đối lập giữa những điều “không có” thiếu thốn về phương diện vật chất với một cái “có” đó là sức mạnh tinh thần. Kết cấu đối lập làm sáng lên nét đẹp trong tâm hồn, tình cảm của người chiến sĩ . − Khổ thơ cuối dồn tụ tất cả tình yêu thương, phẩm chất cao đẹp của người lính trong những ngày khói lửa. − Âm điệu thơ nhanh mạnh như hình ảnh những chiếc xe vẫn lao vun vút trên tuyến lửa. C. KẾT BÀI: Bài thơ: − Vận dụng âm điệu thơ mạnh mẽ ngang tàng, ngôn ngữ mang đậm chất văn xuôi kết hợp với những hình tượng thơ độc đáo. − Nhà thơ kín đáo bộc lộ thái độ ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn và những hi sinh của những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn máu lửa ngày ấy.. BÀI LÀM THAM KHẢO A.. MỞ BÀI:.

<span class='text_page_counter'>(202)</span> 1.. Giới thiệu đôi nét về tác giả - Tác phẩm: Phạm Tiến Duật là một trong những nhà thơ trưởng thành. trong phong trào thơ trẻ những năm kháng chiến chống Mĩ. Thơ ông thường thể hiện hình ảnh thế hệ thanh niên trong phòng trào kháng chiến chống Mĩ cứu nước qua hình tượng những cô thanh niên xung phong, những anh bộ đội trên tuyến đường Trường Sơn. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” – được trích từ tập thơ “Vầng trăng – Quầng lửa” được xem là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho phong cách viết của ông. 2.. Giới thiệu khái quát nội dung: Bài thơ đã khắc họa hình ảnh những chiếc xe không kính. đang lao nhanh trên tuyến lửa để từ đó tác giả kín đáo bộ lộ thái độ ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của những người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn ngày ấy. 3.. Chuyển ý: Đi vào khai thác đoạn trích sau, ta phần nào cảm nhận được. bút pháp nghệ thuật và nội dung tư tưởng của tác phẩm: “Trích dẫn đề” B.. THÂN BÀI: Hai câu thơ mở đầu là lời giải thích của người lính về “xe. không kính” đã làm hiện lên hình ảnh những chiếc xe không có kính vẫn băng ra chiến trường: “ Không có kính không phải vì xe không có kính Bom giật, bom rung, kính vỡ đi rồi”.

<span class='text_page_counter'>(203)</span> Xưa nay, hình ảnh những chiếc xe, con tàu nếu đưa vào thơ thì các thi sĩ thường dùng bút pháp mỹ lệ hóa, lãng mạn hóa, hình ảnh ấy mang ý nghĩa tượng trương hơn là tả thực: “Lấy cả những cơn mơ, ai bảo con tàu không mộng tưởng Mỗi đêm khuya không uống một vầng trăng” ( “Tiếng hát con tàu” – Chế Lan Viên) Nay chiếc xe không kính của Phạm Tiến Duật là một hình ảnh thực, không cần đến nghệ thuật nào cả. Hình ảnh những chiếc xe không kính không hiếm trong chiến tranh nhưng phải có một hồn thơ nhạy cảm với nét tinh nghịch rất lính tráng, thích cái lạ như Phạm Tiến Duật mới nhận ra được và đưa nó trở thành hình tượng thơ độc đáo của thời chiến tranh chống Mĩ. Tác giả giải thích nguyên nhân cũng rất đời thường: “Bom giật,bom rung, kính vỡ đi rồi”. Câu thơ gợi lên không khí của những năm tháng chiến tranh ác liệt. Hai câu thơ mở đầu rất gần với văn xuôi, lại có giọng thản nhiên, nhẹ nhõm, dung dị như lời nói thường ngày. Thiếu đi những phương tiện vật chất tối thiểu, ranh giới giữa cái sống và cái chết gần kề lại là cơ hội để người lính lái xe bộc lộ những phẩm chất cao đẹp, sức mạnh tinh thần lớn lao của họ. Trước hết, đó là tư thế ngồi và cái nhìn của người chiến sĩ: “Ung dung buồng lái ta ngồi Nhìn đất, nhìn trời, nhìn trời, nhìn thẳng” Qua nghệ thuật đảo ngữ kết hợp với âm điệu ngắn gọn, dứt khoát của điệp từ “nhìn”, ta thấy toát lên tư thế hiên ngang, ngạo.

<span class='text_page_counter'>(204)</span> nghễ, dáng vẻ bình thản, thái độ tự tin của con người ở đây. Đại từ”ta” vang lên thật tự hào và kiêu hãnh…  Khung cửa xe không còn cửa kính chắn gió, người lính lái xe tiếp xúc trực tiếp thế giới bên ngoài với những cảm giác kì thú: “Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim Thấy sao trời và đột ngột cánh chim Như sa như ùa vào buồng lái”. “Mắt đắng” bởi vì mắt thao thức lái xe liên tục từ đêm này sang đêm khác. Xe bon nhanh, con đường chạy ngược về phía người lái, cho nên con đường trở nên “chạy thẳng vào tim”. Sự liên tưởng ở đây thật thú vị, độc đáo, mới lạ. Phải là người trực tiếp lái xe, đã không ít lầ đối mặt với nguy hiểm và cái chết, tác giả mới có cái nhìn như thế! “Con đường chạy thẳng vào tim” là “Con đường chiến lược cụ thể hay nó cón hàm nghĩa là con đường chiến đấu vì lẽ sống, vì tình thương, vì độc lập tự do của dân tộc”. Phải chăng hình ảnh “trái tim” ở đây là nhiệt tình, lý tưởng của người lính Trường Sơn? Và qua cái nhìn yêu đời, yêu cuộc sống thì hình ảnh “sao trời”, cánh chim kia là chất lãng mạn nơi họ? Câu thơ cuối gồm bảy từ mà đã có sáu thanh bằng diễn tả cái phơi phới, thênh thênh đầy nghị lực, bất chấp mọi gian khổ. Những câu thơ trong khổ thơ này nhanh gấp mà vẫn nhịp nhàng như bánh xe lăn đều đặn trên tuyến đường..

<span class='text_page_counter'>(205)</span>  Chuyển: Sau khi để tâm hồn mình hòa nhập với thiên nhiên, họ đã trở về thực tế: “Không có kính, ừ thì có bụi Bụi phun tóc trắng như người già Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”  Cụm từ “Không có kính”…xem khổ 1  Những từ ngữ “Ừ thì”, “Chưa cần” vang lên như một thách thức, một chấp nhận nhưng rất chủ động của người lái xe. Điều ấy chứng tỏ họ không những đã ý thức được mà còn rất quen với gian khổ đó. Đây là những câu thơ mang đậm chất văn xuôi, nói rất đúng tinh thần và cuộc sống của người lính.  Không có kính xe che chắn, người lái xe với chiếc xe của mình như đi giữa đất bụi, đến mực độ “tóc trắng như người già”. Đó là hình ảnh mới và độc đáo khi nói về đất bụi, một hình ảnh so sánh hóm hĩnh, độc đáo.  Âm điệu thơ nhanh mạnh, ngang tàng làm toát lên vẻ bình thản nơi người lính…  Những hình ảnh “phì phèo châm điếu thuốc”, “nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” đã không khỏi làm cho ta thán phục. Cái cười sảng khoái, tiếu táo vô tư ấy sao mà đáng yêu, rạng rỡ đến thế! Chính trong những gian khổ, nguy hiểm của chiến tranh, ta nhận ra nơi họ nét trẻ trung, hồn nhiên, lạc quan, yêu đời, sôi nổi…  Vẫn giọng điệu và ngôn ngữ ấy, tác giả viết tiếp: “Không có kính, ừ thì ướt áo.

<span class='text_page_counter'>(206)</span> Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi” Lại thêm những cơn mưa đại ngàn “Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời”. Nhừng ác liệt, gian khổ trong công việc của người chiến sĩ lái xe ở chiến trường cứ hiện lên tường mảng, rõ ràng, chân thực, sinh động. Thái độ phớt tỉnh “Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi” cũng rất trẻ trung. Quả là tiếng thơ lời thơ của một thế hệ trẻ tuổi. Những từ ‘không có kính”, “ừ thì”, “chưa cần” được lặp đi lặp lại đã làm nổi rõ giọng điệu rắn rỏi, mạnh mẽ, thể hiện thái độ bất chấp gian khổ, tinh thần cương nghị nơi họ. Âm điệu cả khổ thơ nhìn chung nhanh mạnh. Riêng câu cuối thanh bằng xuất hiện liên tục khiến câu thơ cứ nhẹ thênh thênh. Hai khổ thơ giúp ta hiểu thêm những nỗi khó nhọc ở những năm tháng ấy: không chỉ về phương tiện vật chất mà còn là những khó khăn do thiên nhiên mà họ phải đối diện…  Chuyển: Khổ thơ tiếp theo còn đề cập đến một khía cạnh khác trong tâm hồn tình cảm của họ: “Những chiếc xe từ trong bom rơi Đã về đây họp thành tiểu đội Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”  Hình ảnh “những chiếc xe”, “rơi”,…xem lại khổ thơ đầu.

<span class='text_page_counter'>(207)</span>  Cụm từ “đã về đây” gợi nghĩ đến những chặng đường nguy hiểm vừa trải qua…  Câu thơ “Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới” cũng đầy ý tứ sâu xa: đó là những con người cùng chiến tuyến, cùng gặp nhau trên con đường giải phóng miền Nam, càng đi càng gặp nhiều bè bạn.  “Từ trong bom rơi”, có nghĩa là từ trong ác liệt, trong cái chết trở về. Vì thế cái “bắt tay” qua ô cửa kính vỡ thật đầy ý nghĩa. Đó là lời chúc nhau hoàn thành nhiệm vụ. Trong cái “bắt tay” ấy như có chứa cả niềm vui, niềm tin, niềm tự hào của người chiến thắng, nó vừa biểu hiện cho sự đoàn kết động viên, chúc mừng thắng lợi…  Chuyển: Cao hơn tình cảm bè bạn, đó là tình cảm gia đình: “Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy Võng mắc chông chênh đường xe chạy Lại đi, lạ đi trời xanh thêm”  “Bếp Hoàng Cầm” – một loại bếp dã chiến dùng trong hành quân, khi đun, khói sẽ tản ra để địch không phát hiện được. Đưa hình ảnh này vào trong thơ chắc có lẽ tác giả còn muốn đề cập đến sức mạnh của con người…  Đại từ “Ta” + ba từ “dựng giữa trời” gợi sự hiên ngang đỉnh đạc….

<span class='text_page_counter'>(208)</span>  Sinh hoạt của người lính lái xe, cái ăn cái ngủ của con người được tóm lược vào các hình ảnh thực làm sống lại cuộc đời người lính lái xe Trường Sơn cũng như của các chiến sĩ giải phóng quân thời đánh Mĩ. Cái gì cũng cơ động, tạm bợ, gian khổ nhưng cách nhìn, cách nghĩ của người chiến sĩ về chúng thật tươi tắn và cảm động: “ là gia đình đấy”.  Hình ảnh “võng mắc chông chênh” gợi ta liên tưởng đến những con đường không bằng phẳng, giấc ngụ dao động, hằn lên những nỗi vất vả vẫn còn trước mắt.  Cái “bắt tay” ở khổ trên và hành động “chung bát đũa” của những người chiến sĩ ở đây còn biểu hiện rõ tình cảm đồng đội, đồng chí keo sơn gắn bó. Chính điều ấy đã thôi thúc họ lên đường: “ Lại đi, lại đi trời xanh thêm”  Điệp ngữ “Lại đi, lại đi” đã biểu hiện đoàn xe khôn ngừng tiến tới, vừa khẳng định quyết tâm lên đường mạnh mẽ mà không có thế lực tàn bạo nào có thể ngăn cản nổi, vừa khiến cho ta hình dung cảnh tượng “Những binh đoàn nối tiếp nhau ra hỏa tuyến”. “Trời xanh thêm” là một hình ảnh đầy chất thơ và giàu ý nghĩa. “Trời xanh” là trời đẹp, bầu trời yên bình, không gian cao xa, viễn cảnh rộng lớn. Có thể nói hình ảnh ấy chính là biểu tượng của niềm tin chiến thắng càng lúc càng gần, mảnh đất tự do ngày càng được mở rộng. “Trời xanh thêm” bởi vì lòng người đã phơi phới thêm, say mê thêm trước những con đường đã đi và những chặng đường sẽ đến, âm điệu thơ….

<span class='text_page_counter'>(209)</span>  Chuyển ý: Ngoài những phẩm chất cao đẹp trên nhân tố nào đã tiếp thêm sức mạnh để từ đó họ có thể xem thường gian khổ, bất chấp mọi hiêm nguy như vậy? Khổ thơ cuối đã cho ta biết điều đó: “ Không có kính rồi xe không có đèn Không có mui xe, thùng xe có xước Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước: Chỉ cần trong xe có một trái tim”  Bút pháp liệt kê và điệp ngữ “không có” đã làm nổi bật cái dữ dội và khốc liệt của chiến tranh. Nhưng điều kì lạ là chiếc xe vận tải quân sự mang trên mình đầy thương tích ấy vẫn băng ra tiền tuyến: “Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước Chỉ cần trong xe có một trái tim”  Hình ảnh hoán dụ “trái tim” ở đây phải chăng dùng để tượng trương cho ý chí chiến đấu kiên cường để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước là tình yêu nồng nhiệt thời đánh Mĩ. Đó cò là trái tim yêu thuong miền Nam “mảnh đất đi trước về sau” gian khổ quật cường, trái tim yêu nước, yêu đời, trái tim dũng cảm.  Dấu hai chấm cuối dòng thơ và từ “chỉ cần” dường như khẳng địng đó là yếu tố quan trọng, cần thiết, không thể thiếu được, có yếu tố ấy là có tất cả.  Ở khổ thơ này có sự đối lập giữa những điều “không có” thiếu thốn về phương diện vật chất và một cái “có” đó là sức mạnh tinh thần. Kết cấu đối lập ấy đã làm sáng lên nét đẹp trong âm hồn,.

<span class='text_page_counter'>(210)</span> tình cảm của người chiến sĩ. Có thể nói, khổ thơ cuối đã dồn tụ tất cả sức mạnh, tình cảm yêu thương, phẩm chất cao đẹp nhất nơi họ. Bài thơ đã khép lại mà âm hưởng của nó như vẫn vang xa chính là nhờ những câu thơ ấy.  Âm điệu của khổ cuối nhanh mạnh như hình ảnh những chiếc xe lao vun vút trên tuyến lửa… C.. KẾT BÀI: Qua việc vận dụng một âm điệu thơ mạnh mẽ ngang tàng,. ngôn ngữ mang đậm chất văn xuôi kết hợp với những người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn ngày ấy. Với những với những người như chúng ta chưa từng có một ngày ở Trường Sơn, “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” vẫn giúp thế hệ trẻ có mộ cách nhìn, cách hiểu thật đẹp về mảnh đất ấy, về những con người đã từng: “ Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước Mà lòng phơi phới dậy tương lai” ( Tố Hữu). ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ A. MỞ BÀI:Bài thơ: − Được viết năm 1958 nhân chuyến đi thực tế ở Hồng Gai của nhà thơ..

<span class='text_page_counter'>(211)</span> − Khắc hoạ cảnh tượng đoàn thuyền đánh cá làm việc trong đêm tối. − Ngợi ca sự giàu đẹp của biển quê hương và của những người lao động mới. A.. THÂN BÀI:. 1.Khổ 1: “Mặt trời xuống biển như hòn lửa Sóng đã cài then đêm sập cửa Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi Câu hát căng buồm cùng gió khơi” − Cảnh hoàng hôn trên biển: diễm lệ, huy hoàng, hùng vĩ đầy sức sống. − Biện pháp so sánh “ Mặt trời xuống biển như hòn lửa” vẽ lên bức tranh thiên nhiên hùng vĩ vào lúc chiều tàn. − Liên tưởng nhân hoá: “cài”, “sập” => thiên nhiên như con người. − Từ “lại”: sự tiếp diễn liên tục của nhịp điệu lao động => qua đó nói lên sự yên bình, ổn định.  Khi vũ trụ đi vào trạng thái nghỉ ngơi thì lại là lúc con người bắt đầu một ngày lao động mới. − “Câu hát” vút cao thể hiện niềm phấn khởi, lạc quan, đồng thời biểu hiện sự khoẻ khoắn của những người lao động: câu hát có thể làm “căng buồm” Chi tiết lãng mạn độc đáo :tình yêu lao động, sự hăng hái hứng khởi của người lao động..

<span class='text_page_counter'>(212)</span> − Hai câu đầu sử dụng nhiều thanh trắc: sự mạnh mẽ, vội vàng. Hai câu sau sử dụng nhiều thanh bằng: yên bình, thư thả của con người trước một ngày lao động mới. 2.Khổ 2: “Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng Cá thu biển Đông như đoàn thoi Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi !” − Thể hiện tâm tư của người lao động qua lời ca của họ: − Yêu vẻ đẹp của biển: so sánh hình ảnh đoàn cá thu lướt nhanh trên biển như những con thoi chạy ngang dọc trên tấm vải là biển => sự liên tưởng thú vị, sáng tạo. − Thán phục sự giàu có của biển: “cá bạc biển Đông lặng”, “cá thu”, “dệt biển”, “muôn luồng sáng”Hình ảnh ẩn dụ đã tạo sự độc đáo của hình ảnh thơ, dấu hai chấm tỏ ý liệt kê về sự giàu có của biển. − Mong muốn đánh được nhiều cá: “Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!” -> câu hát như một lời tâm tình thiết tha.  Nhịp thơ sôi nổi, hào hứng, ngân dài, vang xa tâm trạng sảng khoái say sưa của những con người làm việc với tất cả tình yêu lao động, yêu biển, yêu nghề yếu tố tạo nên cái phơi phới của đoàn thuyền. 3.Khổ 3: Đoàn thuyền lướt đi giữa trùng khơi: “Thuyền ta lái gió với buồm trăng Lướt giữa mây cao với biển bằng.

<span class='text_page_counter'>(213)</span> Ra đậu dặm xa dò bụng biển Dàn đan thế trận lưới vây giăng” − Bút pháp lãng mạn, sự tưởng tượng phong phú: trăng làm “cánh buồm”, gió làm “bánh lái” →Sự hoà hợp giữa thiên nhiên và con người. − Chữ “lướt” đặc tả cảnh đoàn thuyền ra khơi với tốc độ nhanh.  Hình ảnh đoàn thuyền hiện lên lớn lao ngang tầm với vũ trụ. − Hình ảnh “dò bụng biển” và “Dàn đan thế trận” nói lên sự vất vả, nguy hiểm của ngư dân đồng thời thể hiện tinh thần lao động hăng say nghiêm túc. − Nhịp thơ hối hả, lôi cuốn gợi nên cảnh lao động vất vả. 4.Khổ 4: Biển quê hương giàu đẹp: “Cá nhụ, cá chim cùng cá đé Cá song lấp lánh đuốc đen hồng Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long” − Biện pháp liệt kê đã diễn tả sự phong phú, giàu có của biển: cá nhụ, cá chim,… − Nghệ thuật phối sắc tài tình: “đuốc đen hồng”, “trăng vàng chóe” tứ thơ đẹp như bức tranh. − Đại từ “em” thể hiện sự trân trọng, yêu mến sản vật quê hương..

<span class='text_page_counter'>(214)</span> − Hình ảnh “đêm thở” và “sao lùa nước” gợi nên cảnh đẹp lung linh của biển. Đây còn là sự liên tưởng độc đáo: ánh sao in xuống nước, sóng đẩy vào mạn thuyền tạo nên cảnh “sao lùa nước” và tưởng như đêm đang “thở” biển và đêm như con người.  Tình yêu biển sâu sắc. 5. Khổ 5: Cảnh bắt cá trên biển: Ta hát bài ca gọi cá vào Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao Biển cho ta cá như lòng mẹ Nuôi lớn đời ta tự buổi nào − Tiếng hát lại vang lên làm cho công việc bớt phần mệt nhọc. − Bút pháp lãng mạn “Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao”: Ánh trăng in xuống nước, sóng nhịp nhàng xô bóng trăng dưới nước gõ vào mạng thuyền tạo thành hình ảnh muôn ngàn ánh vàng tan theo làn nước vỗ vào mạn thuyền, tác giả liên tưởng trăng gõ thuyền gọi cá vào sự liên tưởng thú vị, độc đáo và lãng mạn. Ánh trăng hiền hòa dịu mát cứ trở đi trở lại như bầu bạn, chia sẻ với con người trong lao động mệt nhọc. − Tác giả so sánh lòng biển “như lòng mẹ” và nhân hoá biển “nuôi lớn đời ta” đã thể hiện tình cảm yêu mến, tri ân của ngư dân đối với biển. Với họ, biển như người mẹ bao dung và hào phóng..

<span class='text_page_counter'>(215)</span> − Âm điệu thơ trầm lắng, ngọt ngào, ấm áp, thiết tha như làn điệu dân ca. 6. Khổ 6: Sau một đêm lao động vất vả, những ngư dân đang thực hiện những thao tác cuối cùng để trở về: Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng Vẩy bạc đuôi vàng loé rạng đông Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng − Đêm đã tàn “sao mờ” thôi thúc người lao động làm việc khẩn trương cho “kịp trời sáng”. − Hình ảnh “kéo xoăn tay chùm cá nặng” đã miêu tả công việc lao động vất vả, cật lực nhưng tràn niềm vui vì được mùa. − Đại từ “Ta” vang lên đầy kiêu hãnh. Nó khẳng định sự tự chủ của những con người sống trong tự do, khi đất nước sạch bóng quân thù. Đó còn là tiếng nói thân thương của cả một tập thể thống nhất bởi ở đây không đơn thuần chỉ là cái tôi mà ở đây là cả tập thể lớn mạnh đã hoà mình vào cái “ta” thống nhất. − Hình ảnh “vẩy bạc đuôi vàng” góp phần tô điểm cho cảnh sắc thiên nhiên và bộc lộ niềm hân hoan của dân chài trước những thành quả thu được. − “Nắng hồng”: vẻ đẹp của bầu trời hay màu hồng của một ngàymới, cuộc đời mới. −. Nhịp thơ nhanh gọn khắc họa rõ nét thao tác nhịp. nhàng, thành thạo của những ngư dân. 7. Khổ cuối: Đoàn thuyền trở về trong niềm hân hoan:.

<span class='text_page_counter'>(216)</span> Câu hát căng buồm cùng gió khơi Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời Mặt trời đội biển nhô màu mới Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi − Câu hát: xuyên suốt bài thơ (xem hình ảnh “câu hát” ở khổ thơ 1) − Đoàn thuyền trở về với hình ảnh “Mặt trời đội biển muôn màu mới” thật hùng vĩ. − Thủ pháp nhân hóa “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời” chạy đua với thời gian, sự khẩn trương của con người : gợi nên cảnh trở về phơi phới niềm vui. − “Màu mới”: + Màu của thời gian. + Màu của cuộc sống mới trên đất Bắc khi không còn bóng quân thù.  Khổ thơ vẽ ra cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân vùng biển. Khổ thơ như một điệp khúc của bài ca lao động vang lên từ nhịp sống khẩn trương của những con người làm chủ đất nước. C.KẾT BÀI: Bài thơ: − Như một bài hát yêu đời − Ngợi ca lao động. − Ngợi ca sự giàu có của biển quê hương. − Thể hiện tình yêu biển sâu sắc của ngư dân, đồng thời cũng nói lên tình yêu biển của tác giả..

<span class='text_page_counter'>(217)</span> BÀI LÀM THAM KHẢO A. MỞ BÀI: Nhắc đến Huy Cận, người ta liên tưởng ngay đến nhà thơ của vũ trụ, của thiên nhiên. Nhưng thơ ông trước Cách Mạng Tháng Tám lại thấm đẫm nỗi buồn. Sau những ngày hòa bình được lập lại trên miền Bắc –thơ ông đã chuyển mình. Cũng cảm hứng lãng mạn nhưng thơ không xa rời thực tế mà gắn liền với cuộc sống của con người. ái nhìn của thi sĩ về thiên nhiên bỗng trở nên ấm áp và tràn đầy niềm tin yêu vào con người. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” được viết năm 1958 nhân chuyến đi thực tế ở Hòn Gai là một bằng chứng. Bài thơ đã khắc họa ảnh đoàn thuyền đánh cá làm việc cật lực trong đêm tối để từ đó tác giả kín đáo bộc lộ thái độ ngợi ca sự giàu đẹp của biển quê hương và vẻ đẹp của những người lao động mới. Có thể nói sự độc đáo trong bút pháp nghệ thuật và tư tưởng tình cảm của tác giả đã được thể hiện khá nét trong trong đoạn trích sau: “Trích dẫn đề” B. THÂN BÀI: Mở đầu bài thơ là cảnh tượng hoàng hôn trên biển vừa diễm lệ huy hoàng, vừa hùng vĩ đầy sức sống: “Mặt trời xuống biển như hòn lửa.

<span class='text_page_counter'>(218)</span> Sóng đã cài then đêm sập cửa” Nghệ thuật liên tưởng và nhân hóa mà tác giả sử dụng ở đây thật độ đáo, đầy kì thú mới lạ. Nó không chỉ cuốn hút mà còn diễn tả cụ thể cảnh vũ trụ bắt đầu đi vào trạng thái ngơi nghỉ. Thanh trắc trong hai câu thơ đầu chiếm ưu thế cùng với động từ mạnh “cài”, “sập” dễ khiến cho chúng ta nghĩ đến cảnh cập rập chuẩn bị đi nghỉ của thiên nhiên… Cái quang cảnh kết thúc một chu kì thiên nhiên ấy là sự mở đầu cho một ngày lao động mới của con người: “Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi Câu hát căng buồm cùng gió khơi” Đây là sự ra đi đầy khí thế của một tập thể “đoàn thuyền”, không phải là một chiếc thuyền con hoặc vài ba chiếc thuyền lưa thưa rời rạc. Từ “lại” cho ta thấy đây là sự tiếp diễn nhịp điệu lao động của họ, cảnh ra khơi khi hoàng hôn xuống như thế này đã diễn ra thường xuyên trong nhiều đêm, đó là sự khẳng định nhịp điệu lao động của dân chài đã ổn định, đã đi vào nề nếp trong hòa bình. Hình ảnh những cách buồm căng lên vì no gió là chi tiết thực nhưng chi tiết “câu hát căng buồm” thì rõ ràng là hư ảo. Tuy vậy, chính chi tiết lãng mạn độc đáo ấy lại biểu hiện được khí thế mạnh mẽ của những con người trong lao động tập thể. Tiếng hát của họ vang xa, vút cao trên sóng nước mênh mông. Tiếng hát chính là sự thể hiện niềm vui, phấn khởi, niềm lạc quan tươi trẻ của những người ngư dân trên biển..

<span class='text_page_counter'>(219)</span> Nếu như hai câu thơ đầu thanh trắc được sử dụng ưu thế thì ở hai câu sau, thanh bằng được mở ra như ngân nga, kéo dài…Sự đối lập về hình ảnh và nhạc điệu giúp người đọc phần nào hiểu được nỗi vất vả cực nhọc của công việc lưới chài về đêm..  Vẫn nhịp điệu sôi nổi, hào hứng, khổ thơ tiếp theo là nội dung lời bài hát thể hiện tâm tư người lao động cầu mong đi biển gặp nhiều may mắn và là lời ca ngợi sự giàu có của biển cả: “Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng Cá thu biển Đông như đoàn thoi Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!” Biển ta giàu có, đẹp đẽ, thân thiết vối con người vì có nhiều cá. Tác giả đã ví đoàn cá thu lướt nhanh trên biển “như đoàn thoi”, từ đó tác giả liên tưởng đến tấm vải dệt là biển. Một hình ảnh đẹp và khoáng đạt biết bao! Từng đoàn cá như những con thoi chạy ngang dọc trên tấm vải là biển, tạo nên những luồng sáng lấp lánh giữa biển đêm. Yêu vẻ đẹp của biển, thán phục sự giàu có của biển, những người dân mong muốn đánh bắt được nhiều cá để phục vụ cho đất nước: “Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!”. Câu nói như một lời kêu gọi “đoàn cá” vào lưới nhưng cũng đồng thời là lời của những người ngư dân thúc giục nhau hãy nhanh tay lao động…Những hình ảnh “cá bạc”, “luồng sáng”, dệt lưới” là những hình ảnh ẩn dụ rất sáng tạo đem đến cho người đọc bao liên tục thú vị về vẻ đẹp của thơ ca..

<span class='text_page_counter'>(220)</span> Nhịp thơ đọc lên nghe sôi nổi, hào hứng, ngân dài, vang xa như chính tâm trạng sảng khoái, say sưa của những người làm việc với tất cả trí tuệ và tình yêu lao động, yêu biển, yêu nghề…Dường như đó chính là yếu tố tạo nên cái phơi phới của đoàn thuyền đang lướt đi giữa trùng khơi…  Cảnh đoàn thuyền lướt đi giữa trùng khơi: “Thuyền ta lái gió với buồm trăng Lướt giữa mây cao với biển bằng Ra đậu dặm xa dò dụng biển Dàn đan thế trận lưới vây giăng” Trong cảnh đêm tối đang lan dần, chúng ta thấy đoàn thuyền vẫn lướt đi nhẹ nhàng với “ánh trăng” làm cánh buồm, “gió làm bánh lái”. Bút pháp lãng mạn với những yếu tố tưởng tượng bất ngờ tạo cho ta một ấn tượng sâu sắc về sự hòa hợp giữa thiên nhiên và con người. Nếu ở khổ đầu ta bắt gặp ánh sáng của một buổi hàng hôn thì giờ đây khi màn đêm buông xuống, ánh sáng được tỏa chiếu từ ánh trăng. Hình ảnh đoàn thuyền hiện lên thật lớn lao ngang tầm với vũ trụ và chan hòa với trời nước bao la tuyệt đẹp. Công việc đánh bắt cá trở nên thơ mộng…Chúng ta như được cùng tác giả hòa nhập vào cái tâm trạng lâng lâng sảng khoái của những con người đang trong tư thế làm chủ vùng biển của đất nước. Chữ “lướt” đặc tả đoàn thuyền ra khơi với vận tốc nhanh, thiên nhiên cùng góp sức với con người trên con đường lao động và khám phá. Nhịp thơ đọc lên nghe hối hả, lôi cuốn..

<span class='text_page_counter'>(221)</span> Nhưng rõ ràng đây không phải là cuộc du ngoạn bằng thuyền trên sông nước mà đây là cuộc chiến đấu thật sự để giành lấy từ thiên nhiên những tài nguyên bằng tất cả sức lực, trí tuệ của con người: “Ra đậu dặm xa dò bụng biển Dàn đan thế trận lưới vây giăng” Những hình ảnh “dò bụng biển”, “dàn đan thế trận” như chứa đựng tất cả sự vất vả, hiểm nguy của những con người gắn bó suốt cuộc đời mình với ngư trường, với biển cả.  Sự giàu đẹp của biển quê hương: “ Cá nhụ, cá chim, cùng cá đé Cá song lấp lánh đuốc đen hồng Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe Đêm thở: Sao lùa nước Hạ Long” Một loạt những hình ảnh liệt kê: “Cá nhụ, cá chim, cá song, cá đé” đã diễn tả sự phong phú giàu có của biển cả! Đó là cảnh đêm trăng trên biển lung linh lấp lánh ánh vàng do sự khuấy động của đàn cá. Cái đuôi cá quẫy được so sánh với ngọn đuốc rực cháy. Nghệ thuật phối sắc tài tình làm cho vần thơ đẹp như một bức tranh sơn mài rực rỡ. Đại từ “em” thể hiện sự trân trọng, yêu mến sản vật quê hương, là sự gắn bó giữa con người và biển cả. Cảnh đẹp ban đêm còn được diễn tả bằng hình ảnh “sao lùa nước Hạ Long”. Sự tưởng tượng của tác giả thật phong phú và khá bất ngờ vì ánh sao in xuống nước, sóng đẩy vào mạn thuyền tạo nên cảnh “sao lùa nước”…khiến chúng ta có cảm giác như “đêm” đang.

<span class='text_page_counter'>(222)</span> “thở”. Trong cái hơi thở ấy có âm thanh của sóng, gió mà còn có cả hơi thở từ lồng ngực căng khỏe của những người ngư dân. Hạ Long là một thắng cảnh bậc nhất của nước ta. Hạ Long mang một vẻ đẹp thần tiên. Huy Cận với bút pháp lãng mạn đã tả cảnh đánh cá trên biển Hạ Long vào một đêm trăng bằng bao hình ảnh tuyệt vời. Phải có một tình yêu biển sâu nặng mới có thể viết nên những vần thơ tuyệt bút như vậy. Cảnh đánh bắt cá trên biển: “Ta hát bài ca gọi cá vào Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao Biển cho ta cá như lòng mẹ Nuôi lớn đời ta tự buổi nào” Tiếng hát vang lên đưa thuyền ra khơi, tiếng hát lại vang lên trong lúc lao động làm cho công việc bớt phần mệt nhọc. Ánh trăng in xuống nước, sóng nhịp nhàng xô bóng trăng dưới nước gõ vào mạn thuyền tạo thành hình ảnh muôn ngàn ánh vàng tan theo làn sóng mà thi sĩ ngỡ là nhịp trăng cao đang gõ cá. Bút pháp lãng mạn được sử dụng ở đây đã góp phần làm đẹp thêm công việc đánh cá trên biển. Ánh trăng hiền hòa dịu mát cứ trở đi trở lại trong bài thơ như đứng về phía con người trong lao động, làm bạn với con người. “Biển cho ta cá như lòng mẹ Nuôi lớn đời ta tự buổi nào” Với nghệ thuật so sánh lòng biển “như lòng mẹ” cùng với bút pháp nhân hóa: biển “nuôi lớn đời ta”, tác giả đã thành công trong việc bộc lộ cách cảm, cách nghĩ của người dân chài. Theo họ,.

<span class='text_page_counter'>(223)</span> biển là bà mẹ bao dung và hào phóng, đang mở cả lòng ra để cho họ thật nhiều cá. Và cũng từ hai câu thơ này, ta phần nào hiểu thêm sự gắn bó thiêng liêng giữa biển và cuộc đời họ. Âm điệu thơ ở đây không sôi nổi, dứt khoát mạnh mẽ mà trầm lắng, ấm áp, ngọt ngào, da diết như làn điệu dân ca.  Sau một đêm lao động vất vả, những ngư dân đang thực hiện các thao tác cuối cùng trước khi trở về đất liền: “Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng…” Đêm đã tàn “sao mờ”, không gian và thời gian như thôi thúc người lao động làm việc nhanh gấp cho “kịp trời sáng”. Đại từ “ta” vang lên đầy tự hào kiêu hãnh, nó không còn là cái tôi nhỏ bé đơn côi như những ngày xưa nữa mà là cái “ta” tập thể đầy sức mạnh. Hình ảnh “kéo xoăn tay” đã miêu tả động tác lao động vất vả, thái độ làm việc cật lực của những người ngư dân. Hình ảnh “chùm cá nặng” mang tính ẩn dụ thật độc đáo, trong hình ảnh đó chứa đựng biết bao niềm vui tươi, sảng khoái trước những thành quả mà họ đã tốn bao công sức mới thu hoạch được: “Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”. Những “vẩy bạc đuôi vàng” của cá tô điểm cho cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp, góp ánh sáng cho buổi rạng đông đồng thời cũng biểu hiện tâm hồn rạng rỡ hân hoan của những con người… Rạng.

<span class='text_page_counter'>(224)</span> đông đến không phải từ mặt trời mà từ thành quả lao động của con người. Một lần nữa khổ thơ cho thấy nghệ thuật sử dụng màu sắc của nhà thơ rất điêu luyện. Sắc cá dưới ánh trăng và sắc cá dưới ánh rạng đông đều được miêu tả thật tuyệt đẹp. Vẫn nhịp thơ nhanh gọn, tác giả đã khắc họa rõ những thao tác nhịp nhàng, thành thạo cuối cùng của một đêm lao động. Màu “nắng hồng” chính là vẻ đẹp của bầu trời hay đó là màu hồng của một ngày mới, một cuộc đời mới…  Đoàn thuyền trở về trong buổi bình minh đẹp trời, con người lại trở về trong tiếng hát, trong khung cảnh buồm căng gió lộng: “Câu hát căng buồm với gió khơi Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời Mặt trời đội biển nhô màu mới Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi” Tiếng hát hòa trong gió thổi đưa đoàn thuyền ra khơi đêm trước nay lại cùng đoàn thuyền đầy ắp cá hân hoan về bến. Vẫn chi tiết lãng mạn, hình ảnh sáng tạo, nhịp thơ khỏe đầy khí thế hào hùng, sảng khoái, tác giả miêu tả “đoàn thuyền” cũng chính là con người đang khẩn trương “chạy đua cùng mặt trời”, tranh chấp với thời gian để tạo ra thành quả lao động xây dựng cuộc sống mới. Nếu ra đi trong cảnh “Mặt trời xuống biển như hòn lửa” hùng tráng thì giờ đây họ trở về trong cảnh “Mặt trời đội biển nhô màu mới” cũng thật hùng vĩ. Hình ảnh “đội biển” cũng là một nét sáng tạo độc đáo….

<span class='text_page_counter'>(225)</span> Hình ảnh “màu mới” của không gian cũng gợi cho ta nhiều liên tưởng. Cái “mới” đâu chỉ của thời gian mà còn là cái mới trong cuộc đời lao động, lao động cho chính bản thân mình, cho tập thể, vì thế trong câu thơ niềm vui cứ dâng đầy. Phải chăng đây còn là màu mới của cuộc đời hồng tươi sắc thắm trên miền Bắc không còn bóng quân xâm lược. Thuyền về bến cảng trong buổi ban mai, ánh mặt trời phản chiếu trong muôn ngàn mắt cá khiến nhà thơ liên tưởng tới hàng ngàn mặt trời nhỏ xíu đang tỏa sáng niềm vui… Câu thơ không chỉ là bức tranh thu hoạch được mùa cá mà còn vẽ lên cả cảnh tượng cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân vùng biển. Bằng lao động và mồ hôi, họ đã viết lên bài ca cuộc đời. Khổ thơ cuối như một điệp khúc của bài ca lao động vang lên từ nhịp sống khẩn trương của những con người làm chủ đất nước. Đánh cá trong đêm, đối diện với thiên nhiên rộng lớn nhưng người lao động không bị rợn ngợp, không sợ hãi, đó chính là nhờ rất nhiều ánh sáng. Đó là ánh sáng của thiên nhiên nhưng cũng là ánh sáng của lòng người, ánh sáng tỏa phát từ cuộc đời lao động vất vả nhưng tràn ngập niềm vui của con người lao động mới, đang làm chủ cuộc đời. Đó cũng là ánh sáng của thời đại mới. (Liên hệ: Nếu như trước Cách Mạng, thơ Huy Cận thấm đẫm nỗi buồn vào vũ trụ và lòng người qua ánh sáng leo lét, sầu buồn của “Lửa thiêng” thì những bài thơ được viết sau những ngày mùa thu lịch sử lại mang âm điệu ngọt ngào, niềm vui say mê và phấn chấn của nhân dân lao động đang làm chủ cuộc đời với nhiều.

<span class='text_page_counter'>(226)</span> ánh sáng rực rỡ, ấm áp tình đời, tình người, ánh sáng của chế độ mới. Bởi thế có thể nói cảm quan vũ trụ đã có trong thơ Huy Cận trước Cách mạng, đến “Đoàn thuyền đánh cá” được tiếp nối và phát triển với những bước tiến mới.) C.KẾT BÀI: Bài thơ không chỉ miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên, con người lao động mà còn là một bài ca cuộc đời mới, tinh thần lao động mới giàu ý nghĩa. Điều này, trước Cách Mạng tháng 8, hồn thơ Huy Cận chưa có được. Chính ánh sáng chói chang của Cách mạng đã tái tạo hồn thơ ông, soi đường cho ông đến những thành công vững chắc trên thi đàn. Bài thơ còn khơi gợi ở chúng ta tình yêu lao động, yêu cuộc sống. MỞ BÀI 2: “Yêu biết mấy những con người đi tới Hai cánh tay như hai cánh bay lên Ngực dám đón những phong ba dữ dội Chân lội bùn không sợ những loài sên” (“Bài ca mùa xuân 1961” – Tố Hữu) Đẹp thay, tự hào thay hình ảnh những con người mới đang làm chủ cuộc đời mình. Có thể khung cảnh lao động và hình ảnh con người mới là nguồn cảm hứng dạt dào trong những trang văn học được viết ở giai đoạn hòa bình trên miền Bắc. Bên cạnh “Bài ca mùa xuân 1961”, “Tiếng chổi tre” (Tố Hữu), “Ngói mới” (Xuân Diệu), “Anh chủ nhiệm” (Hoàng Trung Thông), “Tiếng hát con tàu” (Chế Lan Viên)… làm sao ta lại không nhớ đến một bài thơ.

<span class='text_page_counter'>(227)</span> “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận được viết năm 1958 nhân chuyến đi thực tế ở Hồng Gai.. PHÂN TÍCH BÀI THƠ “BẾP LỬA” CỦA BẰNG VIỆT. A.. MỞ BÀI: Trong cuộc đời mỗi người, chúng ta có thể quên đi nhiều. điều nhưng kí ức tuổi thơ thì khó có thể nào phai nhạt. Đối với nhà thơ Bằng Việt, kỉ niệm tuổi thơ gắn liền với hình ảnh người bà thân thương và bếp lửa nồng đượm. Tất cả kỉ niệm thời thơ ấu ấy đã được tác giả làm sống dậy trong bài thơ “Bếp lửa” – được viết năm 1963 khi ông sống và học tập xa đất nước. Bài thơ đã khắc họa chân thực hình ảnh người bà gắn liền ới những kỉ niệm trong quá khứ để từ dó tác giả bộc lộ thật xúc động tâm trạng nhớ nhung cùng với những tình cảm yêu thương xen lẫn cảm phục của mình đối với người bà kính yêu.. B.. THÂN BÀI: Đi ra từ nỗi nhớ, tất cả những ngôn từ, hình ảnh bị cuốn. theo dòng hoài niệm. Một thời quá khứ được tái hiện lại trong tâm tưởng với những chi tiết rất mực cụ thể. Tác giả nâng niu từng mảnh kí ức hiện về. Theo diễn biến tâm tư cuả nhân vật người cháu, chúng ta thấm thía từng cung bậc tâm trạng theo từng ngọn lửa trong bài thơ: lửa của kỉ niệm tuổi thơ, lửa của cuộc sống lúc đã trưởng thành, bếp lửa của bà ngày xưa, lửa của trăm nhà ngày nay..

<span class='text_page_counter'>(228)</span> Sống xa quê hương, giữa xứ lạnh đầy sương tuyết, tác giả chạnh nhớ đến một bếp lửa ấm áp của quê hương: bếp lửa gắn chặt với hình ảnh của người bà, bếp lửa của một thời thơ ấu với nhiều kỉ niệm khó phai:” “ Một bếp lửa chờn vờn sương sớm Một bếp lửa ấp iu nồng đượm Cháu thương bà biết mấy nắng mưa” Trong mấy câu thơ đầu có một bếp lửa chập chờn mang màu cổ tích. Hình ảnh “chờn vờn sương sớm” thật sống động, gợi lên ngọn lửa không định hình, khi to khi nhỏ, khi lên, khi xuống nhưng vẫn mạnh mẽ. Sử dụng hình ảnh ấy rất thích hợp với trạng thái tâm lí hồi tưởng những gì đã qua, đã rời xa nhưng vẫn còn sức ám ảnh day dứt. Từ láy “ấp iu” bao hàm ý bé nhỏ thầm kín bên trong đồng thời còn gợi cho ta nghĩ đến bàn tay kiên nhẫn, khéo léo và chăm chút của người nhóm lửa. Điệp ngữ “một bếp lửa” được lặp lại ở ngay đầu bài thơ, đầu những câu thơ có tác dụng nhấn mạnh kỉ niệm sâu lắng trong kí ức của tác giả. Nó trở thành hình tượng xuyên suốt bài thơ. Hồi tưởng về bếp lửa của quê hương cũng chính là hồi tưởng về người bà thân yêu của mình: “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. Đọng lại trong ba dòng thơ đầu có lẽ là chữ “thương” và hình ảnh người bà lặng lẽ, âm thầm trong khung cảnh lầm lụi “biết mấy nắng mưa”. Những chữ “nắng mưa” không chỉ để nói đến những nắng mưa của thiên nhiên mà còn gợi cho ta nghĩ đến nắng mưa của cuộc đời. Biết bao tình cảm nghẹn ngào xúc động trong câu thơ ấy! Tác giả tâm tình với độc giả nhưng.

<span class='text_page_counter'>(229)</span> chủ yếu là với chính mình. Giọng thơ ngay từ đầu là giọng thơ tha thiết thể hiện một sự xúc động cao độ của tác giả. Từ tình thương và nỗi nhớ da diết tràn đầy đã đánh thức tác giả sống lại với những năm tháng ấu thơ: “Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu Nghĩ lại đến giờ sóng mũi còn cay!” Dễ thường vui người ta cũng nhớ những kỉ niệm buồn, khổ thường sâu đậm hơn nhiều. Tuổi thơ ấy có bóng đen ghê rợn của nạn đói năm 1945. Đó là những năm “đói mòn đói mỏi”, “Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy”, đứa trẻ đã sớm tự lập và phải sống trong sự cưa mang của bà trong quãng đởi thơ ấu của mình. “Mùi khói”, rồi lại “khói hun nhèm”..., có thể nói nhà thơ đã chọn một chi tiết rất sát hợp, vừa miêu tả chân thực cuộc sống tuổi thơ, vừ biểu hiện thắm thía những tình cảm khi tỏ khi mờ, lúc da diết bâng khuâng, lúc xót xa thương mến. Hình ảnh khói hun nhèm mắt cũng gợi cho ta sự cay cực, vất vả tỏa ra từ bếp lửa nhà nghèo. Câu thơ “Nghĩ lại đến giờ sóng mũi còn cay” tô đậm nỗi niềm thổn thức của tác giả, nhấn lại dòng kỉ niệm, xoáy sâu trong tiềm thức. Nói như nhà văn Nguyễn Đức Quyền: “Câu thơ khiến ta như cay cay nơi sóng mũi”. Thơ Bằng Việt có sức truyền cảm mạnh mẽ nhờ những chi tiết, ngôn từ chân thực và giản dị như thế. Cái “bếp lửa” kỉ niệm của thi sĩ chỉ mới khơi lên, thoang thoảng mùi khói, mờ mờ.

<span class='text_page_counter'>(230)</span> sắc khói,...mà đã đầy ắp những hình ảnh hiện thực, thấm đẫm biết bao nghĩa tình sâu nặng. Từ trong sương khói mịt mờ của tuổi nhi đồng, tác giả đã thổi hồng lên những kỉ niệm tuổi thiếu niên khi quê hương đất nước có chiến tranh: “Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa Tu hú kêu trên những cánh đồng xa Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà? Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế! Mẹ cùng cha công tác bận không về Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc, Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?” Ngôn ngữ, hình ảnh thơ rõ dần. Giọng thơ tủ thỉ như giọng kể một câu chuyện cổ tích, có thời gian, không gian, có sự việc và các nhân vật cụ thể. Nếu trong hồi ức lúc tác giả lên bốn tuổi, ấn tượng đậm nét nhất của đứa cháu là “mùi khói”, thì đến đây, ấn tượng ấy là “tiếng tu hú” kêu. Lúc mơ hồ văng vẳng trên những “cánh đồng xa”, lúc gần gũi nghe “sao mà tha thiết thế”, tiếng tu hú như than thở, sẻ chia. Tu hú là loài chim thường sống lẻ loi, nay đây mai đó, cất tiếng kêu khắc khoải. Tiếng kêu khắc khoải của loài chim này trong truyề thống văn học của ta thường gợi nhắc đến.

<span class='text_page_counter'>(231)</span> những nhớ nhung, xa cách, trông ngóng mòn mỏi...Đó là những âm thanh mang sắc điệu buồn. Đưa tiếng tu hú – một âm thanh rất đồng nội ấy vào thơ – thi sĩ Bằng Việt quả có một tâm hồn tho gắn bó sâu nặng với quê hương. Trong những câu thơ ấy, ta thấy từ “bà” được lặp đi lặp lại với cấu trúc “bà – cháu” sóng đôi đã gợi sắc điệu tình cảm xoắn xuýt, gắn bó, ấm áp thương cảm của tình bà cháu. Tác giả như trách móc loài chim tu hú vô tình chỉ gợi sự cô đơn, vắng vẻ mà không đến san sẻ với bà. Thời gian cứ trôi, bà vẫn cứ xa con đằng đẵng. Tiếng chim tu hú lại một lần nữa vang lên khép lại đoạn thơ như xoáy vào tâm trí kẻ xa quê. Sự có mặt của tiếng chim tu hú trong khổ thơ làm cho không gian kì niệm có chiều sâu. Nỗi nhớ của cháu về bà bỗng trở nên thăm thẳm, với vợi. Ẩn chứa đằng sau những câu chữ ấy là tình cảm thương yêu, xót xa của thi sĩ trườc nỗi cô đơn và sự vất vả của bà. Âm điệu trong suốt hai khổ thơ thật da diết, trầm buồn phù hợp với tâm trạng của thi sĩ. Khổ thơ tiếp theo với hình ảnh bà cháu và bếp lửa trong những năm giặc giã: “Năm giặc đốt làng, cháy tàn cháy rụi Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh: “Bố ở chiến khu, bố còn việc bố, Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ, Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”.

<span class='text_page_counter'>(232)</span> Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng...” Đứa cháu lớn dần. Cuộc sống khó khăn hơn. Song nghị lực của bà vẫn bền vững, tấm lòng của bà vẫb mênh mông. Lời người bà dặn cháu thật nôm na, nhưng chân thực và cảm động: “Bố ở chiến khu, bố còn việc bố - Mày có viết thư chớ kể này kể nọ”. Gian khổ, thiếu thốn, nhớ thương phải giấu đi cho người đi xa được yên lòng. Tấm lòng của người bà thương con, thương cháu ân cần chu đáo xiết bao. Nếu từ đây hắt lên là hình ảnh “bếp lửa” thì những câu thơ cuối của khổ thơ này, đã chuyển đổi cách gọi thành “ngọn lửa”. Và như vậy, từ “bếp lửa’ trong sự tả thực cụ thể, đến đây đã trở thành “ngọn lửa” ý nghĩa trong tượng trưng khái quát. Bếp lửa với những ấm áp, tâm tình bình lặng của tình cảm gia đình, của tình bà cháu đã trở thành “ngọn lửa” của trái tim, của niềm tin vào sức sống con người. Tình thương và lòng nhân ái bao la của con người mãi ấm nóng, bền bỉ tỏa sáng trường tồn. Từ cảm xúc nhớ thương của đứa cháu nhỏ đối với bà, tác giả chuyển sang bộc lộ những cảm xúc, suy nghĩ của một người thanh niên đã trưởng thành đối với bà trong hiện tại: “Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi.

<span class='text_page_counter'>(233)</span> Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!” Chiến tranh đã đi qua, những gian khổ nhọc nhằn đã vơi bớt, cuộc sống đã đổi thay nhưng “Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm” bếp lửa của bà vẫn “ấp iu nồng đượm” như ngày nào. Điệp từ “Nhóm” được nhắc lại bốn lần mang bốn nghĩa khác nhau, bồi đắp cao dần, tỏa sáng dần dần nét “kì lạ” của bếp lửa và vẻ đẹp “thiêng liêng” từ vóc dáng đến việc làm, nhất là tình nghĩa của bà. Nếu trước đây, đó là ngọn lửa nồng đượm nhóm lên niềm tin trong những ngày gian khổ khó khăn vì giặc giã đói kém thì bây giờ, “ngọn lửa” ấy còn nhóm lên trong tâm hồn tác giả bao nhiêu vẻ đẹp khác nữa. “Nhóm bếp lửa” ấy là cái bếp lửa có thật, ngọn lửa, ánh sáng và hơi ấm là có thật. “Nhóm niềm yêu thương” có nghĩa là bà truyền cho người cháu tình ruột thịt nồng đượm. “Nhóm niềm xôi gạo mới sẻ chung vui” hay cũng chính là bà mở rộng tấm lòng đoàn kết, gắn bó với xóm làng, quê hương. Và cuối cùng người bà kì diệu ấy “nhóm dậy”, khơi dậy, giáo dục, thừc tỉnh và bồi đắp cho tác giả về tâm hồn, nhân cách sống. Âm điệu trong đoạn thơ này dào dạt như sóng dồi, lan tỏa như lửa ấm hay đâychính là cảm xúc đang dâng trào, đang tỏa ấm trong trái tim nhà thơ. Mỗi câu, mỗi chữ cứ hồng lên, nồng ấm biết bao tình cảm nhớ thương, ơn nghĩa. Đó là đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, “Ra sông nhớ suối, có ngày nhớ đêm” cội nguồn của dân tộc Việt Nam chúng ta trong quan hệ gia đình, con đối với cha mẹ, cháu đối với ông bà..

<span class='text_page_counter'>(234)</span> Có thể nói câu thơ cuối của đoạn này bộc lộ rõ nhất thái độ và cảm xúc đang trào dâng ào ạt trong tâm ồn của tác giả: “Ôi kì lạ cà thiêng liêng – bếp lửa!”. Câu thơ chỉ có tám chữ mà khái quát được cả suy nghĩ lẫn tình cảm của tác giả đối với bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà. Câu thơ cuối là cách ngắt nh5p với một dấu lặng đầy nghệ thuật, là “sự im lặng giữa các từ”, chứa đựng bao cảm xúc và suy nghĩ không thể diễn tả hết ằng ngôn từ, dẫu là những ngôn từ rất cô đúc của thơ ca. Đoạn thơ cuối cùng vẫn tiếp ục những mạch cảm xúc nhớ thương khôn nguôi, thể hiện kín đáo tình cảm biết ơn sâu nặng của tác giả đối với người bà đã cưu mang, đùm bọc mình: “Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả Như vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở: - Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?...” Giờ đây, tác giả đã sống xa xứ, đã trưởng thành, đã rời vòng tay của người bà, Đứa cháu ấy dù đã được mở rộng tầm mắt để nhìn thấy “khói trăm tàu”, đã có “lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả”. Cuộc sống vật chất đủ đầy hơn nhưng vẫn không hề nguôi ngoai tình cảm nhớ thương bà, tình cảm ấy đã trở thành thường trực trong tâm hồn tác giả. Câu hỏi tu từ khép lại bài thơ thật khéo, thật hay, có sức ám ảnh day dứt tâm lí độc giả chúng ta. Nhà thơ hỏi nhưng cũng là nhắc nhở chính mình phải luôn nhớ đến ngọn lửa quê hương, nhớ đến người bà đã trở thành chỗ dựa tinh thần của đứa cháu phương xa. Đó là nỗi nhớ đau đáu, da diết, thường trực. Hình.

<span class='text_page_counter'>(235)</span> ảnh bếp lửa cứ trở đi trở lại da diết trong bài thơ vừa là một hình ảnh rất cụ thể vừa có sức khái quát sâu sắc. “Bếp lửa ấp iu nồng đượm” ấy đã trở thành biểu tượng của tấm lòng bà, mãi mãi sưởi ấm tâm hồn đứa cháu – thi sĩ Bằng Việt. Thật không ngờ một bếp lửa bình thường như trăm ngàn bếp lửa khác trong một làng quê nghèo khó với một người bà luôn cặm cụi, thầm lặng, chịu đựng, hy sinh cả cuộc đời cho con cháu lại có thể tác động đến sự trưởng thành tâm hôn trong một con người như thế! (Mở rộng: Trong mọi trường hợp, người đàn bà dưới mái ấm gia đình thường thường gắn liền với những gì thường nhật nhất, thân thiết nhất. Họ giữ cho nhịp sống của tổ ấm được duy trì. Họ là nơi cuối cùng để cho người ta có chỗ trở về sau những thăng trầm, thành bại ở đời. Trong dáng hình bình dị, thầm lặng, khiêm nhường quá đỗi ấy, ẩn dấu một trái tim lớn đầy lòng nhân ái, khoan dung. Các câu thơ như những làn sáng hắt ra từ ngọn lửa ấm nóng, gợi nhắc, thấm thía tâm can người đọc. Người đàn bà trong “ Bếp lửa” đã nuôi con nuôi cháu, đã đi qua đói khát và giặc giã, đã cho con đi kháng chiến vì nước, vì dân, đã âm thầm trụ lại nhà giữ mảnh đất truyền đời tổ tiên để lại, đã âm thầm chờ đợi và hy vọng ... đó chẳng phải là biểu tượng về sự sống lớn lao và cao cả của con người sao? Bà là người phụ nữ Việt Nam, như ngọn lửa cháy sáng và ấm mãi!... ). C. KẾT BÀI: Trong hành trình cuộc đời của mỗi con người, có những ngày tháng, những kỷ niệm và những con người không thể nào.

<span class='text_page_counter'>(236)</span> quên. Bằng Việt đã may mắn có được một tuổi thơ gắn bó với người đàn bà mà ông yêu quý, kính trọng. Ông đã gửi gắm tâm sự ấy trong bài thơ “Bếp lửa” và thể hiện nó bằng giọng điệu tâm tình, sâu lắng, hình ảnh thơ gợi cảm và giàu sức liên tưởng, suy ngẫm. Bài thơ chính là món quà quý giá mà Bằng Việt gửi đến cho độc giả chúng ta. Nó có tác dụng giáo dục rất lớn đối với tuổi trẻ về tình nghĩa thủy chung đối với gia đình, quê hương, đối với những gì đã nhen nhóm và nuôi dưỡng ngọn lửa thiêng liêng trong tâm hồn mình trong suốt cuộc đời. Hoặc: Có thể đấy là những kỷ niệm riêng của nhà thơ, song đọc bài thơ, chúng ta vẫn ngỡ được sưởi chung với ông hơi lửa của tình người thật giàu ân nghĩa, thật cao đẹp và thiêng liêng.... PHÂN TÍCH “KHÚC HÁT RU NHỮNG EM BÉ LỚN TRÊN LƯNG MẸ” CỦA NHÀ THƠ NGUYỄN KHOA ĐIỀM. A.. MỞ BÀI: Viết về cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, nhà thơ Chế. Lan Viên đã từng ngợi ca: “... Ta vào sâu trong đáy yêu thương, ta lên cao trên những đỉnh anh hùng Những năm ta sống nửa giữa nhân gian, nửa trong thần thoại”.

<span class='text_page_counter'>(237)</span> Cuộc kháng chiến thần thánh ấy đã sản sinh ra những thiên thần thoại về con người Việt Nam anh hùng, trong đó có những người mẹ, niềm cảm hứng bất tuyệt của thơ ca. Xúc động trước vẻ đẹp cao cả của những người mẹ Việt Nam, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã sáng tác “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” để bộc lộ suy nghĩ, tâm trạng của mình. Bài thơ ra đời ngày 25/3/1971 – thời kì Cách mạng Việt Nam đang bước vào giai đoạn cuối đầy gay go, ác liệt. Lúc bấy giờ, tác giả đang sống và chiến đấu ở chiến trường Bình Trị Thiên. Có lẽ xúc động trước hình ảnh những con người Pakô dù cuộc sống còn hoang sơ nhưng giàu lòng yêu nước đã khiến cho tác giả nhiều lần gùi gạo mà miệng cứ lẩm nhẩm làm thơ để rồi từ những suy nghĩ và nung nấu ấy đã khiến cho Nguyễn Khoa Điềm nhanh chóng hoàn thành bài thơ. Có thể nói “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” thể hiện rất rõ phong cách thơ của Nguyễn Khoa Điềm. Bài thơ đã khắc họa chân thực hình ảnh bà mẹ Tà – ôi gắn liền với những hoạt động xã hội, có tình yêu thương con và ước vọng cao đẹp trong cuộc chiến đấu chống Mỹ cứu nước, để từ đó thi sĩ kín đáo bộc lộ tâm trạng xúc động, thái độ ngợi ca xen lẫn cảm phục tình yêu quê hương đất nước và khát vọng tự do của nhân dân ta trong thời kì lịch sử này. Cho đến hôm nay bài thơ vẫn làm thổn thức trái tim bao thế hệ trẻ Việt Nam. B. THÂN BÀI: Bài thơ có kết cấu rất đặc biệt, gồm ba phần: mỗi phần có kết cấu thống nhất bằng hai khổ thơ. Khổ trên là lời của tác giả qua.

<span class='text_page_counter'>(238)</span> đó ta thấy hiện lên hình ảnh người mẹ Tà-ôi trong mọi hoạt động. Khổ dưới là lời ru của người mẹ. Tiếng ru của tác giả và của người mẹ nối tiếp, đan cài, hòa quyện tạo nên khúc hát ru vừa đằm thắm dịu dàng, vừa trầm tư sâu lắng. Hai câu thơ đầu đọc lên nghe như một tiếng gọi thân thương, lời khuyên, vỗ về, dỗ dành: “Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ...” Tiếng thơ ấy thốt lên tự đáy lòng yêu thương của tác giả đối với em cu Tai hay đó cũng chính là cảm xúc đối với người mẹ Tà – ôi. Hai câu thơ ấy được lặp đi lặp lại cùng với hô ngữ “ôi” đã tạo nên nhạc điệu ngân nga như một khúc hát ru. Hình ảnh bà mẹ Tà-ôi hiện lên trong ba tiếng ru của tác giả gắn liền với những công việc của xã hội. Trong khổ thơ thứ nhất, đó là hình ảnh bà mẹ Tà ôi đang giã gạo nuôi bộ đội: “Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng” Hình ảnh người mẹ dân tộc giã gạo được tác giả khắc họa khéo léo trong câu thơ “Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng”. “Nhịp chày nghiêng” chỉ tư thế giã gạo bằng chày tay. Còn “giấc ngủ em nghiêng” gợi ta liên tưởng đến giấc ngủ chao nghiêng theo tư thế giã gạo, giấc ngủ không bền, không sâu, không yên ả theo sự dao động của nhịp chày. Với hai từ “nghiêng”, câu thơ bộc lộ rõ sự.

<span class='text_page_counter'>(239)</span> vất vả của hai mẹ con. Để rồi từ đó tác giả đã diễn tả thật xúc động tình mẫu tử của bà mẹ: “Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối Lưng đưa nôi và tim hát thành lời...” Những giọt mồ hôi nóng hổi của mẹ thấm vào má con, đôi vai gầy, tấm lưng và lời ru thầm được cất lên từ trái tim yêu thương rộng mở, thăm thẳm dạt dào của mẹ giúp cho con no tròn giấc ngủ. Từ những hình ảnh thơ đặc sắc như vậy đã bộc lộ cảm xúc yêu thương của thi sĩ trước tình cảm dạt dào của bà mẹ dành cho con. Rời tay chày giã gạo, bà mẹ lên tỉa bắp trên núi Ka – lưi: “Mẹ đang tỉa bắp trên núi Ka – lưi Lưng núi thì to mà lưng mẹ nhỏ...” Ở đây không có giọt mồ hôi rơi nóng hổi, không có nhịp chày nghiêng nghiêng mỏi mệt mà ta vẫn cảm nhận được công việc tỉa bắp thật cay cực gian lao và sức mạnh dẻo dai to lớn của bà mẹ qua hình ảnh so sánh, đối lập “Lưng núi thì to mà lưng mẹ nhỏ”... Đằng sau hình ảnh thơ đó là tình cảm yêu thương và thái độ cảm phục của thi sĩ. Mở rộng: Câu thơ không đem đến cho ta hình ảnh một kiếp sống đói nghèo, cơ cực: “Nhớ người mẹ nắng cháy lưng, dịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô” (Tố Hữu) hoặc một cuộc đời lam lũ chịu đựng “Bóng tròn che lưng mẹ” (Ngọc Anh)... Từ những xúc cảm đó, tác giả đã xây dựng nên những hình ảnh thơ tượng trưng cho tấm lòng yêu thương con của mẹ:.

<span class='text_page_counter'>(240)</span> “Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng” Nếu mặt trời của thiên nhiên đem lại ánh sáng, nhiệt độ giúp cây bắp thêm dồi dào nhựa sống thì cu Tai “mặt trời của mẹ” đem lại bao hạnh phúc, ước mơ, niềm vui trong cuộc đời... Sử dụng biểu tượng vĩnh hằng của thiên nhiên và đặt trong cách đối xứng, nhà thơ đã lồng cảm xúc yêu thương và thái độ ca ngợi tình yêu thương con bao la, bất tận và niềm hạnh phúc được sống có con và vì con của tấm lòng người mẹ...  Nhưng có thể nói hình ảnh đem đến cho ta ấn tượng sâu sắc nhất có lẽ là hình ảnh bà mẹ dịu con đi chiến đấu: “Mẹ đang chuyển lán, mẹ đi đạp rừng Thằng Mĩ đuổi ta phải rời con suối Anh trai cầm súng, chị gái cầm chông Mẹ dịu em đi để giành trận cuối Từ trên lưng mẹ em đến chiến trường Từ trong đói khổ em vào Trường Sơn” Ra trận không chỉ có anh trai, chị gái mà còn có những bà mẹ và cả những đứa trẻ nằm trong dịu... Phải chăng xây dựng hình ảnh ấy, tác giả muốn nói đến thế đứng, tầm cao, sức mạnh của một dân tộc với truyền thống “Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh”, với truyền thống Thánh Gióng thần kì trước hoàn cảnh đất nước có giặc ngoại xâm? Và phải chăng Nguyễn Khoa Điềm còn muốn ca ngợi khía cạnh toàn dân đánh Mỹ?.

<span class='text_page_counter'>(241)</span> Sơ kết: Từ những dòng cảm xúc yêu thương, thái độ cảm phục và ngợi ca, thi sĩ đã xây dựng nên hình ảnh bà mẹ Tà – ôi vất vả lam lũ trong việc giã gạo nuôi quân, cay cực gian lao trong việc đi tỉa bắp nuôi làng và đầy hiểm nguy, gian khó trong cuộc đọ sức với kẻ thù... Trong bất kì hoàn cảnh nào, khía cạnh nào, bà mẹ vẫn dành cho con những tình cảm yêu thương ngọt ngào, sâu lắng... Việc thay đổi giọng điệu từ da diết, thiết tha, khoan thai đến nhanh mạnh rất phù hợp với việc khắc họa hình tượng thơ hay đó cũng chính là sự phát triển cảm xúc của tác giả. Không gian nghệ thuật trong ba khổ thơ cũng dần mở rộng: giã gạo ở sân nhà, tỉa bắp trên núi và rộng ra là cuộc chiến đấu ở Trường Sơn...  Không gian mở rộng, bước chân của mẹ xa dần bởi lẽ tình cảm của mẹ cũng ngày càng lớn dần, mở rộng dần mà ta sẽ cảm nhận được qua tiếng ru con của mẹ: − “Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi Mẹ thương a-kay, mẹ thương bộ đội” − “Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi Mẹ thương a-kay, mẹ thương làng đói” − “Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi Mẹ thương a-kay, mẹ thương đất nước” Điệp từ “ngủ ngoan a-kay” được lặp đi lặp lại cùng với những hô ngữ góp phần tạo nên âm hưởng ngọt ngào của một điệp khúc trong một lời ru. Âm điệu của điệp khúc ấy vừa dân gian vừa hiện đại. Nói hiện đại bởi lẽ nó khác hẳn với những lời ru thông.

<span class='text_page_counter'>(242)</span> thường. Lời ru ấy thầm kín trong tim và chứa đựng trong lời ru ấy ngoài tình mẹ con còn có những tình cảm khác. Mẹ không chỉ thương con mà lòng thương ấy còn gắn liền với lòng thương các anh bộ đội đang chiến đấu trên chiến trường; lòng thương cu Tai còn gắn liền với lòng thương “lũ làng” đói khổ, “cái bụng chưa no”; lòng thương “mặt trời của mẹ” còn gắn liền với lòng thương đất nước gian khổ quật cường... Hình ảnh người mẹ trong thơ Nguyễn Khoa Điềm vẫn là hình ảnh người mẹ trong thơ Nguyễn Khoa Điềm vẫn là hình ảnh người mẹ muôn thuở Việt Nam: thương con, chịu đựng tần tảo nuôi nấng con cái nhưng cũng là hình ảnh của người mẹ rất mới: yêu nước, thương dân. Tình mẹ con hoặc là tình yêu nước đã là nguồn thi hứng vô tận cho các thi nhân. Ở đây hai nguồn tình cảm lớn đó lại giao hòa với nhau; lồng vào nhau trong một bài thơ gây được xúc động lớn lao. Nhà thơ đã phát hiện được những nét tình cảm mới mẻ trong cuộc chiến đấu vĩ đại của dân tộc mà ít thi sĩ thấy được. . Không chỉ biết yêu thương, bà mẹ Tà – ôi còn ấp ủ. trong tâm hồn những ước mơ, hoài bão, khát vọng: -. “Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần. Mai sau con lớn vung chày lún sân” − “ Con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều Mai sau con lớn phát mười Ka-lưi” − “Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ Mai sau con lớn làm người Tự do...”.

<span class='text_page_counter'>(243)</span> Cụm từ “con mơ cho mẹ” thật lạ, có ý nghĩa súc tích. Đó chính là mơ ước của mẹ được liên tưởng qua ước mơ của con. Ước mơ ấy xuất phát từ tuổi thơ và vì tuổi thơ mà ước mơ – Một ước mơ thật tốt đẹp chân chính. Từ ước mơ bình thường cho mẹ, cho con đã bùng lên thành khát vọng độc lập tự do, thống nhất cho cả dân tộc. Từ ước mong cho con khôn lớn, no đủ về vật chất mẹ còn mơ ước cho đất nước được hòa bình thống nhất và những thế hệ cu Tai mai sau được “làm người tự do”. Đó không chỉ là chuyện trái tim, tấm lòng dù đó là bản năng cao quý của bao người mẹ mà còn là ý thức, ý chí Cách mạng của con người Việt Nam. Ý thức đó đã hòa quyện thành máu thịt, thành tâm hồn, thành niềm tin và ước mơ. “Từ trong đói khổ” – mơ đến một ngày mai tươi sáng. Rõ ràng cuộc chiến tranh nhân dân chống Mĩ cứu nước thời ấy quả thật sôi nổi, hào hùng. Tinh thần chiến đấu hy sinh “Không gì quý bằng độc lập tự do” đã đi vào cả những lời hát ru của người mẹ. Mở rộng: Hình tượng bà mẹ được xây dựng trong bài thơ qua cảm xúc, suy tưởng của nhà thơ – thống nhất tuyệt vời giữa hành động, tình cảm, ước mơ. Từ hình tượng bà mẹ Tà ôi của núi rừng Tây Nguyện, tác giả đã nâng lên khái quát thành hình tượng bà mẹ Việt Nam anh hùng vừa thương con vừa yêu nước. Những suy nghĩ của nhà thơ về bà mẹ Tà ôi cũng là những suy nghĩ về đất nước, về nhân dân anh hùng theo sự nhận thức của ông: “Nhưng em có biết không Có biết bao người con gái, con trai.

<span class='text_page_counter'>(244)</span> Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi Họ đã sống và chết Giản dị và bình tâm Không ai nhớ mặt đặt tên Nhưng họ đã làm ra đất nước...” ( “Mặt đường khát vọng” – Nguyễn Khoa Điêm) Đây chính là bút phát của Nguyễn Khoa Điềm – từ những việc bình thường, gần gũi, tác giả đã nâng lên thành hình ảnh có sức khái quát. Thơ ông giàu chất suy tưởng, có nhiều sáng tạo về nghệ thuật, thể hiện tình cảm thắm thiết về nhân dân và đất nước. Mở rộng: Bài thơ có nhan đề “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” mà không phải là “ngủ trên lưng mẹ”. Đây cũng là một sáng tạo độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm đồng thời cũng là cảm nhận rất riêng của ông về một sự thực lịch sử. Trong thực tế có nhiều em bé như cu Tai được mẹ đi6u trên lưng sẽ lớn dấn theo năm tháng. Hay tác giả còn muốn nói đến cả một thế hệ những em bé như cu Tai đã lớn lên, trưởng thành từ tình cảm, ước mơ, tinh thần của mẹ...Các em đã sống trong không khí chiến đấu của mẹ, ngủ trong tiếng ru chất chứa bao khát khao, niềm tin. Họ đã trở thành những anh hùng, dũng sĩ đó là điều tất nhiên. Từ hình tượng thơ đặc sắc ấy, nhà thơ đã góp phần lý giải vì sao cuộc chiến đấu chống Mĩ đày cam go thử tháh lại thắng lợi, bởi vì nó chứ đựng rất nhiều điều kì diệu. C.KẾT BÀI:.

<span class='text_page_counter'>(245)</span> Qua việc vận dụng kết cấu đặc biệt, các điệp khác đặc sắc kết hợp với những biện pháp tu từ thật khéo léo, tác giả đã khắc hỏa chân thực hình ảnh bà mẹ Tà-ôi gắn liền với những hoạt động xã hội, có tình yêu thương con và khát vọng cao đẹp trong cuộc chiến đấu chống Mĩ cứu nước để từ đó thi sĩ kín đáo bộc lộ tâm trạng xúc động, thái độ ngợi ca xen lẫn cảm phục tình yêu quê hương đất nước và khát vọng tự do của nhân dân ta trong thời kì lịch sử này. Bài thơ đã gợi cho ta những rung động và suy nghĩ sâu sắc về hình ảnh đất nước, dân tộc anh hùng, về công ơn của những người mẹ về biết bao nghĩa tình trong những ngày kháng chiến đã qua.. PHÂN TÍCH BÀI “ÁNH TRĂNG” – NGUYỄN DUY A. MỞ BÀI: Nguyễn Duy thuộc thế hệ làm thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.Vừa mới xuất hiện, Nguyễn Duy đã nổi tiếng với bài “Tre Việt Nam”. Bài “Hơi ấm ổ rơm” của ông đã từng đoạt giải hưởng báo Văn nghệ. “Ánh trăng” cũng là một trong những bài thơ được nhiều độc giả yêu thích bởi tình cảm chân thành, sâu sắc, tứ thơ bất ngờ mới lạ. Qua bài thơ, tác giả đã kín đáo bộc lộ những suy nghĩ, chiêm nghiệm về một lẽ sống cao quý trong cuộc đời của mỗi con người. B. THÂN BÀI: Khổ thơ mở đầu như những lời tự sự ghi lại những dòng hồi ức của tác giả về quá khứ:.

<span class='text_page_counter'>(246)</span> “Hồi nhỏ sống với đồng với sông rồi với bể hồi chiến tranh ở rừng vầng trăng thành tri kỉ” Trăng gắn bó với tác giả ngay từ thời thơ ấu. Trăng gắn với đồng ruộng, dòng sông, biển cả. Dù ở đâu, đi đâu trăng cũng ở bên cạnh. Nhưng phải đến khi ở rừng, nghĩa là lúc tác giả sống trên tuyến đường Trường Sơn, xa gia đình, quê hương, vầng trăng mới thành “tri kỷ”. Trăng với tác giả là đôi bạn không thể thiếu nhau, hiểu biết, thông cảm lẫn nhau. Điệp từ “hồi”, “với” diễn tả cuộc sống nhiều biến động của một con người. Điều ấy chứng tỏ nhà thơ đã đi nhiều, trải nhiều... Qua những hình ảnh không gian “đồng”, “sông”, “bể”, “rừng”, tác giả đã diễn tả tinh tế sự vận động của thời gian gắn bó với sự trưởng thành của nhà thơ lớn lên từ đồng nội...  Tác giả như khắc đậm thêm tình cảm của mình đối với trăng: “Trần trụi với thiên nhiên hồn nhiên như cây cỏ ngỡ không bao giờ quên cái vầng trăng tình nghĩa” Trăng có vẻ đẹp bình dị vô cùng, một vẻ đẹp không cần trang sức, đẹp một cách vô tư, hồn nhiên. Trăng tượng trưng vẻ đẹp thiên nhiên nên trăng hòa vào thiên nhiên, hòa vào cây cỏ. Hay nhà thơ còn muốn diễn tả sự gần gũi giữa mình với thiên.

<span class='text_page_counter'>(247)</span> nhiên, gần gũi với trăng: “Trần trụi với thiên nhiên”. Tâm hồn người chiến sĩ lúc ấy cũng “hồn nhiên” vô tư đến độ “như cây cỏ”... Vầng trăng “tri kỷ” đã đẹp rồi mà “vầng trăng tình nghĩa” còn cao quý biết nhường nào: “ngỡ không bao giờ quên cái vầng trăng tình nghĩa” Trăng mỗi tháng một lần theo chu kỳ tuần hoàn của thiên nhiên, lại đến với con người. Trăng mang ánh sáng đến cho con người giữa ban đêm. Trăng tỏa ánh sáng xuống vòm cây, soi tỏ những lối đi, tỏa vẻ đẹp dịu mát xuống sân nhà. Trăng làm vui vẻ trẻ con, làm ấm lòng người già, trăng tạo mộng mơ cho đôi lứa, trăng chia ngọt sẻ bùi, đồng cam cộng khổ với những người lính ở rừng núi. Cái “tình nghĩa” vẹn toàn ấy của trăng làm sao con người có thể quên được. Cách nhân hóa “vầng trăng thành tri kỉ”, “vầng trăng tình nghĩa” thể hiện tình cảm nặng lòng của tác giả đối với trăng biết nhường nào! Từ “ngỡ” ở đầu câu thơ thứ ba như báo trước một điều gì sẽ xảy ra trái với dự đoán và suy nghĩ ban đầu...  Điều ấy đã trở thành hiện thực, điều “ngỡ không bao giờ quên” ấy bây giờ đã quên: “Từ hồi về thanh phố quen ánh điện cửa gương vầng trăng đi qua ngõ như người dưng qua đường”.

<span class='text_page_counter'>(248)</span> Trước đây tác giả sống với sông, với bể, với rừng, bây giờ môi trường sống đã thay đổi. Tác giả về sống với thành phố. Đời sống cũng thay đổi theo, quen “ánh điện, cửa gương”. “Ánh điện” và “cửa gương” tượng trưng cho cuộc sống sung túc, đầy đủ sang trọng... dần dần “cái vầng trăng tình nghĩa” ngày nào bị tác giả lãng quên. Phải chăng “vầng trăng” ở đây tượng trưng cho những năm tháng gian khổ ấy. Đó là tình bạn, tình đồng chí được hình thành từ những tháng năm gian khổ ấy. “Trăng” bây giờ thành “người dưng”... Hình ảnh nhân hóa ở đây thật sinh động “đi qua ngõ”. Trăng đâu có cao xa vời vợi, trăng vẫn gần gũi thân thương vậy mà con người thật lạnh lùng dửng dưng... Rõ ràng hoàn cảnh tác động đến con người thật mạnh mẽ. Bởi thế người đời vẫn thường nhắc nhau: “Ngọt bùi nhớ lúc đắng cay – Ra sông nhớ suối có ngày nhớ đêm”. Khổ thơ này có kết cấu đối lập, một bên là “ánh điện, cửa gương” sáng lòa, lộng lẫy, rực rỡ và một bên là “ánh trăng” dịu ngọt, thanh nhẹ. Đặt những hình ảnh có vẻ đối lập bên nhau, Nguyễn Duy muốn bộc lộ kín đáo một lời tự thú chân thành, nghiêm khắc.  Bài thơ được phát triển đến một tứ thơ có chút kịch tính: “Thình lình đèn điện tắt phòng buyn – đinh tối om vội bật tung cửa sổ đột ngột vầng trăng tròn”.

<span class='text_page_counter'>(249)</span> Cử chỉ “vội bật tung cửa sổ” lúc bấy giờ chỉ là phản xạ hết sức tự nhiên của một người quen với ánh sáng điện nay lại bị giam trong bóng tối, mong có được một chút ánh sáng bên ngoài cho căn phòng đỡ tối tăm hơn mà thôi. Nhưng may mắn thay cũng là trớ trêu thay, lúc ấy lại có trăng. Trăng trở nên quý giá biết bao vào những khi mất điện. Và riêng tác giả, cái vầng trăng đột ngột hiện trên khoảng trời kia đâu phải chỉ để thay thế trong khoảnh khắc cho sự cố vừa rồi, mà nó còn làm xáo trộn tâm hồn thi sĩ: “Ngửa mặt lên nhìn mặt có cái gì rưng rưng như là đồng, là bể như là sông, là rừng” Trong câu thơ “Ngửa mặt lên nhìn mặt”, tác giả dùng đối xứng hai từ “mặt” rất hay. Đó là nhìn mặt tri kỷ, mặt của tình nghĩa mà bấy lâu nay mình dửng dưng. Nguyễn Duy gặp lại ánh trăng như gặp lại người bạn tuổi thơ, như gặp lại người bạn từng sát cánh bên nhau trong những tháng năm gian khổ. Từ gợi tả “rưng rưng” diễn tả nỗi xúc động của thi sĩ... Những kỉ niệm ngày nào bấy lâu tưởng bị chôn vùi nay lại ùa về đánh thức tâm hồn người trong cuộc: “như là đồng là bể như là sông, là rừng” Điệp từ “như là” cùng với nhịp thơ gấp bộc lộ rất rõ cảm xúc đang trào dâng mạnh mẽ....

<span class='text_page_counter'>(250)</span>  Khổ cuối bài thơ, Nguyễn Duy đưa người đọc cùng đắm chìm trong suy tư, trong chiêm nghiệm về “vầng trăng tình nghĩa” một thời: “Trăng cứ tròn vành vạnh kể chi người vô tình ánh trăng im phăng phắc đủ cho ta giật mình.” Hình ảnh “vầng trăng” còn được nhà thơ nhìn lại “tròn vành vạnh” thật là đẹp, một cái đẹp viên mãn không hề bị khiếm khuyết. Cái ánh sáng tròn đầy hay cũng là cái đẹp của tình nghĩa thủy chung, nhân hậu mặc cho ai kia thay đổi, vô tình. Và cao quý biết bao bởi vì “vầng trăng” ngày nào còn tỏ ra bao dung độ lượng: “kể chi người vô tình”. Nhưng chính ánh trăng vô ngôn, không một lời trách cứ ấy đã khiến cho “người vô tình” thấy rõ cái khiếm khuyết của bản thân mà không khỏi “giật mình” tỉnh ngộ: “ánh trăng im phăng phắc đủ cho ta giật mình” Ánh trăng hay là ánh nhìn? Vừa nghiêm khắc, lạnh lùng, vừa bao dung độ lượng, “sự im lặng đáng sợ” ấy khiến kẻ trong cuộc phải “giật mình” vì đến lúc này mới nhận rõ mình hơn. Cái “giật mình” chân thành thay cho một lời sám hối. Đó chính là cái hay và độc đáo của bài thơ có sức cảm hóa lòng người. Bài thơ gây được xúc động bởi cách diễn tả như một lời tâm sự chân thành, lời tự nhắc nhở có giọng trầm tĩnh mà lắng.

<span class='text_page_counter'>(251)</span> sâu. Khổ thơ cuối của bài thơ mang chiều sâu tư tưởng triết lý: vầng trăng cứ tròn đầy lặng lẽ, “kể chi người vô tình”, là biểu tượng của sự bao dung độ lượng, của nghĩa tình thủy chung trọn vẹn trong sáng mà không hề đòi hỏi sự đền đáp. Đó cũng chính là phẩm chất cao cả của nhân dân mà Nguyễn Duy cũng như nhiều nhà thơ cùng thời đã phát hiện và cảm nhận một cách sâu sắc. C. KẾT BÀI: Với một giọng điệu thơ nhẹ nhàng, sâu lắng kết hợp với thể thơ ngũ ngôn – thể thơ phù hợp với việc tự sự, bộc lộ cảm xúc, bài thơ “Ánh trăng” đã thực sự gây nhiều xúc động đối với bao độc giả. Có lẽ ai đã từng đọc “Ánh trăng” cũng đều nghiêm khắc với chính mình như thế vì một thời quá khứ chưa được đánh giá đúng mức. Vâng, muộn còn hơn không, mỗi chúng ta đều phải có trách nhiệm với những gì thuộc về quá khứ. Hẳn “Ánh trăng” không chỉ làm “giật mình” một Nguyễn Duy mà thôi!. PHÂN TÍCH NHÂN VẬT ÔNG HAI TRONG “ LÀNG” CỦA KIM LÂN A. MỞ BÀI: (Cách 1) Trong nền văn học Việt Nam, Kim Lân được biết đến đến qua những truyện ngắn viết về hình ảnh người nông dân trong không khí những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Truyện.

<span class='text_page_counter'>(252)</span> ngắn “Làng” của ông đã khắc họa chân thực hình ảnh người nông dân trong buổi đầu kháng chiến chống Pháp. Họ không phải là những người suốt đời quẩn quanh với mảnh vườn ao cá, cam chịu cuộc sống bế tắt bi thảm mà là những người nông dân đi tản cư kháng chiến có tình yêu làng gắn liền với tình yêu cách mạng, yêu nước. Nhân vật ông Hai trong tác phẩm là một bằng chứng. (Cách 2): Với sự am tường về người nông dân và tấm lòng nhân hậu của một cây bút vốn là con đẻ của đồng ruộng, Kim Lân được bạn đọc biết đến qua những truyện ngắn đặc sắc viết về nông dân và sinh hoạt ở thôn quê. Truyện ngắn “Làng” của ông được viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp là một bằng chứng. Qua việc khắc họa nhân vật ông Hai – nhân vật trung tâm trong truyện- tác phẩm nhằm ca ngợi tình cảm yêu mến làng xóm, quê hương gắn chặt với tình yêu cách mạng, đất nước của những người nông dân đi tản cư kháng chiến. B. THÂN BÀI: 1. Tóm lược tác phẩm: Truyện viết về ông Hai, một người nông dân quê ở làng Chợ Dầu, vì yêu cầu của cuộc kháng chiến, ông phải rời làng đi tản cư trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Xa làng, ông Hai nhớ làng da diết. Ông thường say sưa kể về làng. Một lần, hỏi thăm những người mới tản cư lên, nghe nói làng Chợ Dầu Việt gian.

<span class='text_page_counter'>(253)</span> theo Tây, ông buồn khổ, tủi nhục, căm tức bọn ở làng theo giặc. Ông ở trong nhà mấy hôm, cáu gắt với cả vợ con và chỉ biết tâm sự với đứa con nhỏ về tấm lòng thủy chung với kháng chiến, với cụ Hồ. Sau đó , ông chủ tịch làng lên cải chính tin đồn ấy. Ông Hai vui mừng, phấn khởi như chính mình được minh oan. Ông đem tin này khoe với mọi người, lấy việc Tây đốt nhà ông là một bằng chứng hùng hồn. 2. Phân tích nhân vật ông Hai: Dõi theo tác phẩm, ta thấy ở nhân vật ông Hai tình yêu làng của ông thống nhất, hòa quyện với tình cảm yêu mến, thủy chung đối với cuộc cách mạng của dân tộc, đối với đất nước. Ông luôn tự hào làng của mình là làng kháng chiến, những người dân trong làng từ già đến trẻ điều là những người quả cảm, bất khuất… Chính lòng yêu nước đã làm ông cảm thấy vui mừng tự hào về tinh thần quả cảm cũng như những thành tích của đồng bào dân tộc mà ông theo dõi trên báo chí hằng ngày “Ruột gan ông cứ múa cả lên”. Quá hãnh diện về truyền thống anh hùng của làng và lòng yêu nước sâu sắc vốn có của mình, ông Hai đã quá bàng hoàng, sửng sốt, đau đớn trước cái tin làng chợ Dầu: “ Việt gian từ thằng chủ tịch mà đi”. Thế là bao nhiêu niềm kiêu hãnh về truyền thống bất khuất của “mảnh đất chôn nhau cắt rốn”, bao nhiêu mơ ước được về làng bỗng bàng hoàng sụp đổ…Ông đau khổ như vừa lạc vào một vùng bóng tối dày đặc. Là người dân của làng chợ Dầu,.

<span class='text_page_counter'>(254)</span> ông thấy mình có tội, nhục nhã xiết bao: “nước mắt ông giàn ra”. Đó là những giọt nước mắt đớn đau, tủi nhục của một con người sắc son, thủy chung với cách mạng. Trước kia, ông yêu làng là thế, bây giờ mới chớm nghĩ trở về, ông đã lập tức phản đối ngay “Về làm gì cái làng ấy nữa, chúng nó theo Tây cả rồi! Về tức là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ. Cao quý biết bao những lời lẽ đáng quý của ông Hai. Đã thế ông còn nguyền rủa những ai có tư tưởng bán nước hạ mình: “Chúng bay ăn cơm hay ăn cái giống gì vào mồm mà làm Việt gian bán nước để nhục nhã thế này?” Đến lúc bị mụ chủ nhà đuổi khéo về làng, ông Hai càng khổ sở và đớn đau hơn, lòng căm thù cái làng Việt gian ấy bỗng trỗi dậy mãnh liệt ở đáy lòng: “ Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Bao nhiêu khát khao trở về Làng ông đành nén lại “ Ủng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn năm!” Qua những lời tâm sự với đứa con nhỏ, ta thấy ở ông tấm lòng thủy chung với kháng chiến, với cách mạng mà biểu tượng là cụ Hồ: “Anh em đồng chí biết cho bố con ông, cụ Hồ trên đầu trên cổ soi xét cho bố con ông” Càng buồn tủi bao nhiêu, ông Hai lại càng trở nên tươi vui, rạng rỡ hẳn lên khi nghe cải chính tin làng chợ Dầu theo Tây. Ông vui mừng đến lịm cả người đi và đi thông báo cho mọi người biết. Đồng thời lấy ngay việc Tây đốt nhà mình là một bằng chứng có giá trị hùng hồn và đầy sức thuyết phục nhất: “Tây đốt nhà tôi rồi, đốt nhẵn…Láo, láo hết, toàn sai sự mục đích cả”. Thanh minh cho tin đồn bậy đó, chắc hẳn lòng ông thanh thản biết bao. Người nông.

<span class='text_page_counter'>(255)</span> dân đáng cảm phục ấy chấp nhận hy sinh tất cả chứ không chịu khuất thân với giặc. Họ sẵn sàng hy sinh của cải và tính mạng của mình vì Tổ quốc. Điều ấy đã trở thành truyền thống tốt đẹp từ bao đời nay của dân tộc ta. 3. Đánh giá chung về nhân vật( Nêu suy nghĩ, thái độ của bản thân về nhân vật): Nhắc đến Kim Lân người ta thường nghĩ ngay đến hai tác phẩm đặc sắc “Vợ nhặt” và “Làng”. Ở cả hai tác phẩm ấy, ông đều tỏ ra sắc sảo khi xây dựng hình tượng người nông dân trong nạn đói khủng khiếp trước Cách mạng tháng Tám và hình ảnh người nông dân bước đến với cách mạng. Hình ảnh ông Hai có thể xem là gạch nối giữa người nông dân trong quá khứ và người nông dân đang đứng lên làm chủ cuộc đời mới. Họ vẫn giữ trong tâm hồn mình tình cảm tốt đẹp đối với làng quê, ruộng vườn, con trâu, cái cày…nhưng tâm hồn họ khỏe khoắn, lành mạnh chứ không cam chịu, bất lực như anh Pha trong “ Bước đường cùng” của Nguyễn Công Hoan, chị Dậu trong “ Tắt đèn” của Ngô Tất Tố hoặc hình ảnh Chí Phèo, Lão Hạc của Nam Cao phải chọn lấy cái chết để giải quyết số phận bế tắt và bi thảm. Từ tình cảm gắn bó với mảnh đất “chôn nhau cắt rốn” họ đã dần dần gắn bó thủy chung với Cách mạng tháng Tám, người ta không thể nào quên được hình ảnh ông Hai của nhà văn Kim Lân. Lần giở lại những trang văn trong những năm kháng chiến của dân tộc, ta không ít lần bắt gặp hình ảnh của người nông dân yêu nước như ông Hai.( Đó là hình ảnh ông Tư vườn chim trong.

<span class='text_page_counter'>(256)</span> truyện ngắn “ Ông lão vườn chim” của nhà văn Anh Đức với những “cơn đau rừng” quặn thắt ruột gan khi rừng tràm, vườn chim bị bọn xâm lược bắn giết, tàn phá. Nguồn vui của ông đơn sơ, bình dị: “ Cái chi tao vứt bỏ được chớ cái vườn chim này và mấy thằng bộ đội thì tao không dứt ra được đâu”. Vâng, chính họ, những người nông dân yêu nước ấy đã góp phần không nhỏ vào những kì tích oai hùng, những thắng lợi rực rỡ trong cuộc trường chinh giữ nước vĩ đại của dân tộc Việt Nam). 4. Giá trị nghệ thuật: Tuy vậy xét cho cùng, hình ảnh của nhân vật ông Hai sẽ không bao giờ có thể lưu lại bền lâu trong lòng độc giả nếu như nhà văn không tạo được một hình thức biểu đạt sắc nét. Bằng truyện ngắn “Làng”, Kim Lân đã thể hiển một nghệ thuật viết truyện ngắn bậc thầy. Trước hết, tác giả đã sáng tạo một tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn từ đó khai thác nội tâm nhân vật. Cách thắt nút tự nhiên có tác dụng làm nổi bậc giá trị tư tưởng của tác phẩm. Mọi tâm trạng buồn vui của ông Hai đều bắt nguồn từ tình huống ấy. Tuy vậy, cách mở nút quá đơn giản và ngẫu nhiêu tưởng như vô lý: làm sao ông chủ tịch biết hoàn cảnh của ông Hai mà lại xuất hiện đúng lúc như thế? Ở truyện ngắn này, Kim Lân đã chứng tỏ khả năng phát hiện và diễn tả tâm lí nhân vật khá sắc sảo. Đặc biệt là tài miêu tả nội tâm ông Hai. Lúc thì tác giả diễn tả tâm lí qua những biểu.

<span class='text_page_counter'>(257)</span> hiện bề ngoài như cử chỉ, nét mặt, lời nói,…lúc thì tác giả diễn tả tâm lí trực tiếp qua những suy nghĩ sâu kín trong nội tâm nhân vật. Bên cạnh đó, không thể không nói đến giọng văn mộc mạc giản dị; ngôn ngữ trong truyện được chọn lọc kĩ lưỡng, nhiều khi rất gần với khẩu ngữ và có giá trị tạo hình. Ngôn ngữ của ông Hai tiêu biểu cho cách nói của những người nông dân thời bấy giờ: “ Toàn là sai sự mục đích cả”. Nhân vật chính của truyện vừa có tính cá biệt cụ thể, vừa mang nét chung khái quát. Điều ấy khiến cho thiên truyện có sức gợi đáng kể. Hơn nữa, ngay tựa đề “Làng” cũng độc đáo- thật phù hợp với chủ đề của truyện, bao quát toàn bộ tính cách của nhân vật, người đọc khó có thể tìm một tựa đề để thay thế. C. KẾT BÀI: Bằng lối viết tự nhiên nhưng tinh tế, cách sử dụng ngôn ngữ nhân vật điển hình cho người nông dân vào thời điểm bấy giờ, nhà văn Kim Lân đã khắc họa rõ nét nhân vật ông Hai- hình ảnh người nông dân trong buổi đầu đến với cách mạng- tình yêu làng, gắn với tình yêu cách mạng và lãnh tụ da diết, lắng sâu. Đọc truyện, ai trong chúng ta lại không thấy tự hào về lớp cha ông đi trước…Với nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “Làng”, nhà văn Kim Lân đã góp thêm một bằng chứng về tinh thần yêu nước và tình yêu quê hương xứ sở của người dân Việt Nam..

<span class='text_page_counter'>(258)</span> PHÂN TÍCH NHÂN VẬT ANH THANH NIÊN TRONG TRUYỆN NGẮN “LẶNG LẼ SA PA” CỦA NGUYỄN THÀNH LONG A.. MỞ BÀI:. Cách 1. “Một mùa xuân nho nhỏ Lặng lẽ dâng cho đời...” (“Mùa xuân nho nhỏ” – Thanh Hải) Đó chính là lý tưởng sống của những con người ngày nay đang cống hiến tuổi thanh xuân cho quê hương đất nước. Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” của nhà văn Nguyễn Thành Long – một truyện ngắn giàu chất thơ được viết năm 1970 trong miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội – đề cập đến những con người có lẽ sống cao đẹp như vậy. Điều nổi bậc ở anh thanh niên – nhân vật trung tâm của truyện – là niềm say mê với công tác khoa học, tinh thần tự giác vượt khó để hoàn thành nhiệm vụ với tinh thần trách nhiệm cùng với những nét đáng yêu trong cá tính của mình. Đối với độc giả, anh thực sự có sức thuyết phục mạnh mẽ. Cách 2: Trong nền văn học hiện đại Việt Nam, nhà văn Nguyễn Thành Long được đánh giá là một trong những cây bút viết truyện ngắn khá thành thục và vững vàng. Vẻ đẹp ở thế giới nghệ thuật của tác giả không nằm ở những phát hiện sắc sảo, táo bạo mà ở việc tạo dựng một chất thơ trong trẻo, nhẹ nhàng. “Lặng lẽ Sa Pa” được viết năm 1970,.

<span class='text_page_counter'>(259)</span> sau chuyến đi thực tế ở Lào Cai của nhà văn, có thể coi là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách viết của Nguyễn Thành Long. Thông qua câu chuyện của bốn nhân vật: bác lái xe, ông họa sĩ già, cô kĩ sư trẻ mới ra trường và anh thanh niên cán bộ khí tượng, tác giả muốn giới thiệu với độc giả về một vùng đất đang có những con người “lặng lẽ” nhưng âm thầm say mê hiến dâng tuổi trẻ và tình yêu của mình cho đất nước quê hương. B. THÂN BÀI: 1. Sơ lược tác phẩm: Từ cuộc hội ngộ bất ngờ và ngắn ngủi thoáng qua trong khoảng ba mươi phút của bốn nhân vật trong không gian đẹp đến như hư ảo của núi rừng Sa Pa, tác giả đã làm toát lên vẻ đẹp tính cách trong mỗi con người và tình cảm nồng ấm giữa họ với nhau. Phân tích các nhân vật ta thấy rõ hơn giá trị nội dung của truyện. 2. Cảm nhận về nhân vật anh thanh niên: Điều ta cảm nhận trước hết ở người thanh niên này là đó là niềm say mê thích thú với ngành nghề khoa học. Có lẽ vì thế mà anh đã tự nguyện dấn thân nhận nhiệm vụ ở một vùng xa xôi hẻo lánh “trên đỉnh núi Yên Sơn cao 2600 mét” mà theo lời của bác tài xế thì nơi đây “bốn bề chỉ có cây cỏ và mây mù lạnh lẽo”, không một bóng người qua lại. Anh cũng có thể ở lại chốn phồn hoa đô thị - nơi có ánh đèn thành phố và nhộn nhịp cuối tuần – để góp bàn tay và khối óc vào việc xây dựng quê hương như bao con người khác. Thế nhưng ai cũng có nghĩ suy đơn giản như vậy thì ai sẽ làm những viên đá lát trên con đường khám phá, tìm hiểu những miền đất hứa của Tổ quốc..

<span class='text_page_counter'>(260)</span>  Dù sống và làm việc ở một nơi “cô độc nhất thế gian”, chàng trai giàu nhiệt tâm này vẫn gắn mình với cuộc sống của những người dưới xuôi kia thông qua công việc của một người cán bộ kiêm vật lý địa cầu: “Đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất” nhằm góp phần đắc lực vào việc dự báo thời tiết phục vụ cho cả hai công cuộc sản xuất và chiến đấu. Công việc thật đặc biệt của anh chính là sợi dây thắt chặt cuộc đời riêng lẻ với cuộc sống đời thường của bao người.  Lúc mới tiếp nhận công việc, những cơn thèm người cứ cồn cào trong lòng anh. Chàng trai đáng yêu này đã làm đủ mọi cách để được gặp bóng dáng con người, mong ngóng được nghe tiếng nói, giọng cười dù là những con người xa lạ. “Cái nỗi nhớ xe nhớ người ấy” cùng với những điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt như ngăn trở việc làm và chùn nhụt ý chí của người trai ở Sa Pa, thế nhưng anh vẫn tự giác vượt khó để hoàn thành nhiệm vụ bằng một tinh thần trách nhiệm cao: những bản báo cáo vẫn điều đặn gửi về trạm, những giờ ốp giữa cao điểm ban đêm đầy gió lạnh, có cả “mưa tuyết” và “cái im lặng đáng sợ” của cao nguyên vào lúc nửa đêm vẫn có mặt anh. Và thông thường trong hoàn cảnh sống như vậy, người ta rất dễ buông thả thế nhưng anh vẫn tự tổ chức cho bản thân có cuộc sống ngăn nắp đàng hoàng như bao người khác: một vườn hoa đủ màu sắc, một đàn gà đẻ ăn không hết trứng, sách báo,...Điều đó chứng tỏ anh sống có trách nhiệm với cả chính mình.  Một con người làm việc như vậy mà vẫn tự cho mình chưa xứng đ1ng là mẫu người sống đẹp đích thực trong cuộc sống. Anh thật tình thấy mình chưa có điểm gì đáng để người họa sĩ ghi lại. Mặc.

<span class='text_page_counter'>(261)</span> khác anh còn nhường cái “vinh dự ấy cho người cán bộ “nghiên cứu bản đồ sét” mà suốt mười một năm không một ngày rời xa cơ quan hoặc ông kĩ sư ở vườn rau Sa Pa kia . Anh quả là một con người rất mực khiêm tốn.  Nhưng có lẽ điều làm cho mọi người dù “lần đầu tiên đặt chân đến xứ sở của anh” vẫn cảm thấy gần gũi, thân quen. Đó là do thái độ tiếp đón niềm nở ân cần của người chủ nhà là anh. Sống cô độc ở một nơi lạnh giá thế nhưng tâm hồn anh không giá lạnh mà trái lại còn gần gũi, ấm áp tình người. Anh xuất hiện trước mắt mọi người với củ tam thất cầm trên tay để bồi dưỡng cho vợ bác lái xe vừa ốm dậy. Bó hoa “đầy háo hức và mơ mộng” gửi cho cô kĩ sư, chén trà nóng làm ấm lòng người họa sĩ già sau những ngày đường mệt nhọc cùng, làn trứng cho những người hành khách trên xe hoàn toàn không quen biết,...Tất cả đều là những món quà bình dị mà thấm đẫm tình người biết bao!  Tiếp xúc với anh, độc giả còn nhận ra ở con người này đức tính cầu tiến và tác phong bộc trực hồn nhiên đáng yêu . NHững cuốn sách mà anh đã tìm mọi cách xoay xở để có được vừa giúp anh khuây khỏa trong những lúc trống vắng và nội dung trong những trang sách ấy có sức động viên anh rất nhiều trên bước đường sự nghiệp. “Cô cũng thấy đấy, lúc nào tôi cũng có người trò chuyện nghĩa là sách ấy mà, mỗi người viết một vẻ”...Qua lời nói chuyện với cô kĩ sư, ta nhận ra nét đẹp ấy. Những suy nghĩ, băn khoăn về công việc, bản thân trước khi nhận công việc được anh chân thành tâm sự đã làm cho ông họa sĩ và cô kĩ sư trẻ thực sự cảm động và thán phục: “Hồi chưa vào nghề,.

<span class='text_page_counter'>(262)</span> những đêm bầu trời đen kịt, nhìn kĩ mới thấy ngôi sao xa, cháu nghĩ ngôi sao kia lẻ loi một mình. Bây giờ làm nghề này cháu không nghĩ như vậy nữa”. 3. Đánh giá chung về nhân vật: (Nêu suy nghĩ, thái độ của bản thân về nhân vật): Đọc truyện, ta thấy lí tưởng mà anh đã chọn thật đẹp! Người thanh niên đáng cảm phục này đến với Sa Pa – nơi duy nhất ở việt Nam có tuyết – với một bầu nhiệt huyết sôi trào của tuổi trẻ và một tình yêu nghề cháy bỏng, da diết chứ không phải suy nghĩ nhất thời bốc đồng. Chính cuộc sống đẹp cùng với tâm hồn chan chứa yêu thương của anh đã làm cho mọi người yêu thích. Ông họa sĩ hẹn trở lại đây, còn cô kĩ sư chìa tay cho anh nắm như người ta cho nhau cái gì đó chứ không phải là cái bắt tay”. Ngay cả độc giả của chúng ta cũng không khỏi bị cuốn hút, không khỏi cảm thấy gần gũi và tin yêu người thanh niên ấy. Có thể nói, tác phẩm nói chung, nhân vật anh thanh niên nói riêng đã để lại trong tâm hồn bạn đọc một ấn tượng sâu đậm về một vẻ đẹp nhân cách, tâm hồn của con người Việt Nam, giai đoạn miền Bắc vượt muôn ngàn gian khó để vừa chia lửa với miền Nam chống Mĩ vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chính những vang âm, sắc màu, hơi ấm của một vùng đất lặng lẽ ấy đã khơi gợi biết bao trong lớp người đọc tác phẩm này tình yêu Tổ quốc, tình yêu con người – những con người đã một thời sống đẹp, suy nghĩ đẹp để từ đó hướng tới tìm cho mình một vẻ đẹp riêng trong sự sống, cách sống của con người..

<span class='text_page_counter'>(263)</span> 4. Giá trị nghệ thuật: Chuyển ý: Truyện không chỉ hấp dẫn, lôi cuốn t abo7i3 những vẻ đẹp của các nhân vật trong truyện mà còn đem lại sự lý thúcho độc giả bởi nghệ thuật viết văn khá thành thục và vững vàng của tác giả. Trước hết phải kể đến nghệ thuật xây dựng nhân vật độc đáo. Truyện không có những nhân vật có cá tính đặc biệt lạ lùng mà họ đều là những con người bình thường, dễ gần gũi. Tất cả các nhân vật trong truyện đều không rõ tên, địa chỉ. Phải chăng Nguyễn Thành Long muốn lưu ý với chúng ta một điều: họ đều là những con người bình dị trong cuộc sống đời thường. Họ xuất thân từ những vùng đất khác nhau, làm những công việc khác nhau nhưng lại gặp nhau ở một điểm “ lặng lẽ dâng cho đời”, cống hiến cho đời với tất cả tình yêu cuộc sống của mình. Thông qua những cảm xúc, suy nghĩ cùng thái độ cảm mến của các nhân vật phụ, hình ảnh nhân vật anh thanh niên được hiện ra càng rõ nét và đẹp hơn. Đây là một thủ pháp nghệ thuật mà tác giả đã sử dụng thành công trong việc xây dựng nhân vật chính của truyện. Kết cấu của chuyện cũng rất chặt chẽ, gần như không có chuyện, sự phát triển của các tình tiết nhẹ nhàng. Tác phẩm không có những tình tiết li kỳ, phức tạp. “Lặng lẽ Sa Pa” thu hút người đọc ở sự giản dị đến mức không ngỡ của nó. Có thể nói tác phẩm tiêu biểu cho phong cách viết của tác giả với những trang miêu tả giàu chất thơ, trong sáng, hàm súc nhất là những miêu tả cảnh thiên nhiên.Dưới ngòi bút của Nguyễn Thành Long, Sa Pa hiện lên với một vẻ đẹp dịu nhẹ, trong trẻo thanh thoát nên thơ, đầy sức hấp dẫn: “lúc bấy giờ nắng đã mạ bạc cả con đèo... nắng chiều làm cho bó hoa càng thêm rực rỡ theo”, “một ấn tượng.

<span class='text_page_counter'>(264)</span> hàm ơn khó tả dạt lên trong lòng cô gái. Không phải chỉ vì bó hoa rất to phải đi theo cô...mà vì một bó hoa nào khác nữa”,...Ngay cả ngôn ngữ đối thoại cũng thể hiện sự dụng công của nhà văn. Đó là ngôn ngữ rất riêng rất phù hợp với tâm lí và tình cảm của từng nhân vật: anh thanh niên vui vẻ, hồn nhiên; cô kĩ sư e ấp dễ xao xuyến; ông họa sĩ lịch duyệt, rất tâm lí. Ngay cả nhan đề của tác phẩm nghe cũng rất thơ mộng. C. KẾT BÀI: Bằng một giọng văn nhẹ nhàng, thâm trầm cùng với nghệ thuât khắc họa tính cách nhân vật độc đáo: Xây dựng những nhân vật phụ để làm nổi bật nhân vật chính, nhà văn Nguyễn Thành Long đã hoàn toàn chinh phục trái tim độc giả qua hình ảnh anh thanh niên – một con người “ngày đêm làm việc và lo nghĩ” cho đất nước. Trong truyện cũng có thể xem là những bức tranh đẹp, những bức tranh về cảnh thiên nhiên ở Sa Pa, về cuộc gặp gỡ giữa ba nhân vật và đặc biệt là bức chân dung kí họa về nhân vật chính.. CÁC KẾT BÀI THAM KHẢO CÁCH 1: Tập thể những con người trong truyện nói chung và cá nhân anh nói riêng đã có sức động viên rất lớn cho những ai đang chuẩn bị hành trang để bước vào đời. CÁCH 2. Đọc truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa”, ta tán thành ý kiến của PGS Nguyễn Văn Long: “ Tác phẩm như một bài thơ về vẻ đẹp trong cách sống và suy nghĩ của những con người lao động bình thường mà cao.

<span class='text_page_counter'>(265)</span> cả, những mẫu người của một giai đoạn lịch sử có nhiều gian khổ, hi sinh cũng thật trong sáng, đẹp đẽ”.. CẢM NHẬN ĐOẠN TRÍCH “CHIẾC LƯỢC NGÀ” CỦA NGUYỄN QUANG SÁNG A. MỞ BÀI: Là một nhà văn rất am hiểu và gắn bó với mảnh đất Nam bộ, truyện Nguyễn Quang Sáng hầu như chỉ viết về cuộc sống và con người Nam bộ trong chiến tranh và sau hòa bình. Tác phẩm của ông thường có cốt truyện hấp dẫn, xoay quanh những tình huống khá bất ngờ nhưng tự nhiên, hợp lí. Những đặc điểm nêu trên có thể thấy rõ trong truyện “Chiếc lược ngà”. Truyện được nhà văn Nguyễn Quang Sáng viết năm 1966, tại chiến trường Nam bộ trong thời kì cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra quyết liệt – khá tiêu biểu cho bút pháp của Nguyễn Quang Sáng. Tác phẩm đã diễn tả một cách cảm động tình cha con thắm thiết, sâu nặng của hai cha con ông sáu và tình nghĩa đồng đội trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt thời chống Mĩ. Qua đó, tác giả nhằm khẳng định và ca ngợi tình phụ tử thiêng liêng như một giá trị nhân bản sâu sắc, nó càng cao đẹp trong những cảnh ngộ khó khăn. B. THÂN BÀI: 1. Tóm lược truyện: Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến. Mãi đến khi con gái lên tám tuổi, ông mới có dịp về thăm nhà, thăm con. Bé Thu không nhận ra cha vì sẹo trên mặt làm ba em không giống với người trong bức ảnh chụp mà em đã biết. Em đối xử với ba như với người xa lạ. Đến lúc.

<span class='text_page_counter'>(266)</span> Thu nhận ra cha, tình cha con thức dậy mãnh liệt trong em thì cũng là lúc ông Sáu phải ra đi. Ở khu căn cứ, người cha dồn hết tình cảm yêu quý, nhớ thương đứa con vào việc làm một chiếc lược bằng ngà voi để tặng cô con gái bé bỏng. Trong một trận càn, ông hi sinh. Trước lúc nhắm mắt, ông còn kịp trao cây lược cho người bạn nhờ trao lại cho đứa con gái yêu. 2. Giá trị nội dung: a. Truyện đã thể hiện tình phụ tử sâu sắc của hai cha con ông Sáu trong hai tình huống:  Đó là tình huống hai cha con gặp nhau sau tám năm xa cách nhưng thật trớ trêu là bé Thu không nhận cha, đến lúc em nhận ra và biểu lộ tình cảm thắm thiết thì ông Sáu lại phải ra đi. Đây là tình huống cơ bản của truyện bộc lộ tình cảm mãnh liệt của bé Thu đối với người cha của mình.  Tình huống còn lại xoay quanh sự việc ở khu căn cứ, ông Sáu dồn tất cả tình yêu thương và mong nhớ đứa con vào việc làm cây lược ngà để tặng con, nhưng ông đã hi sinh khi chưa kịp trao món quà ấy cho đứa con gái. Tình huống thứ hai biểu lộ tình cảm sâu sắc của ông Sáu – của người cha đối với đứa con gái bé bỏng của mình. b. Cảm nhận về nhân vật bé Thu:  Thái độ và hành động của Thu trước khi nhận ra ông Sáu là cha: - Gặp lại con sau nhiều năm xa cách với bao nỗi nhớ thương nên ông Sáu không kìm được nỗi vui mừng trong phút đầu nhìn thấy con. Nhưng thật trớ trêu, đáp lại sự vồ vập của người cha, bé Thu lại tỏ ra ngờ vực, lãng tránh và ông Sáu càng muốn gần con thì đứa con càng.

<span class='text_page_counter'>(267)</span> tỏ ra ngờ vực, xa cách. Tâm lí và thái độ ấy của Thu đã được biểu hiện qua hàng loạt các chi tiết mà người kể chuyện quan sát và thuật lại rất sinh động: hốt hoảng, mặt tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét lên khi mới gặp ông Sáu, chỉ gọi trống không với ông mà không chịu gọi ba, nhất định không chịu nhờ ông chắt nước nồi cơm to đang sôi, hất cái trứng cá mà ông gắp cho, cuối cùng khi bị ông Sáu đánh cho một cái thì bỏ về nhà bà ngoại, khi xuống xuồng còn cố ý khua dây cột xuồng rổn rảng thật to. - Việc cô bé nói năng cộc lốc, cư xử vùng vằng, thái độ ương ngạnh của bé Thu hoàn toàn không đáng trách. Trong hoàn cảnh xa cách và trắc trở của chiến tranh, nó còn quá bé nhỏ để hiểu được những tình thế khắc nghiệt, éo le của cuộc đời và người lớn cũng không ai kịp chuẩn bị cho nó đón nhận những khả năng bất thường, nên nó không tin ông Sáu là ba nó vì trên mặt ông so với hình ba nó chụp với má nó thì có thêm vết sẹo. Phản ứng tâm lí của em hoàn toàn tự nhiên, nó còn chứng tỏ em có cá tính mạnh mẽ, tình cảm của em sâu sắc chân thật, em chỉ yêu ông Sáu – ba của em – khi tin chắc đó đúng là ba. Trong cái “cứng đầu” của em có ẩn chứa cả sự kiêu hãnh trẻ thơ về một tình yêu dành cho người cha “khác” – người cha trong tấm hình chụp chung với má em.  Thái độ và hành động của Thu khi nhận ra người cha: - Tình cảm cha con tưởng chừng không hình thành được. Thế mà trong buổi sáng cuối cùng, trước phút ông Sáu phải lên đường, thái độ và hành động của bé Thu đã đột ngột thay đổi hoàn toàn. Khi nhìn thẳng, đối diện với cha “đôi mắt mênh mông của con bé bổng xôn xao. Đằng sau đôi mắt mênh mông ấy, chắc đang xáo động biết bao ý nghĩ,.

<span class='text_page_counter'>(268)</span> tình cảm. Lần đầu tiên Thu cất tiếng gọi “ba” và tiếng kêu như xé, rồi “nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó chạy thót lên và dng hai tay ôm chặt cổ ba nó”, “Nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài trên má của ba nó nữa”, “hai tay nó xiết chặt lấy cổ, chắc nó nghĩ hai tay không giữ được ba nó, nó dang cả hai chân rồi câu chặt lấy ba nó, và đôi vai nhỏ bé của nó run run”. Chắc cô bé khóc. Phải chăng lúc ấy Thu thấy xót xa ân hận về lỗi lầm của mình, thực sự thấy xót thương cho người cha đau khổ? - Trong đêm bỏ về nhà bà ngoại, Thu đã được bà ngoại giải thích về vết sẹo làm thay đổi khuôn mặt ba nó. Sự nghi ngờ bấy lâu đã được giải tỏa và ở Thu nảy sinh một trạng thái như là sự ân hận, hối tiếc: “Nghe bà kể nó nằm im, lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn”. Vì thế trong giờ phút chia tay với cha, tình yêu và nỗi mong nhớ với người cha xa cách đã bị dồn nén bấy lâu, nay bùng ra thật mạnh mẽ và hối hả, cuống quýt, có xen lẫn cả sự hối hận. Vì vậy, Thu cố siết cổ cha, cấu chặt lấy người cha như muốn đền bù những hụt hẫng đã qua. Nhà văn không viết nhiều, song chỉ bằng một chi tiết nhỏ ấy đủ cho chúng ta xúc động trước nỗi niềm, tâm trạng của nhân vật. Nỗi niềm, tâm trạng ấy trong trẻo, chân thành biết bao. Vì thế khi thấu tỏ nguyên cớ khiến bé Thu ương ngạnh, chưa chịu nhận ông Sáu là cha, mọi người và bạn đọc chúng ta có thể lượng thứ cho Thu. Trong tâm hồn cô bé tám tuổi ấy, người cha đẹp lắm, trẻ lắm. Giờ đây cô lại vỡ ra thêm một vẻ đẹp nữa: cha cô sống gian khổ và thật anh hùng. Cái giây phút “vỡ” ra ấy được nhà văn miêu tả bằng một đoạn văn thật đặc sắc. Tiếng “ba” như vỡ tung ra từ đáy lòng.

<span class='text_page_counter'>(269)</span> nó...Nó chạy thót lên và dang tay ôm chặt lấy cổ ba nó. Tôi thấy làn tóc tơ sau ót nó như dựng đứng lên”. Dường như, từ giờ phút thức tỉnh đó, Thu bắt đầu một giai đoạn sống khác. Cô bé không chỉ yêu cha mà còn thương cha, tự hào về cha. Tình yêu thương và niềm tự hào ấy, phải chăng đã trở thành sức mạnh hôi thúc, rèn giũa để Thu trưởng thành? Chứng kiến ngững tình cảm ấy trong cảnh ngộ cha con ông Sáu phải chia tay, có người không cầm được nước mắt và người kể chuyện thì thấy “như có có bàn tay ai nắm lấy trái tim, mình”. c. Cảm nhận về nhân vật ông Sáu: - Vì cuộc chiến đấu của dân tộc, ông đã mang vết sẹo trên mặt, đã hi sinh vẻ đẹp của thời trai trẻ. Đấy là nỗi đau thể xác. Mấy ngày về thăm nhà, ông lại phải trải qua nỗi đau tinh thần: đứa con gái duy nhất ông hằng mong nhớ, không chịu nhận ông là cha, không một lời gọi “Ba”. Cho đến phút cuối cùng trước khi chia tay, ông mới được hưởng hạnh phúc của một người cha. Nhưng phút giây ấy quá ngắn ngủi. Ông Sáu cũng đâu ngờ rằng giây phút “nhận nhau” đầu tiên của hai cha con cũng là giây phút cuối cùng được gặp con. - Mang lời hẹn ước của con gái ra đi, khi đã kiếm được khúc ngà, ông đã vô cùng vui mừng, sung sướng rồi dành hết tâm trí, công sức vào việc làm cây lược, người cha ấy đã miệt mài, say sưa cưa, dũa thận trọng, tỉ mỉ như một nghệ nhân: “Những lúc rỗi, anh cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như một người thợ bạc” và trên sống lưng lược có khắc một hàng chữ nhỏ mà anh đã gò lưng, tẩn mẩn khắc từng nét: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. “Cây lược nhỏ xinh chưa kịp chải mái tóc của con, nhưng nó như gỡ rối được phần nào tâm trạng” của ông. Nó trở thành vật thiêng liêng, quý giá, an ủi.

<span class='text_page_counter'>(270)</span> ông, nuôi dưỡng trong ông tình cha con và sức mạnh chiến đấu. Hằng đêm, ông đã nhìn ngắm chiếc lược, mài nó lên tóc, cho chiếc lược thêm bóng, thêm mượt. Tác giả không miêu tả rõ, song người đọc cái kỉ vật nhò bé mà thân thương ấy, mỗi ngày một đẹp lên, trắng ngà, anh ánh, tỏa sáng lung linh. Đó là biểu tượng trắng trong, quý giá, bất diệt của tình cha con ông Sáu và bé Thu. Do đó, khi biết sắp vĩnh biệt con, ông Sáu vẫn nhớ chiếc lược, đã chuyển nó cho người bạn, như một cử chỉ chuyển giao sự sống, chuyển giao tình yêu thương phụ tử thiêng liêng, một ước nguyện muôn đời gìn giữ tình cảm cha con ruột thịt. Đúng như ông Ba – người kể chuện nói : “Chỉ có tình cha con là không thể chết được”. Chiếc lược ngà đã tìm đúng địa chỉ, trao lại cho người con gái để “tình cha con không chết”! Và hơn thế nữa, nó đang sống lại trong cái sự sống của người đồng chí già. Người cha ấy đã ngã xuống trong lặng thầm, không một lời trăn trối, không một nấm mồ, không một bia mộ. “Các bạn ạ! Trong những ngày đen tối ấy, người sống phải sống bí mật, cũng đành một lẽ, còn người chết cũng phải chết bí mật nữa!”. Lời của ông Ba nói với đồng đội khi kể chuyện, hay đấy chính là lời nhắn nhủ thiêng liêng của ông Sáu gửi lại người ruột thịt, gửi lại chúng ta? Sống rồi hi sinh, khổ đau và lặng lẽ, song người chiến sĩ ấy vẫn không mất đi trong tâm khảm của người con, trong suy nghĩ của đồng đội và cả độc giả chúng ta. - Câu chuyện “Chiếc lược ngà” không chỉ làm nổi bậc tình cảm cha con thắm thiết, sâu nặng của cha con ông Sáu mà còn gợi cho người đọc nghĩ đến và thấm thía những đau thương, mất mát, éo le mà chiến tranh gây ra cho bao nhiêu con người, bao nhiêu gia đình..

<span class='text_page_counter'>(271)</span> 3. Giá trị nghệ thuật: Một trong những điểm tạo nên sự hấp dẫn của truyện “Chiếc lược ngà” cũng như khá nhiều truyện của Nguyễn Quang Sáng là tác giả đã xây dựng được một cốt truyện khá chặt chẽ, có những yếu tố bất ngờ nhưng hợp lí: bé Thu không nhận ra cha khi ông Sáu về thăm nhà, sau đó cô bé lại biểu lộ những tình cảm thật nồng nhiệt, đầy xúc động với người cha trước lúc chia tay. Sự bất ngờ còn gây được hứng thú cho người đọc khi hiểu được tính hợp lí của các sự việc, hành động bề ngoài có vẻ mâu thuẫn. Ở phần sau của truyện, tác giả còn tạo thêm bất ngờ nữa, đó là cuộc gặp gỡ tình cờ của nhân vật người kể chuyện – ông Ba, người đồng đội của ông Sáu – với đứa con của người đồng đội đã mất – cô bé Thu ngày xưa – giờ trở thành một cô giao liên dũng cảm, thông minh, trong một lần ông cùng đoàn cán bộ đi theo đường dây giao liên vượt qua một đoạn nguy hiểm ở Đồng Tháp Mười và trao cây lược lại cho cô bé Thu. - Một yếu tố góp phần làm nên thành công của truyện ngắn này là lựa chọn nhân vật kể chuyện thích hợp. Người kể chuyện trong vai trò một người bạn thân thiết của ông Sáu, không chỉ là người chứng kiến khách quan kể lại mà còn bày tỏ sự đồng cảm, chia sẻ với nhân vật. Đồng thời qua những suy nghĩ, càm xúc của nhân vật kể chuyện, các chi tiết, sự việc và nhân vật khác trong truyện bộc lộ rõ hơn, ý nghĩa tư tưởng của truyện thêm sức thuyết phục.Truyện được trần thuật theo lời của người bạn ông Sáu, người đã chứng kiến cảnh ngộ éo le của cha con ông. Cảnh ngộ ấy đã gợi lên bao nhiêu xúc động ở nhân vật kể chuyện: “Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người. Nghe thật xót xa. Đó là tiếng “Ba” mà nó.

<span class='text_page_counter'>(272)</span> cố đè nén trong bao năm nay, tiếng ba như vỡ tung ra từ đáy lòng nó”. Lòng trắc ẩn , sự thấu hiểu những hi sinh mà bạn mình phải chịu đựng khiến ông bỗng thấy khó thở “như có bàn tay ai nắm lấy trái tim mình”. Chọn nhân vật kể như vậy khiến cho câu chuyện đáng tin cậy hơn. Người kể chuyện hoàn toàn chủ động điều chỉnh nhịp kể theo trạng thái cảm xúc của mình, chủ động xen vào những ý kiến bình luận, suy nghĩ để dẫn dắt sự tiếp nhận của người đọc, người nghe: “Trong cuộc đời kháng chiến của tôi, tôi chứng kiến bao nhiêu cuộc chia tay, nhưng chưa bao giờ tôi bị xúc động như lần ấy”, “Cây lược ngà chưa chải được mái tóc của con nhưng nó gỡ rối phần nào được tâm trạng của anh”. - Đó còn là nghệ thuật miêu tả tâm lý tuổi thơ đặc sắc, tinh tế. Tác giả đã khắc họa một số nét tính cách của Thu biểu hiện qua tâm lý và hành động. Đó là tình cảm thật sâu sắc, mạnh mẽ nhưng cũng thật dứt khoát, rạch ròi. Ở Thu vẫn còn có nét cá tính là sự cứng cỏi đến mức tưởng như ương ngạnh, nhưng Thu vẫn là một đứa trẻ với tất cả nét hồn nhiên, ngây thơ của con trẻ. Qua những diễn biến tâm lý của bé Thu được miêu tả trong truyện, ta thấy tác giả tỏ ra rất am hiểu tâm lý trẻ em và diễn tả rất sinh động với tấm lòng yêu mến trân trọng những tình cảm trẻ thơ. - Nghệ thuật kể chuyện, dẫn truyện của tác giả thật thoải mái, tự nhiên với giọng thân mật, dân dã. Ngôn ngữ trong truyện của Nguyễn Quang Sáng gần với khẩu ngữ và đậm màu sắc Nam bộ. Gấp sách lại, câu chuyện về “Chiếc lược ngà”, mấy lời nói cuối cùng của ông Ba – giọng trầm ấm, khoan thai – cứ âm vang mãi trong bạn đọc chúng ta, như sự âm vang của một truyện cổ tích. Ông Ba, hay.

<span class='text_page_counter'>(273)</span> chính là nhà văn Nguyễn Quang Sáng? Phải là người từng trải, đã sống hết mình với công cuộc kháng chiến của quê hương giàu tình nghĩa, rất nhân hậu mà kiên cường, bất khuất, bất diệt, nhà văn mới nhập được vào các nhân vật, sáng tạo được nhiều hình tượng, chi tiết sinh động, bất ngờ, có được giọng văn dung dị và cảm động đến như vậy! C. KẾT BÀI: Tóm lại, truyện đã diễn tả một cách cảm động tình cha con thắm thiết, sâu nặng của hai cha con ông Sáu và tình nghĩa đồng đội trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt thời chống Mỹ. Qua đó, tác giả nhằm khẳng định và ca ngợi tình phụ tử thiêng liêng như một giá trị nhân bản sâu sắc, nó càng cao đẹp trong những cảnh ngộ khó khăn. Tất cả đã được thể hiện qua ngòi bút rất riêng của nhà văn Nam bộ Nguyễn Quang Sáng. Cụ thể đó là nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật, đặc biệt là nhân vật bé Thu, cách xây dựng tình huống truyện bất ngờ mà tự nhiên của tác giả. Qua cuộc đời mỗi nhân vật, từ cô bé Thu đến ông Sáu, ông Ba, Nguyễn Quang Sáng như muốn khẳng định một điều có ý nghĩa hết sức thiêng liêng: trong cuộc kháng chiến gian khổ chống ngoại xâm vừa qua của dân tộc ta, tình nghĩa con người Việt Nam nhất là tình cha con, đồng đội, sự gắn bó thế hệ già với thế hệ trẻ, người chết và người sống... mãi mãi bất diệt như chiếc lược ngà của bé Thu, không bao giờ có thể mất đi! ...oo....

<span class='text_page_counter'>(274)</span> CẢM NHẬN VỀ NHÂN VẬT BÉ THU TRONG ĐOẠN TRÍCH “CHIẾC LƯỢC NGÀ” CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN QUANG SÁNG A. MỞ BÀI: CÁCH 1 Là một nhà văn rất am hiểu và gắn bó với mảnh đất Nam bộ, truyện Nguyễn Quang Sáng hầu như chỉ viết về cuộc sống và con người Nam bộ trong chiến tranh và sau hòa bình. Tác phẩm của ông thường có cốt truyện hấp dẫn, xoay quanh những tình huống khá bất ngờ nhưng tự nhiên, hợp lý. Những đặc điểm nêu trên có thể thấy rõ trong truyện “Chiếc lược ngà”. Truyện được nhà văn Nguyễn Quang Sáng viết năm 1966, tại chiến trường Nam bộ trong thời kỳ cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra quyết liệt – khá tiêu biểu cho bút pháp truyện ngắn của Nguyễn Quang Sáng. Tác phẩm đã diễn tả một cách cảm động tình cha con thắm thiết, sâu nặng của hai cha con ông Sáu và tình nghĩa đồng đội trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt thời chống Mỹ. Đọc truyện, chúng ta làm sao có thể quên được hình ảnh bé Thu – một đứa trẻ có cá tính mạnh mẽ và có tình yêu thương cha sâu đậm. CÁCH 2 Chiến tranh từ bao đời nay luôn đồng nghĩa với chia ly, mất mát, đau thương, đổ vỡ, tàn phá, nước mắt... Cũng viết về đề tài quen thuộc ấy, nhà văn Nguyễn Quang Sáng với truyện ngắn “Chiếc lược ngà” không chỉ góp thêm một tiếng nói tố cáo tội ác của bọn xâm lược.

<span class='text_page_counter'>(275)</span> Mỹ mà còn đem đến cho chúng ta sự rung động về một đề tài rất hạn hữu: tình cha con. Có thể nói hình ảnh cô bé Thu hồn nhiên, ương bướng, ngang ngạnh, có tình yêu thương cha rất mực, một cô giao liên thông minh gan dạ sau này đã để lại nhiều thiện cảm trong lòng độc giả. B. THÂN BÀI: 1. Sơ lược tác phẩm:( ở phần trên) 2. Cảm nhận về nhân vật bé Thu: Trước hết, đọc đoạn trích ta thấy bé Thu là một đứa trẻ hồn nhiên thơ dại nhưng có cá tính mạnh mẽ. Qua lời dẫn truyện của tác giả, ta thấy hiện lên hình ảnh “một đứa bé độ tám tuổi tóc cắt ngang vai, mặc quần đen, áo bông đỏ đang chơi nhà chòi dưới bóng cây xoài trước sân nhà”. Gặp người đàn ông xa lạ cứ nhận là ba của mình, bé tỏ ra ngờ vực, lảng tránh. Tâm lý và thái độ ấy của Thu đã được biểu hiện qua hàng loạt các chi tiết mà người kể chuyện quan sát và thuật lại rất sinh động: hốt hoảng, mặt tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét lên khi mới gặp ông Sáu. Trong những ngày ông Sáu ở nhà nghỉ phép, bé nhất định chỉ gọi trống không mà không chịu nhận ông Sáu là cha; nhất định không chịu nhờ ông chắt nước trong nồi cơm to đang sôi, hất cái trứng cá mà ông gắp cho; cuối cùng khi bị ông Sáu tức giận đánh một cái thì bỏ về nhà bà ngoại, khi xuống xuồng còn cố ý khua dây cột xuồng kêu rổn rảng thật to. Những biểu hiện ấy đủ thấy em ương ngạnh biết bao! Chúng ta vẫn tự hỏi: Tại sao Thu cố chấp vậy? Không tin rằng đó là ba mình khi mà cả bác Ba, cả mẹ - những người mà Thu tin tưởng nhất đều khẳng định đó là ba Thu?.

<span class='text_page_counter'>(276)</span> Việc cô nói năng cộc lộc, cư xử vùng vằng, thái độ ương ngạnh của bé Thu hoàn toàn không đáng trách. Bé không tin ông Sáu là ba nó chỉ vì trên mặt ông có thêm vết sẹo, khác với hình ba mà nó đã được biết. Phản ứng tâm lý của em là hoàn toàn tự nhiên, nó còn chứng tỏ em có cá tính mạnh mẽ, tình cảm của em sâu sắc chân thật, em chỉ yêu ba khi tin chắc đó đúng là ba. Trong cái “cứng đầu” của em có ẩn chứa cả sự kiêu hãnh của một đứa trẻ thơ về một tình yêu dành cho người cha “khác” – người trong tấm hình chụp chung với má em. Dõi theo tác phẩm, ta thấy bé Thu còn là một đứa trẻ có tình yêu thương cha sâu đậm. Trong đêm bỏ về nhà bà ngoại, Thu đã được bà ngoại giải thích về vết sẹo làm thay đổi khuôn mặt ba nó. Sự nghi ngờ bấy lâu đã được giải tỏa và ở Thu nảy sinh một trạng thái như là sự ân hận, hối tiếc: “Nghe bà kể nó nằm im, lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn”. Thế nên trong buổi sáng cuối cùng, trước phút ông Sáu phải lên đường, thái độ và hành động của bé Thu đã đột ngột thay đổi hoàn toàn. Khi nhìn thẳng, đối diện với cha, “đôi mắt mênh mông của con bé bỗng xôn xao”. Đằng sau đôi mắt mênh mông ấy, chắc đang xáo động biết bao ý nghĩ, tình cảm. Lần đầu tiên Thu cất tiếng gọi “ba” và tiếng kêu như tiếng xé, rồi “nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó”, “Nó hôn ba nó khắp cùng. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa”, “hai tay nó xiết chặt lấy cổ, chắc nó nghĩ hai tay không thể giữ được ba nó, nó dang cả hai chân rồi câu chặt lấy ba nó, và đôi vai nhỏ bé của nó run run”. Chắc cô bé khóc. Phải chăng lúc ấy Thu thực sự thấy xót xa ân hận về lỗi lầm của mình, thực sự thấy xót thương người cha đau khổ?.

<span class='text_page_counter'>(277)</span> Nhà văn không viết nhiều, song chỉ bằng một vài chi tiết nhỏ ấy, đủ cho chúng ta xúc động trước những nỗi niềm, tâm trạng của nhân vật. Nỗi niềm, tâm trạng ấy trong trẻo, chân thành xiết bao! Vì thế, khi thấu tỏ nguyên cớ khiến bé Thu ương ngạnh, chưa chịu nhận ông Sáu là cha, mọi người và bạn đọc chúng ta đều có thể cảm thông và lượng thứ cho Thu. Trong tâm hồn cô bé tám tuổi ấy, người cha đẹp lắm, trẻ lắm. Giờ đây, cô lại vỡ ra thêm một vẻ đẹp nữa là: cha cô sống gian khổ và thật anh hùng. Cái giây phút “vỡ” ra ấy của nhân vật được nhà văn miêu tả bằng một đoạn văn thật đặc sắc “Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa... Tiếng “ba” như vỡ tung ra từ đáy lòng nó... Nó chạy thót lên và dang tay ôm chặt lấy cổ ba nó. Tôi thấy làn tóc tơ sau ót nó như dựng đứng lên”. Dường như, từ giờ phút thức tỉnh đó, Thu bắt đầu một giai đoạn sống khác. Cô bé không chỉ yêu cha mà còn thương cha, tự hào về cha. Tình yêu thương và niềm tự hào ấy, phải chăng đã trở thành sức mạnh thôi thúc, rèn giũa để Thu trưởng thành? Chứng kiến những biểu hiện tình cảm ấy trong cảnh ngộ cha con ông Sáu phải chia tay, có người không cầm được nước mắt và người kể chuyện thì cảm thấy “như có bàn tay ai nắm lấy trái tim mình”. 3. Đánh giá chung: - Đọc đoạn trích chúng ta cảm thấy như vui buồn cùng các nhân vật. Đáng yêu làm sao hình ảnh một bé Thu hồn nhiên thơ dại. Tình cảm của Thu dành cho ba sâu sắc và cảm động biết dường nào!... - Qua những diễn biến tâm lý của bé Thu được miêu tả trong truyện, ta thấy tác giả rỏ ra rất am hiểu tâm lý trẻ em và diễn tả rất sinh động với tấm lòng yêu mến trân trọng những tình cảm trẻ thơ. Phải là.

<span class='text_page_counter'>(278)</span> người từng trải, đã sống hết mình với công cuộc kháng chiến của quê hương giàu tình nghĩa, rất nhân hậu mà kiên cường, bất khuất, bất diệt, nhà văn Nguyễn Quang Sáng mới nhập được vào các nhân vật, sáng tạo được nhiều hình tượng, chi tiết sinh động, bất ngờ, có được giọng văn dung dị và cảm động đến như vậy! 4. Giá trị nghệ thuật: Truyện còn lôi cuốn độc giả bởi nghệ thuật viết truyện ngắn vững vàng của nhà văn Nguyễn Quang Sáng. Một trong những điểm tạo nên sự hấp dẫn của truyện “Chiếc lược ngà” cũng như khá nhiều truyện của Nguyễn Quang Sáng là tác giả đã xây dựng được một cốt truyện khá chặt chẽ, có những tình huống bất ngờ nhưng hợp lý: bé Thu không nhận ra cha khi ông Sáu về thăm nhà, rồi lại biểu lộ những tình cảm thật nồng nhiệt, đầy xúc động với người cha trước lúc chia tay. Sự bất ngờ càng gây được hứng thú cho người đọc khi hiểu được tính hợp lý của các sự việc, hành động bề ngoài có vẻ mâu thuẫn. Đó còn là nghệ thuật miêu tả tâm lí tuổi thơ đặc sắc, tinh tế. Tác giả đã khắc họa một số nét tính cách của bé Thu biểu hiện qua tâm lí và hành động. Đó là tình cảm thật sâu sắc, mạnh mẽ nhưng cũng thật dứt khoát, rạch ròi. Ở Thu vẫn còn có nét cá tính là sự cứng cỏi đến mức gần như ương nghạnh, nhưng Thu vẫn là một đứa trẻ với tất cả những nét hồn nhiên, ngây thơ của con trẻ. C.. KẾT BÀI: Tóm lại, qua nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, đặc biệt là. nhân vật bé Thu, cách xây dựng tình huống truyện bất ngờ mà tự nhiên.

<span class='text_page_counter'>(279)</span> của tác giả, truyện ngắn nói chung, đoạn trích nói riêng đã diễn tả một cách cảm động tình cha con thắm thiết, sâu nặng của hai cha con ông Sáu trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt thời chống Mĩ. Qua đó tác giả nhằm khẳng định và ca ngợi tình phụ tử thiêng liêng như như một già trị nhân bản sâu sắc, nó càng cao đẹp trong cảnh ngộ khó khăn. Đọc đoạn trích ta còn thấy yêu làm sao một cô bé Thu hồn nhiên bướng bỉnh, một cô giao liên dũng cảm, thông minh sau này. Cảm động thay tình cha con ấm nồng sâu nặng của hai thế hệ cùng đi trên một con đường Cách mạng. ...oo.... CẢM NHẬN VỀ NHÂN VẬT ÔNG SÁU TRONG ĐOẠN TRÍCH “CHIẾC LƯỢC NGÀ” CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN QUANG SÁNG A. MỞ BÀI: CÁCH 1 Là một nhà văn rất am hiểu và gắn bó với mảnh đất Nam bộ, truyện Nguyễn Quang Sáng hầu như chỉ viết về cuộc sống và con người Nam bộ trong chiến tranh và sau hòa bình. Tác phẩm của ông thường có cốt truyện hấp dẫn, xoay quanh những tình huống khá bất ngờ nhưng tự nhiên, hợp lí. Những đặc điểm nêu trên có thể thấy rõ trong truyện “Chiếc lược ngà”. Truyện được nhà văn Nguyễn Quang Sáng viết năm 1966, tại chiến trường Nam bộ trong thời kì cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước đang diễn ra ác liệt – khá tiêu biểu cho bút pháp truyện ngắn của Nguyễn Quang Sáng..

<span class='text_page_counter'>(280)</span> Tác phẩm đã diễn tả một cách cảm động tình cha con thắm thiết, sâu nặng của hai cha con thắm thiết, sâu nặng của hai cha con ông Sáu và tình nghĩa đồng đội trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt thời chống Mĩ. Đọc truyện chúng ta có thể làm sao quên được hình ảnh ông Sáu – một người cha có tình yêu thương con sâu đậm. CÁCH 2: Chiến tranh từ bao đời nay luôn đồng nghĩa với chia li, mất mát, đau thương, đỗ vỡ, tàn phá, nước mắt,...Cũng viết về đề tài quen thuộc ấy, nhà văn Nguyễn Quang Sáng với truyện ngắn “Chiếc lược ngà” không chỉ góp thêm một tiếng nói tố cáo tội ác của bọn xâm lược Mĩ mà còn đem lại cho chúng ta sự rung động về một đề tài rất hạn hữa: tình cha con.Tình cảm ấy đã được tác giả gửi gắm qua việc xây dựng nhân vật ông Sáu – một người cha có tình yêu thương coon sâu đậm. B. THÂN BÀI: 1. Sơ lược tác phẩm:( xem phần trên). 2. Cảm nhận về nhân vật ông Sáu: - Đọc đoạn trích “Chiếc lược ngà”, ta thấy đáng yêu làm sao hình ảnh một bé Thu hồn nhiên thơ dại nhưng cò tình cảm dành cho người cha thật sâu sắc ấm nồng!...Bên cạnh nhân vật bé Thu, truyện còn để lại trong ta sự xúc động trước tình yêu thương con da diết của nhân vật ông Sáu. - Vì cuộc chiến đấu của dân tộc, ông đã mang vết sẹo trên mặt, đã hi sinh vẻ đẹp của một thời trai trẻ. Đấy là nỗi đau thể xác. Mấy ngày về thăm nhà, ông lại phải trải qua nỗi đau tinh thần: Đứa con gái duy nhất, ông hằng mong nhớ, không chịu nhận ông là cha, không một.

<span class='text_page_counter'>(281)</span> lời gọi “Ba”. Nhà văn tỏ ra sắc sảo khi khắc họa các chi tiết “Anh quay lại nhìn con vừa khe khẽ lắc đầu vừa cười. Có lẽ khổ tâm đấn nỗi không khóc được, nên anh phải cười vậy thôi”. Đọc giả chúng ta làm sao không chia sẻ với người cha đang trong tâm trạng ấy. Chính vì vậy, ta càng thông cảm hơn là trách ông khi ông không nén được cơn tức giận đã “vung tay” đánh con mà lòng đau như cắt và hành động “không kịp suy nghĩ” ấy nó cứ “giày vò anh” khi người cha ấy trở về đơn vị. Tình yêu thương con của ông Sáu thẳm sâu biết nhường nào! - Cho đến phút cuối cùng trước lúc chia tay, ông nhìn con “với đôi mắt trìu mến lẫn buồn rầu”. Khi nghe tiếng kêu “Ba” của con và cử chỉ chạy xô tới và cảm nhận đôi bàn tay nhỏ bé của con đang ôm chặt lấy cổ mình, ông Sáu đã “không ghìm được xúc động” và “một tay ôm con, một tay kia rút khăn lau nước mắt rồi hôn lên mái tóc con”. Cái giây phút “vỡ” ra ấy của nhân vật được nhà văn miêu tả bằng một đoạn văn thật đặc sắc. Chúng kiến những biểu hiện tình cảm trong cảnh ngộ cha con ông Sáu phải chia tay, có người không cầm được nước mắt và người kể chuyện thì cảm thấy như “có bàn tay ai nắm lấy trái tim mình”. Giờ đây ông mới được hưởng hạnh phúc của một người cha. Nhưng phút giây ấy ngắn ngủi quá.Ông Sáu đâu ngờ rằng cuộc chia tay ấy là lần cuối cùng được gặp con. - Mang lời hẹn ước của con gái ra đi, khi kiếm được khúc ngà, ông đã vô cùng vui mừng, sung sướng rồi dành hết tâm trí, công sức vào việc làm cây lược ngà. Người cha ấy đã miệt mài say sưa, cưa, dũa thận trọng, tỉ mỉ như một nghệ nhân: “Những lúc rỗi, anh cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc” và trên sống lưng lược có khắc một hàng chữ mà anh đã gò lưng, tẩn mẩn.

<span class='text_page_counter'>(282)</span> khắc từng nét: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. “Cây lược nhỏ xinh chưa kịp chải mái tóc của con, nhưng nó như phần nào gỡ rối được tâm trạng” của ông. Nó trở thành vật thiêng liêng, quý giá, an ủi ông, nuôi dưỡng trong ông tình cha con và sức mạnh chiến đấu. Hằng đêm, ông đã nhìn ngắm chiếc lược, mài nó lên tóc, cho chiếc lược thêm bóng, thêm mượt. Tác giả không miêu tả rõ, song người đọc vẫn hình dung được cái kỉ vật nhỏ bé mà thân thương ấy mỗi ngày một đẹp lên, trắng ngà, anh ánh, tỏa sáng lung linh. Đó là biểu tưởng trắng trong quý giá, bất diệt của tình cha con ông Sáu và bé Thu. Do đó, khi biết sắp vĩnh biệt con, ông Sáu vẫn nhớ chiếc lược, đã chuyển nó cho người bạn, như một cử chỉ chuyển giao sự sống, chuyển giao tình yêu thương phụ tử thiêng liêng, một ước nguyện muôn đời gìn giữ tình cảm cha con ruột thịt. Đúng như ông Ba – người kể chuện nói : “Chỉ có tình cha con là không thể chết được”. Chiếc lược ngà đã tìm đúng địa chỉ, trao lại cho người con gái để “tình cha con không chết”! Và hơn thế nữa, nó đang sống lại trong cái sự sống của người đồng chí già. Người cha ấy đã ngã xuống trong lặng thầm, không một lời trăn trối, không một nấm mồ, không một bia mộ. “Các bạn ạ! Trong những ngày đen tối ấy, người sốn phải sống bí mật, cũng đành một lẽ, còn người chết cũng phải chết bí mật nữa!”. Lời của ông Ba nói với đồng đội khi kể chuyện, hay đấy chính là lời nhắn nhủ thiêng liêng của ông Sáu gửi lại người ruột thịt, gửi lại chúng ta? 3. Đánh giá chung về nhân vật: - Có thể nói hình ảnh ông Sáu trong đoạn trích được nhà văn khắc họa bằng ngòi bút thật trân trọng. Tình cảm của ông Sáu dành cho con sâu sắc và cảm động biết dường nào! Sống rồi hi sinh, khổ.

<span class='text_page_counter'>(283)</span> đau và lặng lẽ, song người chiến sĩ ấy vẫn không mất đi trong tâm khảm của người con, trong suy nghĩ của đồng đội và cả độc giả chúng ta. - Thiết nghĩ, phải là người từng trải, sống hết mình với công cuộc kháng chiến của quê hương giàu tình nghĩ, rất nhân hậu mà kiên cường, bất khuất, bất diệt, nhà văn Nguyễn Quang Sáng mới nhập được vào các nhân vật, sáng tạo được nhiều hình tượng, chi tiết sinh động bất ngờ, có giọng văn dung dị và cảm động đến như vậy! - Câu chuyện về chiếc lược ngà không chỉ làm nổi bậc tình cảm cha con thắm thiết, sâu nặng của cha con ông Sáu mà còn gợi cho người đọc nghĩ đến và thấm thía những đau thương, mất mát, éo le mà chiến tranh gây ra cho bao nhiêu con người, bao nhiêu gia đình. 4. Giá trị nghệ thuật: - Một trong những điểm tạo nên sự hấp dẫn của truyện “Chiếc lược ngà” cũng như khá nhiều truyện của Nguyễn Quang Sáng là tác giả đã xây dựng được một cốt truyện khá chặt chẽ, có những yếu tố bất ngờ nhưng hợp lí. - Nghệ thuật kể chuyện, dẫn truyện của tác giả thật thoải mái, tự nhiên với giọng thân mật, dân dã. Ngôn ngữ trong truyện của Nguyễn Quang Sáng gần với khẩu ngữ và đậm màu sắc Nam bộ. - Một yếu tố góp phần làm nên thành công của truyện ngắn này là lựa chọ nhân vật kể chuyện thích hợp. Người kể chuyện trong vai trò một người bạn thân thiết của ông Sáu, không chỉ là người chứng kiến khách quan kể lại mà còn bày tỏ sự đồng cảm, chia sẻ với nhân vật. Đồng thời qua những suy nghĩ, càm xúc của nhân vật kể chuyện, các chi tiết, sự việc và nhân vật khác trong truyện bộc lộ rõ hơn, ý.

<span class='text_page_counter'>(284)</span> nghĩa tư tưởng của truyện thêm sức thuyết phục.Chọn nhân vật kể như vậy khiến cho câu chuyện đáng tin cậy hơn. Người kể chuyện hoàn toàn chủ động điều chỉnh nhịp kể theo trạng thái cảm xúc của mình, chủ động xen vào những ý kiến bình luận, suy nghĩ để dẫn dắt sự tiếp nhận của người đọc, người nghe: “Trong cuộc đời kháng chiến của tôi, tôi chứng kiến bao nhiêu cuộc chia tay, nhưng chưa bao giờ tôi bị xúc động như lần ấy”, “Cây lược ngà chư chải được mái tóc của con nhưng nó gỡ rối phần nào được tâm trạng của anh”. C. KẾT BÀI: Tóm lại, qua nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, đặc biệt là nhân vật bé Thu, cách xây dựng tình huống truyện bất ngờ mà tự nhiên của tác giả, truyện ngắn nói chung, đoạn trích nói riêng đã diễn tả một cách cảm động tình cha con thắm thiết, sâu nặng của hai cha con ông Sáu trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt thời chống Mĩ. Qua đó tác giả nhằm khẳng định và ca ngợi tình phụ tử thiêng liêng như như một già trị nhân bản sâu sắc, nó càng cao đẹp trong cảnh ngộ khó khăn. Gấp lại trang truyện, hình ảnh ông Sáu hớn hở chạy từ rừng sâu trở về, tay cầm chiếc lược ngà và dáng điệu người cha tẩn mẩn làm kỉ vật cho con vẫn vấn vương mãi trong tâm trí chúng ta.. ĐỀ: Suy nghĩ về đời sống tình cảm gia đình trong chiến tranh qua truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của nhà văn Nguyễn Quang Sáng. Dàn ý A. Mở bài:.

<span class='text_page_counter'>(285)</span>  Nguyễn Quang Sáng là nhà văn đã tham gia cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ của dân tộc. Với cách viết dung dị, mộc mạc, các sáng táccủa ông tập trung thể hiện vẻ đẹp về cuộc sống và con người Nam bộ trong chiến tranh cũng như hòa bình.  Có thể coi (Chiếc lược ngà là truyện ngắn xuất sắc của nhà viết trong thời chống Mĩ cứu nước. Truyện đã để lại nhiều suy nghĩ sâu sắc cho người đọc về đời sống tình cảm gia đình trong chiến tranh. B. Thân bài: 1. Trình bày xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác, tóm tắt truyện và nêu chủ đề:  “Chiếc lược ngà được viết 1966, tại chiến trường Nam Bộ, trong thời kì cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước đang diễn ra vô cùng gay go, ác liệt. Đây là một câu chuyện cảm động về tình cha con, đồng chí sâu nặng.  Tóm tắt ngắn gọn truyện ngắn. 2. Suy nghĩ về tình cảm gia đình trong chiến tranh: a. Chiến tranh là tổn thương tình cảm gia đình.  Tình vợ chồng: suốt mấy năm chồng đi kháng chiến, vợ chồng ông Sáu chỉ gặp nhau có mấy lần, những lần đi thăm rất khí khăn (qua rừng, xa xôi,…), mỗi lần chỉ gặp nhau vài ngày  họ sống trong nhờ thương, chờ đợi.  Tình cha con:  Sau tám năm xa cách, bé Thu không nhận cha: Lúc mới gặp ông Sáu, “con bé giật mình, tròn mắt nhìn. Nó ngơ ngác lạ lùng”  nhìn vết thẹo dài trên má ông Sáu nó càng hoảng hốt, sợ hãi “mặt nó tái đi, vụt chạy rồi kêu thét lên”..

<span class='text_page_counter'>(286)</span> Suốt ba ngày, con bé bộc lộ sự bướng bỉnh, nhất quyết không gọi ông Sáu bằng ba, chỉ nói trổng (khi mời ông Sáu ăn cơm, khi muốn nhờ ông chắt nước…). Hất văng ra khỏi chén cái trứng cá ông Sáu gắp cho  bị ông Sáu đánh  nó bỏ sang nhà bà ngoại.  Bé Thu bộc lộ sự ương ngạnh, bướn bỉnh vừa đáng giận vừa đáng thương nhưng không đáng trách. Nguyên nhân: bé không nhận ông Sáu là ba vì ông Sáu có vết thẹo trên mặt “không giống cái hình ba chụp với má”. Với lứa tuổi của mình, Thu không thể hiểu những tình thế éo le, khắc nghiệt của chiến tranh. Vậy mà, vết sẹo chiến tranh hằn trên gương mặt ông Sáu đã làm tâm hồn Thu rướm máu  hậu quả mà chiến tranh gây ra khiến con người xót xa.  Ông Sáu rất đau lòng, thất vọng vì bé Thu không nhận mình: . Xuồng chưa cặp bến, ông Sáu đã nhảy lên bờ gọi, đưa tay. đón con, rất xúc động làm vết thẹo đỏ ửng giần giật, “giọng lặp bặp, run run”. Khi bé Thu chạy vụt đi, thét lên hoảng hốt, sợ hãi…  “nỗi đau đớn khiến mặt anh tối sầm lại trông rất đáng thương và hai tay buông xuống như bị gãy”. . Trong ba ngày phép, càng muốn gần gũi, yêu thương con,. bé Thu càng lẫn tránh, lạnh lùng, vô lễ  ông càng đau khổ hơn (năm mới được gặp con, những ngày phép ngắn dần mà con không chịu nhận ba, không một lần được ôm con trìu mến…) b.. Chiến tranh không thể hủy diệt tình cảm gia. đình:  Tình vợ chồng:.

<span class='text_page_counter'>(287)</span> Bà Sáu vẫn vượt đường xa, nguy hiểm đến thăm chồng; khi ông Sáu về phép, bà lo lắng chăm sóc cho chồng (lo chuẩn bị đồ đạc, xếp từng chiếc áo,…)  Tình cha con: . Tình cảm thắm thiết mà ông Sáu dành cho con:.  Trong chuyến về phép thăm nhà: rất thương nhớ con lúc ở xa (lần nào cũng bảo vợ đưa con lên, đến lúc được về cái tình người cha cứ nôn nao trong người anh); lúc mới thấy con: rất xúc động(giọng run run, vết sẹo đỏ giần giật…); luôn cố gắng kiềm chế nỗi bực dọc ngay cả khi con vô lễ; lúc chia tay, ông Sáu muốn ôm hôn con  sợ con không chịu, ông chỉ nhìn con bằng đôi mắt “trìu mến lẫn buồn rầu”  khi Thu nhận cha, ông Sáu đã khóc vì sung sướng và xúc động.  Lúc ở rừng, tại khu căn cứ: ông Sáu sung sướng khitìm được khúc ngà( “hớt hải chạy về”, “hớn hở như trẻ con được quà”); lúc rỗi ông “cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc”, khắc hàng chữ nhỏ với bao tình cảm “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”  lúc nhớ con, “lấy cây lược ra ngắm nghí rồi mài lên tóc cho cây lược thêm bóng, thêm mượt”, có cây lược ông càng mong gặp con.  Trong giờ phút cuối cùng, tình cha con vẫn da diết “không đủ sức trăn trối lại đềiu gì, hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được”  gửi cây lược cho đồng đội nhờ đưa cho con, lúc ấy mới nhắm mắt xuôi tay. . Tình cảm bé Thu đối với cha:. Trước lúc ông Sáu đi, ba gọi tiếng ba đầu tiên, xé lòng như thét lên (Ba…a…a… Ba!)  tiếng “ba” mà nó cố đèn nén trong bao năm.

<span class='text_page_counter'>(288)</span> nay, tiếng ba như vỡ tung từ đáy lòng nó. Nó vừa kêu “vừa chạy xô tới”, “dang tay ôm chặt cổ, nó hôn ba nó cùng khắp, nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết sẹo dài trên má ba nó nữa”, “dang cả hai chân rồi câu chặt lấy ba nó” (muốn giữ ba nó ở lại), khóc mếu máu với lời dặn “ba mua cho con một cái lược, nghe ba”  bé Thu đã hiểu, muốn bù đắp tình cảm những ngày qua  tình cảm với cha rất mãnh liệt. 3. Nhận xét đánh giá:  Qua “Chiếc lược ngà”, người đọc nhận ra hậu quả tinh thần không nhỏ mà chiến tranh gây ra. Nó phần nào làm sứt mẻ, mất mát tình cảm gia đình, là niềm đau nhức nhối, dai dẳng trong lòng con người.Đây là đóng góp quan trọng của tác giả.  Truyện còn giúp người đọc nhận ra đời sống tình cảm mãnh liệt của con người Việt Nam,vẻ đẹp tâm hồn. Chiến tranh dù khốc liệt đến đâu cũng không hủy diệt được tình cảm gia đình, tình cảm con người. 4. Nghệ thuật:  Để thực hiện những điều trên, nhà văn đã sử dụng: tình huống độc đáo (cuộc gặp gỡ của hai cha con sau tám năm xa cách, bé Thu không nhận cha. Lúc nhận ra thì ông Sáu lại phải ra đi (tình huống cơ bản). Ở khu căn cứ, ông dồn hết tình cảm thương nhờ con vào việc làm chiếc lược ngà để tặng con nhưng ông đã hy sinh khi chưa kịp trao cho con món quà ấy. Xây dựng nhân vật khá thành công (bé Thu hiện lên đặc sắc, cụ thể, sinh động, tính cánh nhất quán, mạnh mẽ: cứng cỏi, ương ngạnh nhưng hồn nhiên, ngây thơ, chân thành, mãnh liệt trong tình cảm; ông Sáu chân thành, sâu sắc rất mực yêu thương.

<span class='text_page_counter'>(289)</span> con và là một chiến sĩ kiên cường, giàu lòng yêu nước); chi tiết chiếc lược ngà đã nối kết hai cha con trong sự xa cách ngay cả khi ông đã hi sinh, là hiện thân của tình yêu thương, nỗi mong nhớ của ông Sáu với con và nó trở thành kỉ vật của tình cha con sâu nặng.  Câu chuyện được kể từ ngôi thứ nhất, người kể xưng “tôi” có mặt và chứng kiến toàn bộ câu chuyện có tác dụng rõ rệt trong việc vừa kể chuyện vừa bày tỏ sự đồng cảm với các nận vật và thể hiện nội dung tư tưởng của tác phẩm. C. Kết bài:  Tác giả đã thể hiện thành công đời sống tình cảm gia đình trong chiến tranh. Đó là tình cha con (chủ yếu), tình vợ chồng thắm thiết gợi nhiều xúc động, suy nghĩ về tìn cảm con người trong chiến tranh.  Qua tác phẩm, người đọc hiểu thêm về chiến tranh và tìnhcảm con người trong chiến tranh.  Thấy được tài năng của nhà văn. ...oo.... 1. Cách viết đoạn diễn dịch:  Câu 1: Câu mở đoạn – nêu luận điểm (nội dung chính của đoạn)..

<span class='text_page_counter'>(290)</span>  Các câu còn lại: Các câu phát triển đoạn – Đưa ra luận cứ, luận chứng (dẫn chứng + lí lẽ) để làm sáng tỏ luận điểm nêu ở câu mở đoạn.. 2. Cách viết đoạn qui nạp:  Từ câu đầu đến câu kế cuối: Đưa ra luận cứ, luận chứng (dẫn chứng + lí lẽ) để làm sáng tỏ luận điểm nêu ở câu cuối đoạn. phát triển đoạn.  Câu cuối: rút ra luận điểm (nội dung chính của đoạn) cần thêm từ (Tóm lại, kết lại, qua đó cho thấy…)  Câu kết đoạn. Công thức xây dựng đoạn văn nghị luận: a. Đoạn nghị luận xã hội: 1. Giới thiệu luận điểm.. 1 câu giới thiệu chủ đề.. 2. Giải thích + Hiện trạng 1 đến 2 câu nêu rõ hiện trạng của vấn đề. của vấn đề. 3. Nguyên nhân của vấn đề.. 2 đến 3 câu giải thích nguyên nhân của vấn đề.. 4. Hậu quả (hoặc kết quả) 3 đến 4 câu nêu rõ hậu quả (kết quả của vấn đề). của vấn đề ..? 5. Giải pháp.. 2 đến 3 câu đưa ra biện pháp khắc phục (hay phát huy) vấn đề.. b. Đoạn nghị luận tư tưởng đạo lý: 1. Giới thiệu luận điểm. 2. Giải thích từ ngữ chủ đề…? 3. Tại sao ta phải…?. 1 câu giới thiệu chủ đề. 1 đến 2 câu giải thích rõ chủ đề. 3 đến 5 câu giải thích và làm rõ lý do tại sao phải thực hiện.

<span class='text_page_counter'>(291)</span> đạo lý. 4. Chúng ta phải làm gì để 3 đến 5 câu nêu rõ cách thức thực hiện bài học đạo lý. thực hiện đạo lý …? 5. Phê phán. 1 đến 2 câu. Nếu đề yêu cầu viết văn bản:   . Mục 1 đưa lên làm mở bài. Các mục còn lại là thân bài. Viết thêm ý kết thúc để làm kết bài.. A. ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN VỀ SỰ VIỆC, HIỆN TƯỢNG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI 1. Xả rác Việc xả rác bừa bãi hiện nay là một hiện trạng đáng quan tâm(1). Người ta có thể xả rác bất cứ nơi đâu, cứ tiện tay là vứt rác bừa ra đấy(2).Từ những con đường khang trang sạch sẽ ở vị trí trung tâm thành phố, đến bệnh viện, công sở; từ đình, chùa, miếu mạo là nơi thờ cúng linh thiêng đến các khu vui chơi giải trí,.. (3)Ngay cả những dòng sông, con kênh từng một thời trong xanh mát mẻ chảy quanh thành phố nay bị rác lấp đầy, dòng nước đen ngòm hôi thối(4). Chính hành vi xả rác bừa bãi đã bức tử những.

<span class='text_page_counter'>(292)</span> dòng sông, con kênh ấy(5). Chúng ta đều biết rằng việc xả rác bừa bãi sẽ làm môi trường sống bị ô nhiễm nghiêm trọng, ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe của con người, tạo môi trường thuận lợi cho các sinh vật phát triển gây ra các bệnh dịch như sốt xuất huyết, bệnh tả,.. (6)Bên cạnh việc tự hủy hoại môi trường sống thì hành vi xả rác bừa bãi còn làm mất đi vẻ của mĩ quan đô thị(7). Thành phố ta là một thành phố du lịch hàng năm thu hút một lượng lớn khách du lịch trong và ngoài nước(8). Việc xả rác bừa bãi sẽ tạo cho thành phố một bộ mặt nhếch nhác, tạo một hình ảnh xấu trong mắt khách du lịch, lượng khách du lịch đến thành phố giảm ảnh hưởng đến nguồn thu kinh tế khá lớn từ dịch vụ du lịch(9). Ngoài ra hành vi xả rác bừa bãi, hủy hoại môi trường sống của người lớn sẽ vô tình hình thành thói quen xấu cho trẻ em(10). Môi trường sống là tài sản chung vô giá của toàn nhân loại, không một ai có quyền làm mai một đến tài sản vô giá này(11). Hãy vì một thành phố văn minh sạch đẹp, vì môi trường sống trong lành của chúng ta, mọi người hãy nói không với hành vi xả rác bừa bãi(12).. 2. Game online Trò chơi điện tử là một thú tiêu khiển hấp dẫn của giới trẻ hiện nay(1). Tất nhiên, thú tiêu khiển này cũng có mặt tích cực của nó nếu chúng ta biết làm chủ được bản thân(2). Thế nhưng, nhiều bạn trẻ đã bị trò chơi này cuốn vào thế giới ảo đến bỏ bê việc học hành, sức khỏe giảm sút, thậm chí có trường hợp tử vong(3). Đáng tiếc hơn, các bạn còn tụ tập thành “bang hội” đâm chém, thanh toán nhau như trò chơi trong thế giới ảo(4). Do đâu mà các bạn trẻ ngày nay, phần lớn là học sinh phổ thông và sinh viên, những người ở lứa tuổi phải phấn đấu học hành, gầy dựng sự nghiệp, lại sa vào trò chơi này(5)? Trò tiêu khiển nào cũng có sức hấp dẫn của nó, riêng trò chơi game online lại có sứ hấp dẫn khôn lường(6). Trò chơi này tạo ra một thế giới ảo mà người sống trong thế giới ấy có thể làm được mọi việc mà ở đời thực họ không thể thực hiện(7). Tuổi thanh thiếu niên lại bồng bột, hiếu thắng, trò chơi này lại thỏa mãn cái tôi mà ở đời sống thực các bạn còn trong độ tuổi bị gia đình và nhà trường quản thúc(8). Nhưng các bạn không ý thức được hậu quả mà trò chơi này đem lại như ta đã đề cập ở trên – các bạn đã tự hủy.

<span class='text_page_counter'>(293)</span> hoại tương lai của mình khi sa vào trò chơi này(9). Để giúp các bạn không bị ảnh hưởng xấu từ trò chơi điện tử này, gia đình và nhà trường có vai trò rất lớn trong việc định hướng cho các bạn(10). Hãy tạo cho các bạn những sân chơi lành mạnh, những hoạt động ngoại khóa, những trò chơi vận động để các bạn không còn thời gian đắm chìm trong thế giới ảo(11). Gia đình cần quan tâm, quản lí, điều chỉnh thời gian biểu hợp lí để các bạn không còn nhiều thời gian dành cho game online(12). Nhà trường cần kết hợp với gia đình, chung tay với xã hội tuyên truyền, giáo dục cho các bạn ý thức được tác hại của game(13). Bản thân các bạn thanh thiếu niên cũng cần nâng cao ý thức làm chủ bản thân, để vẫn tiếp xúc với trò chơi này nhưng không để nó ảnh hưởng đến sức khỏe, kết quả học tập và tương lai của mình(14).. 3. Giao thông Hiện nay, các vấn đề liên quan đến giao thông như kẹt xe, tai nạn giao thông,... đang là mối quan tâm hàng đầu của toàn xã hội(1). Hàng ngày, người dân ở các thành phố lớn như thành phố Hồ Chí Minh phải đau đầu vì nạn kẹt xe(2). Khắp các ngã đường, vào bất kì giờ nào trong ngày người dân thành phố có việc phải ra đường đều bị hành hạ bởi nạn kẹt xe: nào khói xe( rất độc hại), bụi, nắng nóng,...(3). Nạn ùn tắc giao thông gây thiệt hại không nhỏ về kinh tế, môi trường và sức khỏe của con người(4). Cùng một đoạn đường nhưng khi giao thông bị ùn tắc người ta có thể tốn gấp năm, thậm chí đến mười lần khoảng thời gian, nhiên liệu so với khi đường thông thoáng(5). Như vậy đồng nghĩa với lượng chất thải độc hại từ các động cơ xe máy thải ra môi trường cũng tỉ lệ thuận với lượng nhiên liệu được đốt càng làm tăng ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng không nhỏ đến sức khỏe của con người; hiệu quả công việc không đảm bảo do thời gian bị lãng phí trong lúc kẹt xe(6). Hàng năm, theo thống kê của cả nước, số người chết vì tan nạn giao thông lên đến con số hàng chục ngàn người gây bao thiệt hại về cả người và tài sản(7). Những người không chết thì cũng mang thương tật, để lại di chứng nặng nề trở thành gánh nặng cho gia đình và xã hội(8). Điều đáng nói là nguyên nhân gây ra việc ùn tắc giao thông, các tai nạn thương tâm phần lớn là do ý thức chấp hành luật giao.

<span class='text_page_counter'>(294)</span> thông của người lưu thông trên đường quá kém(9). Người điều khiển phương tiện giao thông hay vi phạm các lỗi như phóng nhanh vượt ẩu, đua xe lạng lách,không tham gia giao thông đúng phần đường qui định,...(10). Để hạn chế nạn kẹt xe, những hậu quả đáng tiếc xảy ra do tai nạn giao thông, người tham gia giao thông cần chấp hành nghiêm luật giao thông(11). Nhà nước đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao ý thức của người dân về việc lưu thông an toàn đồng thời cần xử lí nghiêm những hành vi vi phạm an toàn giao thông(12). Tham gia giao thông an toàn không chỉ đảm bảo tính mạng và tài sản cho mình mà còn cho người khác(13). Để mỗi khi tham gia giao thông chúng ta thấy an toàn và an tâm thì mỗi người phải nâng cao ý thức chấp hành nghiêm luật giao thông(14).. 4. Ý nghĩa của việc đọc sách Đọc sách là một cách trau dồi, nâng cao kiến thức một cách hiệu quả(1). Sách là tài sản tri thức quý giá của nhiều người, nhiều thế hệ thuộc mọi lĩnh vực được tích lũy và truyền lại(2). Để việc tiếp thu lượng tri thức khổng lồ này, ta cần biết cách chọn sách và đọc sách(3). Ngày nay, công nghệ in ấn, trao đổi thông tin liên lạc phát triển, nhu cầu trau dồi tri thức cao nên lượng sách được phát hành hằng ngày rất lớn(4). Để không mất thời gian, công sức, tiền của vào những loại sách vô bổ ta phải hiểu rõ nhu cầu của bản thân(5). Chỉ nên chọn đọc những loại sách có ích đáp ứng được lĩnh vực tri thức mà bản thân đang cần bên cạnh việc chọn đọc những loại sách kiến thức phổ thông, giáo dục đạo đức để nâng cao kiến thức đời sống(6). Tránh xa, cảnh giác với những loại sách độc hại vì sách có nội dung xấu dễ hấp dẫn ta như viên thuốc bọc đường(7). Chọn được sách rồi ta phải biết cách đọc(8). Hãy tạo một thói quen đọc sách hằng ngày để tiếp cận được kho tàng tri thức vô tận của nhân loại(9). Chỉ đọc những quyển sách thật sự có giá trị vì không cần đọc nhiều mà đọc cho tinh(10). Đọc sách kết hợp với việc ghi chép lại ý chính hoặc gạch chân những nội dung quan trọng, cần thiết(11). Không nhất thiết phải đọc nhiều sách nhưng đã đọc là phải nhớ và nhớ một cách chính xác(12). Đọc sách là một cách tự học của con người để làm giàu kiến thức, mở rộnmg tầm hiểu biết(13). Hãy chọn sách và đọc sách như chọn bạn mà chơi vậy(14)..

<span class='text_page_counter'>(295)</span> 5. Ô nhiễm môi trường Ô nhiễm môi trường đang là mối quan tâm hàng đầu của toàn xã hội(1). Gần đây, các phương tiện truyền thông đại chúng báo động về tình trạng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng xảy ra khắp nơi(2). Nguyên nhân là do các nhà máy, xí nghiệp thải ra những chất độc hại xả thẳng vào nguồn nước, đất, không khí gây ô nhiễm trầm trọng(3). Nhiều con kênh, dòng sông đã bị đầu độc, bị bức tử hàng loạt làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của người dân sống trong khu vực, những ngành nghề liên quan như đánh bắt, nuôi trồng thủy sản cũng bị khai tử theo(4). Không chỉ môi trường nước mà ngay cả môi trường đất, không khí cũng bị ô nhiễm trầm trọng và ảnh hưởng lớn đến sức khỏe của người dân(5). Những người dân sống trong khu vực các nhà máy xí nghiệp này hầu như ai cũng mắc các bệnh về da, đường hô hấp, đau đầu,... sức khỏe bị giảm súc đáng kể(6). Đáng sợ hơn là không ít những vùng dân cư sống cạnh các nhà máy xí nghiệp này mắc căn bệnh chết người hàng loạt: ung thư(7). Bên cạnh các thủ phạm là các nhà máy, xí nghiệp vô trách nhiệm với môi trường, ta phải kể đến các nguyên nhân khác cũng góp phần gây ô nhiễm môi trường như việc mọi người xả rác thải bừa bãi – đặc biệt là rác thải y tế, khói thải từ các phương tiện giao thông,…(8). Môi trường là tài sản vô giá chung của toàn nhân loại, không ai vì lợi ích cá nhân mà xâm hại đến môi trường(9). Chất lượng của môi trường cũng phản ánh chất lượng sống của con người, phát triển kinh tế, xã hội phải đi đôi với việc bảo vệ môi trường(10). Để cứu lấy môi trường, chúng ta hãy tuyên truyền ý thức bảo vệ môi trường, nói không với các hành vi phá hoại môi trường, nhà nước phải có những biện pháp mạnh tay và cứng rắn hơn để xử phạt những hành vi làm ô nhiễm môi trường(11). Chúng ta hãy chung tay vì môi trường xanh, sạch không chỉ cho chúng ta mà còn vì các thế hệ mai sau(12).. B. ĐOẠN VĂN TƯ TƯỞNG ĐẠO LÍ 1. Viết một đoạn văn từ 12 đến 15 câu nêu suy nghĩ của em về đức tính khiêm nhường..

<span class='text_page_counter'>(296)</span> Khiêm nhường là đức tính đáng quý mà ta cần phải có trong cuộc sống(1). Khiêm nhường là biết sống một cách nhún nhường, không bao giờ tự cao, tự đại, đề cao tài nghệ của mình với người khác, đặt ra cho mình những quy tắc và luôn hướng tthượng(2). Biểu hiện của người có đức tính khiêm nhường là luôn hạ thấp mình, tự cho mình là chưa hoàn thiện về mọi mặt, ít khi nhìn tới thành công mà mình đạt được và luôn cho mòinh cần phải khiêm nhường(4). Vì mỗi ngày chúng ta sống là mỗi ngày chúng ta đấu tranh, vươn lên về mọi mặt, dù có học nhiều tới đâu, có tài giỏi hơn người như thế nào thì so với trí tuệ của nhân loại sự hiểu biết của chúng ta chỉ như hạt cát giữa sa mạc mênh mông(5). Ta có biết nhiều đến đâu cũng không thể biết hết tri thức của nhân loại(6). Cho nên, ai trong chúng ta cũng có cái hạn chế của riêng mình nhưng quan trọng nhất là ta nhận thấy khuyết điểm của mình mà không ngừng sửa đổi và vươn lên(7). Để rèn luyện được đức tính khiêm nhường, trước hết ta phải nghiêm khắc tự đánh giá năng lực của bản thân. Ta không nên tự cao mà cũng không tự ti hạ thấp bản thân mà phải sáng suốt nhận ra cái ưu và khuyết của bản thân để không ngừng phấn đấu vươn lên(9). Có như vậy thì bản thân ta mới không ngừng tiến bộ, không ngừng hoàn thiện(10). Người có đức tính khiêm nhường được mọi người tin cậy và chắc chắn sẽ thành công trong cuộc sống(11). Khiêm nhường sẽ chứng tỏ ta là người có văn hóa và đây cũng là một đức tính cơ bản của người muốn thành công(12). « Khiêm tốn bao nhiêu cũng chẳng đủ(13).Tự kiêu một chút cũng là nhiều »(14). 2. LÒNG NHÂN ÁI Dàn ý Mở đoạn (Nêu luận điểm) : Lòng nhân ái là một trong những truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Phát triển đoạn (giải thích) : Nhân ái là tình yêu thương giữa người với người trong xã hội. Biểu hiện của lòng nhân ái là sự đồng cảm, sẻ chia, bảo bọc, giúp đỡ lẫn nhau,… Ta phải yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau vì giữa mọi người đều có mối quan hệ gắn bó mật thiết về vật chất lẫn tinh thần. lòng nhân ái được thể hiện bằng nhiều việc làm cụ thể như…. Kết đoạn ( chốt ý, liên hệ) : Cách sống đẹp cần gìn giữ và phát huy qua mọi thời đại..

<span class='text_page_counter'>(297)</span> Viết đoạn (1)Từ xưa đến nay, lòng nhân ái là một truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta, nó thể hiện tình yêu thương giữa con người với con người trong xã hội. (2)Người Việt Nam luôn tự hào là « Con rồng cháu tiên », cùng sinh ra trong một bọc trứng, cùng chung một giống nòi. (3)Bởi vậy, từ ngàn xưa, cha ông ta đã cất lên những tiếng hát đầy yêu thương : « Nhiễu điều phủ lấy giá gương – Người trong một nước thì thương nhau cùng ». (4) Biểu hiện của lòng nhân ái đôi khi rất đơn giản. (5) Kính trọng ông bà, cha mẹ, yêu thương, giúp đỡ anh chị em,… là thể hiện tình thương yêu đối với những người ruột thịt. (6) Quan tâm, chia sẽ, giúp đỡ bạn bè, đồng nghiệp cũng là yêu thương. (7) Xót xa cho những đứa trẻ mồ côi, những người nghèo khổ hay đôi khi chỉ là cầm tay dìu một bà lão qua đường cũng là thể hiện lòng nhân ái đối với đồng loại. (8) Lòng nhân ái rất cần thiết trong cuộc sống. (9)Hãy tưởng tượng thử xem nếu thế giới này không có tình yêu thương, sẽ như thế nào nếu trái tim chúng ta đều khép kín và băng giá ? (10) Tất cả sẽ sẽ lạnh lẽo biết bao, tất cả sẽ bị bao trùm bởi đám mây u ám và cuộc sống sẽ vô cùng tẻ nhạt, vô vị. (11) Và mỗi con người sẽ biến thành một ốc đảo đơn độc trong thế giới rộng lớn này. (12) Hãy mở rộng hồn mình, hãy sưởi ấm trái tim của nhau bằng hơi ấm của tình thương, hãy chia sẻ với mọi người những già bạn có ! (13) Giúp đỡ những người còn khó khăn đang ở ngay cạnh bạn ; góp một phần nhỏ để giúp đỡ những người đồng bào ruột thịt đang bị thiên tai hoành hành,… (14) Làm được như vậy là bạn đang nối kết những sợi dây vô hình kéo con người xích lại gần nhau hơn và tiếp nối truyền thống đạo ly tốt đẹp của dân tộc.. 3. NHỚ ƠN Dàn ý Mở đoạn (Nêu luận điểm) : Nhớ ơn là một phẩm chất đẹp, một truyền thống quý báu của dân tộc ta. Phát triển đoạn (giải thích) : Nhớ ơn là sự trân trọng, ghi lòng tạc dạ người đã tạo nên bao thành quả cho ta hưởng thụ. Ta phải nhớ ơn vì trong thiên nhiên, cuộc sống… bất cứ thành quả nào cũng do mồ hôi, nước mắt, công sức… của con người tạo nên. Lòng biết ơn được thể hiện.

<span class='text_page_counter'>(298)</span> bằng những việc làm cụ thể như … Kết đoạn ( chốt ý, liên hệ): Hãy sống đẹp để xứng đáng với công lao to lớn của cha ông.. Viết đoạn Đoạn 1 : 1. « Ăn quả nhớ kẻ trồng cây » là những lời nhắc nhở về truyền thống biết ơn của ông cha ta từ ngàn xưa để lại. (2) Đó là một truyền thống quý báu và là một nguyên tắc đạo đức tốt đẹp của dân tộc ta. (3) Người thụ hưởng luôn phải nhớ tới công lao của người đã làm ra, tạo ra những thành quả đó. (4) Họ đã bỏ ra biết bao công sức, thời gian, thậm chí trải qua biết bao thất bại, hi sinh cả tính mạng… để cho chúng ta được thừa hưởng những điều tốt đẹp.(5) Vậy vì sao chúng ta lại không biết ơn họ ? (6) Đây chính là thước đo để đánh giá một con người. (7) Trong xã hội ngày nay, không thiếu gì những kẻ vong ơn bội nghĩa, những kẻ « ăn cháo đá bá », quay lưng, phủi sạch những gì người khác làm nên cho mình, giúp đỡ mình. (8)Bạn bè dối lừa nhau, con cái đánh đập cha mẹ, vợ chồng phản bội, rêu rao nói xấu, bịa đặt về đất nước, chế độ… (9) Đã có những biểu hiện đi ngược lại với truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đáng để chúng ta lên án, bài trừ. (10) Là một công dân nước Việt Nam, trước hết chúng ta phải nhớ ơn các vua Hùng đã có công dựng nước, nhớ ơn Bác Hồ - vị lãnh tụ vĩ đại củadân tộc, nhớ ơn các chiến sĩ đã đổ biết bao xương máu vì độc lập của đất nước… (11) Chúng ta cũng còn phải nhớ ơn ông bà, cha mẹ, thầy cô, những người có công sinh thành, dưỡng dục và dạy dỗ chúng ta nên người. (12) Vậy hãy thể hiện lòng biết ơn đó bằng những việc làm thiết thực : hiếu thảo, chăm ngoan, học tập tốt, không ngừng phấn đấu để đền đáp công ơn to lớn như trời biển của ông bà, cha mẹ, thầy cô. (13) Từ đó chúng ta hãy trở thành những người công dân tốt để giữ gìn nền hòa bình và góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh như lời Bác hằng mong mỏi. (14) Ấy cũng là trân trọng và phát huy truyền thồng quý báu của nhân dân về lòng biết ơn ! Đoạn 2 : (1)Lòng biết ơn là đạo lí ngàn đời của dân tộc.(2)Mỗi khi hưởng thụ một thành quả nào, ta phải nhớ ơn người đã tạo dựng thành quả ấy cho ta hưởng thụ.(3)Đấy chính là lòng biết ơn của ta đối với họ.(4)Sở dĩ ông cha ta đưa ra lời khuyên trên vì nếu không có cha mẹ sẽ không có ta trên đời này.(5)Không có thầy cô ta sẽ.

<span class='text_page_counter'>(299)</span> không hiểu biết sâu rộng.(6)Không có các vị anh hùng dân tộc như Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung…. giành lại độc lập cho dân tộc thì làm sao ta có cuộc sống thanh bình như hiện nay.(7)Vì thế, biết ơn, trân trọng công lao của cha mẹ, thầy cô… là việc phải làm.(8)Tích cực tham gia các phong trào đền ơn đáp nghĩa cũang là cách làm cụ thể nhất để tỏ rõ lòng biết ơn của ta đối với những những người đã tạo ra thành quả cho ta hưởng thụ. (9)Xã hội ta đã và đang trân trọng ghi nhớ công ơn, sự đóng góp của tiền nhân bằng các ngày lễ : Hiến chương nhà giáo, ngày Thương binh liệt sĩ, Ngày thầy thuốc,…(10)Thiếu lòng biết ơn con người sẽ sống vô trách nhiệm, ích kỉ. (11)Lòng biết ơn trở thành thước đo phẩm chất đạo đức của con người. (12)Trong xã hội vẫn còn những kẻ vong ân bội nghĩa, ăn cháo đá bát,…hạng ngừơi này thật đáng lên án.(13)Tóm lại, lòng biết ơn chính là thước đo phẩm chất đạo đức của con người, là đạo lí làm người của dân tộc ta. (14)Là họ sinh, em sẽ cố gắng học tập thật tốt để mai sau tạo dựng nhiều thành quả để đền ơn xã hội và lớp lớp cha ông.. 4. LÒNG BIẾT ƠN THẦY CÔ Mở đoạn (Nêu luận điểm) : Tình thầy cô là một trong những tình cảm thiêng liêng, quý giá mà người đời luôn luôn trân trọng. Phát triển đoạn (giải thích) : Đây chính là tấm lòng yêu thương, dạy dỗ của thầy cô đối với đàn trò nhỏ. Thầy cô là người đem đến cho ta những tri thức, rèn dạy ta nhân cách, đạo đức sống. Thầy cô luôn quan tâm đến sự tiến bộ của học sinh, vui sướng trước sự trưởng thành, trăn trở với những thiếu sót, sai lầm mà học sinh mắc phải,… Ơn sâu, nghĩa nặng ấy làm sao kể xiết… Truyền thống tôn sư trọng đạo luôn được nhân dân ta nhắc nhở để đề cao tình thầy trò trong xã hội. Học sinh luôn nhớ, hiểu và làm theo truyền thống này. Tôn sư trọng đạo cũng là một thước đo phẩm chất đạo đức của con người. Kết đoạn ( chốt ý, liên hệ) : Hãy trân trọng tình cảm quý báu này, nguyện sống xứng đáng … Biết lễ phép, làm vui lòng thầy cô bằng những hành động, việc làm cụ thể. Viết đoạn (1) Tôn sư trọng đạo vốn là truyền thống của dân tộc ta từ xưa. (2) Tục ngữ ta có câu « Không thầy đố mày làm nên » đã khẳng định vai trò quan trọng không thể thiếu của người thầy trong.

<span class='text_page_counter'>(300)</span> việc học tập của mỗi người và cũng nhằm khuyên ta phải biết nhớ ơn thầy cô.(3) Lòng biết ơn thầy cô chính là truyền thống về đạo lí củamột dân tộc hiếu học và nghĩa tình. (4) Người thầy ngoài việc truyền đạt kiến thức cho ta còn dạy dỗ ta điều hay lẽ phải để sống ở đời.(5) Công ơn thầy cô sánh bằng với công ơn cha mẹ, mỗi bước ta trưởng thành và thành đạt đạt đều có bóng dáng của thầy cô. (6) Cha ông ta cũng từng nhắc nhở « Cơm cha, áo mẹ, chữ thầy. Sống sao cho thỏa những ngày còn thơ(7) Trong lịch sử đạo học của ta đã có rất nhiều những người thầy đạo cao đức trọng : Võ Trường Toản, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Chu Văn An, Nguyễn Đình Chiểu,… đã đào tạo ra biết bao người học trò giỏi là nhân tài của đất nước, chấn hưng nguyên khí quốc gia.(8) Vì những đóng góp to lớn ấy của những người làm thầy mà dân tộc ta –một dân tộc hiếu học – rất xem trọng lòng biết ơn thầy cô. (9) Ngày nay, lòng biết ơn thầy cô không chỉ là nền tảng đạo đức mà còn là biểu hiện của xã hội văn minh. (10)Những kẻ vong ân, quên ơn thầy cô sẽ không « thành người », chúng ta phải nghiêm khắc lên án để răn đe những kẻ hủy hoại truyền thống tốt đẹp về đạo học của nước nhà. (11) Yêu mến, kính trọng, nhớ ơn thầy cô phải được thể hiện bằng những việc làm cụ thể như làm theo những điều tốt đẹp mà thầy cô dạy, phấn đấu trở thành người có ích trong xã hội,…(12)Đó cũng chính là lòng biết ơn, đền đáp công lao to lớn của thầy cô.. 5. ĐOÀN KẾT (1)Câu chuyện về bó đũa của dân gian là một bài học giàu ý nghĩa về tình đoàn kết.(2) Cũng như câu ca xưa từng nói : « Một cây làm chẳng nên non – Ba cây chụm lại nên hòn núi cao ».(3) Đoàn kết là tập trung thành một khối, tạo sức mạnh tổng hợp.(4) Mỗi cá nhân đứng riêng biệt chưa đủ làm nên sức mạnh, thất bại là điều dễ thấy, cũng dễ dàng như ta bẻ từng chiếc đũa.(5) Chỉ khi những cá nhân ấy họp lại với nhau, đồng sức đồng lòng như bó đũa kia thì không có kẻ thù nào có thể đánh bại.(6) Điều đó có nghĩa là, đoàn kết ắt sẽ dẫn đến thành công, như Bác đã từng nói : « Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết – Thành công, thành công, đại thành công ».(7)Lịch sử chói ngời của dân tộc ta mất ngàn năm qua đã chứng minh hùng hồn cho sự đoàn kết ấy.(8) Nhờ tinh thần đoàn kết, hiệp sức một lòng mà dân tộc ta đã đánh thắng giặc ngoại xâm.

<span class='text_page_counter'>(301)</span> bao phen.(9) Từ cuộc kháng chiến chống đô hộ hàng ngàn năm Bắc thuộc với những chiến công oanh liệt, tới chiến thắng chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ vang dội khắp năm châu bốn bể.(10) Thử hỏi nếu không có sự đồng tâm hiệp lực của từng cá nhân thì liệu rằng Việt Nam có thể ưỡn ngực tự hào về lịch sử vẻ vang và đạt được một nền hòa bình như ngày nay không ?(11) Ấy là khi sức mạnh của toàn dân tộc được gắn kết lại và phát huy cao độ, có thể nhấn chìm tất cả quân cướp nước và bán nước.(12) Giờ đây đất nước đã mở ra một trang sử mới, chúng ta – những thế hệ đi sau – phải tiếp nối truyền thống của ông cha, gắn kết tạo thành một khối bền chặt, cùng nhau xây dựng một xã hội văn minh, tốt đẹp.(13) Muốn làm được điều đó thì phải đồng lòng, đồng sức trong từng công việc, trong từng phạm vi : gia đình, trường lớp, cơ quan, xã hội,…(14) Nếu biết đoàn kết thì công việc dù khó khăn đến đâu, nhiệm vụ dù có nặng nề thế nào cũng trở nên nhẹ nhàng.(15) Đó là sức mạnh vô song của tình đoàn kết !. 6. ĐẠO HIẾU Mở đoạn (Nêu luận điểm) : Lòng hiếu thảo là một trong những phẩm chất, đọa lí tốt đẹp của con người. Phát triển đoạn (giải thích) : Lòng hiếu thảo có nghĩa là lòng kính yêu cha mẹ, người đã có công sinh thành, dưỡng dục chúng ta. Mẹ chín tháng mười ngày mang nặng đẻ đau, cha nặng vai gánh vác nuôi nấng ta nên người. Suốt cuộc đời mẹ cha tận tụy hi sinh không hề tính tháng tính ngày… Vậy đạo làm con phải giữ gìn chữ hiếu. Thờ mẹ, kính cha không phải chỉ là lời nói suông mà cần được thể hiện bằng thái độ và hành động cụ thể… Kết đoạn ( chốt ý, liên hệ) : Hãy giữ gìn và bồi đắp phẩm chất này bằng sự tự giác trong suy nghĩ và hành động cụ thể.. Viết đoạn (1)Dân tộc Việt Nam vốn coi trọng đạo lí làm người, nhất là chữ hiếu. (2) Chữ hiếu mà ta đề cập đến chính là lòng kính yêu của con cái đối với cha mẹ.(3) Phận là con ta phải có bổn phận hiếu kính đối với cha mẹ vì công cha, nghĩa mẹ vô cùng to lớn. (4) Sự to lớn ấy thể hiện trước tiên ở công sinh thành: cha mẹ là người sinh ra ta, không có cha mẹ thì không có ta. (5) Không chỉ sinh chúng ta ra, cha mẹ còn nuôi dưỡng ta khôn lớn nên người với bao lo toan vất vả: cơm ăn áo mặc hằng ngày, thuốc thang khi ta đau ốm, các.

<span class='text_page_counter'>(302)</span> vật dụng ta dùng đều do công lao động vất vả và tấm lòng lo toan, yêu thương bao la của cha mẹ.(6) Ta hiểu điều hay lẽ phải, biết cách cư xử trong gia đình, ngoài xã hội đều do công lao dạy bảo, giáo dục của cha mẹ.(7) Ta được đi học để mở mang kiến thức trở thành người có văn hóa cũng là nhờ công sức và tình thương của cha mẹ.(8) Vậy ta phải làm thế nào để tỏ lòng hiếu thảo của mình đối với cha mẹ?(9) Khi còn nhỏ, ta biết vâng lời cha mẹ, giúp đỡ cha mẹ những công việc nhà, cố gắng học để làm rạng danh, là niềm tự hào của cha mẹ.(10) Khi ta trưởng thành thì cha mẹ đã già yếu, ta phải chăm sóc phụng dưỡng cha mẹ với tấm lòng quý trọng của mình. (11) Nhìn vào dân gian từ xưa đến nay có biết bao tấm lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ làm ta cảm phục: Mục Kiều Liên, Thúy Kiều,…(12) Phát huy truyền thống tốt đẹp đó, nhiều địa pương trong cả nước, hằng năm đều tổ chức ngày hội vinh danh “Những người con hiếu thảo”; tổ chức trọng thể lễ Vu lan báo hiếu cha mẹ.(13) Tuy nhiên bên cạnh những người con hiếu thảo ta vẫn thấy đây đó những đứa con bất hiếu, đối xử tệ bạc với cha mẹ, đó là những hành vi xấu mà chúng ta cần lên án vì nó là biểu hiện của sự suy đồi đạo đức xã hội. (14) Tóm lại, công ơn cha me là vô cùng to lớn và vĩ đại, phận làm con chúng ta phải biết giữ tròn chữ hiếu. (15) Riêng em, em sẽ cố gắng học tập chăm chỉ, vâng lời để cha mẹ vui lòng.. 7. Tình mẹ Mở đoạn (Nêu luận điểm) : Tình mẹ là một trong những tình cảm thiêng liêng, quý giá nhất trên đời. Phát triển đoạn (giải thích) : Tình mẹ là tình thương yêu sâu đậm, bao la của người mẹ đối với con cái. Biểu hiện : mang nặng đẻđau, hi sinh thầm lặng suốt cuộc đời để chăm sóc dạy dỗ con nên người, là bến bờ yêu thương nâng đỡ cuộc đời con… Ơn sâu nghĩa nặng ấy làm sao kể xiết, phận làm con phải… Kết đoạn ( chốt ý, liên hệ) : Hãy trân trọng tình cảm quý báu này, nguyện sống xứng đáng….. 8. Tình bạn chân thành.

<span class='text_page_counter'>(303)</span> Mở đoạn (Nêu luận điểm) : Cuộc đời thật tốt đẹp và có ý nghĩa biết bao nếu trong ta có tình bạn chân thành thắm thiết. Phát triển đoạn (giải thích) : Tình bạn chân thành là tình cảm sâu sắc giữa những người đã bắt gặp sự đồng cảm trong nhiều lĩnh vực, là sự gán bó sẻ chia vui buồn, sướng khổ, không vì vật chất, không vụ lợi. Biểu hiện của tình bạn chân thành trong cuộc sống …. Để có tình bạn chân thành đẹp đẽ nhất, chúng ta phải biết sống chân thành với bạn, biết quan tâm sẻ chia những buồn vui trong cuộc sống với bạn, giúp bạn nhận ra những ưu khuyết điểm của mình để ngày càng hoàn thiện mình hơn… Kết đoạn (chốt ý, liên hệ) : Hãy vun vén tình cảm quý báu này. Viết đoạn (1)Tình bạn là một tình cảm không thể thiếu với mỗi lứa tuổi trong cuộc đời con người. (2) Nhưng tình bạn có đẹp, có còn mãi mãi với mỗi người hay không thì còn tùy thuộc vào bản thân người đó. (3) Có trân trọng và luôn chân thành với tình bạn, đó mới là một tình bạn chân thành.(4) Tình bạn chân thành là không so đo, tính toán vật chất là luôn biết hi sinh cho bạn mình. (5) Tình bạn chân thành là sẻ chia, giúp đỡ nhau lúc khó khăn hoạn nạn. (6) Có được tình bạn chân thành là ta đã có được chỗ dựa tinh thần vững chắc để san sẻ, giãy bày mọi nỗi niềm.(7) Để từ đó, ta biết trân trọng tình bạn và những gì mình đang có.(8)Biết thông cảm và giúp đỡ bạn khi mắc sai lầm, vượt qua những khó khăn trở ngại. (9) Ngày nay, một số người không biết trân trọng tình bạn như Lưu Bình – Dương Lễ ngaỳ xưa, thay vào đó là có một số người xem lòng tốt của bạn bè là phương tiện làm lợi cho bản thân. (10) Tình bạn không còn trong sáng, chân thành, cùnh nhau tiến bộ mà chỉ là sự lừa dối, vụ lơị. (11) Để từ đó, còn người không còn lòng nhân aí yêu thương nhau mà thay vào đó là sự nghi ngờ, đố kị, thận trọng với nhau trong tình bạn, làm lu mờ tình bạn. (12)Nếu sống mà không có tình bạn thì con người trở nên khô khan, tẻ nhạt, cuộc sống trở nên buồn chán như hoa vô sắc, vô hương. (13) Vì thế, chúng ta hãy làm cho cuộc sống tươi đẹp hơn, có ý nghĩa hơn bằng cách xây dựng một tình bạn trong sáng, chân thành bằng cả trái tim.. 9. Sức mạnh cuả ý chí.

<span class='text_page_counter'>(304)</span> Trải qua những thành công và thất bại trong cuộc sống lắm thử thách, người xưa đã rút ra một kinh nghiệm “Có chí thì nên”.(1) (2)Câu tục ngữ khẳng định, có ý chí, nghị lực, lòng quyết tâm con người sẽ thành công trong cuộc đời.(3)Thật vậy, cuộc sống đầy rẫy những khó khăn, con đường dẫn đến thành công không bao giờ bằng phẳng mà luôn gập ghềnh. (4) Còn con người , mỗi khi bắt tay vào làm công việc gì cũng mong muốn công việc ấy kết thúc thắng lợi.(5) Chính vì thế, con người phaỉ có bản lĩnh và quyết tâm hành động để đạt được mục đích đã đề ra, không cho phép mình đầu hàng hay thối lui trước hoàn cảnh. (6)Người có ý chí coi gian nan, khó khăn trên đường đời là dịp để tôi luyện bản thân và trưởng thành: “Lửa thử vàng, gian nan thử sức”.(7)Và trong quá trình tiến hành công việc, nếu biết giữ vững ý chí sẽ có nhiều biện pháp sáng tạo giúp ta vượt qua thử thách.(8)Từ việc học tập, nghiên cứu, đến đấu tranh vì độc lập tự do, con người nhờ có sức mạnh ý chí mà làm nên những chuyện phi thường: các danh nhân, các nhà bác học, các vị anh hùng đều để lại sự nghiệp lớn lao. (9)Những thành tưụ xuất sắc cho dân tộc, cho nhân loại đều là kết quả của qúa trình bền gan, lập chí, trải qua quá trình rèn luyện không ngừng, vượt lên mọi cảnh ngộ.(10)Quả thật “Ví thử đường đời bằng phẳng cả. Anh hùng hào kiệt có hơn ai”.(11)Ngược lại, người thiếu ý chí sẽ dễ dàng buông xuôi, không tự tin vào chính mình để giải quyết một công việc naò dù đơn giản và cả đời họ sẽ không biết đến thành công. (12) Có thể khẳng định: ý chí là phẩm chất của người lao động chân chính, cũng là truyền thống của dân tộc Việt Nam. (13)Học sinh chúng ta đang trên con đường chinh phục đỉnh cao của trí tuệ nhân loại, phía trước thật nhiều chông gai vì vậy hãy kế thừa và phát huy truyền thống của thế hệ đi trước: trước bài văn, bài toán khó, công thức dài… không được lười suy nghĩ, thấy khó mà nản chí. (14)Hãy tập lối sống dám đương đầu, bất chấp moị khó khăn, có tinh thần cầu tiến để vững vàng đi tiếp trọn con đường mà chúng ta đã xác định: “Đường đi khó không vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông” (Có công mài sắt có ngày nên kim/ Nước chảy đá mòn/ kiến tha lâu cũng đây tổ/Không có việc gì khó.Chỉ sợ lòng không bền. Đào núi và lấp biển.Quyết chí ắt làm nên….).

<span class='text_page_counter'>(305)</span> 10. Nói không với thái độ thiếu nghiêm túc trong thi cử. Tổng thống Mĩ A.Lincoln đã nói: “Xin thầy dạy cho cháu thấy rằng bị điểm kém còn hơn là gian lận trong thi cử”. Đây cũng chính là vấn đề nhức nhối hiện nay trong ngành giáo dục. Trong học đường, bên cạnh những thành tích cao đáng tự hào mà thế hệ trẻ Việt Nam bằng sự nổ lực của bản thân đã đạt trong những kì thi Quốc tế thì trong nước ta hiện tượng gian lận trong thi cử, thật đáng xấu hổ, ngày càng phổ biến và nghiêm trọng. Biểu hiện rất phong phú như nhắc bài nhau, táo bạo hơn thì mở sách, tài liệu, mang phao vào phòng thi… Nhiều lí do được học sinh mang ra để giải thích cho hành vi sai trái cuả mình: chương trình học nặng nên không nắm được kiến thức, phaỉ đi học thêm nhiều nên không còn thời gian để chuẩn bị bài, vì áp lực nặng nề của gia đình và bản thân nên không muốn điểm thấp,… Tuy nhiên, đó chỉ là cái cớ để tự bào chữa cho sự lười biếng, ỷ lại mà thôi. Đã đi học thì phải học bài, nắm vững kiến thức và vận dụng nó khi làm kiểm tra để được đánh giá sức học của mình một cách khách quan và chính xác. Hậu quả của việc gian lận không phải nhỏ: bị trừ điểm, hạ hạnh kiểm, hủy bài thi, chịu sự chê cười của bạn bè, mất lòng tin của mọi người xung quanh và nghiêm trọng và lỗ hỏng kiến thức của bản thân. Nếu sự thiếu trung thực này không bị phát hiện thì hậu quả nghiêm trọng hơn: học sinh bằng lòng với điểm ảo, có thói quen gian lận dù có nắm được kiến thức cũng không tự tin khi làm bài, giáo viên tự mãn với thành tích của học trò nên chủ quan trong giảng dạy, cha mẹ bị ngộ nhận về học lực của con, đến khi ra trường những con người này chỉ có năng lực ảo. Bác sĩ chẩn đoán bệnh sai gây chết người, kĩ sư xây dựng công trình sập lún, giáo viên truyền đạt kiến thức sai, công nhân làm việc năng suất, chất lượng sản phẩm kém… Hậu quả là cả xã hội thiếu tri thức – thiếu tài – thiếu trung thực – thiếu đức, thật vô cùng tai hại. Là học sinh cuối cấp, chuẩn bị bước vào một kì thi tuyển đầy thử thách, chúng ta hãy tự tin đứng lên bằng chính nỗ lực của bản.

<span class='text_page_counter'>(306)</span> thân, nói không với “quay cóp” thì chắc chắn kết quả chúng ta đạt được là cao quý vô cùng.. 11. Sống đẹp Trong cuộc sống, có những người chỉ biết sống cho riêng mình, đó là lối sống nhỏ nhen, ích kỉ(1). Muốn xã hội tốt đẹp hơn thì con người phải biết sống cao đẹp(2). Lẽ sống cao đẹp ở đây là sống có mục đích, có ước mơ, lí tưởng, sống vì cộng đồng, sống để cống hiến cho xã hội, cho đất nước(3). Sống đẹp là sống có ý chí cầu tiến, biết đứng dậy bằng chính đôi chân của mình khi bị vấp ngã, biết bền lòng và dũng cảm vượt qua những thử thách, khó khăn để vươn lên, chấp cánh cho ước mơ của mình được bay cao, bay xa(4). Chúng ta cần phải sống đẹp vì đó là mục đích tốt đẹp mà mỗi con người cần hướng tới, là lí do mà mỗi con người cần mong muốn đạt được(5).Người có lí tưởng sống cao đẹp là người luôn suy nghĩ và hành động để hoàn thiện mình hơn, giúp ích cho gia đình, xã hội và đất nước(6).Trong lịch sử của dân tộc có biết bao tấm gương về sống đẹp: xưa có Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung,…; nay có anh Kim Đồng, chị Võ Thị Sáu, anh Lê Văn Tám,… và cao cả hơn là Bác Hồ kính yêu(7). Họ là người sống hết mình vì dân tộc, đã hiến dâng trọn vẹn cả cuộc đời cho dân tộc, cho Tổ quốc(7). Họ xứng đáng là tấm gương sáng về lí tưởng sống đẹp cho chúng ta noi theo(8). Bên cạnh đó cũng không hiếm những người có lối sống tiêu cực, đi ngược với luân lí và đạo đức(8). Đó là những tên bán nước, buôn người, những người đầu độc chính dân tộc mình bằng thuốc phiện, rượu cồn(9). Đó là những tấm gương xấu đáng bị bài trừ(10). Vậy chúng ta làm gì để trở thành người có lí tuởng sống đẹp(11)? Trước hết, ta cần phải xác định lí tưởng sống đúng đắn, có những hoài bão lớn ích nước lợi nhà ra sao(12). Tiếp theo cần phải lên kế hoạch học tập, rèn luyện kĩ năng, sức khỏe nhằm thực hiện mục đích đó(13). Và điều quan trọng là chúng ta phải cụ thể hóa những kế hoạch ấy bằng những hành động cụ thể(14). Hãy sống và cống hiến hết mình như ngày hôm nay là ngày cuối cùng ta được sống, không sống hoài, sống phí dù chỉ một ngày(15)..

<span class='text_page_counter'>(307)</span> 12. Sống có trách nhiệm Xã hội văn minh đòi hỏi con người sống phải có trách nhiệm với cộng đồng(1).Vậy thế nào là người sống có trách nhiệm(2)? Sống có trách nhiệm là tuân thủ những qui định của tập thể, của xã hội mà mình đang sống; là làm tròn bổn phận và nghĩa vụ của mình với tập thể, với xã hội ấy(3).Trong gia đình, ông bà, cha mẹ có trách nhiệm nuôi dạy con cháu(4). Con cháu có trách nhiệm chăm sóc, phụng dưỡng ông bà, cha mẹ lúc tuổi già(5). Mỗi thành viên trong gia đình đều phải có trách nhiệm quan tâm, lo lắng, bảo vệ, chăm sóc nhau(6). Ở ngoài xã hội, mỗi công dân phải có trách nhiệm tuân thủ những qui định của pháp luật, của đạo lí trong lối sống và hành vi của mình, đặt lợi ích của tập thể, của cộng đồng, của quốc gia lên hàng đầu(7). Người sống có trách nhiệm sẽ có kế hoạch làm việc cụ thể, làm việc nghiêm túc vì thấy rằng thành quả của công việc không chỉ vì lợi ích của bản thân mà còn là đóng góp của họ cho xã hội(8). Chính vì lẽ đó mà người sống có trách nhiệm sẽ làm việc hiệu quả hơn, sống nghiêm túc và tử tế hơn(9). Như vậy, sống có trách nhiệm sẽ giúp con người ta sống đẹp hơn, xã hội văn minh, tốt đẹp, phồn vinh hơn(10).Để rèn luyện tinh thần trách nhiệm, ngay từ bé, bản thân mỗi chúng ta hãy có trách nhiệm với bản thân trong việc học tập như hoàn thành bài tập thầy cô đã giao, rèn luyện, bảo vệ bản thân; có trách nhiệm với gia đình như phụ giúp bố mẹ việc nhà; trách nhiệm với nhà trường và xã hội như tuân thủ các qui định của các đơn vị tập thể này(11).Tuy nhiên, xã hội vẫn còn tồn tại những kẻ sống vô trách nhiệm(12).Những kẻ này thường làm trái pháp luật, đi ngược lại với lợi ích của cộng đồng và xã hội(13). Chúng là những con sâu làm rầu nồi canh(14). Hãy triệt để bày trừ thói vô trách nhiệm để xã hội trong sạch, phát triển và tốt đẹp hơn(15).. 13. Tinh thần tự học và học qua loa đối phó. “Sống vững chãi bốn ngàn năm sừng sững Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa”(1) Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống hiếu học vì ở bất kì thời đại nào người có học cũng mới trở thành người hữu ích cho xã hội(2). Việc học cũng giống như đi tìm kho báu – kho báu tri thức –.

<span class='text_page_counter'>(308)</span> nên để kho báu ấy thuộc về ta thì ta phải tự khám phá, tìm tòi, tự học hỏi(3). Học là hoạt động thu nhận kiến thức, hình thành kĩ năng cho người học nên ai học người ấy có kiến thức, không ai có thể học giùm cho ai được(4). Tự học là học một cách chăm chỉ, chủ động, luôn có mục đích biến kiến thức của nhân loại thành kiến thức của bản thân, tự giác sắp xếp cách học một cách khoa học mà không cần sự nhắc nhở của thầy cô, cha mẹ(5). Tự học là nỗ lực học bằng hết khả năng của mình, nếu có chỗ nào chua hiểu thì tìm tòi, suy nghĩ tìm cách giải quyết vấn đề(6). Vì vậy người học luôn tìm được niềm vui, cảm thấy thích thú, phấn khởi khi được đi sâu vào thực chất kiến thức của bài học(7). Tự học giống như ta đang đi du lịch thám hiểm khám phá những vùng đất mới có tên tri thức(8). Có tự đi trên đôi chân của mình thì đích đến sau khi chinh phục chông gai, thử thách mới càng thú vị và có giá trị(9). Thế nhưng, hiện nay, có một số học sinh thay vì cố gắng học tập lại có lối học đối phó, thụ động: học chỉ mong đạt điểm số cao bằng bất cứ cách nào ( quay cóp, học tủ, học vẹt, nhờ bạn giúp đỡ trong khi thi cử,…) (10). Từ đó dẫn đến tâm lí căng thẳng, không còn thấy hứng thú trong việc học(11). Học đối phó có thể giúp ta đạt điểm cao nhất thời nhưng lỗ hỏng kiến thức thì không có gì bù đắp được(12). Lối học này còn hình thành thói quen ỷ lại, làm việc thiếu nghiêm túc, thiếu trách nhiệm trong tương lai(13). Để rèn luyện tinh thần tự học ta hãy kiên quyết từ những việc nhỏ như làm bài tập, kiểm tra thi cử và một số việc của cá nhân; việc nào trong khả năng thì nên tự làm, không nhờ cậy người khác(14). Hãy làm một cách thật sự nghiêm túc và say mê(15).. 14. Giao tiếp và ứng xử. (1)Giao tiếp là nhu cầu tất yếu của con người. (2)Nhưng giao tiếp, ứng xử là cả một nghệ thuật.(3)Ông cha ta cũng từng khuyên: “Lời nói chẳng mất tiền mua. Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. (4) Giao tiếp và ứng xử là hành vi, lời nói của con người được thể hiện trong quá trình trao đổi thông tin, thể hiện tình cảm. (5)Lời nói là công cụ giúp cho con người hiểu nhau hơn, mối quan hệ của con người ngày càng tốt đẹp hơn nên cũng phải lựa lời mà nói cho phù hợp.(6)Lời hay, ý đẹp thể hiện phẩm chất đạo đức, tính cách, trình.

<span class='text_page_counter'>(309)</span> độ văn hóa của người nói, làm cho mọi người yêu thương, kính nể mình.(7) Giữ gìn lời ăn tiếng nói đúng mực sẽ giúp cho quan hệ giữa người và người trong xã hội trở nên tốt đẹp, văn minh, lịch sự và giàu tình cảm hơn.(8) Bên cạnh lời ăn tiếng nói, ta còn phải chú ý đến hành vi, thái độ trong giao tiếp.(9) Nên có thái độ, hành vi ôn hòa, chừng mực, khiêm tốn trong giao tiếp.(10) Nếu trong giao tiếp mà dùng những lời thô tục, thiếu thiện chí, vô lễ, thô lỗ, cộc lốc thì người nghe khó tiếp thu; lời nói không đẹp gây ra phản ứng không tốt ở người đối thoại, như vậy mục đích giao tiếp và ứng xử thất bại.(11)Giao tiếp và ứng xử khéo léo là chìa khóa thành công của giao tiếp, hỗ trợ cho thành công trong cuộc sống.(12)Để đạt được điều này, chúng ta hãy suy nghĩ kĩ, “uốn lưỡi bảy lần trước khi nói”, hãy ý thức được sức mạnh của nghệ thuật giao tiếp trong cuộc sống của con người. (13) Hãy biến mỗi lời nói của mình đều là “gói vàng”. (14) Tuy nhiên,để lời nói đi đến trái tim thì lời nói của chúng ta không chỉ ngọt ngào “như rót mật vào tai” mà lời nói ấy còn phải thể hiện tình cảm chân thành, xuất phát từ trái tim.. 15. Tốt gỗ hơn tốt nước sơn.(Viết văn bản) Đánh giá một đồ vật là điều không dễ dàng, đánh giá một con người thì càng khó khăn hơn(1). Trong kho tàng tục ngữ, có một kinh nghiệm quý báu được đưa ra: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn” (2). Người xưa đưa ra hai chất liệu quen thuộc hằng ngày để gửi gắm bài học: gỗ là chất liệu là nên đồ vật còn sơn là chất liệu bên ngoài góp phần làm cho gỗ thêm bền đẹp (3). Câu tục ngữ muốn khuyên mọi người nên thận trọng: không nên dực vào hình thức bên ngoài mà phải chú ý đến chất lượng, phẩm giá bên trong để đánh giá,phán xét một con người (4). Rõ ràng gỗ tốt, chắc chắn đồ vật sẽ bền, gỗ xấu đồ vật chóng hỏng; nước sơn có đẹp đến mấy cũng không thể cứu được sự mục hư của gỗ(5). Con người cũng vậy, nếu có năng lực thì sẽ hữu ích cho bản thân, gia đình và xã hội, được mọi người kính nể, trọng vọng(6). Dân gian có sự đánh giá: “cái nết đánh chết cái đẹp”(7).Còn trang phục chải chuốt bên ngoài không thể là thước đo nhân cách vì hình thức bên ngoài có thể thay đổi theo sở thích hoặc tàn phai theo thời gian(8). Trong thực tế cuộc sống giữa hình thức và nội dung không phải lúc nào cũng thống nhất nhau: nấm độc có màu sắc sặc sỡ, người bất tài gian ác được.

<span class='text_page_counter'>(310)</span> che giấu bởi lớp vỏ bên ngoài lịch sự, “khẩu Phật tâm xà”, “bề ngoài thơn thớt nói cười mà trong nham hiểm giết người không dao”… (9). Câu tục ngữ đã đưa ra một phương châm ở đời là lo tu dưỡng, rèn luyện bản thân, đừng mãi chạy theo hình thức mà quên đi giá trị của con người là phẩm hạnh và tài năng, trí tuệ (10). Tuy nhiên, coi trọng nội dung không có nghĩa là coi nhẹ hình thức bởi hình thức góp phần nâng cao giá trị của nội dung(11). Chính người xưa cũng đã khẳng định: “cái răng cái tóc là góc con người” (12). Là học sinh, chúng ta xem câu tục ngữ là lời khuyên bổ ích giúp ta không chỉ biết đánh giá đồ vật hoặc con người qua nội dung mà còn biết cách rèn luyện bản thân để tự nâng cao phẩm chất của mình (13). “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn. Xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người”(14).. 16. Gần mực thì đen gần đèn thì sáng. (Viết văn bản). Nói về mối quan hệ giữa con người và môi trường sống, trong tục ngữ có đúc kết một kinh nghiệm quý báu: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”(1). Ông bà ta đưa ra một sự việc mà ai cũng thấy: nếu thiếu thận trọng khi gần mực sẽ bị vấy bẩn, khó tẩy rửa – nếu gần đèn, ánh sáng phát ra sẽ xua tan bóng tối, mình đứng gần đèn cũng sáng theo(2). Qua cách nói giàu hình ảnh dễ hiểu, người xưa muốn khái quát một chân lí trong cuộc sống: nếu con người tiếp xúc với cái xấu thì sẽ bị tiêm nhiễm, còn nếu gần gũi điều tốt đẹp thì sẽ cố gắng học tập để vươn lên(3). Vì sao môi trường góp phần hình thành nhân cách (4)? Bởi vì con người là thành viên của gia đình và xã hội nên phải hòa nhập với môi trường mình sống để thích nghi (5). Con người thường bắt chước lẫn nhau, dễ bị lôi cuốn hay cảm hóa, không thể lẻ loi với cuộc sống riêng biệt, phải “nhập gia tùy tục”(6). Gần với cái cái tốt, thói xấu sẽ bị đấu tranh, loại trừ còn gần với cái xấu, điều tốt sẽ không có điều kiện phát triển (7). Nhất là lứa tuổi của học sinh chúng ta – lứa tuổi chưa có kinh nghiệm sống, còn thiếu bản lĩnh khi tiếp xúc với cái xấu, cái sai sẽ khó phân.

<span class='text_page_counter'>(311)</span> biệt rạch ròi (8). Và khi lỡ sa chân vào con đường tiêu cực, tuổi thơ sẽ không đủ nghị lực để vươn lên (9). Chính vì vậy tuổi thơ chịu ảnh hưởng rất lớn từ gia đình, nhà trường và xã hội (10). Câu chuyện Mạnh Mẫu là tấm gương của muôn đời, người mẹ chấp nhận dời nhà ba lần để con trai có mội trường học tập tốt, nhằm nuôi dạy con thành người(11). Tâm hồn trẻ thơ như trang giấy trắng dễ dàng bị vấy bẩn nếu không được gìn giữ, nếu chẳng may phải tiếp xúc với môi trường xấu thì phải biết bình tĩnh và có nghị lực vươn lên như sen “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. (12) Hãy chọn cho mình một môi trường sống tốt đẹp, hãy rèn luyện cho bản thân một bản lĩnh để vượt qua nhũng cám dỗ của cái xấu.. 17. Học sinh chúng ta hãy nghe theo lời khuyên của ông cha: “Thói thường gần mực thì đen. Anh em bạn hữu hãy nên chọn người”. (1) Bàn về hai tiêu chuẩn để đánh giá một con người, trong một lần nói chuyện với học sinh, Bác Hồ có nói: “Có tài mà không có đức là người vô dụng. (2)Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”.(3) Người có tài là người có trình độ, hiểu biết, có trí tuệ, khả năng về chuyên môn, khi bắt tay làm việc gì cũng đạt năng suất cao, có những sáng kiến kinh nghiệm: đó là học sinh có thể giải những bài tập khó, bác sĩ cứu được bệnh nhân trong lúc nguy kịch, nhà lãnh đạo đưa đất nước đến chỗ phồn vinh... (3)Người có đức là người có phẩm chất, nhân cách tốt đẹp, biết yêu thương bạn bè, nhà lãnh đạo gần gũi với dân chúng. (4)Vì sao “có tài mà không có đức là người vô dụng”?(5) Người có tài mà sống vị kỉ, chỉ biết vun vén cho hạnh phúc và lợi ích bản thân, không biết vì mọi người mà chỉ đem tài năng ra làm điều phi pháp thi xã hội có cần họ không? (6)Vì sao “có đức mà không có tài” thì làm việc gì cũng khó”? (7)Nếu chỉ có đức mà kém năng lực thì khó làm tốt công việc được giao. (8)Lúc này thì “lực bất tòng tâm”, dẫu có nhiệt tình năng nổ đến đâu mà trình độ, khả năng chuyên môn có hạn thì không những công việc không trôi chảy mà còn gây trở ngại hoặc làm hỏng việc. (9)Lê-nin đã từng nêu công thức: nhiệt tình cộng với ngu dốt ra phá hoại. (10)Hiểu được tầm quan trọng của tài và đức, học sinh phải có.

<span class='text_page_counter'>(312)</span> ý thức rèn luyện để trở thành con ngoan, trò giỏi được mọi người tin yêu, khen ngợi, biểu dương. (11)Để xứng đáng với sự mong mỏi và lòng tin yêu của Bác, mỗi học sinh chúng ta sẽ từng bước tu dưỡng phấn đấu để trở thành người có tài và có đức để sau này sống có ích cho gia đình, đất nước, quê hương(12).. ĐOẠN VĂN TIẾNG VIỆT Đề 1: Thành phố ta đang phát động phong trào “Thực hiện nếp sống văn minh đô thị”. Hãy viết một đoạn văn từ 12 đến 15 câu có sử dụng một khởi ngữ, một phép liên kết câu, một thành phần biệt lập để nêu suy nghĩ cuả em về vấn đề này. Năm nay là năm thành phố ta “Thực hiện nếp sống văn minh đô thị”(1). “Thực hiện nếp sống văn minh đô thị”, tại sao thành phố ta lại chọn đề tài này làm chủ điểm hoạt động trong năm nay(2)? Trong xu thế hội nhập, thành phố ta là nơi có sức hút đầu tư của nước ngoài khá lớn, là điểm đến của nhiều khách du lịch quốc tế(3). Nhưng có nhiều du khách đã ra đi và không bao giờ trở lại(4).Vì sao vậy(5)? Nguyên nhân vì thành phố ta còn tồn tại nhiều biểu hiện của nếp sống kém văn minh(6). Nạn xả rác, phóng uế bừa bãi, ăn xin, lấn chiếm lòng lề đường,…đã tạo cho thành phố một bộ mặt nhếch nhác làm phiền lòng du khách- những người đến từ những đất nước văn minh, làm xấu đi hình ảnh của thành phố(7). Khắp thành phố đâu đâu cũng ngập tràn rác, mọi người dân từ người già đến trẻ em cứ tiện tay là vứt rác ra nơi họ vừa trò chuyện, vui chơi, nơi họ vừa đi qua,... (8)Bên cạnh đó, hình ảnh những người ăn xin áo quần bẩn thỉu, những đứa trẻ đen nhẻm, cáu bẩn bị lột trần quì gối van xin tạo cho thành phố một bộ mặt nghèo đói(9). Khủng khiếp hơn là nạn phóng uế bừa bãi đã biến thành phố trở thành nhà vệ sinh công cộng lộ thiên,…và còn nhiều hình ảnh kém văn minh hơn nữa(10). Thử hỏi bạn có dám quay lại nghỉ.

<span class='text_page_counter'>(313)</span> dưỡng, du lịch ở một thành phố như thế không(11)? Vậy, để xây dựng một thành phố xanh, sạch, đẹp lãnh đạo thành phố đã phát động phong trào người dân “Thực hiện nếp sống văn minh đô thị”, sẽ không còn nạn xả rác, phóng uế bừa bãi, ăn xin, lấn chiếm lòng lề đường,…(12)Mỗi người dân phải nâng cao ý thức thực hiện nếp sống văn minh đô thị để xây dựng thành phố ta đẹp hơn(13). Phạt tiền, cảnh cáo những người có hành vi thiếu văn minh nơi công cộng(14). Mọi người hãy cùng nâng cao ý thức, chung tay vì một thành phố văn minh phát triển để thành phố ta trở thành điểm đến lý tưởng của bạn bè thế giới(15).. Đề 2: Bác Hồ là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt nam, là gương sáng để thế hệ trẻ noi theo. Em hãy viết một đoạn văn từ 10 đến 12 câu nêu suy nghĩ của em về vấn đề này.Trong đó có sử dụng một câu mang nghĩa hàm ý, một phép liên kết câu, một thành phần khởi ngữ, một thành phần biệt lập. Bác Hồ được nhân dân Việt Nam kính yêu, bạn bè thế giới ngưỡng mộ không phải chỉ vì Bác là một nhà cách mạng tài ba, một vị anh hùng dân tộc mà bởi Người có một nhân cách sống thật cao đẹp, là gương sáng để mọi người noi theo(1). Chúng ta biết rằng Bác có một vốn kiến thức vô cùng uyên thâm và phong phú(2). Bởi Người không ngừng học tập, trong mọi hoàn cảnh, mọi điều kiện(3). Chúng ta đã học tập từ Người tinh thần ham học hỏi, ý chí vượt khó không đầu hàng thử thách(4). Bác còn là một người có nếp sống vô cùng giản dị(5). Giản dị từ chuyện ăn, mặc, sinh hoạt đến lời văn, tiếng nói hằng ngày, chúng ta đã nghe kể biết bao câu chuyện cảm động về đức tính giản dị của Người(6). Về tình yêu thiên nhiên và ý thức bảo vệ môi trường, Bác rất yêu thiên nhiên và ý thức cao về việc bảo vệ môi trường(7). Bác là người đi đầu phong trào trồng cây và và vận động nhân dân tham gia“ Tết trồng cây”(8). Bác còn là một người rất yêu lao động, tuy ở địa vị tối cao nhưng Bác vẫn luôn tự mình phục vụ cho những nhu cầu cá nhân, cùng tham gia lao động sản xuất với đồng bào ở những nơi Bác đến thăm(9)…Còn biết bao đức tính đáng quý của Người mà chúng ta cần học tập(10). Dù nay Bác đã đi xa nhưng tư tưởng của Người.

<span class='text_page_counter'>(314)</span> mãi vẫn là gương sáng cho chúng ta- đặc biệt là thế hệ trẻ- noi theo(11). Chú thích:  Giản dị là phép liên kết câu- phép lặp  Về tình yêu thiên nhiên và ý thức bảo vệ môi trường là thành phần khởi ngữ  Bác đã đi xa là nghĩa hàm ý  Đặc biệt là thế hệ trẻ là thành phần biệt lập- thành phần phụ chú. Đề 3: Hãy chép thuộc lòng khổ cuối bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương và nêu cảm nhận của em về khổ thơ này. Mai về miền Nam thương trào nước mắt Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này. (Viếng lăng Bác_ Viễn Phương ) Khổ thơ cuối trong bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương như một khúc ngân xao xuyến, da diết ở cuối bài thơ. Khổ thơ này đã bày tỏ sự lưu luyến của tác giả với Bác trước giờ phút chia xa, niềm khao khát chân thành được ở bên cạnh Bác. Động từ“trào” ở câu thơ thứ nhất đã thể hiện xúc cảm dạt dào, niềm tiếc thương vô hạn đối với Người. Dù còn đang đứng trong lăng Bác, nghĩ đến giây phút phải xa Bác, tác giả không kìm được dòng nước mắt. Giọt nước mắt bịn rịn, lưu luyến trước lúc chia xa là sự bộc lộ tình cảm chân thành, sâu sắc của nhà thơ dành cho Bác. Hai tiếng miền Nam nghe sao mà quá đổi thân thương, gợi ta nhớ đến câu thơ “ Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà. Miền Nam mong Bác nỗi mong cha”. Miền Nam trong trái tim Người là quê hương máu thịt, con dân miền Nam kính yêu Người như cha. Điệp ngữ“muốn làm” được nhắc đi nhắc lại ba lần thể hiện ước mong được ở lại bên cạnh Bác thật mãnh liệt của Viễn Phương. Hình ảnh ẩn dụ“con chim hót quanh lăng Bác, đóa hoa tỏa huơng” đã bày tỏ sâu sắc tình cảm của nhà thơ dành cho Bác.Tác giả muốn được hóa thân thành những sự vật quen thuộc bên Người để được.

<span class='text_page_counter'>(315)</span> quấn quýt, đem lại niềm vui cho Người,canh gác cho Người. Hình ảnh ẩn dụ “cây tre trung hiếu” ở cuối bài thơ thể hiện khát vọng cống hiến của tác giả cho đất nước. Hình ảnh này tạo kết cấu đầu cuối tương ứng cho bài thơ- một nét độc đáo. Giọng thơ dồn dập, hình ảnh thơ bình dị đã lột tả hết cảm xúc, tâm trạng kính yêu, tiếc nuối, xót xa của tác giả. Khổ thơ đã làm em vô cùng cảm động. Cảm ơn nhà thơ Viễn Phương đã thay chúng ta nói lời yêu thương, cảm kích dành cho Người- vị cha già của dân tộc, Người đã đem lại tự do cho nhân dân, độc lập cho đất nuớc.. TÓM TẮT CÁC TRUYỆN NGẮN ĐÃ HỌC Người con gái Nam Xương (Nguyễn Dữ).

<span class='text_page_counter'>(316)</span> Vũ Thị Thiết là người con gái thùy mị, nết na, xinh đẹp, lấy chồng là Trương Sinh. Chưa được bao lâu, triều đình bắt Trương Sinh đi đánh giặc Chiêm, lúc ấy nàng đang có mang. Chồng đi vừa đầy tuần, nàng sinh được một đứa con trai. Bà mẹ chồng vì thương nhớ con, lâm bệnh rồi mất. Nàng lo ma chay chu đáo như đối với cha mẹ đẻ của mình. Năm sau, Trương Sinh về. Khi bồng con đi thăm mộ mẹ, chỉ vì một lời nói ngây thơ của đứa con mà Trương Sinh nổi cơn ghen, nghĩ là vợ thất tiết, nên đánh đập, xua đuổi Vũ Nương đi. Không thể giãy bày được nỗi oan của mình. Vũ Nương nhảy xuống sông tự tử. Nhưng nàng đã được Linh Phi cứu giúp. Còn Trương Sinh sau nhờ đứa con chỉ vào cái bóng của Trương Sinh trên tường và nói là cha nó, chàng mới hiểu nỗi oán của vợ nhưng việc trót đã qua rồi. Sau Vũ Nương trầm mình nàng được Linh Phi cứu giúp. Gặp lại Phan Lang người cùng làng, nàng đã trần tình nỗi oan khổ của mình và ngỏ nhờ chồng lập đàn giải oan. Nhưng khi Trương Sinh làm theo ước nguyện thì nàng chỉ đa tạ tình nghĩa chồng và từ chối không trở về nhân gian.. Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh (Phạm Đình Hổ) Nhân trong nước vô sự, chúa Trịnh cùng các quan hầu cận ăn chơi xa xỉ, bắt dân chúng nộp các loài trân cầm, dị thú, cổ mộc, quái thạch, chậu hoa, cây cảnh. Lợi dụng tình hình đó bọn hoạn quan trong cung đình tìm cách dọa dẫm các gia đình giàu có để đòi tiền. Vì thế nhiều nhà phải đập phá những cây cảnh, vật quý trong nhà để tránh tai vạ. Gia đình của tác giả cũng phải chặt cây cảnh quý đem bỏ cũng vì cớ ấy.. Hồi thứ 14 trong “Hoàng Lê nhất thống chí” Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế lấy hiệu Quang Trung, rồi kéo quân ra Bắc. Đến Nghệ An, vua cho tuyển thêm lính rồi ban hịch để chiêu dụ quân sĩ. Đến Tam Điệp, Quang Trung tha tội lui quân của Sở và Lân, khen chiến thuật rút quân của Ngô Thì Nhậm. Sau khi sửa lễ cúng tế, ngày 30 tháng chạp, vua chia quân làm năm đạo cùng tiến ra Bắc. Với chiến lược thần tốc, quân Tây Sơn tấn công như vũ bão, ngày 3 tháng chạp chiếm Hà Hồi, ngày 5 chiếm Ngọc.

<span class='text_page_counter'>(317)</span> Hồi, Thái thú Sầm Nghi Đống tự thắt cổ chết. Trưa hôm ấy, vua Quang Trung tiến chiếm Thăng Long. Quân Thanh đại bại, Tôn Sĩ Nghị đang vui say yến tiệc, nghe cấp báo, sợ mất mật, tháo chạy về hướng Bắc, vua Lê cùng tùy tùng cũng chạy theo Tôn Sĩ Nghị.. Truyện Kiều (Nguyễn Du) Thúy Kiều là một thiếu nữ tài sắc vẹn toàn, con gái đầu lòng một gia đình trung lưu lương thiện, sống trong cảnh “êm đềm trướng rủ màn che” bên cạnh cha mẹ và hai em là Thúy Vân, Vương Quan. Trong buổi du xuân nhân tiết thanh minh, Thúy Kiều gặp chàng Kim Trọng “phong lưu tài mạo tót vời”. Giữa hai người chớm nở một mối tình đẹp. Kim Trọng đến ở trọ cạnh nhà Thúy Kiều. Nhân trả chiếc thoa rơi, Kim Trọng đã gặp Kiều bày tỏ tâm tình. Hai người chủ động, tự do đính ước với nhau. Trong khi Kim Trọng về quê chịu tang chú, gia đình Kiều bị mắc oan, Kiều nhờ Vân trả nghĩa cho Kim Trọng còn nàng thì bán mình chuộc cha. Thúy Kiều bị bọn buôn người Mã GiámSinh, Tú Bà, Sở Khanh lừa gạt, đẩy vào lầu xanh. Sau đó nàng được Thúc Sinh, một khách làng chơi hào phóng, cứu vớt khỏi cuộc đời kĩ nữ. Nhưng rồi Kiều bị vợ cả của Thúc Sinh là Hoạn Thư ghen tuông, đày đọa.Nhưng rồi Kiều phải trốn đến nương nhờ nơi cửa phật. Sư Giác Duyên vô tình gửi nàng cho Bạc Bà – kẻ buôn người như Tú Bà. Nên Kiều lần thứ hai rơi vào lầu xanh. Ở đây, Thúy Kiều gặp Từ Hải, một anh hùng “đội trời, đạp đất”. Từ Hải lấy Kiều, giúp nàng báo ân báo oán. Do mắc lừa quan Tổng đốc trọng thần Hồ Tôn Hiến, Từ Hải bị giết, Thúy Kiều phải hầu đàn, hầu rược Hồ Tôn Hiến rồi bị ép gả cho viên thổ quan. Đau đớn, tủi nhục, Kiều trẫm mình ở sông Tiền Đường. Nhưng nàng được sư Giác Duyên cứu lần thứ hai và nương nhờ cửa Phật. Sau nửa năm về Liêu Dương chịu tang chú, Kim Trọng trở lại tìm Kiều. Hay tin gia đình Kiều bị tai biến và nàng phải bán mình chuộc cha, chàng đau đớn vô cùng. Tuy kết duyên với Thúy Vân nhưng Kim Trọng chẳng thể nào nguôi được môi tình đầu say đắm. Chàng quyết cất công lặn lội đi tìm Thúy Kiều. Nhờ gặp được sư Giác Duyên mà Kim – Kiều tìm được nhau, gia đình đoàn tụ. Chiều ý mọi người, Thúy Kiều nối lại duyên với Kim Trọng nhưng cả hai cùng nguyện ước “duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy”..

<span class='text_page_counter'>(318)</span> Lục Vân Tiên (Nguyễn Đình Chiểu) Lục Vân Tiên quê ở quận Đông Thành, khôi ngô tuấn tú, tài kiêm văn võ. Nghe tin triều đình mở khoa thi, Vân Tiên từ giã thầy xuống núi đua tài. Trên đường về nhà thăm cha mẹ, gặp bọn cướp Phong Lai đang hoành hành, chàng đã một mình đánh tan bọn cướp, cứu được Kiều Nguyệt Nga. Cảm ân đức ấy, Nguyệt Nga đã tự nguyện gắn bó suốt đời với Vân Tiên và tự tay vẽ một bức hình chàng, luôn giữ bên mình. Còn Vân Tiên tiếp tục hành trình, gặp và kết bạn vời Hớn Minh, một sĩ tử khác. Sau khi về thăm cha mẹ, Vân Tiên cùng tiểu đồng lên đường đi thi, ghé thăm Võ Công, người đã hứa gã con gái là Võ Thể Loan cho chàng. Từ đây, Vân Tiên có thêm người bạn đồng hành là Vương Tử Trực, tới kinh đô lại gặp Trịnh Hâm, Bùi Kiệm. Thấy Vân Tiên tài cao, Hâm, Kiệm sinh lòng đố kị, ghen ghét. Lúc sắp vào trường thi, Vân Tiên nhận được tin mẹ mất, liền bỏ thi trở về quê chịu tang. Dọc đường về, Vân Tiên bị đau mắt nặng, rồi bị mù cả hai mắt, lại bị Trịnh Hâm lừa đẩy xuống sông. Nhờ Giao Long dìu đỡ đưa vào bãi, Vân Tiên được gia đình ông ngư cưu mang. Sau đó chàng bị cha con Võ Công Hãm hại đem bỏ vào hang núi Thương Tòng. Được Du thần và ồng Tiều cứu ra, Vân Tiên may mắn gặp lại Hớn Minh (vì trừng trị cậu công tử con quan ỷ thế làm càn ma Hớn Minh phải bỏ thi, sống lẩn lút trong rừng). Hớn Minh đón bạn về nương náu nơi am vắng. Khoa thi năm ấy Tử Trực đỗ thủ khoa, trở lại nhà họ Võ hỏi thăm tin tức Vân Tiên. Võ Công ngõ ý muốn gã con gái, bị Tử Trực cự tuyệt và mắng thẳng vào mặt, Võ Công hổ thẹn ốm chết. Nghe tin Lục Vân Tiên đã chết, Kiều Nguyệt Nga thề sẽ thủ tiết suốt đời. Thái sư đương triều hỏi cưới nàng cho con trai không được, đem lòng thù oán, tâu vua bắt Nguyệt Nga đi cống giặc Ô Qua. Thuyền đi tới biên giới, nàng mang theo bức hình Vân Tiên nhảy xuống sông tự tử. Phật Bà Quan Âm đưa nàng dạt vào vườn hoa nhà họ Bùi. Bùi Công nhận nàng làm con nuôi, nhưng Bùi Kiệm lại một hai đòi lấy nàng làm vợ. Nguyệt Nga phải trốn khỏi nhà họ Bùi, vào rừng, nương nhờ một bà lão dệt vải. Lục Vân Tiên ở với Hớn Minh, được tiên cho thuốc, mắt lại sáng, liền trở về thăm cha, viếng mộ mẹ, thăm cha của Kiều Nguyệt.

<span class='text_page_counter'>(319)</span> Nga. Đến khoa thi, chàng đỗ Trạng nguyên và được nhà vua cử đi dẹp giặc Ô Qua. Hớn Minh được tiến cử làm phó tướng. Đánh tan giặc, Hớn Minh một mình lạc vào rừng, đến nhà lão bà hỏi thăm đường và gặp lại Nguyệt Nga. Chàng về triều tâu hết sự tình, kẻ gian ác bị trừng trị, người nhân nghĩa đươc đền đáp. Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga sum vầy hạnh phúc.. Làng (Kim Lân) Truyện viết về ông Hai, một người nông dân quê ở làng Chợ Dầu, phải rời làng tản cư trong thời kì đầu kháng chiến chống Pháp. Xa làng, ông Hai cảm thấy nhớ làng da diết. Ông thường say mê nói và khoe với mọi người về cái làng Chợ Dầu ấy. Một lần, hỏi thăm những người tản cư mới lên, nghe nói làng Chợ Dầu theo Tây, ông buồn khổ, căm tức bọn Việt gian ở làng theo giặc. Ông ở luôn trong nhà mấy hôm, cáu gắt với cả vợ con và chỉ biết tâm sự với đứa con nhỏ về tấm lòng chung thủy đối với cuộc kháng chiến và cụ Hồ. Nhưng sau đó, ông chủ tịch xã lên cải chính tin đồn ấy và cho biết làng Chợ Dầu vẫn kháng chiến, ông vui mừng, phấn khởi cảm thấy như mình được minh oan. Ông đem tin đó khoe với mọi người, khoe cả việc Tây đốt nhà ông.. Lặng lẽ Sa Pa (Nguyễn Thành Long) Rời cầu cây số 4, chiếc xe chở hành khách đi Sa Pa trèo lên núi. Bác lái xe, ông họa sĩ và cô kỹ sư trò chuyện về Sa Pa, về nghề họa, về tình yêu… Xe dừng lại lấy nước, bác lái xe giới thiệu với ông họa sĩ và cô kĩ sư về anh thanh niên làm công tác khí tượng kiêm vật lý địa cầu khi anh xuống tặng bác lái xe củ tam thất. Tranh thủ 30 phút hành khách nghỉ ngơi, anh thanh niên mời ông họa sĩ và cô kỹ sư lên thăm nơi ở và làm việc của anh. Sau khi cắt hoa tặng cô gái, anh giới thiệu những máy móc, dụng cụ đo đạc thời tiết. Ba người trò chuyện thân mật, vui vẻ về công việc của anh, về cuộc sống… Ông họa sĩ vẽ anh thanh niên, anh ngồi yên làm mẫu nhưng cũng giới thiệu hai người khác cùng sống như anh: lo lắng làm việc cho khoa học, cho đời sống và hạnh phúc của xã hội. Sắp hết ba mươi phút, ông họa sĩ và cô gái tạm biệt anh thanh niên với món quà chính là làn trứng mà anh thanh niên trao tặng..

<span class='text_page_counter'>(320)</span> Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang Sáng) Ông Sáu là một cán bộ kháng chiến, xa nhà nhiều năm. Mãi đến khi hòa bình lập lại, ông mới có dịp về thăm nhà. Bé Thu không nhận ông là cha vì thấy xa lạ. Đến khi em nhận ra người cha và tình cha con thức dậy mãnh liệt trong em thì cũng là lúc ông Sáu phải ra đi. Ở khu căn cứ, ông dồn hết nỗi nhớ thương và tình yêu con vào việc làm một chiếc lược bằng ngà để tặng cho con. Trong một trận càn của địch, ông đã hy sinh. Ông Sáu còn kịp đưa cây lược ngà cho người bạn. Người bạn ấy là bác Ba – nhân vật kể lại câu chuyện. Trong một lần đi công tác, ở một trạm giao liên, bác Ba đã gặp một cô giao liên dũng cảm, gan dạ và thông minh. Hỏi chuyện, bác nhận ra đó chính là Thu – con của người bạn chiến đấu đã hy sinh. Bác Ba đưa cho Thu kỷ vật thiêng liêng của người cha. Họ chia tay lưu luyến và trong lòng bác Ba một tình cảm mới đã nảy nở - đó là tình cha con với cô giao liên.. Cố hương (Lỗ Tấn) Truyện kể về chuyến thăm quê hương trong một mùa đông giá lạnh của nhân vật “Tôi” sau mấy mươi năm xa cách. Đây là lần cuối cùng trở lại quê hương vì gia đình phải dời đi nới khác. Trong lúc dọn nhà, bà mẹ vô tình nhắc đến Nhuận Thổ. Thế là bao nhiêu kỉ niệm thuở ấu thơ gắn liền với hình ảnh người bạn Nhuận Thổ một cậu bé lanh lợi, tháo vát – ùa về trong tâm trí Tấn. Sau hơn hai mươi năm, Nhuận Thổ giờ đây trở thành người đàn ông mụ mẫm, đần độn, khốn quẫn. Ngày lên đường, Tấn cảm thấy buồn và không hề luyến tiếc.Thế nhưng “Tôi” vẫn hy vọng vào một tương lai tươi sáng.. Bến quê (Nguyễn Minh Châu) Truyện kể về nhân vật Nhĩ, một người từng đi khắp mọi nơi trên trái đất, về cuối đời lại bị cột chặt vào gường bệnh bởi một căn bệnh hiểm nghèo, đến nỗi không thể tự mình dịch chuyển mấy mươi phân trên chiếc giường hẹp kê bên cửa sổ. Nhưng cũng chính vào thời điểm ấy, Nhĩ đã phát hiện ra vùng đất bên kia sông, nơi bến quê quen thuộc, một vẻ đẹp bình dị mà hết sức quyến rũ. Cũng.

<span class='text_page_counter'>(321)</span> như đến lúc nằm liệt giường, nhận sự chăm sóc đến từng miếng ăn, ngụm nước của người vợ. Vào cái buổi sáng hôm ấy, khi Nhĩ muốn nhích người đến bên cửa sổ, thì việc ấy đối với anh khó khăn như phải đi hết cả một vòng trái đất. Nhĩ vô cùng khao khát được một lần đặt chân lên bờ bãi bên kia sông, cái miền đất thật gần gũi nhưng đã trở nên rất xa vời đối với anh. Nhĩ đã nhờ cậu con trai thực hiện giúp mình cái điều khao khát đó. Nhưng rồi cậu con trai lại sa vào một đám chơi cờ trên hè phố và có thể lỡ chuyến đò ngang duy nhất trong ngày. Cuối cùng nhân vật Nhĩ đã chiêm nghiệm được cái quy luật đầy vẻ nghịch lý của đời người “ con người ta trên đường đời thật khó tránh được những cái điều vòng vèo hoặc chùng chình…”, những sự giàu có lẫn mọi vẻ đẹp rất gần gũi như cái bãi bồi bên kia sông hay người vợ tảo tần, giàu tình yêu thương và đức hy sinh thì phải đến lúc này, khi sắp giã biệt cuộc đời, Nhĩ mới cảm nhận thấm thía được.. Những ngôi sao xa xôi (Lê Minh Khuê) Ba nữ thanh niên xung phong làm một tổ trinh sát mặt đường tại một trọng điểm trên tuyến đường Trường Sơn. Họ gồm có hai cô gái rất trẻ là Định và Nho, còn tổ trưởng là chị Thao lớn tuổi hơn một chút. Nhiệm vụ của họ là quan sát địch ném bom, đo khối lượng đất đá phải san lấp do bom địch gây ra, đánh dấu vị trí các trái bom chưa nổ và phá bom. Công việc của họ hết sức nguy hiểm vì thường xuyên phải chạy trên cao điểm giữa ban ngày và máy bay địch có thể ập đến bất cứ lúc nào. Đặc biệt, họ phải bình tĩnh đối mặt với thần chết trong mỗi lần phá bom – mà công việc này diễn ra hằng ngày, thậm chí mấy lần trong ngày. Họ ở trong một cái hang, dưới chân cao điểm, cách xa đơn vị. Cuộc sống của ba cô gái ở nơi trọng điểm giữa chiến trường, dù khắc nghiệt và nguy hiểm nhưng vẫn có những niềm vui hồn nhiên của tuổi trẻ, nững giây phút thanh thản, mơ mộng và đặc biệt là rất gắn bó, yêu thương nhau trong tình đồng đội, dù mỗi người một cá tính. Phương Định – nhân vật kể chuyện và luôn nhớ về những kỷ niệm của tuổi thiếu nữ với gia đình và thành phố thân yêu của mình. Ở phần cuối, truyện tập trung miêu tả hành động và tâm trạng của các nhân vật mà chủ yếu là của Phương Định. Trong một lần phá bom, Nho bị thương và cô đã được hai người đồng đội lo lắng, chăm sóc..

<span class='text_page_counter'>(322)</span> Bố của Xi-mông (Mô-pa-xăng) Chị Blăng-sốt bị một người đàn ông lừa dối, sinh ra Xi-mông. Vì vậy, Xi-mông trở thành một đức trẻ không có bố dưới mắt mọi người. Truyện bắt đầu khi Xi-mông lúc đó khoảng bảy tám tuổi, lần đầu tiên đến trường bị đám học trò chế giễu là không có bố. Em buồn bực, lang thang ra bờ sông, chỉ muốn chết cho xong. Giữa lúc ấy, bác Phi-líp xuất hiện, dỗ dành và đưa Xi-mông trở về nhà. Ximông xin bác Phi-líp nhận làm cha của mình. Được bác Phi-líp nhận lời, em cảm thấy không còn buồn chán nữa. Ngày hôm sau, khi đến trường, em cảm thấy tự tin hơn trước những lời chế giễu của lũ bạn..

<span class='text_page_counter'>(323)</span> GIẢI THÍCH NHAN ĐỀ 1.. Người con gái Nam Xương Truyền kì mạn lục: ghi chép tản mạn những câu chuyện kì lạ được lưu truyền trong dân gian. 2. Chuyện cũ phủ chúa Trịnh Vũ trung tùy bút: tùy bút viết trong những ngày mưa 3. Hoàng Lê nhất thống chí: ghi chép về sự thống nhất của vương triều nhà Lê (vào thời điểm Tây Sơn diệt Trịnh). 4. Truyện Kiều Đoạn trường tân thanh: tiếng kêu mới đứt ruột 5. Lục Vân Tiên 6. Đồng chí: những người cùng chung chí hướng, lí tưởng giết giặc cứu nước. 7. Bài thơ về tiểu đội xe không kính: Cách nhìn, cách khai thác hiện thực của tác giả: không chỉ viết về những chiếc xe không kính hay là hiện thực khốc liệt của chiến tranh mà điều Phạm Tiến Duật muốn nói là chất thơ của hiện thực ấy, chất thơ của tuổi trẻ hiên ngang, dũng cảm, trẻ trung, kiên cường vượt qua những thiếu khốn, khó khăn ,gian khổ và hiểm nguy của chiến tranh. 8. Đoàn thuyền đánh cá: hình ảnh khỏe khoắn, tự tin và tinh thần lao động hăng say của tập thể những con người lao động mới trong bối cảnh mới của đất nước. 9. Bếp lửa: Bếp lửa là hình ảnh tượng trưng cho tình cảm ấm áp, thiêng liêng của tình cảm gia đình, tình bà cháu và lớn hơn là tình yêu quê hương, đất nước. Những tình cảm thiếng liêng ấy là ngọn lửa sưởi ấm trái tim mọi người. 10. Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ: tình yêu thương vô bờ của mẹ dành cho con, niềm ước mong, tin tưởng, hi vọng về tương lai tươi sáng của con. 11. Ánh trăng: chỉ một thứ ánh sáng tự nhiên dịu dàng. Ánh sáng ấy có thể len lỏi vào những góc khuất trong tâm hồn con người để thức tỉnh họ nhận ra những đều sai trái,hướng con người đến những giá trị đích thực của cuộc sống..

<span class='text_page_counter'>(324)</span> 12. Làng: làng là quê hương, là linh hồn, là lẽ sống của những người nông dân. Nói rộng ra làng chính là quê hương, đất nước là niềm tin, là cội nguốn của người dân Việt Nam. Tình yêu làng quê chính là lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc. 13. Lặng lẽ Sa Pa: trong không gian đẹp đẽ nên thơ, lãng mạn của Sa Pa, chúng ta cảm phục những con người thuộc mọi ngành nghề, mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi âm thầm, say mê, lặng lẽ cống hiến tuổi thanh xuân, trí tuệ, thành quả lao động cho đời, cho đất nước. Cái lặng lẽ của những con người có lí tưởng sống rất đẹp ở Sa Pa đã truyền cho người đọc tình yêu cuộc sống, và khát vọng sống có ích. 14. Chiếc lược ngà: chiếc lược ngà là biểu tượng của tình cha con thiêng liêng sâu nặng. Hoàn cảnh chiến tranh càng khốc liệt bao nhiêu thì tình cảm gia đình càng trở nên lấp lánh, ấm áp và mạnh mẽ bấy nhiêu. Hình ảnh chiếc lược ngà là một chứng nhân vượt thời gian cho tình cha con, tình cảm gia đình bất tử. 15. Con cò: là biểu tượng của người phụ nữ, người mẹ Việt Nam chịu thương chịu khó, hi sinh thầm lặng, hết lòng vì con, vì gia đình. 16. Mùa xuân nho nhỏ: cuộc đời mỗi con người nếu chúng ta sống có ích, sống biết cống hiến thì mỗi người là một mùa xuân nho nhỏ tô điểm cho mùa xuân lớn của đất nước. 17. Viếng lăng Bác: Thể hiện tấm lòng tiếc thương, kính yêu vô bờ của tác giả đối với Bác. 18. Sang thu: là thời khắc giao mùa của đất trời: chuyển từ mùa hạ rực rỡ sắc màu, rộn ràng âm thanh sang mùa thu dịu dàng, trầm lắng và lãng mạn. Sang thu còn chỉ bước “giao mùa” của một đời người: từ tuổi trẻ sôi nổi, háo hức, bồng bột, sốc nổi sang tuổi trung niên chín chắn, điềm đạm, giỏi kiềm chế. Đây là một nốt trầm của cuộc đời mồi con người. 19. Nói với con: là những điều người cha ,bằng tình thương yêu vô bờ bến của mình, muốn nhắn nhủ với con cho con thấy được tình yêu thương bao la cha mẹ dành cho con. Cha muốn con nên người, trở thành một người hữu dụng, mạnh mẽ, đường hoàng để kế tục truyền thống đáng tự hào của dân tộc. 20. Bến quê: là hình ảnh đẹp tượng trưng cho quê hương, gia đình bình dị, gắn bó quá đổi quen thuộc, gần gũi đến mức nhiều.

<span class='text_page_counter'>(325)</span> lúc người ta quên lãng đi. Con người thường thích theo đuổi, đắm say cái gì hào nhoáng, xa lạ để đến lúc hối hận, nhận ra cái đẹp bình dị mà gần gũi, bền bĩ thì đã quá muộn. 21. Những ngôi sao xa xôi: nhan đề thật lãng mạn. Đó là thứ ánh sáng ẩn hiện, tuy xa xôi nhưng có sức lôi cuốn, thu hút lạ thường. Đó sự biểu tượng về sự ngời sáng phẩm chất cách mạng của những cô gái thanh niên xung phong ở núi rừng Trường Sơn thời chống Mĩ..

<span class='text_page_counter'>(326)</span>

<span class='text_page_counter'>(327)</span> MỤC LỤC BIỂU ĐIỂM ............................................................... 03 VĂN BẢN – TIẾNG VIỆT........................................ 05 BÀI TẬP LÀM VĂN Đề 1:Người con gái Nam Xương.........................110 Đề 2: Chuyện cũ phủ chúa....................................137 Đề 3: Hoàng Lê nhất thống chí.............................145 Đề 4: Chị em Thuý Kiều … tả người …………… 151 Đề 5: Hình ảnh Kiều và tấm lòng nhân đạo........159.

<span class='text_page_counter'>(328)</span> Đề 6: Cảnh ngày xuân..........................................163 Đề 7: Kiều ở lầu Ngưng Bích...............................170 Đề 8: 8 câu cuối Kiều ở lầu Ngưng Bích..............176 Đề 9: Tinh thần nhân đạo trong “Kiều”................184 Đề 10: Nhân vật Lục Vân Tiên.............................194 Đề 11: Đồng chí.................................................200 Đề 12: Tiểu đội xe không kính.............................213 Đề 13: Đoàn thuyền đánh cá................................232 Đề 14: Bếp lửa.....................................................250 Đề 15: Khúc hát ru những em bé.........................261 Đề 16: Ánh trăng.................................................271 Đề 17: Làng.........................................................278 Đề 18: Lặng lẽ Sa Pa...........................................285 Đề 19: Chiếc lược ngà.........................................293 ĐOẠN VĂN Công thức viết đoạn văn……………………… 321 Đoạn nghị luận hiện tượng xã hội……….........323 Đoạn nghị luận tưởng đạo lí………………......327 Đoạn văn tiếng Việt……………………………346 TÓM TẮT TRUYỆN ……………………………...350 GIẢI THÍCH NHAN ĐỀ …………………………. 358.

<span class='text_page_counter'>(329)</span>

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×